Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY (SPKT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.6 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ
NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA
NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

GVHD:
SVTH:

MSSV:


Tphcm ngày 2-11-2016


Danh mục các từ viết tắt:
ASXH: an sinh xã hội
BHXH: bảo hiểm xã hội
CNXH: chủ nghĩa xã hội
DNNN: doanh nghiệp nhà nước
DTNN: dự trữ nhà nước
DTQG: dự trữ quốc gia
KTNN: kinh tế nhà nước
XHCN: xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC





LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nền kinh tế. Trong đó việc phát triển nền kinh tế
hàng hoá là nhiệm vụ cơ bản nhất. Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế đi
lên chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Ở một số vùng núi còn mang đậm dấu ấn của
kinh tế tự nhiên. Lại trải qua nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế nước ta không thể vươn
dậy một cách vững chắc, hàng hoá sản xuất ra không đủ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
của người dân. Hơn thế nữa kinh tế hàng hoá ở nước ta lại có một thời gian dài hoạt động
theo cơ chế của nền kinh tế tập trung chỉ huy. Do vậy việc xây dựng một quan hệ sản xuất
mới tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá
phát triển là một việc làm quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội đã cho ta kết luận rằng: Nền kinh tế quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế hàng hoá, thị trường.
Nước ta bắt đầu đổi mới nền kinh tế từ những năm chín mươi trong đó vai trò chủ
đạo dẫn dắt, điều tiết, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của kinh tế nhà nước luôn
được Đảng quan tâm, coi trọng và đã đạt được thành tựu bước đầu rất khả quan trong lĩnh
vực kinh tế, chính trị, xã hội, cả đường lối đối nội đối ngoại của đất nước, để phát triển
kinh tế theo định hưỡng Xã hội chủ nghĩa theo nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng
định chủ trương nhất quán phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế
kinh doanh theo pháp luật cùng phát triển lâu dài hợp tác cạnh tranh lành mạnh trong đó
nền kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và quyết định, kinh tế Nhà nước cùng kinh tế

6


tập thể trở thành cơ sở giữ vai trò vững chắc trong nền kinh tế quốc dân một lần nữa nhấn

mạnh nhiệm vụ “tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò
chủ đạo của nền kinh tế” có như thế mới phát huy được đặc điểm của kinh tế Xã hội chủ
nghĩa.
Nhằm thể hiện vị trí vai trò kinh tế nhà nước trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần đòi hỏi kinh tế nhà nước cần có sự đổi mới để giữ vững vai trò chủ đạo, thúc đẩy
các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Vì vậy việc nghiên cứu những giải pháp để
phát huy vai trò của kinh tế nhà nước là rất quan trọng trong nền kinh tế ở nước ta hiện
nay.
Xuất phát từ sự nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế ở Việt
Nam nhóm em chọn đề tài: “Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay”.

7


Chương 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
1.1.Thành phần kinh tế nhà nước

Kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sỡ hữu công cộng về tư liệu
sản xuất
Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ qốc gia, các
quỹ bảo hiểm Nhà nước và các tài sản thuộc sỡ hữu Nhà nước có thể đưa vào vòng chu
tuyển kinh tế.
Kinh tế nhà nước là một trong những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh
hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước hoặc

8



một phần phụ thuộc sỡ hữu Nhà nước chiếm tỉ lệ khống chế, là lực lượng vật chất quan
trọng trong nền kinh tế hiện nay.
1.2.Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
1.2.1.Sự ra đời của sản xuất hàng hóa
Quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá, sản xuất tự cung
tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng để giải quyết vấn đề để sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai.
Sản xuất tư cung tự cấp là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm của người lao
động làm ra được dùng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nội bộ từng hộ gia đình, từng
công xã hay từng cá nhân riêng lẻ. Sản xuất tự cung tự cấp còn được gọi là sản xuất tự
cấp tự túc hoặc kinh tế tự nhiên.
Đây là kiểu tổ chức sản xuất khép kín nên nó thường gắn với sự bảo thủ, trì trệ, nhu
cầu thấp, kỹ thuật thô sơ lạc hậu. Nền kinh tế tự nhiên tồn tại ở các giai đoạn phát triển
thấp của xã hội (công xã nguyên thủy, nô lệ, phong kiến).
1.2.2.Sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để
bán trên thị trường.
Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất phân phối - trao đổi - tiêu
dùng; sản xuất ra cái gì, như thế nào và cho ai đều thông qua việc mua bán, thông qua hệ
thống thị trường và do thị trường quyết định.

