Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Các tình huống đấu thầu mới nhất năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.45 KB, 24 trang )

TÌNH HUỐNG TRONG ĐẤU THẦU THÁNG 3 NĂM 2017
(nguồn của các nội dung dưới đây được lấy từ Báo Đấu thầu)
1. Đề xuất nhân sự chủ chốt giống nhau trong 2 hồ sơ dự thầu
Hỏi: Dự án xây lắp A thuộc ngành nông nghiệp, cần hoàn thành trong năm. Các
hạng mục công việc được thực hiện rải rác trong phạm vi địa lý rộng nên để bảo
đảm việc hoàn thành trong năm, chủ đầu tư đã tiến hành chia dự án làm 2 gói thầu.
Các gói thầu có nội dung, quy mô, tính chất như nhau và thời gian phải hoàn thành
là giống nhau.
Nhà thầu X tham dự cả 02 gói thầu thuộc dự án nêu trên. Khi đánh giá hồ sơ dự
thầu (HSDT) của nhà thầu, tổ chuyên gia nhận thấy trong cả 02 HSDT, các nhân sự
chủ chốt mà nhà thầu đề xuất đều giống nhau. Tuy nhiên, nếu nhà thầu trúng thầu
cả 02 gói thì khó có thể bố trí nhân sự, từ đó không bảo đảm tiến độ dự án.
Trong trường hợp này, tổ chuyên gia cần xem xét HSDT của nhà thầu X như thế
nào?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại các Mẫu hồ sơ mời thầu (HSMT) xây lắp ban hành
kèm Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
nhà thầu phải đề xuất một số vị trí nhân sự chủ chốt tham gia thực hiện gói thầu
theo yêu cầu của HSMT. Theo đó, nhà thầu phải kê khai những nhân sự chủ chốt có
năng lực phù hợp, đáp ứng các yêu cầu quy định tại HSMT và có thể sẵn sàng huy
động cho gói thầu; không được kê khai những nhân sự đã huy động cho gói thầu
khác có thời gian làm việc trùng với thời gian thực hiện gói thầu này. Trường hợp
kê khai không trung thực thì nhà thầu sẽ bị đánh giá là gian lận.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu
chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong HSMT, căn cứ vào HSDT đã nộp,
các tài liệu giải thích, làm rõ HSDT của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà
thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Đối với các gói thầu trên, việc đánh giá HSDT (trong đó có nội dung nhân sự chủ
chốt) vẫn thực hiện theo tiêu chuẩn đánh giá quy định trong HSMT. Trường hợp
nhà thầu được xếp hạng thứ nhất trong cả hai gói thầu với đề xuất về nhân sự chủ
chốt giống nhau, trong quá trình thương thảo hợp đồng, bên mời thầu cần yêu cầu
nhà thầu làm rõ về khả năng huy động nhân sự cùng lúc thực hiện cả hai gói thầu.


Theo đó:
- Nếu thời gian làm việc của từng nhân sự chủ chốt cho các gói thầu không trùng
lặp, bảo đảm việc huy động đầy đủ nhân sự chủ chốt để thực hiện cả hai gói thầu
theo tiến độ thì nhà thầu được đề xuất trúng thầu các gói thầu này;
1


- Nếu thời gian làm việc của từng nhân sự chủ chốt cho các gói thầu có sự trùng
lặp, dẫn tới không huy động được đầy đủ nhân sự chủ chốt để thực hiện các gói
thầu theo tiến độ thì nhà thầu được lựa chọn trúng thầu một trong hai gói thầu.
Nhìn chung, khi tham dự thầu, các nhà thầu thường kê khai các nhân sự đáp ứng tốt
nhất HSMT nhằm được trúng thầu. Trong tình huống trên, do 02 gói thầu có nội
dung, quy mô, tính chất giống nhau nên việc đề xuất nhân sự giống nhau là dễ hiểu
và không vi phạm nguyên tắc kê khai nhân sự đã đề cập. Tuy nhiên, đối với mọi gói
thầu thì việc đánh giá tính đáp ứng của nhân sự mới chỉ là bước đầu, điều quan
trọng là cần làm rõ khả năng huy động nhân sự đó trong bước thương thảo hợp
đồng (nếu nhà thầu được xếp hạng thứ nhất). Thêm nữa, để bảo đảm tiến độ, chất
lượng gói thầu thì việc giám sát tình hình huy động của các nhân sự chủ chốt mà
nhà thầu đề cập trước đây cũng rất quan trọng.
2. Nhà thầu phụ và chuyển nhượng thầu
Hỏi: Trường hợp nêu trên có phải là hành vi chuyển nhượng thầu?
Sau đó, nhà thầu X và nhà thầu Y nêu trên lại sử dụng hợp đồng thực hiện Gói thầu
số 1 của dự án A để làm hợp đồng tương tự khi tham gia dự thầu một gói thầu khác.
Trong trường hợp này, chủ đầu tư phải đánh giá 2 hợp đồng của 2 nhà thầu này như
thế nào?
Trả lời: Trường hợp bạn Hoàng Long nêu trên đây liên quan đến nhà thầu chính và
nhà thầu phụ. Do đó, trước hết phải làm rõ khái niệm nhà thầu chính và nhà thầu
phụ. Theo quy định tại Khoản 35 Điều 4 Luật Đấu thầu 2013, nhà thầu chính là nhà
thầu chịu trách nhiệm tham dự thầu, đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện hợp
đồng nếu được lựa chọn.

Khoản 36 Điều 4 Luật Đấu thầu 2013 quy định nhà thầu phụ là nhà thầu tham gia
thực hiện gói thầu theo hợp đồng được ký với nhà thầu chính. Theo câu hỏi của bạn
thì nhà thầu X là nhà thầu chính.
Hiện nay pháp luật về đấu thầu không quy định một mức tỷ lệ cụ thể về việc tham
gia thực hiện hợp đồng giữa nhà thầu phụ và nhà thầu chính; tỷ lệ này có thể quy
định theo các pháp luật liên quan (nếu có). Trường hợp pháp luật liên quan không
quy định thì sẽ do chủ đầu tư tự quyết định.
Trường hợp khi tham gia dự thầu nhà thầu chính được phép sử dụng nhà thầu phụ
theo một tỷ lệ nhất định quy định trong hồ sơ mời thầu thì nhà thầu phụ này phải
được nêu tên, giá trị thực hiện trong hồ sơ dự thầu. Chủ đầu tư phê duyệt kết quả
lựa chọn nhà thầu cho nhà thầu chính X được hiểu là đã chấp thuận nhà thầu phụ
thực hiện gói thầu này. Ngoài ra, nhà thầu chính X được phép sử dụng nhà thầu phụ
khác (gọi là nhà thầu phụ Z) ngoài nhà thầu phụ đã kê khai và phải được chủ đầu tư
2


chấp thuận. Giá trị phần công việc dành cho nhà thầu phụ Z này phải đảm bảo
không quá 10% (hoặc không quá 50 tỷ đồng) giá trị sau khi trừ phần công việc
thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ đã kê khai trong hồ sơ dự thầu.
Đối chiếu quy định tại Điểm a Khoản 8 Điều 89 của Luật Đấu thầu 2013 về các
hành vi bị cấm trong đấu thầu, trường hợp nhà thầu chính không kê khai nhà thầu
phụ trong hồ sơ dự thầu, sau đó chuyển nhượng cho nhà thầu khác phần công việc
thuộc gói thầu có giá trị từ 10% trở lên hoặc dưới 10% nhưng trên 50 tỷ đồng (sau
khi trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ) tính trên giá trị hợp
đồng đã ký kết thì bị coi là vi phạm quy định của Luật (hành vi chuyển nhượng
thầu).
Sau khi thực hiện hợp đồng, nhà thầu chính và nhà thầu phụ được kê khai năng lực
khi tham gia dự thầu một gói thầu khác tùy và theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu mà
được đánh giá là đạt hay không đạt.
3. Hồ sơ dự thầu và bảo đảm dự thầu có hiệu lực bằng nhau

Hỏi: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu thầu, thời gian có hiệu lực của
bảo đảm dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu (HSMT), hồ sơ yêu cầu bằng
thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu (HSDT), hồ sơ đề xuất cộng thêm 30 ngày.
Như vậy, trường hợp nhà thầu chào hiệu lực bảo đảm dự thầu bằng hiệu lực HSDT
thì cần được xem xét như thế nào?
Tổ chuyên gia đang đánh giá HSDT một gói thầu thuộc dự án điện lực. HSMT quy
định HSDT của nhà thầu phải có hiệu lực tối thiểu 40 ngày kể từ ngày có thời điểm
đóng thầu (ngày 22/12/2016). Bảo đảm dự thầu của nhà thầu phải có hiệu lực
không ít hơn 70 ngày kể từ ngày 22/12/2016.
Trong HSDT nhà thầu ghi thời gian có hiệu lực của HSDT là 60 ngày kể từ ngày có
thời điểm đóng thầu. Bảo đảm dự thầu đính kèm HSDT của nhà thầu ghi thời gian
có hiệu lực của bảo đảm dự thầu là 70 ngày kể từ ngày 22/12/2016.
Trong trường hợp này, hiệu lực của HSDT và bảo đảm dự thầu có được coi là đáp
ứng yêu cầu của HSMT hay không?
Trả lời: Nội dung hiệu lực HSDT và bảo đảm dự thầu được quy định tại Khoản 42
Điều 4 và Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu thầu. Theo đó, thời gian có hiệu lực của
HSDT là số ngày được quy định trong HSMT và được tính kể từ ngày có thời điểm
đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong HSMT. Từ thời điểm
đóng thầu đến hết 24 giờ của ngày đóng thầu được tính là 01 ngày. Thời gian có
hiệu lực của bảo đảm dự thầu được quy định trong HSMT bằng thời gian có hiệu
lực của HSDT cộng thêm 30 ngày. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 Nghị định

