Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ BỘ BA BẤT KHẢ THI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
❧•❧

MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ LÝ THUYẾT
BỘ BA BẤT KHẢ THI
GVHD:

PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

Lớp:

Tài chính quốc tế - Tối thứ 4 - A314

NHÓM THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1.Trưởng nhóm:

Hà Hoàng Vũ

2.Thành viên:

Nguyễn Thị Ngoạn

3.Thành viên:

Trần Thị Kim Ngân

4.Thành viên:


Phạm Thị Hồng Khoa

5. Thành viên: Mai Lê Cường
6. Thành viên:

Vũ Hải Đăng

7.Thành viên:

Phạm Đình Vũ

8.Thành viên:

Nguyễn Thảo Anh

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2015
1. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI


1.1
Tỷ giá hối đoái
a. Định nghĩa

Có hai khái niệm về tỷ giá hối đoái:
Khái niệm 1: Các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoái
bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì vậy, giá cả của một đơn vị tiền tệ
này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia gọi là tỷ giá hối đoái.
Ví dụ: Một người nhập khẩu ở nước Mỹ phải bỏ ra 160.000 USD để mua một tờ séc có
mệnh giá 100.000 GBP để trả tiền hàng nhập khẩu từ nước Anh. Như vậy, giá 1 GBP = 1,6 USD,
đây là tỷ giá hối đoái giữa đồng bảng Anh và đồng đôla Mỹ.

Khái niệm 2: Tỷ giá hối đoái còn được định nghĩa ở một khía cạnh khác, đó là quan hệ so
sánh giữa hai tiền tệ của hai nước với nhau theo tiêu chuẩn nào đó.
+
Trong chế độ bản vị vàng, tiền tệ trong lưu thông là tiền đúc bằng vàng và giấy bạc ngân
hàng được tự do đổi ra vàng căn cứ vào hàm lượng vàng của nó. Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh
hai đồng tiền vàng của hai nước với nhau hoặc là so sánh hàm lượng vàng của hai đồng tiền hai
nước với nhau.
Ví dụ: Hàm lượng vàng của 1 bảng Anh là 2,488281 gam và của 1 đô la Mỹ là 0,888671
gam, do đó quan hệ so sánh giữa GBP và USD là:

So sánh hàm lượng vàng của hai tiền tệ với nhau gọi là ngang giá vàng. Hay nói một cách
khác, ngang giá vàng của tiền tệ là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái trong chế độ bản vị vàng.
Trong chế độ lưu thông tiền giấy, tiền đúc trong lưu thông không còn nữa, giấy bạc ngân hàng
không còn tự do đổi ra vàng theo hàm lượng vàng của nó, do đó, ngang giá vàng không còn làm cơ
sở hình thành tỷ giá hối đoái.
-

b. Phân loại
Nếu dựa vào phương tiện chuyển hối:

+
Tỷ giá điện hối(T/T): Tức là tỷ giá mua bán ngoại tệ và các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ
được chuyển bằng điện. Đây là loại tỷ giá thường được niêm yết tại các ngân hàng và là cơ sở để
xác định các loại tỷ giá khác.
+

Tỷ giá thư hối(M/T): Tức là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.

-


Nếu dựa vào phương tiện thanh toán quốc tế:

2


+
Tỷ giá séc và hối phiếu trả tiền ngay: được mua bán theo một tỷ giá mà cơ sở để xác định
nó bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi một đơn vị ngoại tệ trong toàn bộ trị giá của séc và hối
phiếu phát sinh theo số ngày cần thiết của bưu điện để chuyển séc từ nước này sang nước khác và
theo số ngày kể từ lúc ngân hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu được trả tiền.
+
Tỷ giá hối phiếu có kì hạn: Bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi phát sinh từ lúc ngân hàng
bán hối phiếu đến lúc hối phiếu đó được trả tiền. Thời gian này thường là bằng thời hạn trả tiền ghi
trên hối phiếu cộng với thời gian chuyển tờ hối phiếu đó từ ngân hàng bán hối phiếu đến ngân
hàng đồng nghiệp của nó ở nước của người có nghĩa vụ trả tiền hối phiếu. Thông thường lãi suất
được tính theo lãi suất của nước mà đồng tiền được ghi trên hối phiếu.
Ví dụ: Tỷ giá điện hối ở New York đi Singapore là 1USD =1,8 SGD và lãi suất ở Cục dự
trữ liên bang Hoa Kì là 2%/năm, thì giá của hối phiếu 1.000 USD có kì hạn 90 ngày là:
Hay là:

1USD = 1,791SGD

-

Nếu căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh mua bán ngoại hối của ngân hàng:

+

Tỷ giá mua: Là tỷ giá ngân hàng mua ngoại hối vào.


+

Tỷ giá bán: Là tỷ giá ngân hàng bán ngoại hối ra.

Tỷ giá mua bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán và khoản chênh lệch đó là lợi nhuận kinh
doanh ngoại hối của ngân hàng.
-

Nếu căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại tệ :

+
Tỷ giá đóng cửa: Thông thường ngân hàng không công bố tất cả tỷ giá của các hợp đồng đã
kí kết trong một ngày mà chỉ công bố tỷ giá của hợp đồng kí cuối cùng trong ngày đó, người ta gọi
là tỷ giá đóng cửa. Tỷ giá đóng cửa được coi là chỉ tiêu chủ yếu về tình hình biến động của tỷ giá
trong ngày đó.
+

Tỷ giá mở cửa: Là tỷ giá của chuyến giao dịch ngoại hối đầu tiên trong một ngày.

-

Nếu căn cứ vào hình thức ngoại hối:

+

Tỷ giá tiền mặt.

+

Tỷ giá chuyển khoản.


Tỷ giá chuyển khoản bao giờ cũng cao hơn tỷ giá tiền mặt.
-

Nếu căn cứ vào phương thức giao nhận ngoại hối:

+
Tỷ giá giao nhận ngay: Tức là tỷ giá áp dụng khi bán ngoại hối thì được nhận tiền ngay vào
ngày hôm đó hay trong vòng hai ngày làm việc sau đó.
3


+
Tỷ giá giao nhận có kì hạn: Là tỷ giá áp dụng khi bán ngoại hối nhưng sau một thời gian
nhất định mới nhận được tiền.
-

Nếu căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối:

+
Tỷ giá hối đoái chính thức: Do Nhà Nước qui định, áp dụng cho việc trao đổi giữa chính
phủ hoặc cơ quan Nhà Nước theo hiệp định hoặc nghị định thư.
+

Tỷ giá tự do: Hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường.

+
Tỷ giá chợ đen: Gắn với nạn đầu cơ, tích trữ ngoại tệ để buôn lậu, Nhà Nước không kiểm
soát được.
c. Cách yết tỷ giá


* Phương pháp trực tiếp: là phương pháp biểu thị một đơn vị ngoại tệ bằng bao nhiêu đơn vị tiền
tệ trong nước.
Đối với phương pháp trực tiếp thì ngoại tệ là đồng tiền yết giá, tiền trong nước là đồng tiền
định giá.
Đa số các quốc gia trên thế giới áp dụng phương pháp trực tiếp.
Ví dụ: Tại Hà Nội niêm yết USD/VND = 21.770/90
Có nghĩa là: Tại Hà Nội ngân hàng mua 1 USD trả 21.770 VND và bán 1USD thu 21.790
VND.
* Phương pháp gián tiếp: là phương pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ trong nước bằng bao nhiêu
đơn vị tiền ngoại tệ.
Đối với phương pháp gián tiếp thì tiền trong nước là đồng tiền yết giá, còn ngoại tệ là đồng
tiền định giá. Anh, Hoa Kì và một số nước liên hiệp Anh thương sử dụng phương pháp này.
Ví dụ: Tại London niêm yết GBP/USD = 1,568/85
Có nghĩa là: Tại London ngân hàng mua 1 GBP trả 1,568 USD và bán 1 GBP thu 1,585 USD
1.2

