Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Câu hỏi ôn tập đường lối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.11 KB, 37 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN ĐƯỜNG LỐI
Câu 1: Vì sao thời kỳ trước đổi mới khi tiến hành CNH thì Đảng ta lại ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng?
Trả lời:
Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng
ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác
chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Trước hết trong hoàn cảnh chiến tranh 1955-1975 xuất phát điểm là một nền kinh tế thấp
kém và sau khi giành được độc lập ở miền bắc --> do đó sự lựa chọn chỉ có thể là mô hình công
nghiệp hóa cổ điển , phát triển công nghiệp nặng và làm nền tảng vật chất cho nền độc lập tự chủ
thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn , không tập trung sức giải
quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nông nghiệp
vẫn chưa thật sự coi là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ.
- Trên thế giới liên tiếp xảy ra những biến động lớn với sự sụp đổ của các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu, sự tan ra ở Liên Xô, gây tiêu cực về nhiều đến tình hình nước ta. Việt Nam phụ
thuộc qua nhiều vào đường lối chính trị , tư tưởng và tổ chức của các nước XHCN đặc biệt là
Liên Xô.
- Chiến tranh lạnh và phong tỏa còn nhằm vào các nước XHCN, thêm vào đó , Mỹ vẫn kéo
dài cấm vận về kinh tế chông Việt Nam ( cho đên đầu năm 1994),gây khó khăn cho sự phát triển
bình thường của đất nước ---> không tiếp thu được luồng tư tưởng mới , quá đề cao CNXH hiện
thực , đánh giá thấp tư bản chủ nghĩa đó là sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy
luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn hóa, muốn
thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường
đầu tiên.
- Mô hình CNH XHCN và cơ chế kế hoạch hóa tập trung ngay từ khi ra đời đã mang sẵn
mầm bệnh. Nó chỉ được chiến tranh tạm thời che lấp và làm cho trầm trọng thêm.


• Do nước ta học theo mô hình của các nước Đông Âu
• Do đất nước có chiến tranh


• Điểm xuất phát của nước ta khi tiến hành xây dựng đất nước vẫn còn thấp
• Vai trò của Công nghiệp nặng
Câu 2: Vì sao khi tiến hành CNH - HĐH thời kỳ đổi mới ta phải gắn với bảo vệ độc
lập chủ quyền?
Trả lời:
• Độc lập chủ quyền là 1 quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc, xu hướng hòa bình

hợp tác
• Tình hình KT-CT nước ta cơ bản ổn định nhưng vẫn còn nhiều bất ổn.
• Những cường quốc chi phối các nước nhỏ.

Câu 3: Phân tích những giải pháp đẩy mạnh CNH – HĐH thời kỳ đổi mới.
Trả lời:
CNH – HĐH là cả một quá trình lâu dài, cần phải được thực hiện thông qua nhiều bước
hay nhiều giai đoạn. Tuy nhiên ở nước ta, từ trước đến nay những tư tưởng, quan điểm của Đảng
về CNH – HĐH về cơ bản, mới chỉ mang tính định hướng chung, lộ trình, bước đi của quá trình
CNH – HĐH, những nhiệm vụ trọng tâm của từng giai đoạn chưa được xác định rõ ràng. Vì vậy,
tại Đại hội XII, Đảng ta đã có sự bổ sung về việc phân chia các bước đi của CNH – HĐH. Đó là:
CNH, HĐH đất nước tiến hành qua 3 bước: tạo tiền đề, điều kiện để CNH, HĐH; đẩy mạnh
CNH, HĐH; và nâng cao chất lượng CNH, HĐH. Trong 5 năm tới, tiếp tục đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước,… Đây là sự bổ sung rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong chỉ đạo và tổ chức
thực hiện đường lối CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Trên thế giới cũng đã có sự phân chia các giai đoạn của CNH, HĐH để làm cơ sở cho việc
xác định các mục tiêu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn. Sự phân chia này giúp cho chúng ta nhận
thức rõ hơn nước ta đang ở giai đoạn nào của quá trình CNH, HDH; từ đó xác định mục tiêu, các
chỉ tiêu kt – xh, nội dung, biện pháp, phương thức CNH, HĐH phù hợp, khả thi trong từng giai
đoạn.


Đây cũng là cơ sở để hoạch định chiến lược phát triển các ngành CN, nhất là CN nền tảng,

CN hỗ trợ; giải quyết mối quan hệ giữa CNH và đô thị hóa, giữa phát triển NN và CN; những
nhiệm vụ trọng tâm trong từng giai đoạn.
 Một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đại hội XII xác định: “Trong 5 năm tới tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chú trọng
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Quán triệt quan điểm của Đại hội XII về
CNH, HĐH đất nước, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp
sau:
Một là,thể chế hóa, hiện thực hóa chủ trương “khoa học - công nghệ là nền tảng, động lực
của CNH, HĐH; đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và chủ động tích cực
hội nhập quốc tế”. Những quan điểm trên đã được Đảng ta nhấn mạnh qua nhiều kỳ Đại hội,
song do nội hàm chưa được thể chế hóa, pháp quy hóa, nên hiệu lực thực tế còn thấp. Tình trạng
tùy tiện tiếp nhận chuyển giao công nghệ và nhập khẩu công nghệ lạc hậu còn phổ biến trong
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
Hai là, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, gắn với đẩy mạnh hợp tác quốc tế
nhằm tạo nguồn vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Một trong những lợi thế lớn nhất của
nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới và nguồn lao động có trí tuệ, giàu sức sáng tạo, đang trong
thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Ngoài ra, các thành tựu khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức và
các mối quan hệ hợp tác quốc tế, cùng những hiệp định thương mại với các đối tác, trong đó
nhiều nước có nguồn công nghệ hàng đầu thế giới, chính là những ngoại lực quan trọng mà Việt
Nam có thể khai thác.
Để phát huy hiệu quả các nguồn nội lực và ngoại lực cho quá trình CNH, HĐH, trong thời
gian tới, cần:
- Tiếp tục phát triển những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là lao động
chất lượng cao, phân bố lao động hợp lý, đẩy mạnh chuyển dịch lao động từ lĩnh vực nông
nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.