3


số 63/2014/NĐ-CP, trường hợp hiệu lực của HSDT, hiệu lực của bảo đảm dự thầu
không đáp ứng yêu cầu của HSMT thì HSDT sẽ bị đánh giá là không hợp lệ.
Đối với tình huống trên, khi HSMT quy định thời gian có hiệu lực của HSDT tối
thiểu 40 ngày và thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu không ít hơn 70 ngày
kể từ ngày có thời điểm đóng thầu thì việc nhà thầu chào thời gian có hiệu lực của

HSDT 60 ngày và thời gian hiệu lực của bảo đảm dự thầu 70 ngày kể từ ngày có
thời điểm đóng thầu phải được đánh giá đáp ứng yêu cầu của HSMT về thời gian
có hiệu lực của HSDT và bảo đảm dự thầu.
Trở lại quy định tại Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu thầu, quy định này được hiểu là áp
dụng cho bên mời thầu, chủ đầu tư khi xây dựng HSMT. Chẳng hạn, khi đã quy
định hiệu lực HSDT là 40 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu thì cần quy định
hiệu lực của bảo đảm dự thầu là 70 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu. Các
yêu cầu về hiệu lực nêu trong HSMT sẽ được đem ra đối chiếu khi đánh giá HSDT;
theo đó, hiệu lực HSDT, bảo đảm dự thầu được coi là đáp ứng yêu cầu nếu không
ngắn hơn quy định ghi trong HSMT mà không xét đến việc cái này phải dài hơn cái
khác 30 ngày.
4. Nhà thầu nộp cam kết tín dụng có điều kiện của ngân hàng
Hỏi: Sở Y tế tỉnh X đang tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu mua sắm hàng hóa
thuộc dự án xây dựng một bệnh viện đa khoa huyện. Trong tiêu chí yêu cầu về
nguồn lực tài chính cho gói thầu, hồ sơ mời thầu (HSMT) có quy định nhà thầu
phải chứng minh khả năng tài chính cho gói thầu với số tiền 5,5 tỷ đồng và một
trong các cách chứng minh là nộp cam kết tín dụng của ngân hàng, tổ chức tín dụng
hợp pháp.
Nhà thầu A tham dự thầu gói thầu nêu trên và chứng minh nguồn lực tài chính của
mình bằng cam kết tín dụng từ ngân hàng và hạn mức tín dụng đúng bằng số tiền
yêu cầu trong HSMT. Tuy nhiên, cam kết tín dụng có ghi nội dung sau: Ngân hàng
cam kết cấp tín dụng nếu nhà thầu đáp ứng đầy đủ các điều kiện về cấp tín dụng
theo quy định của pháp luật và quy định của ngân hàng.
Trong trường hợp này, cam kết tín dụng mà nhà thầu đã nộp có được coi là hợp lệ
hay không?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Mục 2.1 Chương III Mẫu HSMT gói thầu mua sắm
hàng hóa một giai đoạn một túi hồ sơ ban hành kèm Thông tư số 05/2015/TTBKHĐT ngày 16/6/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khi tham dự thầu, nhà thầu
phải chứng minh có các tài sản có khả năng thanh khoản cao hoặc có khả năng tiếp
cận với tài sản có khả năng thanh khoản cao sẵn có, các khoản tín dụng hoặc các
nguồn tài chính khác (không kể các khoản tạm ứng thanh toán theo hợp đồng) để

4


đáp ứng yêu cầu về nguồn lực tài chính thực hiện gói thầu theo quy định của
HSMT.
Theo hướng dẫn tại Mẫu số 15 mẫu HSMT nêu trên, trường hợp trong hồ sơ dự
thầu nhà thầu có nộp kèm theo bản cam kết tín dụng của tổ chức tín dụng hoạt động
hợp pháp tại Việt Nam, trong đó cam kết sẽ cung cấp tín dụng cho nhà thầu để thực
hiện gói thầu đang xét với hạn mức tối thiểu bằng giá trị yêu cầu quy định tại tiêu
chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng thì nhà thầu
được đánh giá là đáp ứng yêu cầu về nguồn lực tài chính cho gói thầu.
Đối với trường hợp trên, khi tham dự thầu, nếu nhà thầu cung cấp cam kết tín dụng
của tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam với giá trị đáp ứng yêu cầu
của HSMT thì được đánh giá là đạt đối với nội dung này. Một thực tế hiển nhiên là
việc thực hiện cam kết tín dụng của ngân hàng cho nhà thầu phải tuân thủ theo quy
định của pháp luật về tín dụng, trong đó có sự ràng buộc và điều kiện giữa hai bên.
Do vậy, trên thực tế thì các ngân hàng sẽ không cấp cam kết tín dụng vô điều kiện
cho nhà thầu nộp cùng với hồ sơ dự thầu.
5. Nêu nhãn hiệu hàng hóa trong chào hàng cạnh tranh
Hỏi: Bên mời thầu là đơn vị X đang thực hiện gói thầu mua sắm hàng hóa theo
hình thức chào hàng cạnh tranh. Khi lập hồ sơ yêu cầu, đơn vị X dự kiến quy định
rõ xuất xứ, nhãn hiệu và mô tả chi tiết đặc tính kỹ thuật, thiết kế công nghệ, tiêu
chuẩn công nghệ của hàng hóa để các nhà thầu làm cơ sở chào giá trong hồ sơ đề
xuất.
Việc quy định cụ thể xuất xứ, nhãn hiệu hàng hóa trong hồ sơ yêu cầu chào hàng
cạnh tranh có phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu hay không?
Trả lời: Luật Đấu thầu (Điều 89 Khoản 6 Điểm i) quy định một trong các hành vi
bị cấm trong đấu thầu là nêu yêu cầu cụ thể về nhãn hiệu, xuất xứ hàng hoá trong
hồ sơ mời thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp hoặc gói thầu hỗn hợp
khi áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế.

Đối với trường hợp của đơn vị X, việc nêu nhãn hiệu hàng hóa khi lập hồ sơ yêu
cầu chào hàng cạnh tranh không thuộc sự điều chỉnh của quy định nêu trên. Tuy
nhiên, theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT quy định chi tiết
lập hồ sơ yêu cầu chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, đối với gói thầu áp dụng
hình thức chào hàng cạnh tranh, khi đưa ra yêu cầu đối với hàng hóa cần quy định
đặc tính kỹ thuật, tiêu chuẩn sản xuất, tiêu chuẩn chế tạo, công nghệ mang tính chất
trung tính, không đưa ra các đặc tính kỹ thuật, tiêu chuẩn mang tính cá biệt hóa mà
không phải là đặc tính cơ bản của sản phẩm để chỉ một hoặc một số ít nhà thầu đáp
ứng yêu cầu, làm hạn chế sự tham gia của các nhà thầu, gây ra sự cạnh tranh không
bình đẳng. Trường hợp không thể mô tả được hàng hóa cần mua theo đặc tính kỹ
5


thuật, thiết kế công nghệ, tiêu chuẩn công nghệ thì mới được phép nêu nhãn hiệu,
catalô của một sản phẩm cụ thể để tham khảo, minh họa cho yêu cầu về kỹ thuật
của hàng hóa nhưng phải ghi kèm theo cụm từ “hoặc tương đương” sau nhãn hiệu,
catalô, đồng thời quy định rõ nội hàm tương đương với hàng hóa đó về đặc tính kỹ
thuật, tính năng sử dụng, tiêu chuẩn công nghệ và các nội dung khác (nếu có) mà
không quy định tương đương về xuất xứ.
Như vậy, khi bên mời thầu X đã mô tả được hàng hóa cần mua theo đặc tính kỹ
thuật, thiết kế công nghệ, tiêu chuẩn công nghệ thì việc quy định nội dung xuất xứ,
nhãn hiệu trong hồ sơ yêu cầu là không phù hợp với quy định của pháp luật đấu
thầu. Ngoài ra, cần lưu ý việc mô tả hàng hóa cần mua phải bảo đảm không mang
tính cá biệt hóa, làm cho chỉ một hoặc một số ít sản phẩm đáp ứng yêu cầu, làm hạn
chế sự tham gia của các nhà thầu khác.
6. Sai sót khi ghi tên gói thầu, tên nhà thầu liên danh trong đơn dự thầu
Hỏi: Nhà thầu A tham dự thầu gói thầu của một bên mời thầu (BMT) nhưng trong
đơn dự thầu nhà thầu ghi tên gói thầu từ “Mua sắm, vận chuyển các thiết bị trạm
biến áp 110kV” thành “Mua sắm, vận chuyển thiết bị trạm biến áp 110 KV”. Cũng
trong gói thầu này, nhà thầu X liên danh với nhà thầu Y để tham dự thầu gói thầu và

thống nhất tên gọi của thành viên liên danh trong văn bản thỏa thuận liên danh là
Liên danh Công ty X - Công ty Y. Tuy nhiên, đơn dự thầu của nhà thầu liên danh
ghi là Liên danh Công ty Y - Công ty X.
Trong trường hợp này, đơn dự thầu của nhà thầu A và nhà thầu liên danh Công ty X
- Công ty Y có được đánh giá là hợp lệ hay không?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, việc
đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các
yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu (HSMT), căn cứ vào HSDT đã nộp, các tài liệu
giải thích, làm rõ HSDT của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ
năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Theo quy định
tại Điểm b Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, HSDT hợp lệ phải có
đơn dự thầu được đại diện hợp pháp của nhà thầu ký tên, đóng dấu (nếu có) theo
yêu cầu của HSMT; thời gian thực hiện gói thầu nêu trong đơn dự thầu phải phù
hợp với đề xuất về kỹ thuật; giá dự thầu ghi trong đơn dự thầu phải cụ thể, cố định
bằng số, bằng chữ và phải phù hợp, logic với tổng giá dự thầu ghi trong biểu giá
tổng hợp, không đề xuất các giá dự thầu khác nhau hoặc có kèm theo điều kiện gây
bất lợi cho chủ đầu tư, BMT. Đối với nhà thầu liên danh, đơn dự thầu phải do đại
diện hợp pháp của từng thành viên liên danh ký tên, đóng dấu (nếu có) hoặc thành
viên đứng đầu liên danh thay mặt liên danh ký đơn dự thầu theo phân công trách
nhiệm trong văn bản thỏa thuận liên danh. Ngoài ra, việc xác định các sai khác, đặt
6