9


Cơ sở kinh tế - xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao
động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này và người sản xuất khác do
các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Phân công lao động xã hội là việc phân chia người sản xuất vào các ngành nghề khác
nhau của xã hội. Hoặc nói cách khác đó là chuyên môn hoá sản xuất.

Do phân công lao động, xã hội nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm
nhất định. Song, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mọi người đều cần có nhiều loại sản
phẩm. Vì vậy họ đòi hỏi phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào
nhau.
Phân công lao động xã hội là điều kiện của sản xuất hàng hoá. Điều kiện thứ hai của
sản xuất hàng hoá là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất do các quan hệ sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Dựa vào điều kiện này mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử
dụng tư liệu sản xuất vànhững sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm họ tách biệt nhau về mặt kinh tế.
Trong điều kiện đó người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất
khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở thành hàng
hoá.
Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hoá thì người sản xuất trở thành người sản
hàng hoá, lao động của người sản xuất hàng hoá vừa có tính chất xã hội, vừa có tính chất
tư nhân, cá biệt. Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá thể hiện ở chỗ do phân
công lao động xã hội nên sản phẩm lao động của người này trở nên cần thiết cho người
khác cần cho xã hội.

10


Còn tính chất tư nhân cá biệt thể hiện ở chỗ sản xuất ra cái gì, bằng công cụ nào,
phân phối cho ai là công việc cá nhân của chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, do họ định đoạt.
Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá chỉ được thừa nhận khi họ tìm được
người mua trên thị trường và bán được hàng hoá do họ sản xuất ra.
Vì vậy, lao động của người sản xuất hàng hoá bao hàm sự thống nhất giữa hai mặt
đối lập là tính chất xã hội và tính chất cá nhân, cá biệt của lao động.
Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân, cá biệt của lao động sản xuất
hàng hoá là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá. Đối với mỗi hàng hoá mâu thuẫn đó

được giải quyết trên thị trường. Đồng thời nó được tái tạo thường xuyên với tư cách là
mâu thuẫn của nền kinh tế hàng hoá nói chung. Chính mâu thuẫn này là cơ sở của khủng
hoảng kinh tế sản xuất thừa.
Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài. Đầu tiên là sản
xuất hàng hoá giản đơn dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu. Nhưng khi lực lượng sản
xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hoá quy
mô lớn. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang
xã hội tư bản.

11


Chương 2.VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1.Vị trí
Kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH là tổng thể các nền kinh tế
cùng tồn tại trong một môi trường hợp tác và cạnh tranh.Mỗi thành phần kinh tế tồn tại ở
các tổ chức kinh tế với quy mô và trình độ công nghệ nhất định.Các thành phần kinh tế
được thể hiện ở các hình thức tổ chức kinh doanh đã dạng, đan xen hỗn hợp.Sự tồn tại
nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trước hết chịu sự quy
định của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất.
Trong 5 hình thức kinh tế này thì kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế nước ta hiện nay. Vì nó có một số tính chất sau:
- Đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất so với các thành phần kinh tế khác
- Giữ vị trí then chốt , trọng yếu trong nền kinh tế
- Đảm bảo thực hiện định hướng XHCN
2.2. Vai trò
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã có

những khái quát mới về lý luận: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”.Lần đầu tiên trong Văn
kiện, Đảng ta khẳng định nội dung, kết cấu của nền kinh tế XHCN Việt Nam là có nhiều
12


hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng trước pháp luật. Đây là một bước phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng
về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.Văn kiện Đại hội XII của Đảng
khẳng định: “Những nhận thức trên đây có giá trị định hướng lâu dài trong suốt thời kỳ
quá độ, cần tiếp tục cụ thể hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển”. Đây là một bước
tiến nhằm tạo một không gian mở cho quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất hoạt động, để có thể tránh giáo điều chủ quan về số lượng, tỷ lệ các
hình thức sử hữu, thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp như trước đây.
Thành phần kinh tế nhà nước đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là chỗ dựa
cho nhà nước điều tiết nên kinh tế vĩ mô, đảm bảo những cân đối chủ yếu cho toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
2.2.1. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phát triển ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã nói ở trên “Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước,
các quỹ dự trữ quốc gia, các quỷ bảo hiểm Nhà nước và các tài sản thuộc sỡ hữu Nhà
nước có thể đưa vào vòng chu tuyển kinh tế.” thì sau đây chúng ta sẽ phân tích trọng tâm
vào ba yếu tố này.
a) Về cơ cấu ngành:
Từ các hình thức sở hữu cơ bản : "Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân
hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức sử hữu kinh doanh đa dạng, đan
xen, hỗn hợp".
Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất còn tồn tại ở nhiều

trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu
quan hệ sản xuất, do đó sẽ tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Đây chính là tính tất yếu
khách quan của kinh tế nhiều thành phần.

13


-Các thành phần kinh tế bao gồm:
+ Kinh tế nhà nước
+ Kinh tế tập thể
+ Kinh tế tư nhân
• Kinh tế cá thể
• Kinh tế tiểu chủ
• Kinh tế tư bản tư nhân
+ Kinh tế tư bản nhà nước
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Sau đây là những nội dung phân tích về các doanh nghiệp nhà nước.
*Các doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục
tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có hai loại: loại hoạt
động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, và loại hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi
nhuận. Ngoài ra, còn có loại nằm giữa hai loại trên như những tổ chức kinh tế đang quản
lý, duy tu, bảo dưỡng cơ sở kinh tế hạ tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng…).
Chính sách quản lý doanh nghiệp nhà nước
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng yêu cầu tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công
ty. Căn cứ chỉ đạo này và hiệu quả sắp xếp doanh nghiệp nhà nước những năm qua, Thủ
14



tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 04/3/2011 về ban hành tiêu
chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước, theo đó, bổ sung quy định: các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước nắm giữ 100% vốn tại những doanh nghiệp thành viên có vai trò
chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, nắm giữ các bí quyết
kinh doanh, công nghệ để thực hiện các nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh chính được
giao.
Từ năm 2001 đến nay, Chính phủ đã bốn lần ban hành Nghị định về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước: Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002, Nghị định số
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004; Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007; Nghị
định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 với những thay đổi quan trọng:
- Mở rộng đối tượng cổ phần hóa, bao gồm cả các tổng công ty nhà nước, ngân
hàng thương mại và các tổ chức tài chính nhà nước không thuộc diện Nhà nước nắm giữ
100% vốn.
- Quy định bán cổ phần ra ngoài doanh nghiệp bằng hình thức đấu giá để xóa bỏ
cơ chế cổ phần hóa khép kín trong doanh nghiệp cổ phần hóa.
- Xác định giá trị doanh nghiệp, bán đấu giá cổ phần được thực hiện thông qua các
tổ chức tài chính trung gian và các Sở giao dịch chứng khoán theo nguyên tắc thị trường.
- Cơ chế quản lý của chủ sở hữu nhà nước và quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp nhà nước đã được hoàn thiện một bước quan trọng. Thành lập Tổng công ty Đầu
tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) để tiến tới tách chức năng quản lý của chủ sở hữu
nhà nước với chức năng quản lý hành chính nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp nhà nước, giúp thực hiện có hiệu quả hơn công tác quản lý, đầu tư, cơ
cấu lại vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước.
Những tồn tại, hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước hiện nay