- Thực hiện hiệu quả chiến lược xuất khẩu lao động theo chương trình mục tiêu, qua đó tạo

nguồn vốn và nhân lực chất lượng cao cho CNH, , khắc phục tình trạng xuất khẩu lao động kiểu
“4D”như hiện nay.
- Tổ chức các khóa đào tạo về khởi nghiệp, kỹ năng nghề và ngoại ngữ theo chương trình
mục tiêu cho các đối tượng đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên song chưa tìm được việc làm
phù hợp, nhằm biến đội ngũ trí thức này thành đội ngũ lao động chất lượng cao.
- Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, trước hết là tổ chức lại sản xuất nông
nghiệp theo mô hình hợp tác xã kiểu mới. Đẩy mạnh hợp tác và tiếp nhận chuyển giao công nghệ
sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của Nhật Bản, Israen nhằm khai thác, phát huy tiềm năng,
lợi thế của đất nước, tạo ra nguồn nông sản chất lượng cao, sản lượng lớn, đáp ứng nhu cầu xuất
khẩu.
Ba là, đổi mới giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời phát
triển, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ năng lượng sạch, công nghệ thông tin phục vụ CNH, HĐH đất nước. Cụ thể là:
- Xác định rõ nhu cầu và mục tiêu nhân lực chất lượng cao cho quá trình CNH, HĐH giai
đoạn 2016-2020 và 2021-2025, để thực hiện đổi mới giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý, đầu tư đúng mức nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tề về khoa học
- công nghệ. Hiện đại hóa những ngành công nghiệp cơ khí chế tạo, chế biến, lắp máy, đóng tàu,
công nghiệp thông tin, công nghiệp quốc phòng, an ninh,... mà nước ta đang có nhu cầu lớn và
có tiềm năng, lợi thế phát triển.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư nhằm sớm
đưa 3 khu công nghiệp công nghệ cao của đất nước đi vào hoạt động hiệu quả, phát huy vai trò
nền tảng, động lực của khoa học - công nghệ đối với quá trình CNH, HĐH đất nước.
Bốn là, đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ và cải cách thuế, phí, thủ tục hành chính
nhằm thu hút đầu tư, giải quyết việc làm cho lao động, nâng cao tỷ lệ lấp đầy các khu công
nghiệp trên cả nước, nhất là ở khu vực nông thôn. Phấn đấu đến năm 2020 có một triệu doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta.


Câu 4: Phân tích những mặt tích cực và tiêu cực kinh tế thị trường theo hướng Xã hội

chủ nghĩa
Trả lời:
 Tích cực
- Con người:
• Đề cao trách nhiệm cá nhân, gắn liền động cơ và hiệu quả. Nó buộc người ta phải

khắc phục lối tư duy cảm tính, chủ quan và phải rèn luyện, nâng cao phương thức tư duy
lý tính, lành mạnh. Mục đích phải trên cơ sở hiện thực và đi đôi với những biện pháp để
hiện thực hóa trong thực tế.
• Hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong con người, rèn luyện con người ý thức
lao động, bản lĩnh, năng động, thích nghi và sáng tạo.
- Văn hóa
• Các chính sách kinh tế mới sẽ tạo ra cơ sở kinh tế-xã hội mới cho các hoạt động

văn hóa tiềm ẩn được phát triển đa dạng, phong phú
• Thúc đẩy hoạt động văn hóa theo hướng xã hội hóa. Hoạt động văn hóa sẽ thu hút
sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.
- Kinh tế
• Kinh tế thị trường chấp nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau, các thành phần

kinh tế tác động và bình đẳng với nhau trong thực hiện các quyền kinh tế của mình.
 Tiêu cực
- Tổ chức
• Quá trình xây dựng, hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chậm,

chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
• Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu
hiệu quả. Tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu vẫn nghiêm trọng.



• Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Vấn

đề sở hữu, quản lý và phân phối trong DNNN chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự
phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước
• Hệ thống an ninh xã hội còn sơ khai. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội và bảo vệ
môi trường chưa được giải quyết tốt.
• Phân bố nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Cơ chế “xin – cho” chưa được xóa bỏ
triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân.
- Xã hội
• Kinh tế thị trường chú trọng đến nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý

đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
• Kinh tế thị trường đặt lợi nhuận lên hàng đầu nên nó không giải quyết được cái
gọi là “Hàng hóa công cộng” (đường xá, các công trình y tế, văn hóa, giáo dục…)
• Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt, khoảng cách giàu
nghèo ngày càng tăng: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã hội
- Thị trường
• Thị trường đất đai còn nhiều vướng mắc.
• Thị trường tài chính phát triển không cân đối, thị trường chứng khoán thiếu chiều

sâu, chưa trở thành một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế,
• Thị trường khoa học công nghệ chậm phát triển.
• Thị trường lao động chất lượng nguồn nhân lực thấp cùng với sự bất hợp lý về
tiền lương giữa các khu vực đang là rào cản lớn cho việc chuyển dịch lao động đến những
lĩnh vực thiết yếu trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công
• Thể chế kinh tế thị trường là một chỉnh thể gồm nhiều loại thị trường vận động
đồng bộ
=> Một loại thị trường không phát triển sẽ kìm giữ sự vận động của các thị trường khác.
Câu 5: Chỉ ra những điểm khác nhau giữa kttt TBCN và kttt XHCN
Trả lời: So sánh

Tư bản chủ nghĩa
1. Chế độ sở hữu
Tồn tại 2 hình thức sở hữu:

Xã hội chủ nghĩa
Có 3 hình thức sở hữu đó là:


_ Sở hữu tư nhân: doanh nghiệp cá thể có quy
mô vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân có liên
kết.
_ Sở hữu công: doanh nghiệp do nhà nước
quản lý.
Xem quyền tư hữu đối với phương tiện sản
xuất là thiêng liêng được xã hội và pháp luật
bảo vệ.