điều kiện và bỏ sót nội dung (gọi chung là sai sót) cơ bản được hướng dẫn tại
Chương I các Mẫu HSMT mua sắm hàng hóa ban hành kèm Thông tư số
05/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Đối với tình huống vừa nêu, việc đánh giá HSDT, trong đó bao gồm kiểm tra tính
hợp lệ của đơn dự thầu, phải căn cứ các quy định nêu trên. Đối với đơn dự thầu đã
đầy đủ các nội dung nêu tại Điểm b Khoản 2 Điều 18 Nghị định 63/2014/NĐ-CP
nhưng ghi thiếu 1 chữ “các” trong tên gói thầu, nếu HSDT của nhà thầu vẫn chào

đủ số lượng thiết bị trạm biến áp 110 kV theo yêu cầu của HSMT thì đơn dự thầu
vẫn được coi là hợp lệ.
Đối với nhà thầu X, trường hợp trong văn bản thỏa thuận liên danh nhà thầu ghi tên
là Liên danh Công ty X - Công ty Y thì HSDT ghi tên nhà thầu là Liên danh Công
ty Y - Công ty X vẫn thể hiện được bản chất liên danh của hai nhà thầu thành viên.
Do vậy, HSDT của liên danh này vẫn được tiếp tục đánh giá theo các yêu cầu của
HSMT.
Nhìn chung, trong quá trình lập HSDT, một số nhà thầu sẽ có những sai sót không
mong muốn, tương tự như các trường hợp nêu trên. Tuy nhiên, việc xem xét, đánh
giá từng sai sót phải được thực hiện cẩn trọng, không vội lấy đó làm căn cứ để loại
nhà thầu. Suy cho cùng, việc tham dự của mỗi nhà thầu đều góp phần làm tăng tính
cạnh tranh, hiệu quả của gói thầu.
7. Hồ sơ dự thầu có hiệu lực từ thời điểm mở thầu
Hỏi: Bên mời thầu X tổ chức lựa chọn nhà thầu một gói thầu thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật Đấu thầu. Hồ sơ mời thầu quy định hồ sơ dự thầu phải có hiệu lực
120 ngày và thời điểm đóng thầu là 9h ngày 07/9/2016. Trong quá trình đánh giá hồ
sơ dự thầu, tổ chuyên gia nhận thấy Nhà thầu A chào thời gian có hiệu lực của hồ
sơ dự thầu là 120 ngày, từ thời điểm mở thầu là 9h30 ngày 07/9/2015. Trong trường
hợp này, việc Nhà thầu A chào thời gian hiệu lực của hồ sơ dự thầu có được coi đáp
ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu hay không?
Trả lời: Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 42) quy định thời gian có hiệu lực của hồ sơ
dự thầu là số ngày được quy định trong hồ sơ mời thầu và được tính kể từ ngày có
thời điểm đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong hồ sơ mời
thầu. Từ thời điểm đóng thầu đến hết 24 giờ của ngày đóng thầu được tính là 01
ngày.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 Khoản 2 Điểm c) quy định hồ sơ dự thầu
hợp lệ phải có hiệu lực đáp ứng yêu cầu theo quy định của hồ sơ mời thầu.
Đối với trường hợp trên, nếu hồ sơ mời thầu quy định hồ sơ dự thầu phải có hiệu
lực 120 ngày và thời điểm đóng thầu là 9h ngày 07/9/2016 thì các hồ sơ dự thầu ghi
7



thời gian có hiệu lực là 120 ngày kể từ ngày 07/9/2016 hoặc kể từ 9h ngày
07/9/2016 được coi là đáp ứng yêu cầu về thời gian có hiệu lực. Trường hợp hồ sơ
dự thầu ghi thời gian có hiệu lực với điểm bắt đầu muộn hơn thời điểm đóng thầu
(ví dụ: 9h30 ngày 07/9/2015) bị coi là không đáp ứng yêu cầu về thời gian có hiệu
lực.
Hiện nay, một trong các sai sót thường gặp khi nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu là
ghi sai hiệu lực của hồ sơ dự thầu. Vì vậy, để hạn chế các sai sót này, nhà thầu khi
chuẩn bị hồ sơ dự thầu, nên đọc kỹ thông tin trong chỉ dẫn nhà thầu về thời điểm
đóng thầu, mở thầu, ngày bắt đầu và số ngày có hiệu lực. Ngoài ra, chỉ cần ghi
ngày bắt đầu có hiệu lực (không cần ghi cụ thể thời điểm, giờ bắt đầu) và số ngày
có hiệu lực thì hồ sơ dự thầu đã được đánh giá đáp ứng yêu cầu về thời gian có hiệu
lực, ví dụ: Có thể ghi là 120 ngày kể từ ngày 07/9/2016, không nhất thiết phải ghi
là 120 ngày kể từ 9h00 ngày 07/9/2016.
8. Xử lý vi phạm đối với từng thành viên trong liên danh
Hỏi: Công ty A liên danh với Công ty B để tham dự thầu gói thầu do bên mời thầu
X tổ chức và đã được trao hợp đồng vào năm 2015.
Trong quá trình tham dự thầu, thành viên liên danh A, B đều tham gia lập hồ sơ dự
thầu và mỗi thành viên ký vào phần kê khai năng lực, kinh nghiệm của mình.
Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, tổ chuyên gia đấu thầu phát hiện thành viên
liên danh B thuộc nhà thầu liên danh A - B đã kê khai không trung thực nhiều thông
tin, làm giả hồ sơ liên quan đến năng lực, kinh nghiệm của mình khi tham dự thầu
nên đã báo cáo bên mời thầu. Trong trường hợp này, bên mời thầu X cần xử lý vi
phạm đối với thành viên liên danh B hay với nhà thầu liên danh A - B?
Trả lời: Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 35) quy định nhà thầu chính là nhà thầu chịu
trách nhiệm tham dự thầu, đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện hợp đồng nếu
được lựa chọn. Nhà thầu chính có thể là nhà thầu độc lập hoặc thành viên của nhà
thầu liên danh. Như vậy, khi tham gia đấu thầu thì tất cả thành viên liên danh đều là
nhà thầu chính.

Luật Đấu thầu (Điều 89) quy định một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu là
trình bày sai một cách cố ý hoặc làm sai lệch thông tin, hồ sơ, tài liệu của một bên
trong đấu thầu nhằm thu được lợi ích tài chính hoặc lợi ích khác hoặc nhằm trốn
tránh bất kỳ một nghĩa vụ nào.
Đối với trường hợp nêu trên, nhà thầu liên danh sử dụng hồ sơ giả do thành viên
liên danh B cung cấp để làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu thì nhà thầu liên
danh này bị coi là vi phạm Điều 89 Luật Đấu thầu. Trong trường hợp này, hồ sơ dự
thầu của nhà thầu bị loại và việc xử phạt phải được áp dụng với tất cả các nhà thầu
8


liên danh, bao gồm Công ty A và Công ty B vì (i) các thành viên liên danh đều là
nhà thầu chính khi tham gia đấu thầu và đều phải chịu trách nhiệm nếu vi phạm
pháp luật về đấu thầu; (ii) văn bản thỏa thuận liên danh thể hiện sự ràng buộc
không thể tách rời của các thành viên để tham gia đấu thầu, do vậy, hành vi vi
phạm pháp luật đấu thầu của nhà thầu liên danh không thể coi là hành vi vi phạm
của riêng một thành viên nào đó trong liên danh. Do vậy, khi tìm kiếm đối tác để
liên danh tham dự thầu thì các nhà thầu phải có các thông tin chính xác về đối tác
của mình, nhất là về năng lực, kinh nghiệm để tránh các rủi ro đáng tiếc như Công
ty A khi liên danh với Công ty B trong tình huống này.
9. Kế thừa năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu sau khi sáp nhập
Hỏi: Nhà máy in C trước đây là đơn vị hạch toán phụ thuộc Tập đoàn B. Khi đó,
Tập đoàn B tham gia đấu thầu và nếu trúng thầu thì giao một số gói thầu cho Nhà
máy in C thực hiện. Do cơ cấu lại Tập đoàn B, Nhà máy in đã được tách ra thành
một pháp nhân độc lập, sau đó tiếp tục được điều chuyển nguyên trạng, sáp nhập về
Nhà thầu A. Trong trường hợp này, khi chuẩn bị hồ sơ dự thầu (HSDT) tham gia
đấu thầu, Nhà thầu A có được kế thừa năng lực, kinh nghiệm của Nhà máy in C khi
còn trực thuộc Tập đoàn B không?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 Khoản 1 và Khoản 3) quy định,
HSDT của nhà thầu phải bao gồm các tài liệu chứng minh năng lực, kinh nghiệm

