Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Nghiên cứu nhện (Araneae) trong hang động tại vườn quốc gia Ba Bể, Bắc Kạn (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 70 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

Nghiên cứu nhện (Araneae) trong
hang động tại vườn quốc gia Ba
Bể, tỉnh Bắc Kạn”
Đinh Thị Thu Hà

Thái Nguyên, 2014


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình hoàn thành luận văn, em được sự chỉ bảo, hướng dẫn rất lớn
từ thầy hướng dẫn: TS Phạm Đình Sắc. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy
và lời xin lỗi vì trong quá trình làm luận văn em đã chưa thực sự cố gắng và chăm
chỉ.
Em xin chân thành cảm ơn cơ sở đào tạo Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật đã tạo điều kiện cho em nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn
Em xin cảm ơn sự hỗ trợ của đề tài Wafosted mã số 106 12 2010 18,
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới tất cả người thân, gia đình, bạn bè đã
động viên, ủng hộ và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội,15-12-2014
Sinh viên

Đinh Thị Thu Hà


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Toàn bộ
số liệu và kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ
bất kì luận văn nào.
Tôi cam đoan các thông tin và tài liệu tham khảo trong luận văn này đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội,ngày 15 tháng 12 năm 2014
Tác giả
Đinh Thị Thu Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
1. Đặt vấn đề.................................................................................................... 4
2. Mục tiêu của đề tài.......................................................................................4
3. Nội dung nghiên cứu....................................................................................5
4. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài........................................................ 5
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................... 6
1.1. Giới thiệu về nhện.....................................................................................6
1.2. Tình hình nghiên cứu nhện trên thế giới.............................................. 8
1.3. Tình hình nghiên cứu nhện ở Việt Nam..............................................10
1.4. Khái quát về hang động....................................................................... 12
1.4.1. Các khái niệm về hang động...........................................................12
1.4.2. Hệ thống hang động của VQG Ba Bể............................................ 13
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..........14
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu...........................................................................14
2.2. Thời gian nghiên cứu............................................................................19
2.3. Địa điểm và phạm vi nghiên cứu.........................................................19
2.3.1. Giới thiệu về Vườn quốc gia Ba Bể................................................ 19
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu.....................................................................24
2.4.1. Nghiên cứu thực địa........................................................................24

2.4.2. Phân tích và xử lý mẫu vật trong phòng thí nghiệm.....................25
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN...................................................27
3.1. Đa dạng thành phần loài và số lƣợng cá thể nhện thu đƣợc ở ba hang
động nghiên cứu tại VQG Ba Bể tỉnh Bắc Cạn........................................... 27
3.1.1. Thành phần loài và số lượng cá thể nhện hang động thu được tại khu vực
nghiên cứu
27


3.1.1. Đặc điểm nhận dạng chính của các họ nhện thu được trong ba hang động
tai VQG Ba Bể
31
3.1.2..................................................................................................Mô tả các
loài nhện định dạng sp.................................................................... 35
3.2. Sự phân bố của nhện tại các vị trí khác nhau trong từng hang động
nghiên cứu tại VQG Ba Bể, tỉnh Bắc Cạn....................................................49
3.2.1.
49

Sự phân bố của nhện tại các vị trí khác nhau trong hang Puông

3.2.2. Sự phân bố của nhện tại các vị trí khác nhau trong hang Nà Phòng
50
3.2.3.
Mạ.

Sự phân bố của nhện tại các vị trí khác nhau trong hang Hua

.......................................................................................................... 51
3.3. Đánh giá ảnh hƣởng của việc tác động bởi con ngƣời tới nhện trong hang

động kh vực VQG Ba Bể................................................................................52
3.4. Khuyến nghị một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý bền
vững hang động.............................................................................................. 54
3.4.1. Quản lý hang động.......................................................................... 54
3.4.2. Một số khuyến nghị trong việc bảo vệ đa dạng sinh học hang động
.......................................................................................................... 56
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...........................................................................57
1. Kết luận......................................................................................................57
2. Kiến nghị....................................................................................................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
59


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Bộ nhện (Araneae) là một trong những nhóm động vật chân khớp cổ có tính
đa dạng sinh học cao, phân bố rộng khắp và phổ biến nhất ở hệ sinh thái trên cạn.
Nhện được tìm thấy ở mọi nơi: trong nhà, trong rừng, vườn cây, trên cánh đồng
lúa, công viên, bụi cây, ven sông, ven suối,... Nhện không chỉ đa dạng về số loài
mà còn chiếm ưu thế về mặt số lượng trong quần thể các nhóm chân khớp.
Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng, nhờ đó mà nhện được xem như là
một trong những tác nhân quan trọng trong việc kiểm soát quần xã côn trùng trong
hệ sinh thái cạn. Nhện có vai trò tích cực trong việc hạn chế sự phát triển của côn
trùng gây hại trên cây trồng nông nghiệp. Ngoài ra, nhện còn được coi như sinh vật
chỉ thị tốt để so sánh đặc điểm sinh thái của các khu hệ có điều kiện môi trường
khác nhau và đánh giá ảnh hưởng của môi trường lên hệ sinh thái.
Việc nghiên cứu đa dạng sinh vật nói chung và đa dạng thành phần loài nhện
nói riêng ở nhiều sinh cảnh khác nhau có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá
chất lượng môi trường tại các vùng nghiên cứu. Khu hệ nhện Việt Nam được đánh
giá là có mức đa dạng sinh học cao, nhưng chưa được tập trung nghiên cứu. Trong