15


Trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây, thực hiện quan điểm, chủ trương

của Đảng về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ, các ngành, các cấp đã
tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện một cách khá đồng bộ, sâu rộng, đạt được nh
Song, đến nay việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam không đạt các
mục tiêu mong muốn, đang tồn tại những hạn chế, yếu kém trầm trọng như sau:
- Nhìn chung, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà
nước chưa tương xứng với nguồn lực được phân bổ; trình độ công nghệ của đa số doanh
nghiệp nhà nước vẫn ở mức thấp. Hiệu quả của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước còn
thấp, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ở mức tương đương với chi phí vay vốn trung
bình của các tổ chức tín dụng. Còn khá nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ (ví
dụ Tập đoàn Vinashin, Vinalines, EVN…). Chưa tách bạch hoạt động sản xuất kinh
doanh và hoạt động công ích. ững kết quả quan trọng.
- Tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải, chưa tập trung vào những
ngành, lĩnh vực kinh doanh chính được giao.
- Tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp
nhà nước tuy đã rõ hơn nhưng vẫn còn nhiều bất cập, lúng túng và kém hiệu quả. Hoạt
động công ích chưa thu hút được các tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế khác tham
gia.
Một số giải pháp đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, tăng cường việc thực hiện có hiệu lực và hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của
Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, người đầu tư vốn được pháp luật và điều lệ doanh
nghiệp nhà nước quy định.
Nội dung quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước cần tập trung hơn
vào những vấn đề có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, xác
lập địa vị, vị thế mới của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, bao gồm:
16


- Quản lý việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo lộ trình đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt giai đoạn 2001-2015 và 2015-1020; tiêu chí phân loại sắp xếp
doanh nghiệp nhà nước; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; giao bán, khoán, cho thuê;

chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên, nhiều thành viên theo mô hình công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế.
- Hình thành cơ quan chuyên trách để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu, có
thể gọi là Cơ quan quản lý tài sản nhà nước dưới hình thức uỷ ban (hoặc bộ). Chủ tịch cơ
quan này, do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm.
Hai là, tăng cường vai trò giám sát trong quản lý doanh nghiệp nhà nước. Giám sát
của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước là sự theo dõi, xem xét, đánh giá của chủ
sở hữu Nhà nước xem doanh nghiệp nhà nước có thực hiện đúng và tuân thủ các quy
định, các nội dung quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước hay không.
Theo dõi để nắm bắt tình hình, để biết rõ các thông tin cần thiết về doanh nghiệp nhà
nước phục vụ cho mục tiêu quản lý.
Ba là, tăng cường minh bạch và công khai để thúc đẩy cải thiện quản trị doanh
nghiệp nhà nước. Công khai, minh bạch là đặc trưng của việc cải thiện quản trị doanh
nghiệp đã được thừa nhận thành nguyên tắc quản trị doanh nghiệp của Tổ chức Hợp tác
và Phát triển kinh tế (OECD) áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời,
doanh nghiệp nhà nước là tài sản, vốn liếng của dân, do dân đóng thuế, vì vậy, cần tăng
cường minh bạch, công khai toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và hoạt
động đầu tư kinh doanh tài chính và quản lý của chủ sở hữu nhà nước để nhân dân giám
sát.
Bốn là, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật (Luật Doanh nghiệp, Luật
Kế toán, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng v.v.), quy định về giám
sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, cơ chế tài chính, các

17


chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán doanh nghiệp trong hoạt động tài chính, kế toán và
toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Năm là, thay đổi chế độ tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà
nước theo cơ chế hiện nay sang cơ chế thu hút, tuyển chọn thông qua thị trường nhân lực