Thị trường ngoại hối
Ngoại hối

Ngoại hối (theo nghĩa rộng) là khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị được dùng
để tiến hành thanh toán giữa các quốc gia. Tuỳ theo quan niệm của luật quản lý ngoại hối của mỗi
nước, khái niệm ngoại hối có thể không giống nhau, nhưng xét trên đại thể, ngoại hối bao gồm 5
loại:
4


Ngoại tệ (Foreign Currency) tức là tiền của nước khác lưu thông trong một nước. Ngoại tệ
bao gồm 2 loại: Ngoại tệ tiền mặt và ngoại tệ tín dụng.
Các phương tiện thanh toán quốc tế ghi bằng ngoại tệ, gồm có: Hối phiếu (Bill of

Exchange), Kỳ phiếu (Promissory Note), Sec (Cheque), Thư chuyển tiền (Mail Tranfer), Điện
chuyển tiền (Telegraphic Transfer), Thẻ tín dụng (Credit Card), Thư tín dụng ngân hàng (Bank
Letter of Credit)
Các chứng khoán có giá trị ghi bằng ngoại tệ như: Cổ phiếu (Stock), Trái phiếu công ty
(Corporate Bond), Trái phiếu chính phủ (Government Bont), Trái phiếu kho bạc (Treasury Bond)
-

Vàng bạc, kim cương, ngọc trai, đá quí.. được dùng làm tiền tệ.

Tiền của Việt Nam dưới các hình thức sau đây: Tiền của Việt Nam ở nước ngoài dưới mọi
hình thức khi quay lại Việt Nam, Tiền Việt Nam là lợi nhuận của người đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam, Tiền Việt Nam có nguồn gốc ngoại tệ khác.
Ngoại hối theo nghĩa hẹp là đồng tiền nước ngoài: ngoại tệ tiền mặt và ngoại tệ tín dụng.
a. Thị trường ngoại hối
Thị trường hối đoái (TTHĐ) có tên tiếng Anh là The Foreign Exchange Market được viết
tắt là FOREX hoặc FX. Thị trường hối đoái là nơi diễn ra việc mua bán, vay cho vay các đồng tiền
khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể tham gia.
b. Người tham gia

Các bên tham gia trên thị trường ngoại hối là các ngân hàng thương mại cỡ lớn, người môi
giới ngoại hối, ngân hàng trung ương và các công ty và nhà đầu tư. Ngoài ra, còn có các định chế
tài chính khác như: các quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm và cả cá nhân có vốn. Khu vực chính yếu
trong thị trường hối đoái là thị trường liên ngân hàng. Ở đó các ngân hàng có thể giao dịch trực
tiếp với nhau hoặc thông qua các nhà môi giới.

c. Chức năng

-

Cân đối các nhu cầu mua bán ngoại tệ


Thị trường ngoại hối tạo ra cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ phục vụ cho
các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Thể hiện:
Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục và mang tính toàn cầu nên đáp ứng nhu cầu về
ngoại tệ của bất kỳ người mua, người bán nào đều có thể được đáp ứng ngay lập tức.

5


Khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ, sự tham dự của các ngân hàng và các nhà
đầu cơ đã góp phần giải quyết sự mất cân đối đó thông qua việc điều chỉnh tỷ giá cân bằng của thị
trường hoặc thông qua đầu cơ ngoại tệ.
-

Phòng chống rủi ro tỷ giá

Ngày nay, đa số các nước trên thế giới đều áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi nên tỷ giá hối đoái
luôn luôn biến động. Sự biến động của tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể. Các
công ty xuất nhập khẩu, công ty đa quốc gia và các cá nhân có nguồn thu, nguồn chi ngoại tệ trong
tương lai chịu ảnh hưởng rủi ro rất lớn về sự biến động của tỷ giá hối đoái. Do vậy, các chủ thể này
cần thiết phải áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế những rủi ro này.
Thông qua các nghiệp vụ mua bán kỳ hạn, quyền chọn… của thị trường ngoại hối sẽ giúp
cho các công ty, doanh nghiệp phòng ngừa được rủi ro.
-

Tạo ra thu nhập cho người sở hữu ngoại tệ

Các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là giao dịch cho
chính mình. Các ngân hàng chủ yếu tiến hành các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá giữa các
thị trường để thu lời qua việc mua ở thị trường này giá rẻ hơn và bán lại ở thị trường kia giá cao

hơn.
Không chỉ có các ngân hàng mà các công ty, doanh nghiệp và cá nhân cũng có thể thu lời
thông qua hoạt động đầu cơ ngoại tệ. Ngoài ra, thị trường ngoại hối còn giúp các nhà đầu tư
chuyển đổi ngoại tệ phục vụ cho việc đầu tư vào thị trường có mức lãi dự tính cao.

1.3 Đo lường tỷ giá hối đoái
Tỷ lệ phần trăm thay đổi trong giá trị ngoại tệ được tính như sau:

Trong đó,

St: tỷ giá giao ngay tại thời điểm hiện tại.

St-1: tỷ giá giao ngay tại thời điểm trước đó.
Phần trăm thay đổi trong ngoại tệ bằng không khi giá của ngoại tệ là không đổi.
Phần trăm thay đổi trong ngoại tệ nhận giá trị dương cho thấy đồng ngoại tệ tăng giá,
ngược lại khi phần trăm thay đổi trong ngoại tệ nhận giá trị âm cho thấy một sự giảm giá
của ngoại tệ. Một tỷ lệ phần trăm thay đổi lớn của một đồng tiền thường xảy ra hàng năm
chứ ít khi xảy ra hàng ngày hay hàng tuần.
1.4 Tác động của tỷ giá hối đoái
6


1.4.1 Tác động đến xuất nhập khẩu:
Khi giá trị đồng nội tệ giảm đi, một số lượng đơn vị nội tệ sẽ đổi được ít đơn vị ngoại tệ
hơn so với trước đây.
Giả sử trước khi đồng nội tệ mất giá, x đơn vị nội tệ sẽ đổi được y đơn vị ngoại tệ, bây giờ,
nội tệ mất giá, khi đó x đơn vị nội tệ chỉ đổi được y’ đơn vị ngoại tệ với y’< y. Như vậy, các nhà
xuất khẩu nước ngoài sẽ bị lỗ một khoảng y – y’ nếu họ vẫn giữ nguyên giá bán ban đầu. Điều này
buộc họ phải tăng giá bán và điều dễ thấy là người dân sẽ chuyển hướng tiêu dùng sang hàng hoá
trong nước. Đó là tác động hạn chế nhập khẩu.