_ Sở hữu toàn dân (Các nông trường quốc
doanh quy mô lớn)
_ Sở hữu tập thể
_ Sở hữu tư nhân

Trên cơ sở 3 chế độ sở hữu nêu trên, hình
thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
Trong đó hình thức sở hữu tư nhân đóng vai trò nhân), kinh tế tư bản nhà nước , kinh tế có vốn
thống trị, quyết định đến việc thực hiện những đầu tư nước ngoài.
nhiệm vụ chính của nền kinh tế. Các thành quả
kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân tạo nên Trong đó sở hữu nhà nước( sở hữu toàn dân)

chiếm từ 80%- 85% GDP. Thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo và quyết định đến nền
nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn đề xã kinh tế của đất nước. Về lâu dài, kinh tế nhà
hội đảm bảo công ăn việc làm cho lực lượng nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
lao động.
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
=> Mục tiêu vì lợi nhuận.
dân.
=> Mục tiêu không vì lợi nhuận.
2. Hệ thống giá trị
Sự chi phối sản xuất và tiêu dùng bởi giá cả thị
trường.
Sản xuất và tiêu dùng điều theo dấu hiệu của
giá cả. Giá cả là dấu hiệu để phân bố nguồn lực
và quyết định sản xuất.
Cơ sở định giá: do thị trường quyết định (qua
quan hệ cung cầu)
Các nhà sản xuất phải là nhà chấp nhận giá
Giá trị hàng hóa được phản ánh đúng.
3. Hệ thống kinh tế
Cạnh tranh và quyền tự do sản xuất kd của nhà
sx. Đây cũng chính là yếu tố tạo nên môi
trường cạnh tranh hoàn hỏa (ra vào thị trường
một cách tự do)
4. Cơ sở điều tiết hoạt động kinh tế
Chủ nghĩa cá nhân và khách hàng là thượng đế
nên tự do cạnh tranh
+ Chủ nghĩa cá nhân: là đặt quyền lợi cá nhân
lên trên hết, lên trên quyền lợi của chính phủ
+ Khách hàng là thượng đế: việc khách hàng
bỏ tiền ra mua hàng đồng nghĩa với việc họ bỏ

phiếu cho sự tồn tại và phát triển của nhà sản
xuất đó.
5. Chế độ quản lý
Sự can thiệp hạn chế của chính phủ vào các

Hệ thống giá cả không theo thị trường và được
quyết định bởi ý muốn chủ quan của nhà nước.
Tồn tại 2 loại giá:
Giá trị sản xuất: được dùng để cá nhân sản xuất
trao đổi với nhau, vào giữa các nhà sản xuất
với các thương nghiệp.
Mức giá này được nhà nước đặt ra dựa theo
mục tiêu ổn định kinh tế, nên đôi khi không
phản ánh đúng giá trị của hàng hóa.
Hệ thống kế hoặc điều tiết các hoạt động
KTXH nên tập trung phân bố nguồn lực phát ra
từ mệnh lệnh từ trên xuống dưới.
Quyền làm chủ tập thể, mình vì mọi người và
mọi người vì mình nên cơ chế này sẽ dễ làm xh
tiến lên hoặc lùi là phục thuộc và xã hội đó có
tốt hay không.

- Có sự can thiệp một cách toàn diện của chính


hoạt động kinh tế “nhà nước nằm trên TBCN”
nhà nước không muốn can thiệp vào nên kinh
tế mà chỉ muốn can thiệp vào những lĩnh vực
mà cả người sản xuất vào người tiêu dùng diều
không làm được( xây dựng luật và chính sách

bảo vệ người sản xuất và tiêu dùng).
Các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế
tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh tranh, động lực
lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị
trường lao động, định hướng, bất bình đẳng
trong phân phối của cải là các khái niệm gắn
liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

phủ vào hoạt động kinh tế
Nhà nước nằm trong lòng xã hội chủ nghĩa.
Nghĩa là Chính phủ là chủ sở hữu nguồn lực, là
chủ quản các hoạt động KTXH, là chủ sở hữu
các lĩnh vực ngân hàng- tài chính phân phối
thu nhập.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo:
+ Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo
tiến độ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển .
+ Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt.
- Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu
mối quan hệ giữa tăng cường với đảm bảo an
sinh và công bằng xã hội.

=> Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối
theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng xhcn, nó là hình thức thực
hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. vì thế phân phối theo lao động được xác định là hinhg
thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xh.


_Giống nhau: Những vấn đề cơ bản của nền kt do thị trường quyết định. Nói cách khác đó
là nền kt hàng hóa chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường.
Câu 6: Vì sao trong quá trình phát triển kttt thì Đảng ta chủ trương phải quan tâm
bảo vệ môi trường.
Trả lời:
Môi trường tự nhiên (trong đó có cả tài nguyên) và phát triển kinh tế - xã hội luôn có mối
quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất và có vai trò quyết
định đối với sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa
phương.


Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên
các biến đổi của môi trường. Môi trường tự nhiên đồng thời tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên - đối tượng của sự phát triển kinh tế xã hội,
hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trong khu vực.
Sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, hoạt động của quá nhiều các phương tiện giao thông
vận tải đã tạo ra một lượng lớn chất thải độc hại vào môi trường (đặc biệt là khí thải). Ở các nước
nghèo chỉ có con đường duy nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng sản, đất
đai...) mà không có khả năng hoàn phục. Chính nghèo đói là thách thức lớn nhất đối với công tác
bảo vệ môi trường hiện nay ở nước ta.
Nhận thức rõ điều đó, chỉ thị nêu rõ: “Bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn của đất nước,
của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo
ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới”. Quan điểm đó
tiếp tục được Đảng ta khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng IX, X và tại Đại hội lần thứ
XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
toàn xã hội và của mọi công dân”. Hoàn thiện pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường, có chế
tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm, xử lý triệt để những điểm ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng và ngăn chặn không để phát sinh thêm. Như vậy, bảo vệ môi trường có ý nghĩa hết
sức lớn lao đối với sự nghiệp phát triển của đất nước.
Câu 7: Phân tích vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong hệ thống

chính trị nước ta.
Trả lời:
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động
trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
a. Mối quan hệ của Đoàn đối với Đảng và nhà nước.
Thanh niên là lực lượng dự bị tin cậy, cánh tay đắc lực của Đảng và của hệ thống chính trị.
Vì vậy, thanh niên cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ngày
càng vững mạnh. Cụ thể:


- Tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước
thật sự trong sạch, vững mạnh.
- Thực hiện một cách có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
- Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, mạnh dạn đấu tranh với những
hành động sai trái, bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và chính đáng của nhân dân.
- Tích cực tham gia và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hăng hái đi đầu trong mọi
lĩnh vực học tập và công tác.
- Tích cực hưởng ứng và tham gia hoạt động trong phong trào của các tổ chức chính trị –
xã hội phát động; trực tiếp là xây dựng tổ chức Đoàn và phong trào của Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh.
c. Đoàn đối với các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đoàn tích cực chủ động, liên kết phối hợp, nhằm quy tụ sức mạnh của cả hệ thống chính
trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đoàn Thanh niên là một thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - một liên minh chính trị rộng lớn, tập hợp lực lượng đại đoàn kết
các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu chung: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
d. Đoàn đối với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Đảng giao cho Đoàn trực tiếp phụ trách, dìu dắt, giáo dục Đội Thiếu niên, nhi đồng. Tại
chương IX, Điều lệ Đoàn ghi rõ: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phụ trách Đội Thiếu

niên Tiền phong Hồ Chí Minh, hướng dẫn thiếu nhi làm theo 5 điều Bác Hồ dạy, phấn đấu trở
thành đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người công dân tốt của đất nước. Phối
hợp với các cơ quan Nhà nước tạo điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính cho hoạt động của Đội.
Câu 8: Thế nào là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân? Bản thân anh chị cần làm gì để phát huy quyền dân chủ trong nhà nước pháp quyền
đó.


Trả lời:
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nhà nước mà mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các cơ quan nhà nước do mình trực tiếp bầu ra, do nhân dân định đoạt, nhân dân
quyết định phương thức tổ chức, xây dựng, và vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm
đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn bộ dân tộc.
Bản thân anh chị cần làm gì để phát huy quyền dân chủ trong nhà nước pháp quyền
đó.

Câu 9: Phân tích quá trình đổi mới tư duy của Đảng về văn hóa từ Đại hội III đến Đại
hội XII
Trả lời:
Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ XII đã hình thành từng bước nhận thức mới về đặc trưng, vai trò, vị trí của nền văn hóa mới
trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
-

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI

Xác định khoa học - kỹ thuật là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế xã hội; có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.



-

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Xác định khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
- Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII, IX, X và nhiều Hội nghị Trung
ương xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của phát triển. Đây là một tầm nhìn mới về văn hóa.
+ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII khẳng định khoa học và giáo dục
đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là
một động lực đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới;
do đó, phải xem sự nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng
đầu để phát huy nhân tố con người - động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
+ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (7/1998): chỉ ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo quá
trình phát triển văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX (01/2004): xác định phát triển văn hóa đồng bộ với
phát triển kinh tế.
+ Nghị quyết Trung ương 10 khóa IX (7/2004): đặt vấn đề bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm
vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không
ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Đây là bước phát triển quan trọng trong
nhận thức của Đảng về vị trí của văn hóa và công tác văn hóa trong quan hệ với các mặt công tác
khác.
Hội nghị Trung ương 10 khóa IX nhận định về sự biến đổi của văn hóa trong quá trình đổi
mới: cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng,
thúc đẩy dân chủ hóa đời sống xã hội, đa dạng hóa thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hóa; do
đó, phạm vi, vai trò của dân chủ hóa - xã hội hóa văn hóa và của cá nhân ngày càng tăng và mở
rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công tác văn hóa của Đảng và Nhà
nước.
- Nghị quyết Đại hội XII nhấn mạnh “giữ gìn và phát huy bản sắc con người và văn hóa
Việt Nam” đó là mối quan hệ mật thiết, sống còn giữa con người với văn hóa trong quá trình phát



triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Đây là mối quan hệ biện chứng, con người tạo ra văn hóa,
đến lượt văn hóa phát triển tạo điều kiện cho con người tiếp tục có điều kiện phát triển hơn trong
lòng cộng đồng, trong lòng dân tộc. Cách mạng nước ta đã chứng tỏ điều này. Nhân tố con người
luôn là trung tâm và động lực của nền văn hóa dân tộc. Mục tiêu phát triển văn hóa là xây dựng
con người Việt Nam “phát triển toàn diện”. Con người là hạt nhân sáng tạo ra văn hóa, đồng thời
cũng là đối tượng hưởng thụ, chịu sự tác động chi phối của chính nền văn hóa đó. Vì thế, Nghị
quyết Đại hội XII nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Hoàn thiện
các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển
nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, tinh thần xã hội, nghĩa vụ công
dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Và, để “hoàn thiện bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc” thì sứ
mệnh của toàn Đảng, toàn dân là phải nổ lực, sáng tạo không ngừng, tăng cường hợp tác giao lưu
quốc tế và tiếp thu có chọn lọc văn hóa của nhân loại để làm cho con người Việt Nam phát triển
đa dạng hơn, văn hóa dân tộc tiếp cận kịp với văn hóa thời đại, được chứa đựng trong nội hàm
của cụm từ “phát triển văn hóa” được nhấn mạnh và lặp đi lặp lại nhiều lần trong Nghị quyết.
Câu 10: Phân tích những giải pháp về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Trả lời:
Để đạt được mục tiêu: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào
lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách”, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong thời gian tới
ngoài nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, chú ý đến kinh tế trang trại và hộ gia đình, Đảng
ta chỉ rõ cần tập trung vào một số khâu chủ yếu sau:
Một là: Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và
phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục
thế hệ trẻ
Trên cơ sở tổng kết xây dựng gia đình văn hóa để phát huy những điểm tích cực, tìm cách
khắc phục những điểm yếu, Đảng ra chỉ rõ, Chính phủ và các bộ, ngành cần phải hoàn
thiện Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, trong đó cần

làm rõ một số nội dung chủ yếu như:


a) Nâng cao nhận thức của toàn xã hội cũng như mỗi cá nhân về vai trò, vị trí đặc biệt của
gia đình đối với xã hội và trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực
trong gia đình, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình. Cấp ủy và chính
quyền các cấp phải đưa nội dung công tác xây dựng văn hóa gia đình và gia đình văn hóa vào
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chương trình kế hoạch công tác hằng năm của các bộ,
ngành, địa phương.
b) Xây dựng gia đình Việt Nam phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống
tốt đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của thời đại về gia đình.
Đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành
viên trong gia đình nhằm hướng tới những phẩm chất của con người Việt Nam mà Đại hội XI
của Đảng đã chỉ ra.
Hai là: Xây dựng gia đình văn hóa phải gắn với các phong trào khác, như xây dựng
khu dân cư văn hóa, làng, xóm văn hóa... Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia
đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp… tạo điều kiện cho mọi người được tiếp cận
với các kiến thức kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học, kỹ thuật và phúc lợi xã hội, giúp các
gia đình có kỹ năng sống, chủ động phòng, chống sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội, kế thừa và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Tại Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình,
nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây
dựng con người Việt Nam. Đây là điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về nhiệm vụ xây dựng,
phát triển nguồn lực con người trong bối cảnh hiện nay. Con người Việt Nam chỉ có thể được
trang bị những phẩm chất về lòng yêu nước, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, tri thức, sức
khỏe, lao động giỏi, sống văn hóa, tình nghĩa… nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó
trước hết là từ mỗi gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Các gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về
sản phẩm của gia đình mình, phải có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho

xã hội những công dân hữu ích. Nhà trường có vai trò rất lớn trong việc đào tạo chiến lược con
người. Phải chịu trách nhiệm trước xã hội về nhiệm vụ “dạy chữ, dạy người”, tạo ra lực lượng
lao động tương lai có chất lượng cao. Cùng với hai chủ thể chính là gia đình, nhà trường thì các


tổ chức đoàn thể khác, cộng đồng dân cư phải chung tay, sát cánh trong chiến lược đào tạo con
người, vì bản chất của con người như C.Mác đã chỉ rõ là Tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Ba là: Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, kế hoạch
hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em
Để mỗi tế bào xã hội mạnh khỏe thì công tác chăm sóc sức khỏe, trước hết là sức khỏe của
bà mẹ, trẻ em, thực hiện gia đình ít con là biện pháp quan trọng cần được quan tâm. Về vấn đề
này, Đảng ta chỉ rõ: Thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì mức sinh hợp
lý, quy mô gia đình ít con. Có chính sách cụ thể bảo đảm tỷ lệ cân bằng giới tính khi sinh. Tổ
chức tuyên truyền nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia của toàn xã hội vào công tác dân
số, kế hoạch hóa gia đình. Làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ, trẻ em,
giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số…
Đồng thời, phải tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác dân số, gia
đình và trẻ em các cấp; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác gia đình.
Bốn là: Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật xây dựng gia đình văn hóa
Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến xây
dựng gia đình văn hóa như: Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000); Luật Bình đẳng giới (năm
2007); Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (năm 2008); Pháp lệnh Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình; Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020... Tuy nhiên,
gia đình luôn vận động và biến đổi theo sự vận động của xã hội, vì vậy, Đảng và Nhà nước cần
tiếp tục ban hành, bổ sung một số chính sách mới phù hợp với điều kiện xây dựng gia đình văn
hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đồng thời, phải đổi mới nội dung và giải pháp
truyền thông về gia đình, nâng cao hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, cùng các kiến thức, kỹ năng về cuộc sống gia đình.
Năm là: Tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ nhằm thực hiện bình đẳng giới
Phụ nữ là một nửa nhân loại, là những người mẹ, người vợ, có vai trò đặc biệt quan trọng

trong xây dựng gia đình văn hóa. Hiện nay, phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng so với
nam giới, do vậy, họ chưa phát huy hết vai trò của bản thân trong xây dựng gia đình, đồng thời
hạn chế sự đóng góp của họ cho toàn xã hội. Phụ nữ cần tiếp tục được giải phóng, được chia sẻ