của nhà thầu, đồng thời việc đánh giá HSDT bao gồm bước đánh giá về năng lực và
kinh nghiệm.
Liên quan đến việc tách, sáp nhập pháp nhân, có thể tìm hiểu quy định tại Điều 89
và Điều 91 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, sau khi tách, pháp nhân bị tách và pháp
nhân được tách thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình phù hợp với mục đích
hoạt động. Sau khi sáp nhập, pháp nhân được sáp nhập chấm dứt tồn tại; quyền và
nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được sáp nhập được chuyển giao cho pháp nhân sáp
nhập. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp, việc tách, sáp nhập được quy định tại
Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 193 và Điều 195).
Đối với trường hợp nêu trên, Nhà máy in C trước đây trực thuộc Tập đoàn B và đã
được Tập đoàn B giao thực hiện một số hợp đồng in mà Tập đoàn trúng thầu. Vì
vậy, sau khi tách ra thành pháp nhân độc lập thì Nhà máy in C được hiểu là có kinh
nghiệm thực hiện các hợp đồng mà trên thực tế nhà máy này đã thực hiện khi còn
trực thuộc Tập đoàn B. Tiếp đó, khi Nhà máy được sáp nhập vào Nhà thầu A thì
năng lực, kinh nghiệm của Nhà thầu A được hiểu là bao gồm năng lực, kinh nghiệm
của Nhà máy in C trước khi được sáp nhập. Tóm lại, khi Nhà máy in C có năng lực,
kinh nghiệm thực hiện hợp đồng thì năng lực, kinh nghiệm thực hiện hợp đồng này

9


sẽ được tính vào năng lực, kinh nghiệm của Nhà thầu A sau khi Nhà máy in C được
sáp nhập vào nhà thầu này.
10. Văn bản xác nhận của cơ quan thuế gửi sau thời điểm đóng thầu
Hỏi: Công ty X tham dự đấu thầu rộng rãi trong nước gói thầu xây lắp. Do sơ suất,
trong hồ sơ dự thầu (HSDT) của Công ty nộp cho bên mời thầu không đóng kèm
văn bản xác nhận của cơ quan thuế về việc Công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế
đối với Nhà nước. Vì vậy, sau khi đóng thầu (9h ngày 25/8/2016), Công ty mới gửi
văn bản xác nhận của cơ quan thuế (văn bản xác nhận của cơ quan thuế ký ngày
26/8/2016) trong đó xác nhận tính đến ngày 25/8/2016, Công ty đã hoàn thành

nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Vậy, Công ty có được dùng văn bản xác nhận của
cơ quan thuế sau thời điểm đóng thầu như nêu trên để chứng minh năng lực về tài
chính của mình và văn bản xác nhận này có được chấp nhận, đánh giá hay không?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 15 Khoản 1) quy định việc đánh giá
HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong hồ sơ
mời thầu (HSMT), căn cứ vào HSDT đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ HSDT
của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm,
có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 16 Khoản 1 và Khoản 2) quy định sau khi mở
thầu, nhà thầu có trách nhiệm làm rõ HSDT theo yêu cầu của bên mời thầu. Trường
hợp HSDT của nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh
nghiệm thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu để chứng minh tư
cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài
chính nêu trong HSDT của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm nguyên tắc không
làm thay đổi nội dung cơ bản của HSDT đã nộp, không thay đổi giá dự thầu.
Trường hợp sau khi đóng thầu, nếu nhà thầu phát hiện HSDT thiếu các tài liệu
chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì nhà thầu được phép gửi tài
liệu đến bên mời thầu để làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm của
mình. Bên mời thầu có trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu làm rõ của nhà thầu để
xem xét, đánh giá; các tài liệu bổ sung, làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh
nghiệm được coi như một phần của HSDT.
Đối với trường hợp nêu trên, việc sau thời điểm đóng thầu, nếu nhà thầu phát hiện
trong HSDT đã nộp thiếu văn bản xác nhận của cơ quan thuế thì nhà thầu được
phép bổ sung văn bản xác nhận đã hoàn thành nghĩa vụ thuế của cơ quan thuế để
chứng minh năng lực tài chính của mình sau thời điểm đóng thầu. Trong trường
hợp này, bên mời thầu phải tiếp nhận văn bản xác nhận của cơ quan thuế để làm cơ
sở đánh giá HSDT của nhà thầu.

10



Trường hợp việc xác nhận của cơ quan thuế diễn ra sau thời điểm đóng thầu thì bên
mời thầu, tổ chuyên gia phải xem xét đến các yếu tố về thời điểm lập tờ khai nộp
thuế, thời điểm nộp tiền đóng thuế của nhà thầu. Nếu thời điểm lập tờ khai nộp
thuế, thời điểm nộp tiền đóng thuế của nhà thầu được thực hiện trước thời điểm
đóng thầu thì văn bản xác nhận việc nộp thuế của cơ quan thuế được coi là hợp lệ
để xem xét, đánh giá; ngược lại, nếu là sau thời điểm đóng thầu thì được coi là
không hợp lệ.
Ngoài ra, để nâng cao tính cạnh tranh trong đấu thầu, trường hợp sau khi đóng thầu,
nếu nhà thầu không phát hiện ra HSDT của mình thiếu văn bản xác nhận của cơ
quan thuế thì trong quá trình đánh giá HSDT, bên mời thầu cần yêu cầu nhà thầu
làm rõ, bổ sung tài liệu chứng minh đến trước thời điểm đóng thầu, nhà thầu đã
hoàn thành nghĩa vụ thuế theo quy định (yêu cầu nhà thầu bổ sung văn bản xác
nhận của cơ quan thuế) để làm cơ sở đánh giá về năng lực tài chính của nhà thầu.
11.Xử lý gói thầu khi chấm dứt hợp đồng đối với nhà thầu vi phạm
Hỏi: Trường hợp chấm dứt hợp đồng đối với nhà thầu vi phạm hợp đồng thì khối
lượng công việc còn lại có phải hình thành gói thầu mới để tổ chức lựa chọn nhà
thầu hay không? Hình thức lựa chọn nhà thầu nào sẽ được áp dụng?
Trường hợp áp dụng chỉ định thầu thì có bắt buộc phải thuộc hạn mức chỉ định thầu
hay không và có được phê duyệt dự toán cho phần công việc còn lại cho phù hợp
để làm cơ sở chỉ định thầu không?
Trả lời: Nghị định 63/2014/NĐ-CP (Điều 117 Khoản 11) quy định về cách thức xử
lý tình huống trường hợp nhà thầu thực hiện gói thầu vi phạm hợp đồng, không còn
năng lực để tiếp tục thực hiện hợp đồng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ,
chất lượng, hiệu quả của gói thầu.
Theo đó, trường hợp khẳng định việc chậm tiến độ do lỗi của nhà thầu, làm ảnh
hưởng nghiêm trọng tiến độ, chất lượng, hiệu quả của gói thầu thì chủ đầu tư xem
xét, báo cáo người có thẩm quyền quyết định cho phép chấm dứt hợp đồng với nhà
thầu đó. Phần công việc còn lại chưa được thực hiện được phép áp dụng chỉ định
thầu hoặc các hình thức lựa chọn nhà thầu khác trên cơ sở bảo đảm chất lượng, tiến

độ của gói thầu và do người có thẩm quyền quyết định.
Trường hợp áp dụng hình thức chỉ định thầu thì không cần phải tuân thủ theo hạn
mức chỉ định thầu quy định tại Điều 54 Nghị định 63/2014/NĐ-CP. Trong trường
hợp này, giá trị phần khối lượng công việc chưa thực hiện được giao (chỉ định thầu)
cho nhà thầu mới thực hiện theo đúng giá trị ghi trong hợp đồng trước đó trừ đi giá
trị của phần khối lượng công việc mà nhà thầu cũ đã thực hiện. Như vậy, phần khối
lượng công việc được chỉ định cho nhà thầu mới không được tính toán, cập nhật
theo giá thị trường tại thời điểm chấm dứt hợp đồng.
11


Trường hợp không áp dụng hình thức chỉ định thầu thì phần khối lượng công việc
chưa thực hiện được tách thành gói thầu mới và tổ chức lựa chọn nhà thầu theo quy
định. Trong trường hợp này, chủ đầu tư phải phê duyệt lại dự toán cho phần công
việc còn lại trên cơ sở cập nhật các quy định của pháp luật hiện hành.
Bên cạnh đó, trường hợp phải chấm dứt hợp đồng với nhà thầu vi phạm để thay thế
nhà thầu mới, trong vòng 05 ngày làm việc, kể từ ngày ban hành quyết định chấm
dứt hợp đồng với nhà thầu vi phạm, chủ đầu tư phải gửi thông báo đến Bộ Kế
hoạch và Đầu tư để xem xét, đăng tải thông tin nhà thầu vi phạm trên Hệ thống
mạng đấu thầu quốc gia và Báo Đấu thầu; trong thông báo phải nêu rõ lý do nhà
thầu vi phạm dẫn tới phải chấm dứt hợp đồng, hình thức lựa chọn nhà thầu thay thế,
tên nhà thầu được chỉ định trong trường hợp áp dụng hình thức chỉ định thầu.
12. Rà soát lại khối lượng của gói thầu theo thiết kế được duyệt
Hỏi: Nhà thầu tham dự gói thầu xây lắp áp dụng loại hợp đồng trọn gói, hồ sơ dự
thầu (HSDT) của nhà thầu tuân thủ và đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu
(HSMT). Trong quá trình thương thảo hợp đồng, chủ đầu tư, bên mời thầu yêu cầu
nhà thầu phải rà soát lại khối lượng của gói thầu theo thiết kế được duyệt để xác
định những khối lượng thừa hoặc thiếu so với thiết kế.
Vậy yêu cầu rà soát nêu trên của chủ đầu tư, bên mời thầu có phù hợp với quy định
của pháp luật về đấu thầu hay không? Trường hợp phát hiện khối lượng bị thiếu so