Đối với các nhà xuất khẩu trong nước, khi nội tệ giảm giá trị so với ngoại tệ thì giá cả các
mặt hàng trong nước trở nên rẻ một cách tương đối so với hàng hóa nước ngoài, điều này làm tăng
tính cạnh tranh của hàng hoá trong nước, thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia.
Khi giá trị đồng nội tệ được nâng lên, cơ chế tác động sẽ ngược lại ở trên: xuất khẩu hàng
hoá sang nước ngoài sẽ bị hạn chế, đồng thời nhập khẩu sẽ tăng vì giá cả của hàng hoá nước ngoài
trở nên rẻ hơn so với hàng hoá trong nước.
1.4.2 Tác động đến lạm phát:
Lạm phát từ lâu đã là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các nền kinh tế trên thế giới bởi
tác động toàn diện đến nền kinh tế của nó. Trong mối quan hệ với TGHĐ, lạm phát tác động ngược
chiều với giá trị tiền tệ. Cụ thể, khi lạm phát một nước tăng cao tương đối so với nước ngoài sẽ
làm cho đồng tiền nước đó mất giá. Ngược lại, TGHĐ cũng có tác động đến lạm phát. Khi nội tệ
tăng giá, hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài rẻ hơn, người dân chuyển sang tiêu dùng hàng ngoại
nhiều hơn từ đó làm cho tỷ lệ lạm phát giảm bớt. Tương tự, khi nội tệ mất giá, hàng hoá nhập khẩu
trở nên mắc mỏ và nếu kéo dài sẽ làm cho lạm phát tăng cao một cách khó lường.
Ngoài ra, cơ chế tỷ giá cố định cũng là nguyên nhân làm tang lạm phát.
Sau chiến tranh thế giới thức hai, IMF chủ trương duy trì chế độ tỷ gía cố định, lấy USD
làm bản vị, tỷ giá của đồng tiền các nước với USD chỉ biến động trong một biên độ nhất định
(khoảng 2.25%) so với tỷ giá chính thức.
1.4.3 Tác động đến cán cân thanh toán:
Cán cân thanh toán bao gồm tài khoản vãng lai, tài khoản vốn, sai số thống kê và dự
trữ ngoại hối
Cán cân thanh toán nhằm kiểm soát mọi luồng ngoại tệ đi vào và đi ra khỏi quốc gia dưới
bất kỳ hình thức nào.
Khi giá trị của đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ, xuất khẩu sẽ tăng, nhập khẩu giảm làm ảnh
hưởng đến tài khoản vãng lai và đồng thời, các luồng vốn sẽ chảy vào trong nước làm thay đổi tài
khoản vốn, tác động này có thể làm cho cán cân thanh toán trở nên thặng dư. Điều này về lâu dài
có thể gây lạm phát nghiêm trọng, kìm hãm sản xuất, giảm đầu tư trong nước, thất nghiệp tăng ...
Ngược lại, khi nội tệ tăng giá, có thể gây thâm hụt cán cân thanh toán (hạn chế xuất khẩu,
tăng nhập khẩu, dòng vốn chảy ra khỏi quốc gia). Về lâu dài sẽ làm cạn kiệt dự trữ ngoại hối của
quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế đất nước.

1.4.4 Các vai trò khác
a) Đối với đầu tư nước ngoài

7


Tỷ giá hối đoái tác động tới giá trị phần vốn và nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hoặc góp vốn
liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa vào sản xuất tại nước sở tại thường được
chuyển đổi ra đồng nội tệ. Do đó, sự thay đổi của TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của
các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
b) Đối với việc vay nợ nước ngoài
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước đó hoặc những
đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên đồng nghĩa với việc gia tăng gánh nặng nợ nước ngoài.
Ngày nay, khi luân chuyển dòng vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước đặc biệt và các nước
đang phát triển, các nước vay nợ nhiều càng cần phải trận trọng hơn trong chính sách tỷ giá đảm
bảo việc tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài của quốc giá mình.
Kết luận: Với những vai trò, ảnh hưởng của TGHĐ đã nêu trên thì TGHĐ có một tầm quan
trọng đặc biệt đối với nền kinh tế. Bất kỳ một quốc gia nào cũng luôn tìm cách đạt được mục tiêu
cân bằng cán cân thanh toán, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, giảm thiểu thất nghiệp.
TGHĐ là một công cụ, một nhân tố quan trọng của quốc gia để giúp Nhà nước đạt được những
mục tiêu kinh tế vĩ mô.

1.5 Các yếu tố tác động đến tỷ giá hối đoái cân bằng

Như những hàng hóa thông thường khác, giá cả của một đồng tiền được xác định bởi cung
và cầu của đồng tiền đó.
Hình 1: Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng.

8



Điểm cân bằng được tìm thấy tại nơi đường cung ngoại tệ và đường cầu ngoại tệ giao nhau.
Mức giá tại điểm cân bằng này được gọi là tỷ giá hối đoái cân bằng. Tại điểm tỷ giá hối đoái cân
bằng, lượng cung ngoại tệ bằng lượng cầu ngoại tệ.
Trên thực tế không phải lúc nào thị trường cũng dừng ở mức cân bằng này mà có thể tại
một thời điểm nào đó tỷ giá hối đoái có thể cao hơn hoặc thấp hơn tỷ giá cân bằng. Theo lý thuyết
kinh tế học, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, bất cứ khi nào tỷ giá hối đoái lệch khỏi vị
trí cân bằng thì áp lực thị trường sẽ tự động kéo tỷ giá hối đoái về vị trí cân bằng. Tuy nhiên, trên
thực tế tỷ giá hối đoái khó trở về vị trí cân bằng vì không thể không có các tác động bên
ngoài, đặc biệt là sự can thiệp của chính phủ (lạm phát, lãi suất…), vì vậy tỷ giá hối đoái xác
định trên thị trường không luôn luôn bằng với tỷ giá hối đoái ở mức cân bằng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái cân bằng bao gồm:

1.5.1

Tỷ lệ lạm phát tương đối.

9


Hình2 : Tác động của gia tăng lạm phát Việt Nam đến giá trị cân bằng đồng Đô la.

Sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tương đối ảnh hưởng đến các hoạt động thương mại, từ đó
các hoạt động thương mại này tác động đến cung tiền và cầu tiền và vì thế tác động đến tỷ giá hối
đoái.
Giả sử, lạm phát của Việt Nam đột ngột tăng lên đáng kể trong khi lạm phát ở Mỹ vẫn
duy trì như cũ. Sự tăng lên trong lạm phát ở Việt Nam sẽ làm cho giá cả hàng hóa của Việt Nam
trở nên đắt hơn tương đối so với hàng hóa Mỹ, vì vậy làm giảm nhu cầu của người Mỹ đối với
hàng hóa của Việt Nam, làm giảm cung đồng Đô la để mua hàng Việt Nam. Đồng thời, khi lạm
phát Việt Nam tăng, hàng hóa của Mỹ sẽ rẻ tương đối so với hàng Việt Nam, nên cầu của người

Việt Nam mua hàng hóa Mỹ tăng, làm gia tăng nhu cầu của Việt Nam đối với đồng Đô la. Vị trí
cân bằng mới có tỷ giá cân bằng cao hơn tỷ giá ban đầu, mức tăng bao nhiêu phụ thuộc vào sự
dịch chuyển đường cung và đường cầu trong thực tế.
1.5.2

Lãi suất tương đối.

Thay đổi trong lãi suất tương đối tác động đến đầu tư chứng khoán nước ngoài, đến lượt nó
đầu tư chứng khoán nước ngoài lại ảnh hưởng đến cung và cầu tiền từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá hối
đoái.
Hình 3: Tác động của gia tăng lãi suất của Việt Nam đến giá trị cân bằng đồng Đô la.

10


Giả sử rằng, lãi suất của Việt Nam tăng trong khi lãi suất của Mỹ không đổi. Trong trường
hợp này, lãi suất của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn một cách tương đối so với lãi suất của Mỹ, và
vì vậy, thị trường Việt Nam sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư Mỹ hơn để họ thiết lập nhiều hơn các
khoản ký gửi vào ngân hàng Việt Nam, làm cầu Việt Nam đồng tăng dẫn đến cung ngoại tệ tăng.
Đồng thời, lãi suất Việt Nam cao hơn sẽ làm giảm nhu cầu của các nhà đầu tư Việt Nam ra Mỹ
hơn, vì thị trường trong nước trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư hơn, vì thế làm giảm cầu đồng Đô la.
Vị trí cân bằng mới có tỷ giá cân bằng thấp hơn tỷ giá cân bằng ban đầu, mức giảm phụ thuộc
vào mức độ dịch chuyển của đường cung và đường cầu trong thực tế.
1.5.3

Thu nhập tương đối.

Hình 4: Tác động gia tăng thu nhập của Việt Nam đến giá trị cân bằng đồng Đô la.