về công việc gia đình, hỗ trợ về các dịch vụ gia đình để họ có thời gian phát triển sự nghiệp. Phụ
nữ không chỉ được hỗ trợ về công việc gia đình mà còn được tạo điều kiện để nâng cao trình độ,
phát triển cá nhân. Thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghềm nâng cao
học vấn đối với phụ nữ; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ
quan lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện
để phụ nữ thực hiện tốt chức năng thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc.
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất
bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình. Tạo điều
kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm
vụ. Đồng thời, phải nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên
cứu, bổ sung và hoàn thiện pháp luật, chính sách đối với lao động nữ. Tạo điều kiện để phụ nữ
thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước.
Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc
phạm nhân phẩm phụ nữ.
Dù ở thời đại nào, gia đình luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển
bền vững của quốc gia – dân tộc. Bởi chúng ta biết rằng gia đình là nền tảng của xã hội. Tuy
nhiên, không phải quốc gia nào, giai cấp cầm quyền nào cũng nhận thức được như vậy. Qua hơn
25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và
toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta càng nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của gia đình với tư cách
là “tế bào” vững chắc của xã hội, là môi trường lành mạnh để xây dựng nguồn lực con người; coi
xây dựng gia đình văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Với tinh thần, nhận thức và biện pháp đó, chúng ta hy
vọng trong thời gian tới vị trí, vai trò của gia đình ngày càng được khẳng định và các gia đình

Việt Nam ngày càng “khỏe mạnh” hơn để giữ vững nền tảng xã hội, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tạo đà cho Việt Nam “cất cánh” nhanh và bền vững.
Câu 11: Vì sao khi thực hiện chủ trương giải quyết vấn đề xã hội, chúng ta phải quan
tâm đến công tác dân số kế hoạch hóa gia đình? Thực trạng về vấn đề giới tính Việt Nam
như thế nào? Những giải pháp khắc phục?


Trả lời:
- Khi thực hiện chủ trương giải quyết vấn đề xã hội cần phải quan tâm đến kế hoạch hóa
gia định
Giải quyết các vấn đề xã hội là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và
các lực lượng xã hội thực hiện nhằm bảo đảm cho mọi người dân ít nhất có được mức tối thiểu
về thu nhập, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như giáo
dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin,... thông qua việc nâng cao năng lực tự an sinh của người
dân và sự trợ giúp của Nhà nước. Xây dựng hệ thống giải quyết vấn đề xã hội đa dạng, toàn diện,
từng bước mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các
nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là đích đến của các quốc gia trên thế giới.
Theo đó, các chính sách an sinh xã hội tập trung vào 4 nội dung chính:
Một là, tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho
người lao động yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình phát triển sản xuất, hỗ trợ tín
dụng,

giải

quyết

việc

làm




kết

nối

thông

tin

thị

trường

lao

động.

Hai là, mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do rủi ro, ốm đau, tai
nạn lao động, tuổi già
Ba là, hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất cho người dân
khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (mất mùa, thiên tai, động
đất, chiến tranh, đói nghèo,...)
Bốn là, tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y
tế, nhà ở, nước sạch sẽ, vệ sinh môi trường, thông tin.
Ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng và Nhà nước ta đặt
quyết tâm phát triển hệ thống an sinh xã hội bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ
bản của người dân, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tiếp cận dần
với chuẩn mức quốc tế. Từ nhiều năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới (năm

1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính
sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát


triển bền vững. An sinh xã hội được xác định là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội,
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo đảm an sinh xã hội là điều
kiện để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản
ánh bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Tiếp tục phát triển quan điểm, chủ trương đó của Đảng,
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991 và bổ
sung, phát triển năm 2011) và nghị quyết của các kỳ đại hội, đặc biệt Nghị Quyết số 15-NQ/TW,
ngày 1-6-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về “Một số vấn đề về chính sách
xã hội giai đoạn 2012 - 2020” đã đặt ra yêu cầu: Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với
chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và
khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ...; đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm
mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn; coi bảo đảm an sinh xã hội là
nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng.
Qua đó, ta có thể thấy được rằng việc đảm bảo tốt các vấn đề xã hội phụ thuộc rất nhiều vào
nhân khẩu trong một hộ gia đình. Không phải khi không nước ta lại khuyến khích người dân
dừng lại ở viễ sinh 2 để đảm bảo nuôi dạy con tốt. Con cái ít đồng nghĩa với việc ta có thời gian
chăm nuôi giáo dục tốt hơn. Đồng thời đó cũng sẽ là cái lợi cho nhà nước khi tập trung cho việc
giải quyết vấn đề xã hội (chỗ này có thể tự bịa ra thêm để giải thích cho rõ, tao cạn ý tưởng
rồi, tới đó vẫn không rặn ra được gì nữa)
-

Thực trạng giới tính hiện nay của nước ta: mất cân bằng giới tính ở Việt Nam

Thống kê chuyên ngành dân số cũng cho biết 18 tỉnh, thành hiện có tỷ số giới tính khi sinh
giảm so với năm 2015, nhưng vẫn còn 45 tỉnh, thành có tỷ số này tăng và ở mức cao đáng
báo động (từ 115 trẻ trai/100 trẻ gái).
Trong đó, 10 tỉnh có tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh cao nhất gồm: Hưng Yên, Hải

Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Hòa Bình, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh,
Quảng Ngãi.
Trong số này, có địa phương tỷ số giới tính khi sinh lên đến 120 trẻ trai/100 trẻ gái. Theo
Chi cục DS-KHHGĐ Hà Nội, mặc dù đã triển khai nhiều hoạt động giảm thiểu mất cân
bằng giới tính khi sinh, nhưng tỷ số giới tính khi sinh của Hà Nội đang ở mức cao hơn mức


trung bình của cả nước - với 114 trẻ trai/100 trẻ gái. Ở một số quận, huyện, con số này đã
lên đến 120 trẻ trai/100 trẻ gái.
Theo thống kê của Vụ Thống kê dân số và lao động (Tổng cục Thống kê), đồng bằng sông
Hồng vẫn là vùng có tỷ số giới tính khi sinh cao “bền vững” và là vùng cao nhất cả nước.
Tỷ số này tăng liên tục trong 5 năm qua, từ 115,3 trẻ trai/100 trẻ gái (năm 2009) tăng lên
118 trẻ trai/100 trẻ gái (năm 2014). Cùng thời gian trên, tại Đông Nam bộ tỷ số này lại
giảm nhẹ, từ 109,9 trẻ trai/100 trẻ gái xuống 108,9 trẻ trai/100 trẻ gái.
-