những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về nhện. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này mới chỉ tập trung chủ yếu trên một số cây trồng nông nghiệp như
lúa, đậu tương, nhãn vải. Các nghiên cứu về nhện ở các sinh cảnh rừng tự nhiên,
đặc biệt là các nghiên cứu về nhện hang động còn rất ít.
Vườn quốc gia Ba Bể còn có một hệ thống hang động vô cùng kỳ thú với hệ
động vật chưa được khám phá. Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu
nào nghiên cứu về nhện trong hang động tại VQG Ba Bể. Từ những lý do trên,


chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu nhện (Araneae) trong hang động tại vườn
quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn” để góp phần nghiên cứu nhện ở Việt Nam.
2. Mục tiêu của đề tài
Xác định thành phần loài, nơi cư trú, và ảnh hưởng từ các hoạt động của con
người đến nhện trong hang động khu vực Vườn quốc gia Ba Bể tỉnh Bắc Cạn; là cơ


sở để khuyến nghị một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý bền vững
hang động.
3. Nội dung nghiên cứu
-

Thành phần loài nhện trong hang động của Vườn quốc gia Ba Bể tỉnh

-

Phân bố của các loài nhện theo các vị trí khác nhau trong hang động

Bắc
Cạn.
(cửa

hang, chuyển tiếp, vùng tối).
Ảnh hưởng từ các hoạt động của con người đến nhện trong hang động.
- Khuyến nghị một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý bền vững hang
động.
4. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài:
Nhện là một trong những nhóm động vật không xương sống phong phú và đa
dạng nhất ở hệ sinh thái trên cạn. Chúng được xem như là tác nhân chủ yếu trong
việc kiểm soát quần xã côn trùng trong hệ sinh thái cạn. Nhện còn được coi như
sinh vật chỉ thị tốt để so sánh đặc điểm sinh thái của các khu hệ có điều kiện môi
trường khác nhau và đánh giá ảnh hưởng của môi trường lên hệ sinh thái.
Môi trường trong hang động rất đặc trưng, khác biệt với các môi trường khác
cả về ánh sáng, độ ẩm, và độ sâu.... nên các sinh vật ở đây rất đặc trưng về hình
thái và có tính đặc hữu cao. Hiện nay, các nghiên cứu về nhện hang động được coi
là lĩnh vực khá mới.
Vườn Quốc Gia (VQG) Ba Bể có một hệ thống hang động rất phong phú, đa
dạng và độc đáo. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về nhện
trong hang động tại khu vực.
Lần đầu tiên, nghiên cứu về nhện hang động tại VQG Ba Bể được tiến hành;
nhằm xác định thành phần loài nhện trong các hang động khu vực nghiên cứu, tìm
hiểu các hoạt động của con người ảnh hưởng như thế nào đến nhện trong hang
động. Qua đó, là cơ sở để đưa ra một số khuyến nghị góp phần bảo tồn đa dạng
sinh học và quản lý hang động tại địa phương.


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Giới thiệu về nhện

Bộ nhện có tên khoa học là Araneae, tên tiếng anh là spider. Bộ nhện Araneae

thuộc lớp hình nhện Arachnida, ngành động vật chân đốt Arthropoda. Theo
Platnick (2011), bộ nhện chiếm ưu thế về số loài và số lượng cá thể trong 11 bộ của
lớp hình nhện. Trên thế giới đã ghi nhận được 42.751 loài thuộc 3.859 giống của
110 họ nhện.
Platnick (2006) phân bộ nhện làm hai phân bộ dựa vào cơ quan hô hấp còn
gọi là phổi sách (Book-lungs) và bộ phận nhả tơ (Spinnerets), bao gồm:
Mygalomorphae với hai đôi phổi sách và bốn núm nhả tơ; và Araneomorphae với
một đôi phổi sách và 6 núm nhả tơ.
Nhện khác với côn trùng ở đặc điểm: nhện không có râu, không có mắt kép,
không có cánh và bụng không phân đốt. Trong khi cơ thể côn trùng có 3 phần và 3
đôi chân thì cơ thể nhện chỉ gồm 2 phần và mang 4 đôi chân.
 Một số đặc điểm sinh thái, sinh học của nhện
Nhện đóng vai trò là nhóm chân khớp săn mồi đáng kể trong tự nhiên. Côn
trùng là con mồi chủ yếu của nhện nhưng chúng cũng ăn các nhóm chân khớp khác
như rết hay thậm chí một số loài nhện còn ăn cả đồng loại của mình. Trong các loài
côn trùng thì ruồi, muỗi và collembola đóng góp một lượng thức ăn lớn cho nhện
(Foelix, 1996). Đặc biệt, collembola là thành phần thức ăn chính của nhiều loài
nhện nhỏ. Tuy nhiên, không phải tất cả côn trùng đều được nhện chọn làm thức ăn
của chúng. Hầu hết các loài nhện tránh các loại con mồi như một số loại kiến, ong
bắp cày, hay một số loài sâu bướm, bọ cánh cứng. Những côn trùng này thường có
mùi khó chịu hoặc tiết ra các chất hóa học để bảo vệ mình. Nhờ có số lượng và
thành phần rất đa dạng và phong phú, nên nhện có vai trò quan trọng trong mạng
lưới thức ăn trong tự nhiên (Foelix 1996).