11



Giả sử thu nhập của Việt Nam tăng lên trong khi thu nhập của Mỹ không đổi. Khi thu nhập
của người Việt Nam tăng lên, nhu cầu của người Việt đối với hàng hóa của Mỹ cũng tăng lên, làm
cầu đồng Đô la tăng lên, nên cầu đồng Đô la dịch chuyển sang phải. Trong khi đó, thu nhập của
người Mỹ không đổi nên nhu cầu của người Mỹ đổi với hàng Việt Nam không đổi, nên đường
cung ngoại tệ vẫn giữ nguyên. Vị trí cân bằng mới có tỷ giá cân bằng cao hơn tỷ giá cân bằng
ban đầu.
1.5.4 Kiểm soát của chính phủ.
-

Áp đặt những rào cản về ngoại hối.
Áp đặt những rào cản về ngoại thương:
Can thiệp vào thị trường ngoại hối:
Tác động đến những biến vĩ mô.

1.5.5 Kỳ vọng.
Thị trường ngoại hối phản ứng lại với các thông tin trong tương lai có liên quan đến tỷ giá.
Ví dụ: tin về gia tăng lạm phát tiềm ẩn ở Việt Nam có thể làm những nhà đầu cơ bán Việt
Nam đồng để mua Đô la nhằm phòng tránh sự mất giá của tiền đồng và điều này làm dịch chuyển
tỷ giá hối đoái cân bằng.

1.6 Xác định tỷ giá
Một cách tổng quan thì có ba phương pháp tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái:
Tiếp cận dựa trên các điều kiện cân bằng: ý tưởng của cách tiếp cận này là dựa trên
các lý thuyết cân bằng trong tài chính: IRP, PPP và UIP để dự báo tỷ giá.
Tiếp cận dựa trên cán cân thanh toán quốc tế: ý tưởng của cách tiếp cận này là dựa
vào tình trạng của cán cân thanh toán làm cơ sở để nhận định, dự báo tỷ giá hối đoái.
Tiếp cận dựa trên phương pháp định giá tài sản: ý tưởng của cách tiếp cận này là
dựa vào khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của một quốc gia. Nếu một quốc gia có

khả năng thu hút đầu tư nước ngoài cao thì ngoại tệ mang lại cho nền kinh tế sẽ dồi dào và
đồng nội tệ có thể sẽ tăng giá.
1.6.1 Xác định tỷ giá dưạ trên các điều kiện cân bằng.

1.6.2 Xác định tỷ giá dựa trên cách tiếp cận cán cân thanh toán quốc tế.
12


Mối quan hệ giữa cán cân thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái có thể được biểu
diễn bằng công thức sau:
Cán cân thanh toán quốc tế = CA + KA + FXR
Trong đó:

CA: Cán cân tài khoản vãng lai.
KA: Cán cân tài khoản vốn và tài chính
FXR: Lượng dự trữ ngoại hối gồm cả vàng.

Mức độ quan trọng của cán cân thanh toán quốc tế trong việc xác định tỷ giá hối
đoái phụ thuộc vào chính sách tỷ giá của quốc gia đó. Tác động của một khoản thâm hụt
hay thặng dư trên cán cân thanh toán quốc tế lên tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào quốc gia đó
sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định, thả nổi hay thả nổi có quản lý.
1.6.3 Xác định tỷ giá dựa trên cách tiếp cận định giá tài sản.
Cách tiếp cận định giá tài sản cho rằng mức độ mà một nhà đầu tư nước ngoài sẵn lòng
nắm giữ các tài sản định danh bằng nội tệ sẽ dựa trên các tài sản đầu tư trong nước hoặc xu
hướng của thị trường trong tương lai. Những xu hướng này bao gồm:
(1) Lãi suất thực tương đối.

Lãi suất thực tương đối là yếu tố chủ yếu để các nhà đầu tư xem xét khi đầu tư vào trái
phiếu hay thị trường tiền tệ nước ngoài trong ngắn hạn.
(2) Triển vọng tăng trưởng kinh tế.


Triển vọng tăng trưởng kinh tế là một căn cứ hết sức quan trọng để ra quyết định đầu tư
vào chứng khoán nước ngoài cũng như hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
(3) Tính thanh khoản của thị trường.

Tính thanh khoản của thị trường cũng là điều mà các nhà đầu tư tổ chức quan tâm. Họ
không chỉ xem xét tính dễ dàng khi mua một tài sản mà quan trọng là lúc cần bán tài sản đó
với đúng giá trị thị trường khi cần thiết.
Tính thanh khoản của thị trường được quyết định bởi các yếu tố:




Số lượng người mua người bán trên thị trường.
Số lượng và sự đa dạng hàng hóa trên thị trường.
Cơ chế thanh toán của thị trường
13




Các hành lang pháp lý quản lý và điều tiết thị trường.

(4) Các điều kiện kinh tế và kiến trúc thượng tầng của một quốc gia.

Các điều kiện kinh tế và kiến trúc thượng tầng của một quốc gia là chỉ số để xem xét tính
ổn định của một nền kinh tế trước các cú sốc ngoại sinh từ môi trường bên ngoài cũng như
sự thay đổi nhanh chóng của thị trường tài chính thế giới.
(5) An ninh về mặt chính trị.


An ninh về mặt chính trị của một quốc gia không chỉ quan trọng đối với những dòng vốn
ngắn hạn mà còn rất quan trọng đối với những dòng vốn dài hạn như FDI.
(6) Độ tin cậy của vấn đề quản trị doanh nghiệp.

Độ tin cậy của vấn đề quản trị doanh nghiệp có thể được hiểu gần như là tính minh bạch
của thị trường. Một doanh nghiệp được quản trị tồi sẽ làm giảm sự hấp dẫn đối với các
khoản đầu tư nước ngoài.
(7) Sự “lây nhiễm” (contagion).

Sự “lây nhiễm” là hiệu ứng lây lan của khủng hoảng tài chính ở một quốc gia sang các
nước láng giềng hoặc các quốc gia có đặc điểm tương đồng bởi tác nhân các nhà đầu tư
nước ngoài gây ra. Sự “lây nhiễm” này có thể làm cho các quốc gia vô tội chịu chung số
phận hứng chịu sự rút vốn tháo chạy và dẫn đến sự sụt giảm một cách mạnh mẽ giá trị của
đồng nội tệ.
(8) Yếu tố đầu cơ.

Yếu tố đầu cơ là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tiền tệ hoặc làm cho một cuộc khủng
hoảng đang diễn ra trở nên tồi tệ hơn.
2. CÁC CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá hối đoái biến tướng từ hai hình
thức cơ bản là cố định và thả nổi. Trong thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau càng tăng, việc lựa
chọn một chế độ ngoại hối phù hợp với bối cảnh quốc tế, điều kiện cụ thể từng bước và đáp ứng
điều chỉnh kinh tế vĩ mô, nhất là với các nước đang thực hiện chuyển đổi cơ chế thực sự là vấn
đề nan

giải
2.1

Hệ


thống

tỷ

giá

hối

đoái

cố

định

a, Đặc Điểm:
14


- Tỷ giá hối đoái cố định, đôi khi còn được gọi là tỷ giá hối đoái neo, là một kiểu chế độ tỷ
giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với
một rổ các đồng tiền khác, hay với một thước đo giá trị khác, như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham
khảo tăng hoặc giảm, thì giá trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế
độ tỷ giá hối đoái cố định gọi là đồng tiền cố định.
- Tỷ giá hoái đối cố định được giữ cố định trong một thời gian dài với biên độ dao động
nhỏ ở mức cho phép. Thông thường, đồng nội tệ sẽ được xác định tỷ giá hối đoái cố định với một
đồng ngoại tệ mạnh (USA, GBP, EURO, CAD.....) hoặc với vàng. NHTW đóng vai trò điều tiết
lượng cầu hoặc cung về ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái cố định bằng cách bán ra hoặc mua vào số
đó.
- Tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên che mất những thông tin cần thiết cho thị
trường hoạt động đúng hướng. Đó là vì đồng tiền không còn thể hiện giá trị thị trường thực của

chúng. Sự che đậy thông tin nào tạo ra tính không chắc chắn, kích thích các kẻ đầu cơ "tấn công"
các đồng tiền cố định và nhiều nước sẽ mất sạch cả dữ trự ngoại hối khi cố gắng bảo vệ đồng tiền
của mình chứ không chịu để nó mất giá
b,
+

