Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết dân tộc ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.49 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của tiểu luận:
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mặc dù mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa
riêng trong sự thống nhất và đa dạng của nền văn hóa Việt Nam, nhưng trong tiến
trình lịch sử lâu dài dựng, giữ và phát triển đất nước, các dân tộc luôn kề vai sát
cánh đấu tranh kiên cường và giành thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược. Do đó,
đoàn kết các dân tộc là một nhu cầu khách quan, cấp thiết và trở thành truyền
thống quý báu của nhân dân ta. Ngày nay, công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi càng đòi hỏi chúng ta
phải tăng cường đoàn kết các dân tộc hơn bao giờ hết. Để có thể thực hiện thắng
lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, xã hội dân chủ, văn minh. Các dân
tộc trong cả nước cần nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy truyền thống vì lợi ích
tối cao của Tổ quốc, đồng tâm nhất trí đưa đất nước ta vững bước tiến lên phía
trước, vì tương lai của Tổ quốc và tiền đồ của dân tộc, vì thế hệ hôm nay và con
cháu mai sau. Việc xây dựng và củng cố đoàn kết giữa các dân tộc có ý nghĩa hết
sức quan trọng, vừa có thể phát huy hết tiềm năng và sức mạnh nội lực của đất
nước tạo nên một thế trận vững chắc, một sức mạnh tổng hợp vừa có thể khắc phục
được mặt trái của những vấn đề như mâu thuẫn, xung đột dân tộc hay sự lợi dụng
của các thế lực thù địch...
Hiện nay, đoàn kết các dân tộc nói riêng, vấn đề dân tộc nói chung đang trở
thành vấn đề quốc tế mang tính thời sự sâu sắc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch của cách mạng ý thức rõ sức mạnh của đoàn kết dân tộc, luôn luôn tìm
cách phá hoại khối đoàn kết thống nhất dân tộc. Chúng ra sức lợi dụng tính phức
tạp và nhạy cảm của vấn đề dân tộc, đặc biệt là lợi dụng những khó khăn của các
dân tộc thiểu số, để kích động, chia rẽ, gây rối và can thiệp vào công việc nội bộ
của đất nước, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Kể từ khi Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới, các thế lực thù địch lại 2
càng tăng cường lợi dụng các vấn đề dân tộc để chống phá quyết liệt, đã đôi lúc
chúng gây cho ta những khó khăn nhất định. Vấn đề đoàn kết dân tộc có nhiều diễn
biến phức tạp. Trong khi đó, cuộc đấu tranh ngăn chặn các thủ đoạn và hành vi lợi
dụng vấn đề dân tộc để chống phá đất nước, tuy đã có cố gắng nhưng vẫn còn có


một số hạn chế, sai lầm nhất định.Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, trước âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, hơn lúc nào hết, đồng bào các dân tộc Việt
Nam phải đồng chí đồng lòng, đoàn kết với nhau để tạo nên sức mạnh chiến đấu và
chiến thắng.
1


Tuy nhiên để các dân tộc có thể tiếp tục phát huy được truyền thống đoàn kết
quý báu đã được vun đắp trong lịch sử thì điều kiện tiên quyết là Đảng và Nhà
nước ta phải xây dựng được một hệ thống chính sách đoàn kết dân tộc đúng đắn,
kịp thời. Hệ thống chính sách này tác động vào quan hệ dân tộc, nhằm tạo điều
kiện cho sự tương trợ, giúp đỡ nhau và đảm bảo sự bình đẳng thực sự giữa các dân
tộc ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở điều kiện
tiên quyết đó, hệ thống chính sách này nhằm làm cho mối quan hệ giữa các dân tộc
ngày càng trở nên gần gũi, thân thiết, gắn bó.Trong thời gian qua, Đảng và Nhà
nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm tăng cường khối đoàn kết giữa các dân
tộc ở nước ta. Việc thực hiện các chính sách đã đem lại những kết quả tốt đẹp đáng
ghi nhận, kinh tế phát triển, đời sống đồng bào các dân tộc được nâng cao hơn,
chính trị ổn định, chất lượng giáo dục, y tế đã có nhiều tiến bộ, bản sắc văn hóa
được giữ gìn và phát huy, an ninh, quốc phòng được giữ vững... Những biểu hiện
đó đã cho thấy những chính sách của Đảng và Nhà nước đã tác động tích cực tới
việc củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước
ta.
Trước ý nghĩa to lớn và vai trò đặc biệt quan trọng của việc củng cố, tăng
cường khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta trong tình hình thế giới và trong
nước có nhiều biến đổi hiện nay, trước những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện
chính sách đoàn kết dân tộc của. Đảng ta hiện nay, đồng thời với niềm đam mê
nghiên cứu vấn đề này của bản thân tôi lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Cơ sở lý luận và phương pháp luận:

Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và đoàn kết dân tộc.
Phương pháp luận: Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích, tổng
hợp, so sánh…
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Để đảm bảo và tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc,
Đảng và Nhà nước ta cần xây dựng hệ thống chính sách đúng đắn và phù hợp.
Chính sách đoàn kết các dân tộc và kết quả thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là đối tượng nghiên cứu của đề tài này.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu vấn đề dân tộc ở cấp độ hẹp tức dân tộc
– tộc người và nghiên cứu ở nước ta trong những năm đổi mới (giai đoạn từ Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay).
2


4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu: Khái quát những quan điểm, chính sách cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta về đoàn kết các dân tộc và kết quả thực hiện quan điểm,
chính sách đó ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của chính sách đoàn kết các dân tộc.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu trên, tiểu luận cần giải quyết một
số nhiệm vụ sau: Chỉ ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để xây dựng chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về đoàn kết các dân tộc và những nội dung cơ bản trong
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đoàn kết các dân tộc. Khái quát kết quả
việc thực hiện chính sách đoàn kết các dân tộc ở nước ta trong thời gian qua. Đề
xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả chính sách đoàn kết các
dân tộc ở nước ta hiện nay.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận:
Ý nghĩa lý luận: tiểu luận góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề đoàn kết dân
tộc và chính sách đoàn kết các dân tộc ở nước ta hiện nay.

Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu của tiểu luận có thể dùng làm tư liệu
tham khảo cho những người quan tâm đến lĩnh vực này.
6. Kết cấu của tiểu luận:
Tiểu luận bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và 2
Chương.

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
3


1.1. Cơ sở lý luận để xây dựng chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đoàn
kết dân tộc
1.1.1 Một số khái niệm:
* Khái niệm “dân tộc”:
Khái niệm “Dân tộc”: có hai cấp độ hay hai phương diện khác nhau:
Cấp độ chung phổ quát: Dân tộc – quốc gia: dân tộc đồng nghĩa với quốc gia
(nation) hay đất nước, Tổ quốc, ví dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Đức… Ở đây,
khái niệm dân tộc được dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, làm thành nhân
dân một nước, có một lãnh thổ quốc gia, một nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ
chung và có tâm lý chung biểu hiện trong văn hóa của quốc gia dân tộc. Cấp độ
hẹp hơn: Dân tộc – tộc người (ethnie), thường được dùng như khái niệm công cụ
của các ngành dân tộc học, nhân chủng học, xã hội học, văn hóa học, lịch sử…
Ở đây, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người hình thành, phát triển
trong lịch sử với ba đặc trưng cơ bản đó là có chung một ngôn ngữ tộc người, một
bản sắc văn hóa tộc người và đặc biệt có ý thức tự giác tộc người.
Khái niệm “chính sách”: Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong
đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho
thấy khái niệm chính sách được thể hiện khác nhau, ví dụ: Chính sách là những

sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối
chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra; hoặc Chính sách là các chủ trương và
các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã
hội. Chính sách dân tộc là một hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước tác
động vào các dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, trực tiếp nhất vào các dân tộc
thiểu sốvà miền núi. Chính sách dân tộc có nội dung rất cụ thể: về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…
Chính sách đoàn kết dân tộc là một hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước
ta tác động vào quan hệ dân tộc, nhằm tạo điều kiện cho sự tương trợ, giúp đỡ nhau
và đảm bảo sự bình đẳng thực sự giữa các dân tộc ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở điều kiện tiên quyết đó, hệ thống chính sách
này nhằm làm cho mối quan hệ giữa các dân tộc ngày càng trở nên gần gũi, thân
thiết, gắn bó.
1.1.2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về đoàn kết dân tộc:
Những đóng góp của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn của vấn đề đoàn kết dân tộc là rất quan trọng. Các ông đã đặt nền
tảng để xây dựng khối liên minh công nông, đoàn kết giai cấp vô sản, đoàn kết các
4


dân tộc bị áp bức, tập hợp lực lượng, đưa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đi tới
thắng lợi. Đó là cơ sở để Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam hình
thành và xây dựng nên chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, đoàn kết
các dân tộc nói riêng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong
đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc:
Khái niệm đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh từ rất sớm đã bộc lộ hai nội dung
cơ bản: Đoàn kết các dân tộc trên phạm vi quốc tế.Đoàn kết các dân tộc trong một
quốc gia đa dân tộc. Khi đề cập đến dân tộc ở cấp độ quốc gia, Hồ Chí Minh luôn
kiên định: “Dân tộc Việt Nam là một”, từ đó Người khẳng định đoàn kết dân tộc

phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Khi đề cập dân tộc ở cấp độ tộc người, chủ tịch
Hồ Chí Minh sớm nhận thức đúng vị trí vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc là một nội dung, một bộ phận trong
chiến lược đại đoàn kết của Người –một đóng góp quan trọng và là di sản cách
mạng vô giá của cách mạng nước ta trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc và xây dựng phát triển đất nước. Trongcuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, vì
Chu nghĩa xã hội của nhân dân ta, Người luôn khẳng định đoàn kết giữa các dân
tộc (tộc người) là một yếu tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp cho toàn thể
dân tộc Việt Nam.
1.2.1. Đặc điểm, tình hình các dân tộc ở Việt Nam:
Các dân tộc ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau: Việt Nam là một quốc gia
thống nhất đa dân tộc. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn,
sâu sắc, có truyền thống đoàn kết chặt chẽ. Các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú
trên địa bàn có tầm quan trọng chiến lược về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng
và bảo vệ môi trường sinh thái. Các dân tộc ở nước ta cư trú phân tán và xen kẽ.
Các dân tộc nước ta còn có sự chênh lệch về trình độ phát triển. Sự tác động của
những đặc điểm của các dân tộc ở nước ta tới quá trình xây dựng khối đoàn kết có
tính hai mặt. Bên cạnh những đặc điểm đem đến sự thuận lợi còn có một số yếu tố
đặt ra thách thức, khó khăn nhất định đến quá trình phát huy sức mạnh đoàn kết
giữa các dân tộc ở nước ta. Điều đó cho thấy đặc điểm của các dân tộc là một trong
những căn cứ, cơ sở thực tiễn quan trọng để xây dựng chiến lược nhằm tăng
cường, củng cố khối đoàn kết các dân tộc.
1.2.2. Yêu cầu trong nước và quốc tế:
Yêu cầu trong nước và quốc tế hiện nay yêu cầu nhân dân các dân tộc ở nước ta
phải tăng cường khối đoàn kết thông nhất hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, đây là
5


một trong những cơ sở thực tiễn quan trọng để Đảng và Nhà nước ta xây dựng
chính sách đoàn kết các dân tộc được đúng đắn và hiệu quả.

CHƯƠNG 2:
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Những nội dung cơ bản trong quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về đoàn kết dân tộc:
Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác đoàn kết
các dân tộc, và coi đó là nhân tố quan trọng trong việc phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết dân tộc. Có thể khái quát quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề
dân tộc, đoàn kết dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở những nội dung cơ bản
sau:
2.1.1. Bình đẳng giữa các dân tộc trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội:
Bình đẳng giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc
Mácxít – Lêninnít. Bình đẳng dân tộc là quyền ngang nhau của mọi dân tộc, không
phân biệt đã số hay thiểu số, trình độ phát triển, màu da, chủng tộc. Quyền bình
đẳng giữa các dân tộc được biểu hiện tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, được bảo
đảm bằng pháp lý. Việc pháp luật hóa quyền bình đẳng dân tộc trên phạm vi quốc
gia và quốc tế là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của các dân tộc trên
thế giới chống lại ách áp bức nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế quốc. Ngày nay,
cuộc đấu tranh giành quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên phạm vi toàn thế giới
vẫn phải tiếp tục, vì những âm mưu và thủ đoạn can thiệp vào công việc nội bộ của
các quốc gia, chia rẽ, đàn áp các dân tộc vẫn đang tồn tại trong quan hệ quốc tế.
Bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa – xã hội đảm bảo giữ vững và phát triển văn
hóa của mỗi dân tộc, ngôn ngữ làm phong phú thêm nền văn hóa của cộng đồng
dân tộc. Bình đẳng còn thể hiện ở việc bảo đảm cơ hội phát triển cho các dân tộc.
Quyền phát triển của mọi dân tộc và đảm bảo những điều kiện để thực hiện quyền
phát triển đó là biểu hiện của bình đẳng giữa các dân tộc.
Bình đẳng giữa các dân tộc có liên quan chặt chẽ đến vấn đề bảo đảm quyền lợi
của các dân tộc thiểu số. do lịch sử để lại, các dân tộc thiểu số thường có trình độ
phát triển thấp, nên việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội được xác lập trên cơ sở pháp lý, xóa bỏ mọi đặc quyền riêng có của

mỗi dân tộc, cần tạo điều kiện để đồng bào dân tộc thiếu số có cơ hội phát triển
bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan tâm đến quyền lợi kinh tế và cơ hội phát
6