Khả năng săn mồi của nhện khác nhau không chỉ phụ thuộc vào loại con mồi
mà cả số lượng vật mồi. Nếu số lượng vật mồi nhiều, nhện có thể ăn nhiều hơn
bình thường. Điều này giúp cho nhện có thể hấp thu được đầy đủ năng lượng
không chỉ giúp chúng tồn tại, phát triển mà còn giúp chúng trưởng thành nhanh
hơn. Ngoài ra, việc ăn nhiều cũng giúp chúng dự trữ được một nguồn năng lượng

lớn để chúng có thể duy trì sự sống nếu sau đó chúng gặp điều kiện bất lợi về thức
ăn. Mỗi loài nhện tiêu thụ một lượng thức ăn nhất định mỗi ngày. Ví dụ, nhện sói
họ Lycosidae ăn khoảng 3,5 mg côn trùng hàng ngày, tương đương với 12% trọng
lượng cơ thể của loài nhện đó. Những loài nhện chăng lưới thuộc họ Linyphiidae
ăn một lượng thức ăn tương đương khoảng 10-25% trọng lượng cơ thể của nó
(Foelix 1996). Khi gặp điều kiện bất lợi, thức ăn khan hiếm cũng làm giảm thành
phần loài nhện. Những loài nhện nào có khả năng chống chọi tốt sẽ sống sót,
những loài này hoặc là có kỹ năng săn mồi tốt hoặc là có khả năng dự trữ và tích
lũy năng lượng để chịu đựng đói trong một thời gian dài.
Nhện bắt mồi theo hai phương pháp là giăng lưới bắt mồi (thụ động), hoặc
rình và săn mồi tự do (chủ động). Đối với nhóm nhện giăng lưới bắt mồi, sau khi
giăng lưới, chúng nằm yên một chỗ đợi con mồi mắc phải lưới, chúng sẽ nhả tơ
quấn chặt con mồi lại rồi tiêm nọc độc làm con mồi chết. Nhện chăng lưới bắt mồi
chia ra 2 nhóm. Nhóm thứ nhất chăng lưới bắt mồi vào ban ngày, chúng treo tất cả
các bọc chứa con mồi trên mạng để ăn dần. Một nhóm chăng lưới khác thường
hoạt động săn mồi vào ban đêm, chúng giăng lưới vào chiều tối và sáng chúng lại
thu lưới và con mồi lại mang về nơi trú ẩn (họ Araneidae và Tetragnathidae). Đối
với nhện săn mồi tự do, chúng thường rình và vồ con mồi sau đó dùng đôi chân
kìm giữ và tiêm nọc độc làm chết con mồi (như nhện nhảy Salticidae).
Cũng theo Foelix (1996) nhện phát triển qua 3 giai đoạn là trứng, nhện non và
nhện trưởng thành. Giai đoạn con non có thể kéo dài từ 5-7 tuổi tùy theo loài. Nhện
non phải qua nhiều lần lột xác mới tạo nhện trưởng thành. Nhện qua lần lột xác
cuối cùng, cơ quan sinh dục hình thành mới phân biệt được nhện đực nhện cái rõ
ràng. Về kích thước cơ thể thì nhện cái thường lớn hơn nhện đực. Nhện đực sau


khi thành thục, chúng tìm bạn đời để giao phối. Hầu hết con đực bị chết sau khi
giao phối do bị nhện cái ăn thịt. Tinh dịch của nhện được cất giữ tại chân xúc giác
nhện đực. Sau khi giao phối, nhện cái đẻ trứng thành ổ được bọc bởi tơ nhện do
chính nhện cái tạo ra. Mỗi loài nhện có số lượng và kích thước trứng khác nhau.

Bọc trứng thường được treo trên lưới nhện, trong tổ nhện, hoặc được nhện mẹ
mang theo. Một số loài thuộc họ nhện sói Lycosidae mang trứng ở phần gần cuối
bụng, họ nhện càng cua lớn Heteropodidae mang trứng ở dưới ngực, còn họ
Phocidae thì thường ngậm trứng ở hàm trước. Nhện mẹ canh giữ trứng và nhện con
cho tới khi nhện con đủ cứng cáp và phân tán. Nhện con mới nở thường tập trung
trong ổ trứng.
1.2.

Tình hình nghiên cứu nhện trên thế giới

Việc đặt tên khoa học cho nhện được bắt đầu từ năm 1757; tác giả Ovid đã
đưa ra tên của bộ nhện là Araneae, Clerek đã đưa ra tên của bộ nhện là Aranei. Đến
năm 1801, Latreille đưa ra tên bộ nhện là Araneida. Năm 1862, Dallas cũng nêu ra
tên của bộ nhện là Araneida. Năm 1938, Bristowe đưa tên bộ nhện là Araneae và
tên này được sử dụng cho đến ngày nay (Platnick, 2012).
Năm 1965, hội nhện quốc tế (International Society for Arachnology) được
thành lập, cho đến nay đã có hàng nghìn thành viên từ trên 70 nước trên thế giới.
Nghiên cứu về nhện đã thực sự trở thành một môn khoa học Arachnology – Nhện
học.
Theo thống kê của Platnick (2012), trên thế giới đã ghi nhận được 42.351 loài
nhện thuộc 3859 giống của 110 họ nhện. Trong số các loài nhện đã ghi nhận được
trên thế giới hiện nay, có 15 loài được ghi vào danh lục đỏ của IUCN.
Tác giả Davies (1986, 1988) đã nghiên cứu và xây dựng khoá định loại tới họ
của bộ nhện và khoá định loại tới loài của nhóm nhện chăng lưới đã ghi nhận được
tại Australia.
Năm 2000, Murphy đã đưa ra danh sách các loài nhện đã ghi nhận được tại
các nước khu vực Đông Nam châu Á, sắp xếp theo thứ tự số lượng loài đã ghi nhận