Những giải pháp khắc phục

Cần tăng cường, nâng cao hiệu quả truyền thông, giáo dục và vận động nâng cao nhận thức
chuyển đổi hành vi đến từng người dân. Đẩy mạnh và duy trì các hoạt động tuyên truyền
vận động, cung cấp thông tin nhằm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và
chính quyền; sự ủng hộ và tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội và người có uy tín ở
cộng đồng trong việc phòng ngừa và giải quyết tình trạng MCBGTKS. Ở các tỉnh, thành
phố, tuyên truyền mạnh hơn nữa để người dân hiểu hậu quả của vấn đề chênh lệch giới tính
sẽ ảnh hưởng đến chính gia đình mình như thế nào. Thực hiện chặt chẽ các quy định về
nghiêm cấm lựa chọn giới tính khi sinh; tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về sự lựa
chọn giới tính tại các câu lạc bộ gia đình, các buổi họp khu phố; nhất là các cấp phụ huynh,
ông bà nhằm thay đổi những tư tưởng cổ hủ của người cao tuổi khi nhận thức về vấn đề
phải sinh con trai.
Bên cạnh đó, cần tuyên dương, khen thưởng những gia đình sinh con một bề là gái có

thành tích học tập cao. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát các trung tâm y tế
công lập, các phòng khám y tế tư nhân trên địa bàn nhằm phát hiện ngăn chặn kịp thời
những hành vi vi phạm lựa chọn giới tính thai nhi. Hiện nay, các phòng y tế tư nhân vẫn tự
do thông báo cho thai phụ khi họ siêu âm để biết giới tính. Vấn đề này, cũng một phần do
xử phạt vi phạm còn quá nhẹ, nên chăng khi vi phạm cần xử phạt nặng hơn như tịch thu
giấy phép hành nghề, đóng cửa phòng khám.
Sau khoảng mười năm triển khai các biện pháp ngăn chặn nhưng tình trạng MCBGTKS
đến thời điểm này có chiều hướng ngày càng tăng. Đã đến lúc cần sự vào cuộc mạnh mẽ


của các cấp chính quyền để tìm ra các giải pháp một cách triệt để, quyết liệt hơn. Biến lời
nói thành hành động để bức tranh MCBGTKS về lại thế cân bằng.
Câu 12: Vì sao việc bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp, sáng tạo nên
những giá trị văn hóa mới là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời:
Trong hầu hết các định nghĩa về văn hóa ta đều thấy nổi bật nên hai yếu tố :
Văn hóa về bản chất chính là khả năng sáng tạo của con người và luôn gắn với những giá
trị nhân văn. Theo Mác, “bất cứ ở đâu con người cũng làm theo thước đo của cái đẹp”. Do đó rất
cần nhận rõ khái niệm giá trị văn hóa trước khi bàn tới việc bảo tồn và phát huy
Nội hàm khái niệm giá trị văn hóa truyền thống chỉ ra rằng, chúng ta nhất thiết phải tận
dụng, phát huy tính hữu dụng và khả năng liên kết cộng đồng, định hướng tư duy, hành động xã
hội của giá trị phục vụ thiết thực nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và giao lưu quốc tế.Và do đó chúng ta cần duy trì nguyên tắc phát triển bền vững .
Bảo tồn giá trị văn hóa, di sản văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là
sự khẳng định vai trò và vị trí xứng đáng của nó trong đời sống xã hội hiện đại.
Tôn trọng và phát huy vai trò của cộng đồng, các chủ thể văn hóa trong việc bảo tồn các
giá trị văn hóa truyền thống.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cần nhận thức rõ giao lưu văn hóa vừa là
mục tiêu, vừa là phương tiện để hòa nhập với nhân loại, khẳng định rõ vị thế và xây dựng hình
ảnh tốt đẹp của Việt Nam trong lòng bạn bè quốc tế. Về bản chất, giao lưu văn hóa là nguồn gốc,

là điều kiện tối cần thiết kiến tạo tinh thần hòa hợp, hòa bình, khoan dung và đối thoại văn hóa
bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc. Thực tiễn lịch sử cho thấy, một khi các quốc gia đã thiết lập
được sự đối thoại bình đẳng, cởi mở, đã có sự hiểu biết và cảm thông lẫn nhau, đặc biệt là thực
lòng chấp nhận sự đa dạng, sự khác biệt về văn hóa của nhau thì chắc chắn có thể hạn chế, tiến
đến ngăn chặn được những xích mích không đáng có, những va chạm xung đột không cần thiết
nhưng có thể dẫn tới thảm họa cho cả nhân loại như: xung đột sắc tộc, tôn giáo, văn hóa