triển, thực hiện tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau là thực hiện quyền bình đẳng giữa các
dân tộc.
Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc của Đảng ta được xác định ngay từ đầu.
Trong bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi hội nghị Vécxay năm 1919, Nguyễn
Ái Quốc đã yêu cầu đảm bảo quyền bình đẳng “cho người bản xứ cũng được
hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu ”. Chánh cương vắn
tắt và sách lượng vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại ngày
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; Luận cương cách mạng tư sản dân quyền tháng
10 năm 1930 của Đảng đã xác định mục tiêu đấu tranh của Đảng là giành quyền
độc lập cho các dân tộc. Trong tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mỡ
đầu trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và Tuyên ngôn dân quyền và nhân
quyền của pháp cho rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, đó
là quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”. Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua năm 1946 ghi rõ: “Tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai,
giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”....Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng (1951)
cũng ghi rõ: “Các dân tộc Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ,
phải đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc”. Các hiến pháp – đạo
luật cơ bản của nước Việt Nam mới, năm 1959, 1980, 1992 đều long trọng tuyên
bố quyền bình đẳng gữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam.
Nguyên tắc quyền bình đẳng giữa các dân tộc của Đảng ta được thể hiện những
quan điểm chính sau: Tất cả các dân tộc đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ;
quyền bình đẳng được đảm bảo trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, có cơ hội phát triển; ngoài quyền bình đẳng về quyền lợi, những công dân là
dân tộc thiểu số được sự giúp đỡ về mọi phương diện để nhanh chống tiến kịp trình

độ chung.
Thống nhất giữa quyền bình đẳng về pháp lý với quyền bình đẳng trên thực tế.
Điều cốt yếu là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, đảm bảo quyền bình đẳng thực tế của các dân tộc thiểu số.
2.1.2. Đoàn kết dân tộc - vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách của
cách mạng Việt Nam:
Đoàn kết các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc của
Đảng ta. Thực chất của vấn đề đoàn kết dân tộc là sự đoàn kết giữa những người
lao động, làm chủ đất nước, làm chủ quê hương, phấn đấu vì mục đích chung vì
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đoàn kết dân tộc
7


trước hết là đoàn kết tất cả giai cấp công nhân của các dân tộc. trong thời đại ngày
nay, giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiến tiến, đấu tranh xóa bỏ
mọi áp bức bóc lột đối với giai cấp của mình và với tất cả nhân dân lao động. trong
phạm vi quốc gia, giai cấp công nhân trong mỗi đoàn kết vì mục tiêu chung là giải
phóng mọi áp bức, bất công đối với dân tộc mình, thiết lập chính quyền nhân dân
lao động. trong phạm vi quốc tế, giai cấp công nhân các nước phải đoàn kết lại để
đấu tranh với giai cấp tư sản đế quốc đã trỡ thành lực lượng quốc tế chống lại giai
cấp vô sản quốc tế.giai cấp công nhân không có lợi ích riêng nào khác là đấu tranh
giải phóng mọi áp bức, bất công đối với mình và với mọi tầng lớp nhân dân lao
động, nên giai cấp công nhân có lợi ích chung với mọi tầng lớp lao động, chiếm
đại bộ phận dân cư trong các dân tộc. Vì vậy, giai cấp công nhân có thể và phải
đoàn kết với các tầng lớp đó. Đoàn kết giai cấp công nhân trong các dân tộc là hạt
nhân để nâng cao đoàn kết các dân tộc.
Đảng ta đã phát triển nguyên tắc đoàn kết giai cấp công nhân tất cả các dân tộc
của Chủ nghĩa Mác – Lênin thành đoàn kết dân tộc, coi đó là một nguyên tắc cơ
bản của chính sách dân tộc, coi đó là một nguyên tắc của chính sách dân tộc. Trong
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiệm

vụ chung của cách mạng là đánh đổ Thực dân, Phong kiến, giành chính quyền về
tay nhân dân. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc khỏi áp bức, nô dịch của nước ngoài là
nhiệm vụ trọng tâm, được đặt lên hàng đầu. Đó là nhiệm vụ vô cùng khó khăn,
gian khổ, quyết liệt, cần huy động được sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam,
mọi giai cấp, tầng lớp, mọi người dân có tinh thần yêu nước, không chịu làm nô lệ
đứng lên giành lại độc lập cho tổ quốc Việt Nam. Vì vậy, trên cơ sở đoàn kết giai
cấp công nhân trong tất cả các dân tộc, đoàn kết các giai cấp để đấu tranh giành
độc lập, tự do cho tổ quốc là động lực to lớn để đi đến thắng lợi. Trong các nguyên
nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam, có nguyên nhân từ phát huy đoàn kết dân
tộc mà Đảng ta đề ra từ lâu.
Đoàn kết các dân tộc để tiến hành công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các
dân tộc trên đất nước Việt Nam được làm chủ vận mệnh của mình, giúp đỡ lẫn
nhau để xây dựng cuộc sống mới. Nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước đã quy tụ trong mọi sức
mạnh mọi thành phần kinh tế. Mâu thuẫn chủ yếu của đất nước trong thời kỳ này là
trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp với nhu cầu nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân. Để giải quyết mâu thuẫn đó cần đoàn kết được tất cả các
8