với thiết kế thì xử lý như thế nào?
Trả lời: Theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 62 Luật Đấu thầu số
43/2013/QH13, khi áp dụng loại hợp đồng trọn gói, đối với gói thầu xây lắp, trong
quá trình thương thảo, hoàn thiện hợp đồng, các bên cần rà soát lại bảng khối lượng
công việc theo thiết kế được duyệt; nếu nhà thầu hoặc bên mời thầu phát hiện bảng
số lượng, khối lượng công việc chưa chính xác so với thiết kế, bên mời thầu báo
cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định việc điều chỉnh khối lượng công việc để bảo
đảm phù hợp với thiết kế.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 19 Khoản 3 Điểm b) quy định, trong quá trình
đánh giá HSDT và thương thảo hợp đồng, nếu phát hiện khối lượng mời thầu nêu
trong bảng tiên lượng mời thầu thiếu so với hồ sơ thiết kế thì bên mời thầu yêu cầu
nhà thầu phải bổ sung khối lượng công việc thiếu đó trên cơ sở đơn giá đã chào;
trường hợp trong HSDT chưa có đơn giá thì bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem
xét, quyết định việc áp đơn giá nêu trong dự toán đã phê duyệt đối với khối lượng
công việc thiếu so với hồ sơ thiết kế hoặc đơn giá của nhà thầu khác đã vượt qua
bước đánh giá về kỹ thuật nếu đơn giá này thấp hơn đơn giá đã phê duyệt trong dự
toán gói thầu.
12


Theo đó, việc chủ đầu tư, bên mời thầu cùng với nhà thầu tiến hành rà soát lại bảng
khối lượng công việc theo thiết kế được duyệt là cần thiết và phù hợp với quy định
của pháp luật về đấu thầu. Trường hợp phát hiện khối lượng thiếu so với thiết kế thì
nhà thầu phải thực hiện bổ sung công việc thiếu đó theo quy định tại Điểm b Khoản
3 Điều 19 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP nêu trên. Trong trường hợp này, chủ đầu tư
phải bổ sung kinh phí đối với phần khối lượng bị tính toán thiếu vào trong giá đề
nghị trúng thầu.
Trường hợp dự toán đã lập cho gói thầu tính thiếu khối lượng so với thiết kế thì chủ
đầu tư phải phê duyệt lại dự toán.
Ngoài ra, chủ đầu tư cần lưu ý, trường hợp sử dụng nhà thầu tư vấn để lập hồ sơ

thiết kế, HSMT thì trong hợp đồng giữa chủ đầu tư, bên mời thầu với nhà thầu tư
vấn phải có quy định về trách nhiệm của các bên trong việc xử lý, đền bù đối với
việc tính toán sai số lượng, khối lượng công việc theo quy định tại Điểm đ Khoản 1
Điều 62 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13.
13. Bản chụp hợp đồng tương tự được công chứng có dấu hiệu bất thường
Hỏi: Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) gói thầu xây lắp, tổ chuyên
gia nhận thấy bản chụp hợp đồng tương tự được công chứng mà nhà thầu đóng kèm
theo HSDT có dấu hiệu bất thường nên tổ chuyên gia đã đề nghị bên mời thầu yêu
cầu nhà thầu cung cấp bản gốc để đối chiếu. Tuy nhiên, nhà thầu không cung cấp
bản gốc của hợp đồng này với lý do là bản chụp hợp đồng đã được công chứng và
đề nghị tổ chuyên gia cần căn cứ vào đó để đánh giá và bên mời thầu đã chấp thuận
giải thích của nhà thầu. Việc nhà thầu làm rõ và bên mời thầu chấp thuận giải thích
của nhà thầu như nêu trên có phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu hay
không?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 16 Khoản 1) quy định sau khi mở
thầu, nhà thầu có trách nhiệm làm rõ HSDT theo yêu cầu của bên mời thầu. Trường
hợp HSDT của nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh
nghiệm thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu để chứng minh tư
cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài
chính nêu trong HSDT của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm nguyên tắc không
làm thay đổi nội dung cơ bản của HSDT đã nộp, không thay đổi giá dự thầu.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 15 Khoản 1) quy định việc đánh giá HSDT
phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong HSMT, căn
cứ vào HSDT đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ HSDT của nhà thầu để bảo đảm
lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để
thực hiện gói thầu.
13


Theo hướng dẫn tại Mục 17 Chương I của Mẫu HSMT xây lắp ban hành kèm theo

Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhà
thầu phải chuẩn bị sẵn sàng các tài liệu gốc để phục vụ việc xác minh khi có yêu
cầu của bên mời thầu.
Theo đó, việc đánh giá, làm rõ HSDT được thực hiện theo quy định nêu trên. Trong
quá trình đánh giá HSDT, trường hợp cần thiết bên mời thầu có thể yêu cầu nhà
thầu cung cấp các tài liệu gốc để so sánh, xác thực thông tin so với bản chụp tài liệu
mà nhà thầu đã cung cấp trong HSDT. Việc nhà thầu không cung cấp tài liệu gốc và
bên mời thầu chấp thuận đề nghị này của nhà thầu là không phù hợp với quy định
của pháp luật về đấu thầu, có thể dẫn đến vi phạm hành vi bị cấm trong đấu thầu
theo quy định tại Điểm c Khoản 4 Điều 89 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (nhà
thầu cố ý cung cấp thông tin không trung thực trong HSDT làm sai lệch kết quả lựa
chọn nhà thầu).
15. Thay đổi xuất xứ hàng hóa so với cam kết trong HSDT và hợp đồng
Hỏi: Trong Hồ sơ dự thầu (HSDT) cũng như hợp đồng đã ký kết, nhà thầu cam kết
sẽ cung cấp hàng hóa xuất xứ tại Singapore, nhưng trong quá trình bàn giao thiết bị,
nhà thầu lại đề xuất cung cấp hàng hóa xuất xứ từ Trung Quốc và Việt Nam. Nhà
thầu giải thích rằng, việc thay đổi xuất xứ hàng hóa là do hãng sản xuất thiết bị thay
đổi chính sách nguồn cung cấp hàng hóa vào thị trường Việt Nam và hãng bảo đảm
chất lượng toàn cầu. Chủ đầu tư có được xem xét, chấp thuận đề xuất của nhà thầu
về thay đổi xuất xứ hàng hoá như nêu trên hay không?
Trả lời: Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (Điều 4 Khoản 32 và Điều 65 Khoản 3)
quy định hợp đồng là văn bản thỏa thuận giữa chủ đầu tư với nhà thầu được lựa
chọn để thực hiện gói thầu. Hợp đồng được ký kết giữa các bên phải phù hợp với
nội dung hồ sơ mời thầu (HSMT), HSDT, kết quả thương thảo hợp đồng, quyết
định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.
Đối với tình huống nêu tại câu hỏi này, trước khi xem xét, quyết định chấp nhận
hay không đề xuất của nhà thầu, chủ đầu tư cần kiểm tra các thông tin mà nhà thầu
cung cấp. Trường hợp chính sách nguồn cung cấp hàng hóa vào Việt Nam của nhà
sản xuất được thay đổi trước khi nhà thầu nộp HSDT thì đề xuất của nhà thầu như
trên là không phù hợp; trong trường hợp này, chủ đầu tư cần xem xét, không chấp

thuận đề xuất của nhà thầu.
Trường hợp sau khi trúng thầu, nhà sản xuất mới thay đổi chính sách về nguồn
cung cấp hàng hóa và là tình huống khách quan, không lường trước được của nhà
thầu khi lập HSDT thì chủ đầu tư có thể xem xét, chấp thuận việc thay đổi xuất xứ
hàng hóa theo đề nghị của nhà thầu song phải bảo đảm hàng hóa được đề xuất thay
thế vẫn đáp ứng tất cả các yêu cầu về mặt kỹ thuật cũng như chất lượng theo yêu
14


cầu của HSMT. Trong trường hợp này, chủ đầu tư và nhà thầu cần thương thảo về
giá hợp đồng và các rủi ro có thể xảy ra do việc cung cấp hàng hóa không theo
đúng xuất xứ như cam kết trong HSDT và hợp đồng đã ký giữa hai bên.
16. Bảo đảm dự thầu không do ngân hàng phát hành
Hỏi: Bên mời thầu X đang tổ chức đấu thầu rộng rãi trong nước một gói thầu mua
sắm hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu. Đối với nội dung bảo
đảm dự thầu, đơn vị tư vấn xây dựng hồ sơ mời thầu (HSMT) đề xuất quy định
trong chỉ dẫn nhà thầu như sau:
“Trường hợp thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu bằng hình thức thư bảo lãnh,
nhà thầu phải nộp cùng hồ sơ dự thầu (HSDT) bảo lãnh dự thầu do một ngân hàng
phát hành với giá trị và thời gian có hiệu lực như quy định tại Bảng dữ liệu đấu
thầu. Bảo đảm dự thầu phải do một ngân hàng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam
phát hành…”.
Hỏi: Nội dung yêu cầu về bảo đảm dự thầu như trên có phù hợp với quy định của
pháp luật về đấu thầu không?
Trả lời: Điểm d, Khoản 2, Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (NĐ63) quy định
HSDT hợp lệ phải có bảo đảm dự thầu với giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu
cầu của HSMT. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp
thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng
hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký
tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của HSMT.