được từ cao đến thấp là: Indonesia (660 loài), Malaysia (463 loài), Myanma (455

loài), Philippines (426 loài), Singapore (308 loài), Thái Lan (156 loài), Việt Nam
(230 loài).
Họ nhện nhảy Salticidae có số loài ghi nhận được cao nhất trong các họ thuộc
bộ nhện. Tác giả Proszynski (2003) đã xây dựng cơ sở dữ liệu về họ Salticidae trên
thế giới.
Murphy & Murphy (2000) đã đưa ra danh sách các loài nhện ghi nhận được
tại các nước khu vực Đông Nam châu Á, sắp xếp theo thứ tự số lượng loài đã ghi
nhận được từ cao đến thấp là: Indonesia (660 loài), Malaysia (463 loài), Myanma
(455 loài), Philipine (426 loài), Singapo (308 loài), ThaiLan (156 loài), Việt Nam
(230 loài). Theo tác giả, khu hệ nhện của 3 nước thuộc khu vực này bao gồm
Brunei, Campuchia và Lào chưa được nghiên cứu.
Nghiên cứu nhện trên cây lúa ở khu vực Đông Nam châu Á, Barrion và
Litsinger (1995) đã ghi nhận 342 loài thuộc 131 giống của 26 họ nhện. Trên cánh
đồng lúa ở Philippines, Barrion và cs (1981) đã điều tra thu thập và định loại được
32 loài thuộc 21 giống của 9 họ nhện. Okuma và cs (1993) đã công bố 55 loài
thuộc 36 giống của 10 họ nhện bắt gặp trên cây lúa ở Bangladet.
Ở Trung Quốc, nghiên cứu về nhện bắt đầu từ năm 1798. Năm 1999, Song và
Zhu đưa ra danh sách 2361 loài thuộc 450 giống của 56 họ nhện đã ghi nhận được
ở nước này. Cho đến nay, Trung Quốc đã xuất bản được 5 tập sách Động vật chí
của 6 họ nhện bao gồm các họ Araneidae với 286 loài, 33 giống (Yin và cs, 1997);
họ Thomicidae với 115 loài, 29 giống (Song và Zhu, 1997); họ Tetragnathidae với
111 loài, 20 giống (Zhu và cs, 2003); họ Therididae với 223 loài, 27 giống (Zhu,
1998); họ Gnaphosidae với 166 loài, 34 giống (Song và cs, 2004 ); họ
Philodromidae với 30 loài, 3 giống (Song và Zhu, 1997).
Nghiên cứu nhện ở các trang trại trồng cây ăn quả ở Trung Quốc, Chen và
Gao (1990) đã ghi nhận được 332 loài nhện.


1.3.


Tình hình nghiên cứu nhện ở Việt Nam
Những công bố về nhện đầu tiên ở Việt Nam bởi Simon (1886, 1896, 1903,

1904, 1906, 1908), và Hogg (1922). Hai tác giả trên đã công bố ra 20 loài nhện
mới cho khoa học được phát hiện ở Việt Nam.
Zabka (1985) đã công bố kết quả chuyến khảo sát của mình về họ nhện nhảy
Salticidae ở Việt Nam. Tác giả đã ghi nhận được 100 loài nhện nhảy, trong đó bao
gồm 51 loài và 8 giống mới cho khoa học.
Qua việc phân tích các mẫu vật thu được ở Việt Nam, Ono (1997, 1999, 2002,
2003) đã phát hiện 7 loài nhện mới cho khoa học thuộc các họ Zodaridae và
Liphistidae.
Năm 2003, Peng và Li đã công bố 1 loài nhện nhảy mới cho khoa học phát
hiện được ở Cao Bằng.
Một loài mới cho khoa học thuộc họ Zodaridae đã được công bố bởi Gristian
(2004).
Bùi Hải Sơn (1995) đã ghi nhận được 34 loài nhện trên lúa vùng ngoại thành
Hà Nội. Trên đồng lúa ở Nghệ An đã phát hiện được 26 loài thuộc 18 giống của 8
họ nhện (Phạm Bình Quyền và cs, 1999). Phạm Văn Lầm và cs (1997, 2002), đã
ghi nhận 52 loài nhện trên cánh đồng lúa ở Việt Nam.
Phạm Đình Sắc và cs (2004) đã cho công bố danh sách và phân bố của 108
loài nhện nhảy họ Salticidae ở Việt Nam.
Phạm Đình Sắc và cs (2005) đã bổ sung thêm 5 loài nhện nhảy Salticidae cho
khu hệ nhện Việt Nam.
Nghiên cứu nhện trên đậu tương khu vực Hà Nội, Trần Đình Chiến (2002) đã
ghi nhận được 18 loài thuộc 8 họ nhện. Phạm Đình Sắc và Khuất Đăng Long
(2001) đã công bố thành phần loài nhện trên đậu tương tại 3 tỉnh Hà Nội, Hoà Bình
và Bắc Ninh bao gồm 26 loài thuộc 9 họ nhện.