dân tộc trên đất nước ta. Văn kiện trình Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Đại
đoàn kết toàn dân là động lực to lớn cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn
hiện nay”.
Đoàn kết các dân tộc trong thời đại ngày nay còn là sự phát huy truyền thống
quý báu của dân tộc ta, phát huy sức mạnh dân tộc để giải quyết những vấn đề hiện
tại. Trong lịch sử dân tộc ta, cuộc đấu tranh với thiên tai và nạn ngoại xâm đã cố
kết các dân tộc, trở thành cộng đồng dân tộc. Đoàn kết trở thành đặc điểm của dân
tộc Việt Nam. Đảng phải phát huy cho được truyền thống đó, kết hợp được của dân
tộc và sức mạnh của thời đại để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng đã đề ra.

Nguyên tắc đoàn kết dân tộc được quán triệt ngay từ đầu, trong tất cả các giai
đoạn của cách mạng, thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng và nhà nước ta. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người luôn nhắc nhở đến vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, bắt đầu từ đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong nhân dân, đoàn kết
quốc tế, đồng thời phải giữ gìn đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
Thực hiện đoàn kết các dân tộc là góp phần quan trọng trong việc thực hiện
chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
2.1.3. Các dân tộc tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển:
Sự phát triển lâu dài của lịch sử đã để lại một thực trạng là trong một quốc gia,
sự phát triển của các dân tộc không đều nhau. Có dân tộc phát triển ở trình độ phát
triển kinh tế - xã hội cao hơn; ngược lại, có dân tộc còn đang ở trình độ phát triển
kinh tế - xã hội thấp. Thông thường các dân tộc đa số có có trình độ phát triển cao
hơn. Tuy nhiên, cũng có trường hợp các dân tộc thiểu số, trong một thời kỳ nhất
định, có sự phát triển nhảy vọt và chiếm địa vị thống trị xã hội. sự không đồng đều
của trình độ phát triển đặt ra một thức tế trong mối quan hệ giữa các dân tộc phát
triển trước các dân tộc phát triển ở trình độ thấp.
Nội dung của tương trợ giúp đỡ lẫn nhau đã bao hàm sự giúp đỡ của dân tộc
này với dân tộc khác, không phải chỉ sự giúp đỡ một chiều. Những đặc điểm về
dân tộc, địa bàn cư trú, bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc của mỗi dân tộc đã
tạo ra cho mỗi dân tộc những điều kiện giúp đỡ dân tộc khác và ngược lại nhận sự
giúp đỡ của dân tộc khác để phát triển, đó là nội dung cơ bản của nguyên tắc này.
Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn, dân số đông hơn, sống ở
vùng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn so với các dân tộc thiểu số sống ở vùng cao,
vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, sự quan tâm giúp đỡ về mọi phương diện đối với những
9