Như vậy, theo quy định nêu trên của NĐ63 thì bảo lãnh của tổ chức tín dụng hoặc
chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam đều sẽ
được xem xét. Nội dung này của NĐ63 cũng phù hợp với quy định nêu tại Khoản
18 và Khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng. Cụ thể, Khoản 18 Điều 4 Luật
Các tổ chức tín dụng quy định: Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo
đó, tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực
hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả
cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận. Còn Khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín
dụng quy định: Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
Căn cứ quy định của NĐ63 và Luật Các tổ chức tín dụng, các Mẫu HSMT gói thầu
xây lắp, mua sắm hàng hóa ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT
ngày 06/5/2015 và Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT ngày 16/6/2016 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đều đã hướng dẫn hình thức bảo đảm dự thầu quy định trong
HSMT có thể là thư bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng. Như vậy,
15


cần hiểu là khi nhà thầu thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu bằng thư bảo lãnh thì
thư đó có thể do ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng không phải ngân hàng hoạt động
theo Luật Các tổ chức tín dụng phát hành.
Đối với trường hợp nêu trên, việc HSMT quy định nếu nhà thầu thực hiện biện
pháp bảo đảm dự thầu bằng hình thức thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải do ngân
hàng phát hành là quá khắt khe và có thể dẫn tới hạn chế sự tham gia của các nhà
thầu, không phù hợp với quy định nêu tại Khoản 2 Điều 23 NĐ63 cũng như các
quy định vừa phân tích ở trên. Theo đó, nội dung này cần được sửa lại theo hướng
dẫn tại Mẫu HSMT tương ứng cho phù hợp.
17. Tham khảo tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm
Hỏi: Ban Quản lý dự án xây dựng tỉnh A đang tổ chức lựa chọn nhà thầu cho gói

thầu xây lắp theo hình thức chào hàng cạnh tranh. Trên địa bàn tỉnh này, có rất
nhiều doanh nghiệp mới thành lập từ 1 năm đến 2 năm. Để tạo điều kiện cho các
nhà thầu địa phương tham gia chào hàng, hồ sơ yêu cầu (HSYC) có thể quy định
tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu trong khoảng thời gian
2 năm trước thời điểm đóng thầu được không, hay nhất thiết phải tuân thủ đúng
theo hướng dẫn của Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
quy định chi tiết lập mẫu HSMT xây lắp (TT03) là từ 3 năm đến 5 năm?
Trả lời: Mục 2.1 Chương II Mẫu HSYC chào hàng cạnh tranh xây lắp ban hành
kèm theo Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT (Mẫu số 03) quy định căn cứ quy mô,
tính chất của gói thầu mà bên mời thầu có thể tham khảo tiêu chuẩn đánh giá về
năng lực và kinh nghiệm quy định tại Mẫu hồ sơ mời thầu (HSMT) số 01 ban hành
kèm theo TT03 để quy định cho phù hợp, tránh đưa các điều kiện nhằm hạn chế sự
tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra
sự cạnh tranh không bình đẳng.
Theo đó, đối với gói thầu xây lắp có giá trị dưới 5 tỷ đồng, áp dụng hình thức chào
hàng cạnh tranh thì chỉ có các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ mới được phép tham gia
chào hàng theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (NĐ63).
Khi lập HSYC, chủ đầu tư, bên mời căn cứ vào quy mô, tính chất của gói thầu hoặc
năng lực của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh để đưa ra tiêu chuẩn đánh giá năng lực
và kinh nghiệm cho phù hợp, trường hợp quy định tiêu chuẩn đánh giá về năng lực,
kinh nghiệm của nhà thầu trong khoảng thời gian từ 3 năm đến 5 năm trước thời
điểm đóng thầu dẫn đến hạn chế nhà thầu tham dự thầu, làm giảm tính cạnh tranh
của gói thầu thì bên mời thầu có thể quy định tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh
nghiệm của nhà thầu trong khoảng thời gian 2 năm trước thời điểm đóng thầu nhằm
thu hút nhiều nhà thầu tham dự, tăng tính cạnh tranh của gói thầu.

16


Ngoài ra, trường hợp gói thầu xây lắp có giá dưới 5 tỷ đồng, đã có thiết kế bản vẽ

thi công được phê duyệt và là công trình đơn giản mà nhà thầu không cần nhiều
thời gian để chuẩn bị hồ sơ đề xuất (HSĐX)/báo giá thì được phép áp dụng hình
thức chào hàng cạnh tranh. Trường hợp công trình đòi hỏi nhà thầu phải mất nhiều
thời gian hơn để chuẩn bị HSĐX/báo giá so với thời gian chuẩn bị HSĐX tối thiểu
quy định tại Điểm a Khoản 6 Điều 58 NĐ63 thì cần áp dụng hình thức lựa chọn nhà
thầu khác cho phù hợp.
18. Xem xét hợp đồng tương tự để tính năng lực kinh nghiệm như thế nào?
Hỏi: Năm 2016, Chủ đầu tư M tiến hành thủ tục sơ tuyển đối với một gói thầu xây
lắp. Trong đó, hồ sơ mời sơ tuyển (HSMST) quy định nhà thầu cần liệt kê các hợp
đồng tương tự đã thực hiện và hoàn thành trong các năm 2012, 2013, 2014.
Nhà thầu A tham dự thầu gói thầu và có một số hợp đồng ký kết năm 2012 nhưng
hoàn thành năm 2015. Trong trường hợp này, bên mời thầu có được xem xét các
hợp đồng hoàn thành năm 2015 để tính năng lực, kinh nghiệm của Nhà thầu A hay
không?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Ghi chú số 5 Mục 2.1 Chương III Mẫu hồ sơ mời thầu
(HSMT) xây lắp ban hành kèm Thông tư 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chủ đầu tư căn cứ vào quy mô, tính chất của gói thầu và
tình hình thực tế của ngành, địa phương mà có thể quy định nhà thầu phải có kinh
nghiệm thi công một số gói thầu tương tự trong khoảng thời gian từ 3 năm đến 5
năm.
Việc quy định nhà thầu phải có kinh nghiệm thi công gói thầu tương tự trong
khoảng thời gian từ 3 năm đến 5 năm gần nhất so với thời điểm tổ chức sơ tuyển
nhằm mục đích đánh giá một cách chính xác về kinh nghiệm và năng lực của nhà
thầu tại thời điểm sơ tuyển, đồng thời không làm hạn chế sự tham dự của nhà thầu.
Đối với trường hợp nêu trên, do thời gian bắt đầu tổ chức sơ tuyển là năm 2016 nên
việc HSMST quy định chỉ xem xét các hợp đồng tương tự mà nhà thầu đã hoàn
thành trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2014 là chưa phù hợp, làm hạn
chế sự tham gia của nhà thầu, làm giảm tính cạnh tranh trong đấu thầu. Theo đó,
trường hợp bên mời thầu đã phát hành HSMST nhưng chưa đóng sơ tuyển thì phải
sửa đổi HSMST bằng cách gửi văn bản sửa đổi tới tất cả các nhà thầu đã nhận

HSMST, đồng thời gia hạn thời điểm đóng sơ tuyển (nếu cần thiết) trên cơ sở bảo
đảm đủ thời gian để nhà thầu hoàn chỉnh hồ sơ dự sơ tuyển.
Trường hợp đã đóng sơ tuyển thì coi đây là tình huống trong đấu thầu phát sinh
ngoài quy định tại Điều 117 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP. Theo đó, chủ đầu tư cần
xem xét, quyết định xử lý tình huống theo hướng yêu cầu tất cả các nhà thầu tham
dự sơ tuyển kê khai các hợp đồng tương tự đã hoàn thành trong khoảng thời gian từ
17


năm 2012 đến trước thời điểm đóng sơ tuyển để xem xét, đánh giá về kinh nghiệm
thi công gói thầu tương tự.
19. Chi phí dự phòng trượt giá và phát sinh khối lượng
Hỏi: Chúng tôi đang tiến hành lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu (KHLCNT) cho gói
thầu xây lắp áp dụng loại hợp đồng trọn gói, thời gian thực hiện hợp đồng là 06
tháng. Vậy khi lập giá gói thầu trong KHLCNT có cần phải tính toán cả chi phí dự
phòng hay không? Trường hợp trong giá gói thầu có bao gồm cả chi phí dự phòng
trượt giá, dự phòng phát sinh khối lượng nhưng thực tế khi thực hiện hợp đồng lại
không xảy ra trượt giá, phát sinh khối lượng thì xử lý như thế nào và nhà thầu có
được thanh toán khoản chi phí dự phòng trượt giá và phát sinh khối lượng hay
không?
Trả lời: Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (Điểm a Khoản 2 Điều 35 và Điểm b
Khoản 1 Điều 62) quy định giá gói thầu được tính đúng, tính đủ toàn bộ chi phí để
thực hiện gói thầu, kể cả chi phí dự phòng, phí, lệ phí và thuế. Khi áp dụng hợp
đồng trọn gói, giá gói thầu để làm căn cứ xét duyệt trúng thầu phải bao gồm cả chi
phí cho các yếu tố rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng, chi phí
dự phòng trượt giá.
Như vậy, theo quy định nêu trên thì giá gói thầu trong KHLCNT đối với hợp đồng
trọn gói và các loại hợp đồng khác đều phải bao gồm chi phí dự phòng. Tuy nhiên,
chủ đầu tư cần lưu ý, theo hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 10/2015/TTBKHĐT ngày 26/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đối với các gói thầu có thời
gian thực hiện hợp đồng ngắn, không phát sinh rủi ro, trượt giá thì khi lập giá gói