quản trị kinh doanh. Đồng thời, việc bổ nhiệm lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp nhà
nước, tập đoàn kinh tế nhà nước thực hiện theo hình thức ký hợp đồng có thời hạn.
Sáu là, thực hiện nghiêm túc cam kết tiết giảm chi phí tài chính của doanh nghiệp nhà
nước theo Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 3/1/2012 của Chính phủ về những giải pháp chủ
yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân
sách năm 2012. Việc cắt giảm chi phí được lồng ghép với chương trình tái cơ cấu doanh
nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý của chủ sở hữu nhà nước và bảo đảm
DNNN hoạt động hiệu quả, bên cạnh quy chế mới, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị
định 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách
nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà
nước đầu tư vào doanh nghiệp.
*Các quỹ dự trữ quốc gia, các quỷ bảo hiểm Nhà nước
-Các quỹ dự trữ quốc gia
Cùng với toàn ngành Tài chính, trong những năm qua, đặc biệt là trong năm 2015,
DTQG đã ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong sự phát triển bền vững của
kinh tế - xã hội đất nước. Đánh giá này xuất phát từ một số điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, hệ thống DTQG đã có những bước chuyển mạnh mẽ về tư duy trong lãnh
đạo, chỉ đạo điều hành, thực hiện tốt những nhiệm vụ đột xuất, cấp bách trong phòng,

18


chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh;
cứu trợ, cứu đói, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và trật tự, an toàn xã hội.
Thứ hai, Tổng cục DTNN đã tích cực xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về
DTQG.Cho đến nay khuôn khổ pháp lý để thực thi Luật DTQG cơ bản đã được ban hành
khá đầy đủ và đồng bộ với 02 Nghị định và hơn 30 Thông tư hướng dẫn.
Thứ ba, Tổng cục DTNN đã tích cực nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn
bản quản lý nội bộ để đưa hoạt động của Tổng cục vào nề nếp theo đúng quy định của

pháp luật, góp phần vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
- BHXH là chế độ, chính sách, biện pháp mà Nhà nước và xă hội thực hiện nhằm bảo
đảm quyền lợi cho người lao động và gia đđ́nh, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro, giảm
hoặc mất thu nhập do bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Cơ sở
hoạt động của BHXH là xây dựng một quỹ tiền tệ tập trung từ sự đóng góp của người lao
động, người sử dụng lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước.Trong điều kiện đặc biệt của Việt
Nam hiện nay, hệ thống ASXH mà cốt lơi là BHXH càng có ư nghĩa đặc biệt, sự hoạt
động có hiệu quả của hệ thống ASXH; BHXH không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển và
phù hợp với xu hướng chung của thời đại, mà cc̣n thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp
của chế độ xă hội chính trị. Đó cũng là quan điểm lớn mà Đảng, Nhà nước ta đă đặt ra
trong quá tŕnh đổi mới kinh tế – xă hội, cũng như trong các kỳ Đại hội của Đảng.
Cùng với sự phát triển kinh tế – xă hội của đất nước, vị trí, vai tṛ của BHXH trong hệ
thống ASXH, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng to lớn, có thể
khái quát vai tṛ của BHXH trên các mặt sau:
Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia BHXH,
Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị
suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết.

19


Hai là, BHXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế – xă hội.
Để pḥng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an
toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, quỹ
BHXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh ổn định cuộc sống và sản
xuất… Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế – xă hội.
Ba là, BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng
lao động và Nhà nước. Người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều tham gia
đóng góp vào quỹ BHXH, điều đó làm cho người lao động có trách nhiệm hơn trong
công việc, trong lao động sản xuất.

Bốn là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xă hội. Quỹ
BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đđ́nh họ,
phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng
trưởng quỹ.
Năm là, BHXH trực tiếp thể hiện mục tiêu, lư tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ
chính trị, xă hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đă và đang phấn đấu, xây dựng đất
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh.
*Các tài sản thuộc sỡ hữu Nhà nước
Kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, về vốn…Ở nước ta
hiện nay sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện.Sở hữu
nhà nước là trình độ thấp hơn của sở hữu toàn dân.Trong thời kỳ quá độ lên CNXH và
trong giai đoạn XHCN chỉ mới có sở hữu nhà nước. Nhà nước đại diện cho toàn dân sở
hữu những tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà
nước…, của toàn dân, của toàn xã hội. Nhà nước không những sở hữu mà còn nhân danh
toàn dân, toàn xã hội tổ chức quản lý, sử dụng và phân phối những sản phẩm được tạo ra
từ những tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…Nhưng muốn thực hiện
được điều đó phải thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu nhà nước.Nếu không có lợi
20