Ưu

Đảm

+

bảo

sự

ổn

Ổn

+

Hoạt

+

Tăng

+


Tạo

tính

kinh
hợp
kỷ

c,
+

về

tỷ

định

động
tính

định

luật

trong

kinh

doanh
tác


giá



trong
cho

đầu

Nhược

một

tế


thương
các

điểm:

chính

thời


nước

ngoài


được

mại

giữa

các

sách

gian

kinh

tế

dài.
mô.

thúc

đẩy.

quốc

gia.




mô.
điểm:

Không phản ánh đúng tỷ giá thị trường do vậy phát sinh tình trạng tỷ giá ngầm (Tỷ giá chợ

đen)
+

Làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến cho NHTW gặp khó khăn trong việc

thay đổi lượng tiền cung ứng
+

Chênh lệch giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa, NHTW phải có lượng ngoại tệ đủ lớn để

duy trì tỷ giá, làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm phát" không mong muốn
15


Ví dụ: Trong thực tế, nhiều chính phủ vẫn thích chế độ tỷ giá hối đoái cố định bởi nó tạo ra
sự ổn định. Trong lịch sử, từ 1944 đến 1971, tỷ giá hối đoái được cố định theo một hệ thống hoạch
định tại hội nghị Bretton Woods cho phép Tây Âu và Nhật Bản có được tỷ giá cố định so với
dollar Mỹ cho đến tận năm 1970. Gần đây, Trung Quốc, Hong Kong và Malaysia đã rất thành
công trong việc duy trì tỷ giá hối đoái cố định để giữ ổn định kinh tế trong nước. Đồng Euro hiện
nay cũng có thể được xem là một chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia Châu Âu tham
gia.
Chế độ tỷ giá cố định thông thường hiện nay được khá nhiều nước áp dụng (theo báo cáo
của IMF năm 2008 thì Việt Nam cũng đang sử dụng chế độ tỷ giá này). Theo chế độ tỷ giá này,
chính phủ sẽ neo đồng tiền của mình với một hay một rổ các đồng tiền tại một mức tỷ giá cố định,
đồng thời cho phép tỷ giá giao động trong biên độ hẹp tối đa là ± 1% xung quanh tỷ giá trung tâm .

Để làm được điều đó, ngân hàng trung ương các nước phải can thiệp trực tiếp vào thị trường thông
qua việc tung USD ra bán (khi giá trị USD so với nội tệ tăng quá cao) hoặc tung nội tệ ra mua USD vào
(khi giá trị USD so với nội tệ giảm quá thấp). Từ cuối những năm 60 đến đầu 70, việc phát hành USD liên
tục (để trang trải cán cân thanh toán) của Mỹ đã khiến đồng USD mất giá nghiêm trọng, NHTW các nước
phải liên tục tung nội tệ ra để mua USD vào (có lúc Tây Đức đã phải tung 9 tỷ Mác để mua vào 3 tỷ USD),
thêm vào đó, các tay đầu cơ tiền tệ bắt đầu lao vào cuộc khiến lưu thông tiền tệ các nước trở nên rối loạn và
nguy cơ lạm phát trở nên căng thẳng cực độ.
d, Ảnh hưởng cán cân thanh toán lên tỷ giá

Trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính phủ phải đảm bảo cho cán cân thanh
toán quốc tế luôn cân bằng. Nếu như tổng tài khoản vãng lai và tài khoản vốn không bằng
không, chính phủ sẽ can thiệp trên thị trường ngoại hối bằng cách mua hoặc bán lượng dự
trữ ngoại hối.
Khi cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, có nghĩa là có một sự thặng dư đối với cầu
đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối, tức là cung ngoại hối lớn hơn cầu ngoại hối. Thị
trường đang dư thừa ngoại tệ cho nên đồng nội tệ sẽ tăng giá. Điều này làm cho tỷ giá hối
đoái có xu hướng giảm. Tuy nhiên, để giữ vững chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính phủ
sẽ can thiệp trên thị trường ngoại hối bằng cách bán đồng nội tệ để mua đồng ngoại tệ hoặc
vàng và từ đó sẽ đưa cán cân thanh toán trở lại vị trí cân bằng.

16


Ngược lại, khi cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, nghĩa là cung đồng nội tệ vượt
quá nhu cầu thị trường, tức là cầu ngoại hối lớn hơn cung ngoại hối. Thị trường đang thiếu
hụt ngoại tệ cho nên đồng nội tệ sẽ giảm giá. Điều này làm cho tỷ giá hối đoái có xu hướng
tăng. Tuy nhiên, để giữ vững chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính phủ sẽ can thiệp lên thị
trường ngoại hối bằng cách bán dự trữ ngoại hối để mua lại lượng nội tệ vượt quá và từ đó
sẽ đưa cán cân thanh toán trở lại vị trí cân bằng. Qua đó ta thấy được tầm quan trọng của
việc chính phủ luôn nắm giữ một lượng ngoại hối cần thiết để sẵn sang can thiệp kịp thời

và đảm bảo can thiệp có hiệu quả. Nếu một quốc gia bị thiếu hụt dự trữ ngoại hối thì trong
trường hợp này sẽ không thể mua lại lượng nội tệ vượt quá và khi đó buộc lòng phải chấp
nhận để đồng nội tệ giảm giá.
Dựa trên lập luận đó, các nhà quản trị và nhà đầu tư có thể sử dụng cán cân thanh
toán quốc tế để dự báo sự tăng hay giảm giá của đồng nội tệ cũng như những thay đổi của
tỷ giá hối đoái chính thức bởi ngân hàng nhà nước. Nếu quốc gia sử dụng chế độ tỷ giá hối
đoái cố định có thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế lớn lại đi kèm với một lượng dự trữ
ngoại hối yếu kém sẽ rất dễ bị các nhà đầu cơ tấn công và rơi vào khủng hoảng tiền tệ. Vì
vậy mà khủng hoảng tiền tệ còn được gọi là khủng hoảng cán cân thanh toán quốc tế.
2.2 Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
a, Đặc điểm:
Sau thất bại của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods, vào tháng 7/1976, tại hội nghị
Jamaica, các thành viên của IMF đã thống nhất đưa ra những quy định mới cho hệ thống tiền tệ
quốc tế. Đó là "tỷ giá linh hoạt" hay "tỷ giá thả nổi" được các thành viên IMF chấp nhận. Theo
chế độ mới, tỷ giá được xác định và vận động một cách tự do theo quy luật thị trường mà cụ thể
là quy luật cung - cầu ngoại tệ. NHTW các nước không có bất kỳ một tuyên bố hay cam kết nào
về chỉ đạo, điều hành tỷ giá.Giá của một đồng tiền nội tệ đối với một đồng ngoại tệ được xác
định tại điểm mà cung ngang bằng cầu. Khi xuất khẩu tăng hoặc luồng vốn đầu tư nước ngoài
tăng sẽ làm tăng cung ngoại tệ, đồng tiền ngoại tệ giảm giá và ngược lại.
b,
-

Ưu

điểm:

Chế độ tỷ giá hối đoái này đảm bảo cán cân thanh toán, đảm bảo chính sách tiền tệ, làm

cho nền kinh tế trở nên độc lập, góp phần ổn định kinh tế, ổn định thị trường. Các nước đã áp
dụng là Mỹ, Anh....


17


-

Duy trì sự ổn định chung của thế giới, ngăn cản sự lây lan của các”căn bệnh” kinh tế như

thất nghiệp, lạm phát…
-

Giảm

-

Nâng

bớt
cao

áp
hiệu

quả

của

c,
-


lực

cho

thị

trường

NHTW.
tài

chính.