thầu, chi phí dự phòng được tính bằng không. Chi phí dự phòng do chủ đầu tư xác
định theo tính chất từng gói thầu nhưng không được vượt mức tối đa do pháp luật
chuyên ngành quy định (chẳng hạn nếu mức dự phòng tối đa theo quy định của
pháp luật chuyên ngành là 10% chi phí xây dựng thì tùy theo quy mô, tính chất của
gói thầu để tính toán mức chi phí dự phòng trong khoảng từ 0% đến 10% chi phí
xây dựng của gói thầu).
Đối với gói thầu áp dụng loại hợp đồng trọn gói, khi tham dự thầu, nhà thầu phải
tính toán và phân bổ chi phí dự phòng vào trong giá dự thầu; không tách riêng phần
chi phí dự phòng mà nhà thầu đã phân bổ trong giá dự thầu để xem xét, đánh giá
trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu về tài chính, thương mại (Khoản 3 Điều 5
Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 62 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, hợp
đồng trọn gói là hợp đồng có giá cố định trong suốt thời gian thực hiện đối với toàn
bộ nội dung công việc trong hợp đồng. Việc thanh toán đối với hợp đồng trọn gói
được thực hiện nhiều lần trong quá trình thực hiện hoặc thanh toán một lần khi
18


hoàn thành hợp đồng. Tổng số tiền mà nhà thầu được thanh toán cho đến khi hoàn
thành các nghĩa vụ theo hợp đồng bằng đúng giá ghi trong hợp đồng.
Như vậy, việc thanh toán cho nhà thầu thực hiện theo quy định nêu trên mà không
phụ thuộc vào việc có xảy ra trượt giá, phát sinh khối lượng nằm trong phạm vi hợp
đồng đã ký hay không.
20. Quy định nhân sự chủ chốt được nhà thầu đóng bảo hiểm có đúng?
Hỏi: Bên mời thầu X tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu xây lắp thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13. Trong đó, hồ sơ mời thầu (HSMT)
quy định nhân sự chủ chốt mà nhà thầu đề xuất trong hồ sơ dự thầu (HSDT) phải là
nhân sự thuộc biên chế của nhà thầu, đóng bảo hiểm tại nhà thầu từ 5 năm trở lên.
Yêu cầu về nhân sự do Bên mời thầu X đưa ra có phù hợp với quy định của pháp
luật về đấu thầu hay không?

Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Khoản 2 Điều 23) quy định trong HSMT
không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc
nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình
đẳng.
Theo hướng dẫn tại Mục 1 Chương III Mẫu HSMT gói thầu xây lắp ban hành kèm
Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một
trong các nội dung đánh giá về năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu là nhân sự
chủ chốt; căn cứ quy mô, tính chất của gói thầu và pháp luật về xây dựng mà bên
mời thầu quy định yêu cầu về nhân sự chủ chốt như chỉ huy trưởng công trình, chủ
nhiệm kỹ thuật thi công, chủ nhiệm thiết kế bản vẽ thi công, đội trưởng thi công,
giám sát kỹ thuật, chất lượng… và số năm kinh nghiệm tối thiểu của nhân sự chủ
chốt đó cho phù hợp.
Như vậy, trong Mẫu HSMT không có quy định về tiêu chí đóng bảo hiểm xã hội
cho người lao động, mà chỉ yêu cầu nhà thầu kê khai nhân sự dự kiến huy động có
năng lực, kinh nghiệm phù hợp với vị trí đảm nhiệm, đáp ứng yêu cầu của HSMT.
Đối với trường hợp trên, việc HSMT quy định nhân sự tham gia gói thầu phải là
nhân sự thuộc biên chế nhà thầu, đóng bảo hiểm tại nhà thầu từ 5 năm trở lên là
không cần thiết và có thể làm hạn chế sự tham gia của các nhà thầu. Theo đó, chỉ
cần quy định nhà thầu phải kê khai những nhân sự chủ chốt có năng lực đáp ứng
các yêu cầu quy định tại HSMT và có thể sẵn sàng huy động cho gói thầu, mà
không bắt buộc nhân sự đó phải được chính nhà thầu đóng bảo hiểm xã hội. Việc
đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động phải tuân thủ theo quy định của pháp luật
về lao động.

19


Trong trường hợp này, nếu các nhân sự chủ chốt do nhà thầu đề xuất có năng lực,
kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu nêu trong HSMT và sẵn sàng huy động để tham gia
thực hiện gói thầu nếu nhà thầu trúng thầu thì được coi là đáp ứng yêu cầu về nội

dung nhân sự chủ chốt. Trường hợp cần thiết, bên mời thầu có thể yêu cầu nhà thầu
nộp các tài liệu như: hợp đồng lao động giữa nhà thầu với nhân sự chủ chốt, sổ bảo
hiểm xã hội của nhân sự chủ chốt, hợp đồng với công ty cung cấp lao động (trong
trường hợp nhà thầu sử dụng nhân sự chủ chốt của công ty cung cấp lao động)… để
làm rõ, chứng minh khả năng huy động nhân sự chủ chốt của nhà thầu.
21. Áp dụng loại hợp đồng nào cho gói thầu mua thuốc chữa bệnh?
Hỏi: Bệnh viện công lập X cần tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu mua thuốc chữa
bệnh (số lượng thuốc mời thầu: 1 triệu viên, giá gói thầu: 9 tỷ đồng). Do lượng
thuốc thực tế Bệnh viện cần sử dụng phụ thuộc vào tình hình dịch bệnh và nhu cầu
khám chữa bệnh trong năm nên Bệnh viện dự kiến áp dụng loại hợp đồng theo đơn
giá cố định.
Trong trường hợp này, việc áp dụng loại hợp đồng theo đơn giá cố định có phù hợp
với quy định của pháp luật về đấu thầu không? Trường hợp ký hợp đồng trọn gói
thì có được phép thanh toán theo thực tế số lượng thuốc cần mua hay không?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 62 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, hợp
đồng trọn gói là hợp đồng có giá cố định trong suốt thời gian thực hiện đối với toàn
bộ nội dung công việc trong hợp đồng. Việc thanh toán đối với hợp đồng trọn gói
được thực hiện nhiều lần trong quá trình thực hiện hoặc thanh toán một lần khi
hoàn thành hợp đồng. Tổng số tiền mà nhà thầu được thanh toán cho đến khi hoàn
thành các nghĩa vụ theo hợp đồng bằng đúng giá ghi trong hợp đồng. Đối với gói
thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn đơn giản; gói thầu mua sắm hàng
hóa, xây lắp, hỗn hợp có quy mô nhỏ phải áp dụng hợp đồng trọn gói.
Theo quy định tại Điều 63 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, gói thầu mua sắm hàng
hóa có giá trị gói thầu không quá 10 tỷ đồng được coi là gói thầu quy mô nhỏ.
Như vậy, gói thầu mua thuốc của Bệnh viện có giá gói thầu 9 tỷ đồng được coi là
gói thầu mua sắm hàng hóa quy mô nhỏ. Theo đó, gói thầu này phải áp dụng loại
hợp đồng trọn gói theo quy định nêu trên mà không được phép áp dụng loại hợp
đồng theo đơn giá cố định.
Tính chất trọn gói ở đây được hiểu là áp dụng đối với toàn bộ số lượng thuốc nêu
trong hợp đồng, điều đó có nghĩa là khi tham dự thầu, nhà thầu phải chào giá trọn

gói cho việc cung cấp 1 triệu viên thuốc theo đúng yêu cầu của HSMT. Trường hợp
nhà thầu được công nhận trúng thầu với giá trúng thầu và giá hợp đồng là “A” đồng
thì nhà thầu sẽ được thanh toán đúng giá trị “A” đồng nếu cung cấp cho bệnh viện
1 triệu viên thuốc theo đúng quy định trong HSMT và hợp đồng.
20


Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của gói thầu cung cấp thuốc, số lượng thuốc sử
dụng trong năm phụ thuộc vào tình hình dịch bệnh và nhu cầu khám chữa bệnh của
người dân nên thông thường số lượng thuốc sử dụng thực tế khác so với số lượng
thuốc ghi trong hợp đồng. Do đó, trong trường hợp này, để bảo đảm việc mua thuốc
được tiết kiệm, hiệu quả, trong HSMT và hợp đồng cần quy định rõ loại hợp đồng
là trọn gói ứng với số lượng thuốc trúng thầu (1 triệu viên, giá hợp đồng: “A”
đồng); trường hợp số lượng thuốc sử dụng thực tế khác so với số lượng ghi trong
hợp đồng (tăng hoặc giảm) thì giá trị thanh toán sẽ căn cứ theo số lượng sử dụng
thực tế và đơn giá trúng thầu của một viên thuốc.
Như vậy, với cách quy định về mua thuốc trong HSMT và trong hợp đồng đối với
trường hợp áp dụng loại hợp đồng trọn gói như nêu trên sẽ bảo đảm vừa tuân thủ
quy định của pháp luật về đấu thầu vừa tiết kiệm, hiệu quả trong việc mua sắm
thuốc. Ngoài ra, việc HSMT có quy định rõ ràng về cách thanh toán cho nhà thầu
trong trường hợp số lượng thuốc dùng thực tế khác so với số lượng mời thầu sẽ
giúp cho các nhà thầu chủ động xây dựng và tính toán phương án chào thầu phù
hợp.
22. Áp dụng phương thức đấu thầu một giai đoạn một túi hồ sơ cho gói thầu
mua sắm hàng hóa
Hỏi: Đối với gói thầu mua sắm hàng hóa thông thường, đơn giản, không yêu cầu
kỹ thuật cao nhưng có số lượng lớn và có giá gói thầu trên 10 tỷ đồng, chủ đầu tư
có thể áp dụng phương thức đấu thầu một giai đoạn một túi hồ sơ để nhằm mục
đích tiết kiệm thời gian trong đấu thầu và tăng cường áp dụng đấu thầu qua mạng
được không?