Một số công trình nghiên cứu thành phần loài nhện trên cây vải thiều đã được

công bố. Phạm Đình Sắc và Vũ Quang Côn (2002) đã ghi nhận được 34 loài nhện
trên cây vải thiều ở Sóc Sơn, Hà Nội; 29 loài nhện trên cây vải thiều ở Mê Linh,
Vĩnh Phúc. Thái Trần Bái và cs (2005) đã phát hiện được 33 loài nhện trên cây vải
thiều ở Thanh Hà, Hải Dương.
Khu hệ nhện ở các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam rất
ít được nghiên cứu. Tại vườn quốc gia Ba Bể, Phạm Đình Sắc (2003) bước đầu đã
công bố danh sách 82 loài thuộc 23 họ nhện. Lần đầu tiên ở Việt Nam, một loài
nhện có nọc độc họ Theraphosidae đã được tìm thấy ở VQG Tam Đảo tỉnh Vĩnh
Phúc và khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên tỉnh Lạng Sơn (Phạm Đình Sắc và Vũ
Quang Côn, 2005).
Cho đến năm 2005, Việt Nam đã ghi nhận được 275 loài thuộc 144 giống của
30 họ nhện (Phạm Đình Sắc, 2005). Năm 2007 bổ sung thêm 45 loài, 15 giống, 1
họ cho khu hệ nhện Việt Nam (Phạm Đình Sắc và cs, 2007).
Trong giai đoạn từ 2009 đến 2012, tác giả Phạm Đình Sắc phối hợp với các
chuyên gia nước ngoài tiến hành các đợt khảo sát nhện ở miền Bắc Việt Nam, đã
công bố 30 loài nhện mới cho khoa học (Lin & Pham & Li, 2009; Liu, Li & Pham,
2010a, 2010b; Zha, Pham & Li Shuqiang, 2012; Yao, Pham & Li, 2012).
Gần đây nhất, Hirotsugu Ono, Tạ Huy Thịnh, Phạm Đình Sắc (2012) đã thống
kê danh sách các loài nhện ở Việt Nam từ năm 1837 đến 2011 đã ghi nhận được
456 loài thuộc 41 họ. Tuy nhiên, cũng theo các tác giả trên, một số họ đã ghi nhận
được ở khu vực Đông Nam châu Á, nhưng vẫn còn chưa tìm thấy ở Việt Nam như:
Atypidae,

Idiopidae,

Dipluridae,

Nemessidae,

Barychelidae,


Segestriidae,

Hypochilidae, Filistatidae, Eresidae, Oecobiidae, Titanoecidae, Hersiliidae,
Papimanidae, Desidae, Hahniidae, Theridiosomatidae, Mysmenidae.
Nghiên cứu về nhện trong hang động mới được tiến hành trong thời gian gần
đây. Năm 2009, sáu loài nhện mới được phát hiện trong hang động tại hai VQG
Cúc Phương tỉnh Ninh Bình và Cát Bà tỉnh Hải Phòng (Lin & Pham & Li, 2009).


Năm 2010, thêm 1 loài nhện mới được phát hiện tại VQG Cát Bà Hải Phòng (Liu,
Li & Pham, 2010b). Nghiên cứu nhện trong hang động khu vực VQG Phong Nha
Kẻ Bàng tỉnh Quảng Bình, tác giả Phạm Đình Sắc đã chỉ ra rằng khu hệ nhện hang
động tiềm ẩn nhiều điều mới lạ, cần khám phá (Phạm Đình Sắc và cs, 2011).
1.4.

Khái quát về hang động

1.4.1. Các khái niệm về hang động
Thuật ngữ hang động thường được áp dụng để chỉ một khe hở tự nhiên,
trong các loại đá khác nhau, đủ lớn để con người đi vào. Thuật ngữ này mang tính
chủ quan, chỉ dựa trên khả năng tiếp cận của con người, không dựa vào quá trình
hình thành, do đó thiếu khoa học (J. Fromaget, 1997). Đến nửa sau thế kỷ 19, nhờ
những tiến bộ trong thăm dò hang động của nhiều nhà khoa học trên thế giới, khái
niệm về hang động mới dần chính xác và khoa học hơn (Alexander Klimchouk,
1998). Một số khái niệm được chấp nhận và sử dụng hiện nay như:
- Theo hiệp hội hang động quốc tế, hang là sự mở rộng tự nhiên ở dưới các
khối núi đá có chiều rộng đủ để con người đi vào.
- Theo the National Park Service, hang có tổng chiều dài ít nhất 50 feel
(khoảng 15m), chứa các vùng bóng tối hoặc chiều dài của các đoạn hang

vượt quá chiều rộng của cửa ra vào.
- Theo Federal Cave Resources Protection Act of 1988, USA – FCRPA, bất
cứ chỗ trống, hốc, ngách, hoặc hệ thống các đoạn nối liền với nhau, xảy
ra tự nhiên bên dưới bề mặt của trái đất, trong một vách đá hoặc gờ đủ
lớn để cho phép người đi vào, dù lối vào hình thành tự nhiên hoặc do con
người tạo nên.
Từ các khái niệm trên, thì hang động được hiểu là một hang, động kết nối
với mặt đất thông qua lối vào, mà không xét đến hình thái, khích thước và nguồn
gốc.
Mặc dù, chưa có sự thống nhất về cách định nghĩa hang động giữa các quốc
gia gia với nhau, nhưng khái niệm về hang động của hiệp hội hang động thế giới


được chấp nhận và sử dụng rộng rãi bởi các hiệp hội hang động của nhiều quốc gia
(Klimchouk & Kasjan, 2001).
Theo Humphreys (2000), hang động được chia ra một số vùng sinh học khác
biệt bao gồm: vùng cửa hang, vùng chuyển tiếp, và vùng tối. Các vùng này tương
ứng với chế độ ánh sáng và các điều kiện môi trường khác nhau. Vùng cửa hang là
khu vực có chế độ ánh sáng bình thường, thậm chí cây cối vẫn xảy ra quá trình
quang hợp, nhiệt độ và ẩm độ thay đổi hàng ngày. Vùng giáp ranh hay còn gọi là
vùng chuyển tiếp (tranh tối, tranh sáng) là vùng cách xa vùng cửa hang, ưu thế bởi
các loài địa y và các loài tảo là những loài thích hợp với điều kiện ánh sáng yếu.
Nhiệt độ và độ ẩm vẫn có thể thay đổi, và ẩm độ thường cao hơn so với bên ngoài.
Đi sâu hơn vào trong hang, ánh sáng giảm tới 0, gọi là vùng tối. Vùng tối nhiệt độ
và ẩm độ gần như không biến đổi.
1.4.2.