Nhược

điểm:

Đặt ra những rủi ro khó lường trước cho việc quản lý nguồn vốn và hoạt động xuất nhập

khẩu.
-

Khi xảy ra những biến động về cung cầu của các đồng tiền thì các đồng tiền sẽ có xu hướng

tăng hoặc giảm giá một cách tự động.
-

Không

kiểm


soát

được

hiện

tượng

dollar

hóa

nền

kinh

tế.

-

Neo danh nghĩa cho chính sách tiền tề thì thế chính sách tiền tệ sẽ mất đi tính độc lập.

-

Gia tăng khả năng rủi ro trong hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế.

-

Làm suy yếu chủ quyền tiền tệ quốc gia và trong nhiều trường hợp khó tranh khỏi các cuộc


tấn công, việc đầu cơ tiền tệ, gây nên những cú sốc lớn về tỷ giá mà NHTW khó có thể đủ mạnh để
can thiệp.
Những nước có thị trường ngoại hối tương đối hoàn chỉnh thường áp dụng hệ thống tỷ giá
hối đoái thả nổi tự do.
Ví dụ: Cuộc thả nổi tỷ giá cũng đã xảy ra tại Thái Lan vào ngày 2/7/1997, xảy ra tại
Philippine ngày 11/7/1997, khác với cuộc thả nổi của Nhật và các nước Châu Âu, khiến USD mắc
phải ngày càng trầm trọng, cuộc thả nổi ở Thái Lan và Philippine ngược lại làm cho đồng USD lên
giá quá cao, khiến cho hệ thống tiền tệ nội địa của những nước đó bị rối loạn và khủng hoảng
nghiêm trọng.
d, Ảnh hưởng cán cân thanh toán lên tỷ giá

Khi tổng tài khoản vãng lai và tài khoản vốn không bằng không sẽ tự động gây ra
tác động điều chỉnh lên tỷ giá hối đoái theo hướng làm cho cán cân thanh toán quốc tế trở
lại bằng không.
Khi cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, có nghĩa là có một sự thặng dư đối với cầu
đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối, tức là cung ngoại hối lớn hơn cầu ngoại hối. Điều này
làm cho tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm và cán cân thanh toán quốc tế trở lại cân bằng.
18


Ngược lại, khi cán cân thanh toán quốc tế thiếu hụt, nghĩa là cung đồng nội tệ vượt
quá nhu cầu thị trường, tức là cầu ngoại hối lớn hơn cung ngoại hối. Điều này làm cho tỷ
giá hối đoái có xu hướng tăng và cán cân thanh toán quốc tế trở lại cân bằng.
2.3 Hệ thống tỷ giá hối đoái hỗn hợp pha trộn giữa cố định và thả nổi

Đây là chế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ cố định và thả nổi. Ở đó, tỷ giá
được xác định và hoạt động theo quy luật thị trường, chính phủ chỉ can thiệp khi có những biến
động mạnh vượt quá mức độ cho phép hoặc khi thị trường trở nên mất trật tự. Loại tỷ giá hối đoái
này hiện đang được áp dụng tại các nước Tư Bản Chủ Nghĩa, nơi mà lạm phát thấp, các thị trường

phát triển ở trình độ cao.
Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tốt hơn, nhưng trong thực tế không có
một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố
định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái
cố định tương đối khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở
nên vô hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố
định. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ can
thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường.

2.3.1Hệ thống dải băng tỷ giá (ERM)
a, Đặc điểm:
tỷ
-

Hệ thống dải băng tỷ giá (ERM) được dựa trên khái niệm về biên độ tỷ giá hối đoái cố định nhưng
giá

thì

được

biến

động

trong

những

biên


độ

này.

Trước khi đồng EURO ra đời tỷ giá được xác định dựa trên cơ sở đồng ECU (một đơn vị đo lường

của châu Âu) có giá trị được xác định dựa trên trọng số của đồng tiền các nước thành viên
-

Đường giới hạn của tỷ giá song phương được tính toán dựa trên cơ sở của tỷ giá hối đoái trung tâm

theo đồng ECU và các đồng tiền được dao động trong biên độ là 2.25% so với giới hạn dưới và trên (riêng
nước Anh và Ý là 6%).
b, Ưu điểm:
19


c,


Nhược
dụ:

Sự

ra

đời


hệ

thống

tỷ

giá

điểm:
Châu

Âu

–ERM

(dải

băng

tỷ

giá)

Vào 13/3/1979, Hệ thống tỷ giá Châu Âu (ERM) được thành lập, hầu hết các đồng tiền của EU bị
buộc vào nhau theo Cơ chế Tỷ giá Hối đoái (Exchange Rate Mechanism – ERM) của Hệ thống Tiền tệ
Châu Âu (European Monetary System). Hệ thống tỷ giá song phương giữa các đồng tiền thành viên được
dao

động


trong

một

biên

độ

nhất

định

(2.25%).

Riêng

nước

Anh



Ý



6%.

Mặc dù đã gia nhập Cộng đồng kinh tế Âu Châu (ECC) từ tháng 4/1970 và đã kí hiệp định EMS nhưng
nước Anh lại quyết định không tham gia hệ thống tỷ giá hối đoái của ECC. Theo thể thức EMS, tỷ giá hối

đoái của các nước thành viên được duy trì trong các giới hạn cụ thể và cũng ràng buộc với đơn vị tiền tệ
Châu Âu và các đồng tiền của các nước thành viên này đều được neo theo đồng Mark Đức đồng thời có thể
dao động không quá 2.25% (trừ Ý là 6%). Nhưng đến tháng 10/1990, Anh quyết định gia nhập ERM cùng
với sự đảm bảo của Chính Phủ là sẽ theo đuổi một chính sách kinh tế và tiền tệ sao cho có thể phòng ngừa
được những biến động về tỷ giá giữa đồng Bảng và đồng tiền của các nước khác thuộc ERM trong một biên
độ giao động tỷ giá là 6%. Lúc này, đồng Pound được neo ở mức 1GBP= 2.95DEM

2.3.2

Hệ

thống

tỷ

giá

con

rắn

tiền

tệ

a, Đặc điểm:
Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ còn được gọi là neo tỷ giá có điều chỉnh hay là các ngang
giá trượt.
Trong hệ thống này một quốc gia ấn định một ngang giá cho đồng tiền của mình và cho
phép một thay đổi nhỏ xoay quanh ngang giá, chẳng hạn cộng trừ 1% so với ngang giá. Trong hệ

thống này các giá trị danh nghĩa sẽ được thay đổi với số lượng nhỏ và thường là có thông báo
trước với khoảng thời gian thật cụ thể, chẳng hạn như mỗi tháng một lần cho đến khi nào đạt đến
tỷ giá cân bằng. Trong hệ thống này, thay vì một quốc gia phá giá duy nhất một lần 6% trong 3
tháng

thì

quốc

gia



thể

phá

giá

2%

mỗi

lần

trong

3

tháng


liên

tục.

Các ngang giá này sẽ được điều chỉnh dần với một số lượng nhỏ tuân theo những chỉ dẫn
trong hành vi các biến số của nền kinh tế, như vị thế dự trữ ngoại hối quốc gia, những thay đổi gần
đây trong cung tiền hoặc giá cả, hoặc những thay đổi gần đây của tỷ giá xoay quanh ngang giá.Khi
những biến số này tạo những sức ép tiềm ẩn lên quốc gia chẳng hạn như dự trữ ngoại hối quốc gia
suy yếu, giá trị ngang giá của đồng tiền sẽ được phá giá một cách chính thức với một tỷ lệ phần
trăm nhỏ. Tất nhiên khi giá trị ngang giá thay đổi thì biên độ 1% sẽ áp dụng chọn ngang giá mới .
b,

Ưu

điểm:
20


Để ngăn chặn đầu cơ gây mất ổn định trong tỷ giá hối đoái . Chính phủ có thể điều chỉnh
lãi suất ngắn hạn để cách ly bất kỳ khoản lợi nhuận nào có thể có do những thay đổi trong tỷ giá đã
thông báo trước, hoặc những đầu cơ có thể dự đoán được từ bản chất của hệ thống tỷ giá. Chẳng
hạn thông báo phá giá tiền 2% phải đi kèm 2% tăng lên trong lãi suất ngắn hạn, mặc dù điều này


thể

ảnh

hướng


đến

việc

điều

hành

chính

sách

tiền

tệ

của

chính

phủ.