dân tộc thiểu số là cần thiết, điều này không trái nguyên tắc tương trợ lẫn nhau,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “giúp người chính là giúp mình”.
Trong sự giúp đỡ các dân tộc có điều kiện phát triển khó khăn, vai trò của nhà
nước là hết sức quan trọng. Nhà nước quán triệt được nguyên tắc này sẽ đề ra được
đường lối , chủ trương, chính sách, thực hiện trong các kế hoạch kinh tế - xã hội,
đầu tư các chính sách ưu đãi về giáo dục – đào tạo, y tế, tạo điều kiện tốt hơn cho
các dân tộc thiểu số tự vươn lên. Mặt khác, sự quan tâm của các đoàn thể quần
chúng, các ngành, các đơn vị kinh tế nhà nước và toàn thể nhân dân trong việc thực
hiện nguyên tắc này có tầm quan trong to lớn, nhất là trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện bình đẵng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là
để các dân tộc cùng phát triển, quyền phát triển là quyền của mỗi dân tộc. trong
phạm vi quốc gia, quyền phát triển của các dân tộc được thể hiện bằng các chính
sách và giải pháp phù hợp để các dân tộc có điều kiện phát triển vươn lên cùng với
các dân tộc khác. Thực hiện quyền tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự
do của tất cả mọi người. Sự phát triển của dân tộc này là điều kiện và thúc đẩy sự
phát triển của các dân tộc khác, nhà nước phải tạo điều kiện cho sự phát triển tự do
đó. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đã hình thành thị trường thống nhất.
mỗi đân tộc dù trình độ phát triển cao hay thấp đều tham gia vào quan hệ thị
trường, đều là bộ phận của nền kinh tế quốc dân, bộ phận của cộng đồng dân tộc và
có quan hệ qua lại, hữu cơ gắn bó với nhau. Sự phát triển của dân tộc này là điều
kiện cho sự phát triển của dân tộc khác trên mọi lĩnh vực. Vì vậy, phải tạo điều
kiện để các dân tộc cùng phát triển, đoàn kết, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, cùng xây
dựng nền kinh tế quốc dân thống nhất, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Các dân tộc cùng phát triển không có nghĩa là để các dân tộc tự phát triển với
những điều kiện hiện có của mình. Các dân tộc có điều kiện phát triển khó khăn
cần được ưu tiên, tao thêm điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh hơn, đuổi kịp
các dân tộc có trình độ phát triển cao hơn. Quan điểm “để cho miền núi tiến kịp
miền xuôi” bao hàm yêu cầu tạo điều kiện để các dân tộc sống ở miền núi phát
triển nhanh hơn, tạo sự phát triển đồng đều giữa các dân tộc.

Trong điều kiện nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường rất cần chú ý
những tác động tự phát của nó đến với đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh việc
tác động cả tích cực và tiêu cực đến đời sống vật chất là những tác động đến đời
sống văn hóa tinh thần của các dân tộc. Nhiều khi, các tác động tiêu cực của nền
10


kinh tế thị trường làm phai nhạt truyền thống quý báu của các dân tộc đã được xây
dựng hàng ngàn đời. Vì vậy, quan niệm phát triển phải được hiểu trên mọi lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội truyền thống...Tuyệt đối hóa lĩnh vực kinh tế, không quan
tâm đến lĩnh vực khác là phiến diện, không đúng với nguyền tắc cùng phát triển
của các dân tộc.
Các nguyên tắc cơ bản trên đây của chính sách dân tộc là sự phát triển sáng tạo
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin giải quyết vấn đề dân tộc trên phạm vi quốc
gia và quốc tế của Đảng và nhà nước ta. Các nguyên tắc có mối quan hệ với nhau,
được thực hiện nhất quán trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, phù
hợp với đặc điểm của cộng đồng dân tộc Việt Nam và đã phát huy truyền thống
đoàn kết các dân tộc trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Từ
những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đã
hình thành và xây dựng nên một hệ thống các văn bản pháp luật về đoàn kết, tương
trợ, giúp nhau cùng phát triển trong cộng đồng. Đây có thể coi là cơ sở pháp lý
chắc chắn giúp cho khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta ngày càng được củng
cố và phát huy mạnh mẽ.
2.2. Kết quả việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay:
Sau hơn hai mươi năm, việc thể chế hóa và cụ thể hóa đường lối đổi mới của
Đảng và pháp luật của Nhà nước ta liên quan đến công tác dân tộc và chính sách
đoàn kết dân tộc đã được thực hiện có hiệu quả. Nhờ có những chính sách của
Đảng và Nhà nước, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta đã tiếp tục
được duy trì, củng cố và phát huy sức mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng
mới đặt ra. Sức mạnh của khối đoàn kết giữa các dân tộc được thể hiện thông qua

việc chúng ta đã thực hiện thắng lợi nhiều mục tiêu và đạt được nhiều thành tựu
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: Tình hình chính trị, trật tự an toàn xã
hội cơ bản đã được ổn định, an ninh - quốc phòng được giữ vững. Quyền bình
đẳng giữa các dân tộc cơ bản đã được Hiến pháp xác định và được thể hiện trên
mọi lĩnh vực xã hội. Kinh tế đất nước có những bước phát triển vượt bậc, đời sống
của nhân dân về cơ bản được nâng lên. Nền kinh tế nhiều thành phần ở miền núi và
vùng đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được hình thành và phát triển, cơ cấu
kinh tế đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội và đời sống nhân dân nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiển rõ
rệt. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn. Mặt bằng dân trí đã được
nâng lên, sự nghiệp giáo dục vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển mạnh.
11