ích kinh tế thì sở hữu nhà nước chỉ là danh nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải có cơ chế giải
quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu của Nhà nước đối với những tài nguyên, tài sản,
tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… của chung, của toàn dân, của toàn xã hội với
quyền sử dụng chúng của các doanh nghiệp được giao quyền sử dụng và việc phân phối
sản phẩm, giá trị mới được tạo ra nhờ những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn,
ngân sách nhà nước… thuộc sở hữu nhà nước giao cho các doanh nghiệp sử dụng. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơ chế ấy phải chăng là tỷ lệ phân chia sản
phẩm, giá trị mới đó giữa Nhà nước và doanh nghiệp thông qua việc doanh nghiệp nộp
thuế cho Nhà nước.
b) Về kinh tế đối ngoại:

Nước ta đã mở cửa nền kinh tế liên kết với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới với xu
hướng ngày càng mạnh mẽ.Hoạt động xuất nhập khẩu phát triển khá. Năm 2000, kim
ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 186 USD/người, tuy còn ở mức thấp, nhưng đã thuộc loại
các nước có nền ngoại thương phát triển. Tuy nhiên, tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu
của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản còn chiếm 30%. Các mặt hàng xuất khẩu ở nước ta
vẫn ở dạng thô, giá trị thấp, sức cạnh tranh kém.Hơn nữa các doanh nghiệp xuất khẩu
chưa làm tốt công tác xúc tiến thương mại, chưa có chiến lược xuất khẩu dài hạn ổn định
lâu dài, thương mại điện tử vẫn còn mới mẻ. Như vậy, hiện tại khả năng tham gia hội
nhập kinh tế thế giới của các doanh nghiệp nước ta còn thấp, đòi hỏi Nhà nước cũng như
mỗi doanh nghiệp phải có giải pháp trong quá trình hội nhập thu được nhiều hiệu quả.
2.2.2. Những biểu hiện vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
a) Làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ
mô.
Trong kinh tế, mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể kinh tế, trực tiếp đối mặt với thị
trường để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản : sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào?
sản xuất cho ai? Theo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Điều này tất yếu dẫn đến kết cục là ở
21


đâu, khi nào, đối với mặt hàng nào có thể đem lại lợi nhuận cao thì ở đó, khi đó các
doanh nghiệp có khả năng sẽ đổ xô vào sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Ngược lại,
nếu ở đâu, khi nào và đối với mặt hàng nào không có lãi hoặc lỗ vốn thì ở đó, khi đó sẽ
có nhiều doanhnghiệp có khả năng sẽ rút khỏi thị trường sản xuất và kinh doanh mặt
hàng đó. Do sự hạn chếcủa mỗi dịch vụ về việc thu thập cũng như xử lý các thông tin cần
thiết về thị trường để quyết định có tham gia hay rút khỏi một thị trường nào đó, tất cả sẽ
dẫn đến nguy cơ có thể phát sinh mâu thuẫn giữa cung và cầu ở mọi lúc, mọi nơi và đối
với mọi mặt hàng. Để chống lại nguy cơ đó Nhà nước phải thực hiện chức năng điếu tiết
bằng nhiều công cụ khác nhau.Trong đó doanh nghiệp Nhà nước được coi là một công
cụ.
Với tư cách là công cụ điều tiết luôn được Nhà nước thực hiện theo phương châm : ở