Những người ủng hộ hệ thống con rắn tiền tệ cho rằng ít nhất về mặt lý thuyết sự hiện hữu
của mức trần và sàn tỷ giá có thể tạo ra tính kỷ luật trong chính sách tiền tệ. Ngoài ra, tỷ giá thay
đổi một cách định kỳ cũng có nghĩa là vai trò của chính sách tỷ giá đối với việc điều chỉnh cán cân
thanh toán sẽ được duy trì. Cuối cùng, bởi vì chỉ có mỗi thay đổi với tỷ lệ nhỏ cho nên ít có nguy
cơ tiền tệ. Vào tháng 09/1996 Chile và Nicaragua đã áp dụng thành công chế độ tỷ giá con rắn tiền
tệ.
c,

-

Nhược

điểm:

Những tranh luận chống lại hệ thống này là sự thay đổi lớn trong vị thế cán cân thanh toán

của một quốc gia do các cú sốc bên trong và bên ngoài, cần có một thay đổi lớn để tái lập thế cân
bằng của cán cân thanh toán. Nếu cứ duy trì liên tục hệ thống con rắn một cách nghiêm ngặt, thì
quốc gia đó có thể hi sinh các mục tiêu bên trong như công ăn việc làm, sức cạnh tranh hàng xuất
khẩu…. Ngoài ra, nếu những thay đổi ngang giá nhỏ xảy ra định kỳ, và nếu như không dự đoán
được sẽ làm phát sinh thêm những rủi ro trong đầu tư thương mại quốc tế. Cuối cùng trong điều
kiện kinh tế không ổn định và có lạm phát cao thì hệ thống này có thể chuyển sang giống như hệ
thống tỷ giá thả nổi.
Ví dụ: Để minh họa việc một đồng tiền có giá trị neo theo đồng dollar có thể chịu tác đông
thế nào từ biến động của một tỷ giá hối đoái khác, hãy xem một thế giới gồm ba quốc gia:


Mỹ



Một quốc gia được gọi là FLOAT (tỷ giá thả nổi) có đồng tiền giá trị giao động so với đồng

dollar.


Một quốc gia được gọi là PEG (neo tỷ giá ) có đồng tiền được định giá theo đồng dollar.
Giả dụ rằng đồng tiền của FLOAT có giá trị hiện tại là 0.50$ trong khi đồng tiền của PEG


có giá trị hiện tại là $1.20. Điều này có nghĩa là tỷ giá chéo giữa tiền FLOAT và PEG là 2.4 đơn vị
tiền tệ của FLOAT bằng đơn vị tiền tệ của PEG (tính bằng cách chia $1.2 cho $0.50). Giả dụ rằng
mỗi nước mua bán với hai nước kia và một số sản phẩm mua bán cũng được sản xuất ờ các nước
21


kia. Bây giờ giả dụ trong vòng 6 tháng tới .đồng tiền của FLOAT giảm giá so với đồng dollar và
chỉ bằng $0.4 vào cuối giao đoạn 6 tháng này.Hậu quả rõ ràng nhất sẽ là gia tăng nhu cầu sản phẩm
của Mỹ ,do các sản phảm này sẽ cao hơn đối với các công ty và người tiêu dùng ở FLOAT .Tuy
nhiên

,vị

thế

mậu

dịch

của

PEG

cũng

sẽ

bị


ảnh

hưởng

như

sau

:

Khi đồng tiền của FLOAT giảm giá so với đồng dollar, nó cũng giảm giá theo với đồng tiền của
PEG, vì giá trị của đồng tiền PEG được neo tỷ theo đồng dollar. Trong ví dụ này, tỷ giá chéo có thể
thay đổi đến mức 3 đơn vị tiền của FLOAT bằng 1 đơn vị tiền của PEG ( tính bằng cách chia $ 1,2
cho $0.4). Điều này sẽ làm cho người tiêu dùng và các công ty của FLOAT giảm mức cầu sản
phẩm của PEG, và người tiêu dùng và các công ty của PEG tăng mức cầu sản phẩm của FLOAT.
Mặc dù giá trị đồng tiền của PEG tương tự với đồng dollar Mỹ không thay đổi, buôn bán
giữa Mỹ và PEG sẽ bị ảnh hường.Vì người tiêu dùng và các công ty Mỹ cỏ thể mua các sản phẩm
của FLOAT với giá rẻ hơn, họ sẽ nhập hàng của FLOAT thay vì của PEG: ngoài ra, người tiêu
dùng và các công ty của PEG cũng sẽ nhập hàng của FLOAT thay vì của Mỹ do giá họ trả cho
hàng

của

FLOAT

giảm.

Nói chung, sự giảm giá của đồng tiền của FLOAT so với đồng dollar (và do đó với đồng
tiền của PEG) tạo nên gia tăng trong xuất khẩu của FLOAT đối với hàng hóa nhập khẩu từ hai
nước kia. Hơn nữa, khối lượng mậu dịch giữa Mỹ và PEG cũng giảm: nền kinh tế của FLOAT

được

thúc

đẩy

nhờ

các

hoạt

động

này.

Mức độ của các tác đông này phụ thuộc vào các nhà xuất và nhập khẩu đáp ứng thế nào đối
với những thay đổi trong sức mua. Nếu các công ty xuất khẩu ở Mỹ và PEG giảm giá hàng hóa của
họ đề bù cho sự tăng giá đồng tiền của họ so với đồng tiền của FLOAT, khối lượng xuất khẩu của
FLOAT sẽ không bị ảnh hưởng nhiều, nghĩa là sẽ không tăng thêm đáng kể. Ngoài ra, nếu không
có sẵn các hàng hóa thay thế với giá cả hợp lý,nhu cầu của nước ngoài đối với sản phẩm của mỗi
nước

sẽ

không

bị

tác


động

nhiều

do

các

biến

động

tỷ

giá.

Giá trị của lý thuyết này có thế được củng cố bằng một ví dụ thực tế. Do đồng won của Hàn
Quốc được cố định chủ yếu theo đồng dollar, trong khi đồng yên của nhật thá nổi so với đồng
dollar, đã có các điều chỉnh quan trọng trong suốt thời gian dollar giảm giá trong năm 1986. Các
sản phẩm của Nhật trở nên đắt hơn so đối với các nhà nhập khẩu của Mỹ ( trừ khi các công ty Nhật
giảm giá để bù lại phần giảm giá cùa đồng dollar). Kết quả là một vài nhà nhập khẩu Mỹ đã
chuyển sang nhập khẩu xe hơi , thép và đầu máy video cassette của Hàn Quốc.Hàn Quốc có thể
chịu tác động ngược lại trong suốt thời gian đồng dollar tăng giá. Một vài nhà nhập khẩu Mỹ có
22


thể chuyển trở lại nhập hàng của Nhật khi đồng dollar mạnh hơn, do sức mua hàng nhập từ nhật sẽ
tăng.
Một đồng tiền hợp nhất sẽ khuyến khích gia tăng mậu dịch giữa các nước, vì sẽ loại trừ