Bản sắc văn hóa các dân tộc được gìn giữ và phát huy. Việc chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa được quan tâm hơn...
Những kết quả này đã chứng minh rằng chính sách đoàn kết các dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta thực sự đi vào cuộc sống; đã góp phần quyết định trong việc
tăng cường khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta thêm chặt chẽ, hùng mạnh.
Những thành tựu đạt được trong các hoạt động kinh tế đã nâng cao từng bước đời
sống của đồng bào các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số, từ đó củng cố chặt chẽ
lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Kết quả này cũng
minh chứng một điều rằng: Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam đã phát huy
được truyền thống tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và ý thức sâu
sắc được sức mạnh của truyền thống đó. Đồng thời, tinh thần đoàn kết tương trợ
lẫn nhau của đồng bào dân tộc miền núi cũng được đẩy mạnh hơn nữa, cùng nhau
góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của cả nước, kinh tế vùng đồng bào dân tộc
thiểu số còn nhiều khó khăn, chậm phát triển, tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn còn cao. Và
mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc rút ngắn khoảng cách

giữa dân tộc thiểu số và dân tộc đa số nhưng trên thực tế, sự phân cực giàu nghèo
có xu hướng tăng lên. Tình hình đó đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta phải xây dựng
được một hệ thống chính sách đúng đắn và phù hợp nhằm tạo ra cơ hội cao hơn
nữa cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
2.3. Củng cố hệ thống chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn
xã hội:
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới nói chung và chính sách đoàn kết các dân tộc
nói riêng của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực
chính trị, an ninh – quốc phòng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.
Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực
quốc phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung
yếu, phức tạp. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được
triển khai rộng rãi. Sự phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng
hơn. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây dựng theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng
tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
2.4. Đẩy mạnh hoạt động giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, quan tâm
chăm sóc sức khỏe đồng bào các dân tộc:
12


Công tác giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số
trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Điều này sẽ góp phần
quan trọng trong việc giúp đồng bào tiếp thu khoa học kĩ thuật, cách làm ăn mới,
cũng như gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống, đẩy lùi các tệ nạn xã hội một
cách hiệu quả hơn.Những thành tựu trong lĩnh vực giáo dục đào tạo cho thấy Đảng
và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến công tác nâng cao trình độ dân trí cho đồng
bào các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số. Người dân từ chỗ được học hỏi,
hiểu biết về các kiến thức, kỹ năng trong lao động sản xuất, trong khoa học kỹ

thuật sẽ ứng dụng vào thực tiễn, qua đó giúp nâng cao năng suất, ổn định cuộc
sống, tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Dân trí được mở
mang cũng giúp cho đồng bào các dân tộc hơn bao giờ hết ý thức được vai trò và
sức mạnh của khối đoàn kết các dân tộc ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó,
họ có ý thức và trách nhiệm hơn trong việc củng cố, xây dựng và phát huy truyền
thống đoàn kết giữa các dân tộc.
Tóm lại, chất lượng giáo dục được nâng lên đã góp phần vô cùng quan trọng
trong việc tăng cường khối đoàn kết giữa các dân tộc. Đồng bào được trang bị đầy
đủ hơn các kiến thức về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng
để hiểu đúng về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, hiểu
được tình hình trong nước và trên thế giới, nâng cao ý thức trách nhiệm của mình
trong xây dựng khối đoàn kết đồng thời cảnh giác trước âm mưu phá hoại của kẻ
thù, được học hỏi các kiến thức, kỹ năng trong lao động sản xuất để nâng cao mức
sống… Nhờ đó, khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta ngày càng được củng cố
và tăng cường hơn nữa, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới đặt ra.
2.5. Khuyến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chính sách
đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay:
Thứ nhất: cần nâng cao nhận thức của người dân về vị trí, vai trò của khối
đoàn kết các dân tộc, về chính sách đoàn kết các dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai: cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách dân tộc nói chung, chính
sách đoàn kết các dân tộc nói riêng.
Thứ ba: cần kiện toàn bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc, nâng cao đời sống
văn hóa, đào tạo đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ làm công tác Mặt
trận, người có uy tín trong đồng bào.
KẾT LUẬN
13


Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, tăng cường và mở rộng khối đoàn

kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, các dân tộc tương trợ, giúp
nhau trên nguyên tắc bình đẳng cùng tiến bộ. Thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã chứng minh đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn và nhất
quán, do đó đã thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
giành nhiều thành tựu quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, thực hiện chính sách đoàn kết các
dân tộc của Đảng và Nhà nước, khối đại đoàn kết dân tộc nói chung và đoàn kết
các dân tộc nói riêng ở nước ta tiếp tục được củng cố và phát huy, mối quan hệ
giữa các dân tộc ngày càng thắm thiết, keo sơn, sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các dân tộc đã mang lại hiệu quả thiết thực hơn... Nhờ chính sách đoàn kết các dân
tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã phát huy được tối đa sức mạnh
nội lực của dân tộc để thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong quá trình xây dựng và
đổi mới đất nước. Bằng sức mạnh ấy, bộ mặt đất nước ta, đặc biệt là các dân tộc
thiểu số trong những năm qua đã có nhiều khởi sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản đã được Hiến pháp xác định
và được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội và đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; mặt bằng dân trí được nâng lên; văn
hóa truyền thống của đồng bào được giữ gìn, phát huy; hệ thống chính trị, trật tự an
toàn xã hội, an ninh, quốc phòng ổn định, vững mạnh…
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đưa chính sách đoàn kết các dân tộc của
Đảng và Nhà nước vào trong thực tiễn vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập dẫn
đến tính hiệu quả của chính sách đạt được chưa cao. Về cơ bản, đời sống của đồng
bào dân tộc thiểu số vẫn còn gặp nhiều khó khăn, khoảng cách chênh lệch về trình
độ phát triển giữa dân tộc thiểu số và dân tộc đa số vẫn là khá lớn, thậm chí có xu
hướng sâu rộng hơn. Hệ thống chính trị cơ sở ở nhiều vùng dân tộc thiểu số vẫn
còn những yếu kém, bất cập. Một số giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các
dân tộc ngày càng mai một dần. Nhiều bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp chưa
được quan tâm giữ gìn, bảo tồn đúng mức và đúng cách nên đang đứng trước nguy
cơ suy giảm rõ rệt. Công tác giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nghề chưa được
quan tâm thích đáng, chưa có sự đa dạng về hình thức, mô hình. Tuy bước đầu đã

có những cải thiện so với trước đây, song công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng
bào dân tộc thiểu số còn thấp xa so với mức chung của cả nước, đặc biệt là công
14


tác chăm sóc sức khỏe ban đầu... Do đó, đã có đôi lúc, đôi khi tình đoàn kết giữa
các dân tộc ở nước ta cũng đã bị suy yếu.
Tình hình đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta nhiệm vụ cần có những chính sách
cụ thể, phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng dân tộc, từng vùng dân tộc để có
thể nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc, qua đó giữ gìn, phát huy và tăng
cường hơn nữa sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc của nhân dân ta, sẵn sàng đáp
ứng yêu cầu cách mạng
mới đặt ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách dân
tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam (Chương trình chuyên đề dùng cho cán bộ, đảng
viên cơ sở), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX (2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
3. Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến
mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Phan Hữu Dật, Triệu Quang Tiến, Vũ Văn Quân...(2006), Xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá - luận
cứ và giải pháp, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
5. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Lê Thị Ngọc Hà (2005), Chính sách dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc,
Tạp chí Dân tộc học, Số 2, trang 73 - 74.
9. Vi Hoàng (chủ biên) (2001), Tìm hiểu chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về dân tộc và miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

15


MỤC LỤC
Mở
đầu.......................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của tiểu luận.............................................................................1
2. Cơ sở lý luận và phương pháp luận.................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................2
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận.......................................................3
6. Kết cấu của tiểu luận.......................................................................................3
Chương 1: cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng chính sách của Đảng và nhà
nước ta về đoàn kết dân tộc.......................................................................................4
1.1. Cơ sở lý luận để xây dựng chính sách của Đảng và nhà nước ta về đoàn kết
dân tộc.......................................................................................................................4
1.1.1. Khái niệm........................................................................................................4
16


1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin về đoàn kết dân tộc............................5
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc....................................................5
1.2.1. Đặc điểm, tình hình các dân tộc Việt Nam......................................................5
1.2.2. Yêu cầu trong nước và quốc tế........................................................................6
Chương 2: Thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng và nhà nước ta hiện

nay.............................................................................................................................6
2.1. Những nội dung cơ bản trong quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước ta
về đoàn kết dân tộc....................................................................................................6
2.1.1. Bình đẳng giữa các dân tộc trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.....................6
2.1.2. Đoàn kết dân tộc vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách
mạng Việt Nam..........................................................................................................8
2.1.3. Các dân tộc tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển.......................................9
2.2. Kết quả thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay..................11
2.3. Củng cố hệ thống chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã
hội............................................................................................................................12
2.4. Đẩy mạnh hoạt động giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, quan tâm chăm
sóc sức khỏe đồng bào dân tộc................................................................................13
2.5. Khuyến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả chính sách đoàn
kết dân tộc ở nước ta hiện nay.................................................................................14
Kết luận...................................................................................................................14
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................15

17



×