Hệ thống hang động của VQG Ba Bể

Trong hệ thống núi đá vôi của Ba Bể có một hệ thống hang động rất phong

phú, đa dạng và độc đáo do thiên nhiên ban tặng. Nhiều hang động đẹp có nét hấp
dẫn riêng và độc đáo như: hang Puông, hang Nà Phòng, hang Hua Mạ. Tại hang
Puông có nhiều nhũ thạch đẹp, hang Puông cao trung bình tới 8m, có nơi cao tới
12-15m, rộng trung bình khoảng 8 - 12m, hang này còn có suối chảy qua với chiều
dài trên 1.000m. Ngoài ra, ở khu vực Ba Bể còn có một số hang động nhỏ khác
nằm trong những núi đá thiên tạo, được tô điểm bởi các loài thực vật có hoa, có âm
thanh dấu vết của các loài chim, thú, côn trùng... hoàn toàn tạo cảm giác khám phá
mới mẻ cho khách du lịch và có ý nghĩa sinh học như: Động Tiên, Động Nả Phòng,
Động Ba Cửa, Hang Sơn Dương. Đặc biệt là các hang động này ở gần khu dân cư
rất dễ tiếp cận.


CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.

Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các loài nhện trong hang động.

 Đặc điểm cấu tạo ngoài của nhện
Cơ thể nhện chia ra 2 phần: phần giáp đầu ngực (Cephalothorax) và phần
bụng (Abdomen), hai phần này được nối với nhau bởi cuống bụng. Phần giáp đầu
ngực bao gồm tấm lưng ngực (carapace) và tấm bụng ngực (sternum). Phía trên
đầu của giáp đầu ngực có miệng (môi trên – endite; môi dưới – labium) và một đôi
chân kìm (chelicera), bên cạnh chân kìm là một đôi chân xúc giác (Palp). Cuối đôi
chân kìm của nhện có đôi răng lớn và khỏe dùng để bắt giữ và giết con mồi. Trên
tấm lưng ngực của nhện còn thấy một cái rãnh (hố - Fovea).


Hình 1: Cấu tạo ngoài của cơ thể nhện: Mặt lƣng(Jocque.R,2007)
Các mắt nằm trên tấm lưng ngực (carapace), thông thường nhện có từ 6 đến 8

mắt xếp thành 2 đến 3 hàng. Các mắt được chia thành: Mắt giữa trước (AME Anterior median eyes), mắt bên trước (ALE - Anterior lateral eyes), mắt giữa sau
(PME - Posterior median eyes) và mắt bên sau (PLE - Posterior lateral eyes).
Nhện có 4 đôi chân bò nằm trên phần giáp đầu ngực. Mỗi chân nhện được cấu
tạo từ 7 đốt: đốt háng (Coxa), đốt chuyển (Trochanter), đốt đùi (Femur), đốt đầu
gối (Patella), đốt ống chân (Tibia), đốt cổ chân (Metatarsus) và đốt bàn chân
(tarsus). Đầu mỗi chân bò có từ 2-3 móng vuốt (claws) tùy thuộc vào từng loài
nhện.
Chân xúc giác (Palp) có cấu tạo tương tự như chân bò nhưng chỉ có 6 đốt,
không có đốt cổ chân (metatarsus). Ở con đực trưởng thành, hai đốt cuối của đôi
chân xúc giác (Tibia và tarsus) phình to và có cấu tạo phức tạp, đây chính là bộ


phận sinh dục của con đực (xúc biện) dùng để giao hợp. Đối với con cái thì chân
xúc giác có cấu tạo bình thường, thuôn đều.

a

b

Hình 2: Cấu tạo ngoài của cơ thể nhện: mặt bụng
a. Phân bộ nhện Araneomorphae
b. Phân bộ nhện Mygalomorphae
Phần bụng nhện đa dạng về hình dạng, kích thước và màu sắc tùy vào từng
loài. Mặt dưới bụng con cái có cơ quan sinh dục cái và cơ quan hô hấp (booklung),
còn con đực thì chỉ có cơ quan hô hấp. Phần cuối của bụng là hậu môn (anal
tubercle) và bộ phận nhả tơ (Spinnerets). Bộ phận nhả tơ thường có 2 ống nhả tơ
bên trước (ALS - Anterior lateral spinnerets), hai ống nhả tơ bên sau (PLS Posterior lateral spinerets), một số loài có thêm 2 ống ở giữa sau (PMS –
Posterior median spinerets). Một số loài nhện thuộc phân bộ Araneomorphae có
tấm nhả tơ (cribellum – cribellate) ở phía trước bộ phận nhả tơ (spinnerets).



a

b

c
Hình 3. Cấu tạo cơ quan sinh dục của nhện đực

– nằm trên cơ quan xúc giác (male palp). a: Cơ quan sinh dục đực (Entelegyne –
mặt bên); b: Cơ quan sinh dục đực (Entelegyne – Mặt dưới); c: Cơ quan sinh dục
đực (Haplogyne )

Một số cấu phần của cơ quan sinh dục nhện đực (male palp):
-Retrolateral tibial apophysis: mấu gai bên phía sau
-Median apophysis: Mấu giữa
-Cymbium: Mặt trên của đốt cuối râu nhện đực (cơ quan xúc giác – cơ quan
sinh dục đực – male palpal tarsus).