đâu, khi nào nền kinh tế quốc dân đang mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ
thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không có đủ sức kinh doanh hoặc từ
chối thì ở đó và khi đó cần sự có mặt của doanh nghiệp Nhànước. Đến lúc nào đó, khi các
doanh nghiệp đã đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường, doanh nghiệp Nhà nước có thể rút
khỏi thị trường đó, nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh.Quá trình diễn ra liên
tục, lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân hình thành vai trò điều tiết của doanh
nghiệp Nhà nước. Chức năng này còn thể hiện ở trong phạm vi từng vùng đặc biệt quan
trọng với các vùng sâu, vùng xa.
b) Làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội.
Để nền kinh tế nước ta phát triển một cách nhanh chóng thì cần phải có những bước
tăng trưởng. Do vậy, cần có một lực lượng có sức mạnh kinh tế làm đòn bẩy để thúc đẩy
các lực lượng khác cùng phát triển. Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay chưa đủ khả năng
chi phối toàn bộ nền kinh tế nhưng có một thực lực to lớn nên chỉ có doanh nghiệp Nhà
nước mới có thể thực hiện được chức năng đòn bẩy.

22


Những vấn đề xã hội đang là một hạn chế lớn của nước ta.Muốn phát triển kinh tế xã hội Nhà nước phải giải quyết triệt để những vấn đề đó.Để thực hiện được điều này
chúng ta cần có thực lực về kinh tế.Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần như
hiện nay thì chỉ có thành phần KTNN mới có thể đảm nhận được vai trò làm lực lượng
chủ lực cho Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội.
c) Mở đường hướng dẫn, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển ,tạo
nền tảng cho chế độ xã hội mới.
KTNN kiểm soát các thị trường của hoạt động vốn và thị trường tiền tệ để bảo đảm
khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các công cụ tài chính tiền tệ, tín dụng là
các công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Thành phần kinh tế nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo chi phối các thành phần kinh tế
khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình, tạo cơ sở hạ tầng
cho mỗi kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành then chốt và trọng yếu xã hội, làm đòn

bảy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội.

23


24


Chương 3.THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP GIÚP PHÁT TRIỂN THÀNH
PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
3.1. Thành tựu của thành phần kinh tế nhà nước
Qua các kì đại hội Đảng VI, VII, VIII và IX với đường lối chủ trương đúng đắn, kinh
tế nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một cách căn bản, giảm quá
nửa số doanh nghiệp(đa số là các doanh nghiệp nhỏ và yếu kém), các doanh nghiệp còn
lại được cải tạo một bước. Ngày càng hoàn thiện các cơ chế quản lý giúp các doanh
nghiệp chuyển đổi và thích nghi dần với các quy luật kinh tế thị trường trong giai đoạn
nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế.
Từ năm 1990 đến nay nước ta đã tiến hành 3 lần tổ chức sắp xếp lại hệ thống doanh
nghiệp nhà nước. Lần thứ nhất(1990-1993), nước ta đã tổ chức lại sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp quốc doanh hướng tới mục tiêu thay thế nền kinh tế kế hoạch mang
tính hành chính bằng nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
XHCN. Kết quả đạt được rất khả quan khi đã cắt giảm hẳn số doanh nghiệp nhà nước về
mặt số lượng, về mặt kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản trong tư duy kinh tế: doanh nghiệp
nhà nước thực hiện cả 2 khâu sản xuất và lưu thông phân phối, không còn bị bó hẹp kinh
doanh theo ngành và lãnh thổ, đã biết cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trên thị
trường.
Đổi mới doanh nghiệp nhà nước lần thứ hai(1994-1997), chính phủ tiến hành thành
lập các doanh nghiệp nhà nước với tổng vốn chủ sở hữu chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số vốn
của doanh nghiệp nhà nước, đó là tổng công ty 91, tổng công ty 90. Do đó những ngành

kinh tế quan trọng như điện năng, dịch vụ, bưu chính viễn thông, hàng không, vận tải
đường sắt, xây dựng,… được chi phối bởi các tổng công ty nhà nước, trong đó một số
công ty đã trở thành hạt nhân của các tập đoàn kinh tế đa ngành.
Lần thứ ba, thực hiện hạ cấp cơ sở thông qua giao khoán, chothuê, chuyển thành
công công ty cổ phần đối với các doanh nghiệp nhà nước không có hình thức sở hữu
25


×