được rủi ro tỷ giá hối đoái và cũng sẽ giúp giảm bớt các chi phí giao dịch ngoại hối. Tuy nhiên, có
một vài hàng rào chính cản trở việc thực thi 1 đồng tiền duy nhất. Các đồng tiền sẽ được chuyển
sang đồng tiền duy nhất này theo tỷ giá nào? Rất khó đạt được sự thỏa thuận, việc thiếu một cơ chế
tỷ giá hối đoái có thể gây nên các bất cân đối mậu dịch lớn hơn giữa các nước.
Một hướng khác sẽ là để mỗi nước tiếp tục sữ dụng đồng nội tệ của họ cho các giao dịch
trong nước, nhưng sử dụng một đơn vị tính toán chung giống như là đơn vị tiền tệ Châu Âu như
đồng ECU trước đây với phượng pháp này, số lượng một đồng nội tệ có thể chuyển đổi sang đồng
tiền tính toán chung sẽ giao động trong vòng các biên độ giới hạn.Và như vậy phương pháp này sẽ
không loại trừ được rùi ro tỷ giá hối đoái.
2.3.3 Chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ
a, Đặc điểm:
Thuật ngữ chuẩn tiền tệ được sử dụng để nói lên sự tương phản với tiền pháp định là loại
tiền giấy không đổi được ra vàng hoặc bạc. nếu hiểu theo nghĩa khác của currency board trong
tiếng Anh thì việc phát hành tiền không còn là chức năng của NHTW mà phụ thuộc vào một ''hội
đồng'' điều hành theo luật định. Các nước áp dụng chế độ này chủ yếu là các nước thuộc địa của
Anh.
Các quốc gia đã áp dụng: Achentina, Hồng Kông, Estonia, Bugari và Lithuania.
Cơ chế vận hành: chính phủ hoặc NHTW ấn định một tỷ giá cố định giữa đồng nội tệ và ngoại tệ
thường là một đồng tiền mạnh và sẵn sàng chuyển đổi đồng nội tệ sang ngoại tệ vào bất cứ lúc nào
khi công chúng yêu cầu. Trong hệ thống này cơ quan quản lý tiền tệ không cho phép dùng quyền
hạn của mình để tài trợ và bảo lãnh tín dụng cho khu vực tư nhân và khu vực công, do đó những
mất cân đối trong chính sách tài khóa không thể được tài trợ thông qua thuế lạm phát bằng cách
phát

hành

thêm

tiền.


Trong một chuẩn tiền tệ, NHTW hầu như không còn chức năng phát hành các loại chứng
khoán nợ nếu như không có dự trữ ngoại tệ tăng thêm. Vai trò chủ yếu của NHTW trong trường
hợp này giống như là một máy bán hàng tự động nghĩa là chỉ có thể phát hành tiền nếu như loại bỏ
23


thêm tiền khác vào.Chúng ta có thể nói rằng trong một chuẩn tiền tệ, NHTW tuy rằng tồn tại
nhưng

không

hiện

hữu

đúng

b,
-

năng

của

chế
Đảm

độ
bảo


+

tỷ

sự

ổn

Ổn
Hoạt

+

điểm:

Tạo

tính

định

về

định

động

Tăng

giá


kinh

tính
kỷ

doanh

hợp

tỷ

giá

định
trong

kinh


tác

luật

cố

đầu

trong
cho


một

thời

tế



nước

thương

các

như

chính


ngoài

mại

gian

giữa

sách


:
dài.
mô.

được

thúc

đẩy.

các

quốc

gia.



mô.

kinh

tế

Ngoài
-

nó.

Chế độ tỷ giá chuẩn tiển tệ vận hành như chế độ tỷ giá cố định nên cũng có những ưu điểm


+

+

chức

Ưu

của

+

với

ra:
Chế độ tỷ giá “chuẩn tiền tệ” quy định: cấm không cho phép ngân hàng trung ương phát

hành các khoản nợ - tiền có quyền lực cao (high-power money) - nếu như không được bảo đảm hỗ
trợ 100% bằng lượng dự trữ ngoại tệ tương đương. Hệ thống này chỉ cho phép ngân hàng trung
ương phát hành thêm một lượng tiền tương ứng với lượng ngoại tệ vừa mới bổ sung. Do đó, giá trị
đồng

tiền

luôn

được

bảo


đảm



đồng

thời

cũng

giúp

kiềm

chế

lạm

phát.

-

Có độ tin cậy cao hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì chế độ tỷ giá cố định có khả năng không

được duy trì và đồng nội tệ có thể bị phá giá còn “chuẩn tiền tệ” thì nó luôn giữ đúng tỷ giá trao
đổi

đã


được

c,
-

ấn
Nhược

định

trước

đó.
điểm

Mất đi sự tự chủ trong chính sách tiền tệ.Một chuẩn tiền tệ sẽ không cho phép quốc gia đó

kiểm soát chính sách lãi suất của mình bởi vì lãi suất đồng nội tệ phải gắn chặt với với lãi suất
ngoại
-

tệ.
Giá phải trả cho việc bảo vệ chuẩn tiền tệ rất đắt nếu như các nhà đầu cơ hoài nghi về việc

chính phủ sẽ không có khả năng hoặc không đủ sức can thiệp để giữ tỷ giá cố định. Trong trường
hợp nay, các nhà đầu cơ sẽ thực hiện vị thế ngoại hối có lợi để tạo ra lợi nhuận.
-

Chuẩn tiền tệ co khuynh hướng khuyến khích các nhà đầu tư trong nước kinh doanh quốc


tế không thực hiện vị thế phòng ngừa rủi ro tỷ giá và các định chế tài chính trong nước có thói
quen trở nên '' nghiện ngoại tệ' thông qua hội chứng vay nợ nước ngoài quá mức nhu cuộc khủng
hoản tài chính năm 1997 ở Thái Lan.
24


2.3.4

Tỷ

giá

thả

nổi



điều

tiết

a, Đặc điểm:
Là chế độ tỷ giá trong đó có sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường hối đoái thông qua
việc mua bán các đồng tiền để can thiệp vào mức cung và cầu tiền tệ. Qua đó, một tỷ giá hối đoái
được hình thành và phản ánh được phần nào quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối,
đồng thời thỏa mãn được các mục tiêu phát triển của nền kinh tế quốc gia trong từng thời kỳ nhất
định.
Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tốt hơn, nhưng trong thực tế không có
một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố

định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái
cố định tương đối khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở
nên vô hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố
định. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ can
thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường. Đó là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết.
Cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai chế độ thả nổi


cố
b,

-

định.
Ưu

điểm:

Tỷ giá thả nổi có quản lý phần nào khắc phục được những nhược điểm của chế độ tỷ giá

thả nổi hoàn toàn nhờ có sự can thiệp đúng mức và kịp thời của NHNN sẽ giúp cho thị trường
ngoại hối trong nước bị ảnh hưởng và biến động ít hơn trước những cú sốc của nền kinh tế. Mức
độ can thiệp lên tỷ giá bởi NHTW là rất khác nhau ,từ can thiệp tùy ý để ảnh hưởng lên tỷ giá thả
nổi cho đến can thiệp thường xuyên có tính bắt buộc để duy trì tỷ giá cố định.
-

Cơ chế can thiệp vào tỷ giá thả nổi này sẽ phát huy được vai trò của công cụ giá trong nền

kinh tế, không thể để tỷ giá bị trôi nổi trước những hoạt động đầu cơ ngoại tệ, mà thực sự biến nó
thành công cụ khuyến khích các hoạt động xuất khẩu, ngăn cấm nhập khẩu… cải thiện cán cân

thương

mại.
c,

-

Nhược

điểm:

Các nước đang phát triển còn thiếu kinh nghiệm điều tiết thị trường, nền kinh tế còn chưa

đủ mạnh để có thể đứng vững trước các biến động lớn trên thị trường thế giới thì phải thường
xuyên theo dõi và chủ động can thiệp vào thị trường ngoại hối để đảm bảo đạt được một mức tỷ
25


×