-Bulbus: Phần (khối) cấu trúc phức tạp của bộ phận sinh dục đực, thường
nằm ngay dưới vùng lõm của cymbium.
-Embolus:Phần đưa vào trong của male palpal bulus, thường mảnh, có đầu
nhọn, chứa phần cuối cùng của ống dẫn tinh.
-Sperm duct: ống dẫn tinh.

a

b
Hình 4. Cấu tạo trong cơ quan sinh dục của nhện cái
(a: Haplogyne; b: Entelegyne (Epigastric furrow: vùng thượng vị; Entrance duct:

ống dẫn vào; Fertilization duct: ống dẫn ra; copulatory: thể giao cấu)
Cơ quan sinh dục của nhện có hai dạng:
-Entelegyne: Cơ quan sinh dục của nhện có thể sinh dục ngoài với các ống
dẫn tách biệt cho việc vận chuyển tinh dịch trong suốt quá trình thụ tinh (đối với
túi nhận tinh - spermathecae) và sự thu tinh (đối với tử cung - uterus).


-Haplogyne: Cơ quan sinh dục của nhện thiếu thể sinh dục ngoài do đó chỉ
có một cặp ống dẫn để vận chuyển tinh dịch từ tử cung tới túi nhận tinh trong suốt
quá trình thụ tinh
2.2. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trong ba năm 2012-2014. Thu thập mẫu vật được
tiến hành trong 2 đợt:
- Đợt 1: Tháng 9-10 năm 2012
- Đợt 2: Tháng 4-5 năm 2013
Thời gian còn lại, chúng tôi tiến hành thu thập tài liệu, phân tích mẫu, xử lý số
liệu và viết báo cáo.
2.3. Địa điểm và phạm vi nghiên cứu
2.3.1. Giới thiệu về Vườn quốc gia Ba Bể
* Vị trí địa lý
- VQG Ba Bể mở rộng bao gồm vùng bảo vệ nghiêm ngặt và vùng đệm nằm ở các
xã Nam Mẫu, Khang Ninh, Cao Thượng, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc vùng núi đá
vôi xen kẽ các thung lũng đất hẹp thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Với toạ độ địa
lý (theo UTM 1 / 50.000) 105 036’ Đông, 22030’ Bắc,VQG Ba Bể cách Hà Nội 254
km, cách thị xã Bắc Kạn 75 km, nằm trên trục đường Hà Nội - Cao Bằng (tuyến
giao thông quan trọng Quốc gia).
- Vườn có diện tích 7.610 ha, trong đó diện tích khu bảo vệ nghiêm ngặt 3.226,2 ha;
khu phục hồi sinh thái 4.083,6 ha; khu hành chính phục vụ 300,2 ha; và vùng đệm
42.100 ha.
- Vườn quốc gia Ba Bể có ranh giới như sau:

+ Phía Đông và Bắc: Giáp các xã Cao Thượng, Cao Trĩ và Khang Ninh (huyện Ba
Bể), xã Yến Dương, Chu Hương (huyện Chợ Đồn).


+ Phía Tây và Nam là ranh giới hai tỉnh Bắc Kạn, Tuyên Quang và giáp các xã
Quảng Khê, Nam Cường, Xuân Lạc (huyện Chợ Đồn), Đà Vị ( Na Hang- Tuyên
Quang).
Với ranh giới này VQG Ba Bể mở rộng bao gồm diện tích rừng và đất rừng
thuộc 7 xã huyện Ba Bể thuộc vùng núi đá vôi đặc trưng cho vùng caxtơ khu Đông
Bắc và các núi đất thuộc dãy Phia Biooc.
- Vị trí địa lý của VQG Ba Bể rất thuận lợi cho giao thông và phát triển du lịch. Hiện
nay trong các tuyến du lịch Hà Nội - Bắc Kạn - Cao Bằng, du khách thường lưu trú
từ 1 đến 2 ngày tại VQG Ba Bể sau đó tiếp tục đi tới các điểm tham quan khác tại
Bắc Kạn và Cao Bằng. Khách nước ngoài tới Ba Bể là du lịch tự do hay các nhóm
nhỏ từ 3 đến 5 người.
*Khí hậu, thủy văn
Vườn quốc gia Ba Bể mang đặc điểm khí hậu của vùng núi phía Bắc Việt Nam.
Trung tâm của vườn là hồ Ba Bể với diện tích 500 ha. Sự bốc hơi liên tục tạo nên
vi khí hậu vùng hồ mát mẻ, giảm bớt sự khắc nghiệt của các mùa ( mùa hè không
quá nóng, mùa đông không quá lạnh ).
+ Nhiệt độ trung bình năm: 220 C.
+ Độ ẩm tương đối trung bình năm: 83,3%.
+ Lượng mưa trung bình năm 1.378mm.
+ Số ngày mưa phùn trung bình trong năm: 33,3 ngày.
+ Số ngày có dông, mưa trung bình năm tại chợ Rã: 41,2 ngày.
- Hồ Ba Bể là hồ tự nhiên lớn có diện tích 500 ha, được cấp nước bởi các sông Chợ
Lèng, Ta Han, Nam Cường, các suối Tả Nam, Pó Lù...tốc độ dòng chảy 0,5m
/ giây. Hồ có chiều dài 8 km, sâu nhất 35 m, độ sâu trung bình 25 m. Nước hồ
trong xanh quanh năm với độ trong từ 150 tới 200m. Nhiệt độ nước tầng mặt biến
thiên theo mùa, phụ thuộc vào nhiệt độ không khí. Ước tính hồ chứa 90.106. Hồ có

chức năng điều tiết lũ cho sông Năng và mang hai tính chất rõ rệt:


Tính chất của hồ nước ngọt tự nhiên lớn.
Tính chất là đoạn cuối của sông chợ Lèng.
Điều kiện khí hậu trong lành mát mẻ rất tốt cho sức khoẻ con người nên có
thể mở rộng khai thác du lịch theo loại hình nghỉ ngơi, an dưỡng, nghỉ cuối tuần.
Hồ Ba Bể được bao bọc bởi những vách núi đá vôi với nhiều hang ngầm khi
ẩn khi hiện và được ca ngợi là hồ đẹp nhất Việt Nam, được công nhận là di tích
lịch sử văn hoá Quốc gia năm 1996 có sức hấp dẫn lớn đối với khách du khách.
Diện tích mặt hồ lớn và mực nước ổn định quanh năm tạo điều kiện thuận lợi cho
các hoạt động du lịch trên hồ thăm các đảo, hang động, danh lam thắng cảnh khác.
Ngoài ra, còn có thể phát triển thêm một số trò thể thao nước.
*Địa chất, địa hình, thổ nhƣỡng
- VQG Ba Bể nằm trong vùng caxtơ chợ Rã Ba Bể - Chợ Đồn, hai khối này là khối
đá vôi Givet ( Kỷ đề vôn giữa ) nằm trên phiến đá Protezol , bên cạnh hai khối đá
hoa cương. Tuổi tuyệt đối của khối đá vôi này đã trải qua chế độ lục địa khoảng
200 triệu năm. Điều này nói nên sự già nua các dịa hình caxtơ ỏ đây khác với các
nơi khác. Độ cao trung bình của núi đá vôi là 800 - 900 m so với mặt nước biển.
Dạng địa hình caxtơ điển hình tạo thành nhiều hệ thống hang động, núi đá
vôi đẹp mà tiêu biểu là hệ thống các hang động kỳ vĩ như Động Puông, Động Tiên,
Động Nả Phòng, Động Ba Cửa, Hang Sơn Dương... Diện tích trong lòng hang
động lên tới hàng trăm hàng nghìn m 2 với các loại nhũ đá, cột đá hình thù sinh
động độc đáo. Địa hình khu vực cũng tạo nên hồ Ba Bể , một trong những di sản
thiên nhiên độc đáo và đẹp bậc nhất nước ta. Hồ Ba Bể nằm kẹp giữa hai dãy núi
lớn ở Việt Bắc là cánh cung Sông Gâm và cánh cung Ngân Sơn với nhữnh đỉnh núi
cao trên 1.000 m. Bao bọc quanh hồ là các vách núi đá vôi dựng đứng, hiểm trở
với vẻ đẹp hùng vĩ và nhiều cánh rừng nguyên sinh, những dòng sông suối ngầm
khi ẩn khi hiện. Hồ được cắt khúc thành ba hồ nhỏ: Pé Lầm, Pé Lù, Pé Lèng chạy
theo hướng Bắc - Nam. Trong lòng hồ có các đảo nhỏ gắn liền với truyền thuyết

vùng hồ, là những nơi có nhiều loài phong lan và chim muông sinh sống. Hồ nằm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>
24


trong hệ tự nhiên của VQG Ba Bể một di sản thiên nhiên quý giá có diện tích 7.610
ha. Đây là một hệ thống rừng nguyên sinh trên núi đá vôi với sự đa dạng lớn về tài
nguyên động thực vật, là tiềm năng lớn cho hoạt động phát triển loại hình DLST.
Đặc điểm cấu tạo địa chất tạo nên địa hình khu vực đa dạng, hấp dẫn, độc
đáo cho phát triển DLST dưới các loại hình tìm hiểu và tham quan các danh lam
thắng cảnh, các hang động, các đảo gắn liền vối truyền thuyết về Hồ Ba Bể và lịch
sử hào hùng của dân tộc. Ngoài ra, với điều kiện địa hình như vậy, việc mở rộng
loại hình du lịch mạo hiểm có thể là một hướng đi mới cần được lưu ý.
* Thực vật
Theo điều tra ban đầu, khu hệ thực vật VQG Ba Bể bao gồm 4 yếu tố: thực
vật bản địa Bắc Việt Nam - Nam Trung Quốc, thực vật di cư India - Myanma, thực
vật quý hiếm và thực vật đặc hữu của vùng.
Chỉ riêng loài thân gỗ đã đến 620 loài thuộc 300 chi, 138 họ, trong đó có đủ
các loài đặc trưng điển hình của vùng núi đá vôi Đông Bắc Việt Nam: Nghiến,
Đinh, Trai, Lát, Lát Hoa... và hàng trăm loài Phong lan, Địa lan, đặc biệt loài Trúc
dây quý hiếm chỉ có ở Ba Bể thường mọc ở các vách đá ven hồ và sông Năng, thân
rủ xuống hồ tạo ấn tượng đẹp cổ kính.
VQG Ba Bể có thảm thực vật rừng đặc trưng riêng thể hiện ở các kiểu rừng
và trạng thái rừng sau:
Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi đá vôi: phân bố từ
độ cao 400 đến 700m, diện tích còn lại nhỏ do bị tác động, loài ưu thế: Nghiến,
Trai, Đinh, Lát hoa, một số loài họ Giẻ. ở ven hồ có loài Trâm trắng, Trâm vối,
Ken, Si, Mùng Quân.

Rừng rậm thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở thung lũng tập trung một số loài
Sấu, Thung , Đinh thôi. Trong kiểu này rừng phân thành 4 tầng rõ rệt, có tầng vượt
tán là Thung thân trắng phân biệt với nền xanh của 3 tầng dưới.


×