Trả lời: Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (Điều 28 Khoản 1 Điểm a) quy định
phương thức lựa chọn nhà thầu một giai đoạn một túi hồ sơ áp dụng cho đấu thầu
rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu mua sắm hàng hoá có quy mô nhỏ. Gói
thầu mua sắm hàng hoá quy mô nhỏ là gói thầu có giá không quá 10 tỷ đồng (Nghị
định số 63/2014/NĐ-CP Điều 63).
Theo đó, chỉ những gói thầu mua sắm hàng hóa có quy mô nhỏ mới được phép áp
dụng phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ; khi tổ chức đấu thầu gói thầu mua
sắm hàng hóa có giá gói thầu trên 10 tỷ đồng (không phải là gói thầu quy mô nhỏ)
phải áp dụng phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ theo quy định tại Điều 29
Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13.
Như vậy, trường hợp chủ đầu tư áp dụng phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ
để lựa chọn nhà thầu cho gói thầu mua sắm hàng hoá có giá lớn hơn 10 tỷ đồng là
chưa phù hợp với quy định nêu trên. Trong trường hợp này, chủ đầu tư phải áp
dụng phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ.
21


Liên quan đến đấu thầu qua mạng, hiện nay việc áp dụng cách thức này đang được
thực hiện từng bước theo lộ trình. Theo đó, trường hợp gói thầu thuộc diện phải áp
dụng phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ thì chưa thực hiện đấu thầu qua
mạng. Tuy nhiên, khuyến khích các chủ đầu tư, bên mời thầu đăng tải HSMT trên
Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia để tạo điều kiện cho các nhà thầu dễ dàng tiếp
cận HSMT, nhằm tăng tính minh bạch, cạnh tranh trong đấu thầu.
Ngoài ra, đối với gói thầu đấu thầu rộng rãi, chào hàng cạnh tranh áp dụng phương
thức một giai đoạn một túi hồ sơ, khuyến khích các chủ đầu tư, bên mời thầu tổ
chức đấu thầu qua mạng nhằm rút ngắn thời gian trong đấu thầu, giảm thiểu thủ tục
hành chính cũng như tăng cường tính cạnh tranh, công khai, minh bạch, hiệu quả
kinh tế của gói thầu.
23. Trường hợp nào phải hình thành gói thầu mới để tổ chức lựa chọn nhà
thầu?

Công ty ông Phan Ngọc Hiệp (Hà Nội) tổ chức mua sắm 5 hàng hóa theo hình thức
chào hàng cạnh tranh thông thường. Giá gói thầu trong kế hoạch lựa chọn nhà
thầu là 550 triệu đồng. Kế hoạch lựa chọn nhà thầu đã đăng trên mạng đấu
thầu quốc gia.
Công ty đã mở thầu vào ngày 19/10/2016. Hiện đang trình phê duyệt lựa chọn nhà
thầu với giá trúng thầu cho 5 hàng hóa là 445 triệu đồng. Tuy nhiên, do Công ty
hoạt động trong lĩnh vực công ích, yêu cầu sản xuất phát sinh đột xuất phải mua
thêm 5 hàng hóa nữa.
Ông Hiệp hỏi, công ty có được thương thảo hợp đồng với đơn vị trúng thầu để mua
thêm 5 hàng hóa nữa không và nếu được thì công ty phải thực hiện điều chỉnh
những gì?
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau:
Khoản 3, Điều 65 Luật Đấu thầu quy định, hợp đồng được ký kết giữa các bên phải
phù hợp với nội dung trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề
xuất, kết quả thương thảo hợp đồng, quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà
thầu.
Theo hướng dẫn tại Mục 20 Chương I Mẫu hồ sơ yêu cầu chào hàng cạnh tranh
mua sắm hàng hóa ban hành kèm Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT ngày
27/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vào thời điểm ký kết hợp đồng, bên mời
thầu có quyền tăng hoặc giảm khối lượng hàng hóa và dịch vụ nêu tại Chương IV –
Yêu cầu đối với gói thầu với điều kiện sự thay đổi đó không vượt quá tỷ lệ quy
định tại hồ sơ yêu cầu (thông thường tối đa 10% khối lượng hàng hóa, dịch vụ nêu

22


trong phạm vi cung cấp) và không có bất kỳ thay đổi nào về đơn giá hay các điều
kiện, điều khoản khác của hồ sơ yêu cầu, hồ sơ đề xuất.
Đối với trường hợp của Công ty, việc ký kết hợp đồng với nhà thầu trúng thầu thực
hiện theo các quy định, hướng dẫn nêu trên. Theo đó, khi cần mua thêm khối lượng

hàng hóa bằng 100% khối lượng hàng hóa đã tổ chức lựa chọn nhà thầu thì cần
hình thành gói thầu mới để tổ chức lựa chọn nhà thầu theo quy định.
24. Xử lý thế nào nếu nhà thầu không cung cấp tài liệu gốc?
Theo phản ánh của ông Thái Hồ Phương (TP. HCM), trong quá trình chấm thầu, tổ
tư vấn phát hiện văn bản xác nhận công trình hoàn thành có xác nhận của chủ đầu
tư và một số tài liệu khác đính kèm trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu là có dấu hiệu
giả mạo (đã bị chỉnh sửa…).
Bên mời thầu đã gửi văn bản yêu cầu nhà thầu đưa bản chính của văn bản xác nhận
này và các tài liệu đến để đối chiếu làm rõ, nhưng hết hạn nhà thầu vẫn không có
văn bản trả lời và không cung cấp bản chính.
Đồng thời, bên mời thầu cũng gửi văn bản cho chủ đầu tư xác nhận trong văn bản
của nhà thầu đó, trả lời có hay không có phát hành văn bản này cho nhà thầu, tuy
nhiên chủ đầu tư đó không có văn bản phản hồi.
Theo quy định, nếu nhà thầu không bổ sung tài liệu làm rõ thì bên mời thầu tiến
hành đánh giá hồ sơ dự thầu ban đầu của nhà thầu đã nộp và cũng không có hướng
dẫn kèm chế tài trong trường hợp nhà thầu không cung cấp bản gốc đối chiếu. Vấn
đề này sẽ không xử lý tình huống gian lận của nhà thầu.
Ông Phương đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn giải quyết tình huống nêu trên.
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau:
Theo hướng dẫn tại Mục 12 Chương I Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp (Mẫu số 02) ban
hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, khi tham dự thầu, nhà thầu phải chuẩn bị sẵn sàng các tài liệu gốc để
phục vụ việc xác minh khi có yêu cầu của bên mời thầu.
Đối với trường hợp nêu trong thư hỏi của ông Phương, nếu bên mời thầu nghi ngờ
tính xác thực của các tài liệu trong hồ sơ dự thầu thì có thể yêu cầu nhà thầu cung
cấp tài liệu bản gốc để so sánh, xác minh theo hướng dẫn nêu trên.
Trường hợp nhà thầu không cung cấp được tài liệu bản gốc hoặc các tài liệu khác
để chứng minh tính xác thực của tài liệu trong hồ sơ dự thầu theo yêu cầu của bên
mời thầu thì trong trường hợp này không đủ cơ sở để đánh giá hồ sơ dự thầu của
nhà thầu.

25. Sai khác chấp nhận được
23


Công ty Điện lực Quảng Nam được biết, theo quy định thì trường hợp này không
tính trong sửa lỗi số học. Qua Hệ thống tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh
nghiệp trên Cổng TTĐT Chính phủ, Công ty hỏi, việc đánh giá hồ sơ dự thầu đối
với nhà thầu này như thế nào?
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời như sau:
Thư giảm giá là một phần của hồ sơ dự thầu, việc giảm giá là để tăng tính cạnh
tranh cho nhà thầu và mang lại lợi ích kinh tế cho gói thầu. Theo hướng dẫn tại
Mục 28 Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp (Mẫu số 1) ban hành kèm theo Thông tư
số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hồ sơ dự thầu
đáp ứng cơ bản là hồ sơ dự thầu đáp ứng các yêu cầu nêu trong hồ sơ mời thầu mà
không có các sai khác, đặt điều kiện hoặc bỏ sót nội dung cơ bản.
Sai khác, đặt điều kiện hoặc bỏ sót nội dung cơ bản nghĩa là những điểm trong hồ
sơ dự thầu mà:
- Nếu được chấp nhận thì sẽ gây ảnh hưởng đáng kể đến phạm vi, chất lượng hay
hiệu quả sử dụng của công trình được quy định trong hợp đồng; gây hạn chế đáng
kể và không thống nhất với hồ sơ mời thầu đối với quyền hạn của chủ đầu tư hoặc
nghĩa vụ của nhà thầu trong hợp đồng.
- Nếu được sửa lại thì sẽ gây ảnh hưởng không công bằng đến vị thế cạnh tranh của
nhà thầu khác có hồ sơ dự thầu đáp ứng cơ bản yêu cầu nêu trong hồ sơ mời thầu.
Theo đó, trường hợp việc lựa chọn giá dự thầu sau giảm giá không làm thay đổi thứ
tự xếp hạng của nhà thầu thì chủ đầu tư coi đây là sai sót không cơ bản và xử lý
theo hướng mang lại lợi ích kinh tế cho gói thầu.
Trường hợp chủ đầu tư xử lý theo hướng mang lại lợi ích kinh tế cho gói thầu
nhưng thứ tự xếp hạng của nhà thầu bị thay đổi, gây ảnh hưởng không công bằng
đến vị thế cạnh tranh của nhà thầu khác thì coi đây là có sự sai khác, đặt điều kiện
cơ bản theo quy trình nêu trên và hồ sơ dự thầu của nhà thầu sẽ bị loại.


24



×