Câu 12: Vì sao việc bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc là
vấn đề cầp thiết trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời:
Cùng với thời gian dâu bể, những thăng trầm qua nhiều thời kỳ, lịch sử của nhân loại đã
diễn ra nhiều sự đổi thay: cái còn, cái mất như một quy luật của tự nhiên. “Văn hóa là những cái
gì còn lại…” là một cách nói khái quát trên một hàm nghĩa rộng về di sản nhân loại. Trong lịch
sử nhân loại, những di sản của tiền nhân luôn có một vai trò quan trọng cho thế hệ đi sau kế thừa,
dẫu không hoàn toàn một cách thuận lợi. Di sản văn hóa của cộng đồng các tộc người luôn là sự
đa dạng, có một vị trí quan trọng của đời sống con người với tư cách không chỉ là dấu ấn của quá
khứ được bảo tồn mà còn là điểm xuất phát, cơ sở, tiềm năng trong sự phát triển cho hiện tại và
tương lai nếu biết phát huy, khai thác. Tùy thuộc vào sự hiện tồn của di sản văn hóa ở địa điểm,
cộng đồng hay góc nhìn mà chúng được đánh giá ở quy mô, vị trí và được bảo tồn, phát huy như
thế nào. Điều quan trọng, di sản văn hóa đó có là một thực thể “sống địch thực” hay không trước
hết, khi nó được tôn trọng và gắn kết với cộng đồng tại chỗ trong hơi thở, nhịp sống hằng ngày
một cách bình dị nhất, không cần phải phô trương và “tô son”
Việt Nam là quốc gia có nhiều tộc người cộng cư và đa sắc thái tín ngưỡng, tôn giáo – cả
bản địa và ngoại nhập. Sự đa dạng về tộc người cùng với lịch sử dựng nước, giữ nước đã làm nên
sự phong phú của di sản văn hóa nước nhà. Hiện nay, nguồn tài sản quý giá này của Việt Nam rất
đa dạng và phong phú. Trong các loại hình di sản của Việt Nam, có một số loại hình di sản văn
hóa được vinh danh là những di sản mang tầm vóc thế giới (cả vật thể, phi vật thể). Không chỉ
những di sản văn hóa được vinh danh mà tất di sản văn hóa của dân tộc vừa là niềm tự hào chính
đáng đồng thời vừa là trách nhiệm của mọi người Việt Nam trong công tác bảo tồn và phát huy

chúng
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã đi trước và có nhiều kinh nghiệm so với Việt Nam trong việc
khai thác di sản văn hóa trong phát triển ở nhiều lĩnh vực đặc biệt về du lịch. Xu thế toàn cầu hóa
và chính sách mở trên nhiều mặt, đã trở thành một lợi thế để các quốc gia tận dụng cơ hội và đẩy
mạnh phát triển từ khai thác di sản văn hóa một cách chủ động, đem lại hiệu quả cao trong phát
triển kinh tế


Di sản văn hóa của Việt Nam là nguồn lực đặc biệt này bởi sự phong phú của di tích lịch
sử, quần thể kiến trúc, sự đa dạng sắc màu lễ hội các dân tộc, sự độc đáo của làng nghề…Những
di sản văn hóa của Việt Nam được vinh danh di sản thế giới (vật thể và phi vật thể) cùng với hệ
thống di sản văn hóa khác và di sản tự nhiên của Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút
du

khách

không

chỉ

trong

nước



còn

của


khu

vực,

thế

giới.

Di sản văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước; đặc biệt
trong thế giới mở hiện này. Khi khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên di sản văn hóa, không chỉ
thu được nguồn lợi kinh tế trực tiếp, giải quyết vấn đề xã hội (tiêu thụ sản phẩm văn hóa, giải
quyết việc làm…) và còn đem lại hiệu quả cao khi chúng ta giới thiệu, quảng bá về văn hóa, con
người Việt Nam.
Câu 13: Thế nào là ngoại giao nhân dân, vai trò của ngoại giao nhân dân trong công
tác đối ngoại.
Trả lời:
Ngoại giao nhân dân là một hình thức thực hiện quan hệ đối ngoại, do các tổ chức hoặc cá
nhân (thuộc nhiều lĩnh vực) tiến hành, không mang tính chất chính thức của chính phủ các nước.
Có nhiều hình thức phong phú: gặp gỡ, các cuộc đi thăm hữu nghị, hội đàm, trao đổi ý kiến, hội
thảo, hội nghị quốc tế, festival,…
Vai trò của ngoại giao nhân dân trong công tác đối ngoại:
+ Tích cực tham gia vận động, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trước những diễn biến phức tạp mới ở Biển Đông, các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta một mặt
tích cực thông tin để nhân dân các nước hiểu, nắm được tình hình; mặt khác, trên cơ sở luật pháp
quốc tế, vận động nhân dân các nước ủng hộ lập trường của Việt Nam trong giải quyết các tranh
chấp tại Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoạt động phi pháp
gây căng thẳng ở Biển Đông
+ Củng cố, tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước láng
giềng, mở rộng quan hệ bạn bè và đối tác quốc tế. Trong quan hệ với Lào, Cam-pu-chia, các
đoàn thể và tổ chức nhân dân ta tiếp tục phát huy vai trò đoàn kết, hữu nghị đặc biệt với các đối

tác nhân dân nước bạn, đưa mối quan hệ này đi vào chiều sâu, thực chất. Với Trung Quốc, bên


cạnh việc kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, các đoàn thể, tổ chức nhân dân ta tiếp
tục triển khai tinh thần thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước trong việc phát huy quan hệ hữu
nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước. Với các nước lớn và các đối tác chiến lược, hoạt động
đối ngoại nhân dân giúp tăng cường hiểu biết, hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với
nhân dân các nước (Mỹ, EU, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ,…), góp phần làm sinh động
quan hệ hợp tác theo kênh nhà nước, chính phủ. Với các bạn bè truyền thống, các nước châu Á,
Phi, Mỹ La-tinh, các đoàn thể, tổ chức nhân dân ta duy trì tốt quan hệ, tình cảm gắn bó, thủy
chung.
+ Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tham gia có trách nhiệm trong các hoạt động đa
phương, đóng góp cho phong trào nhân dân khu vực và thế giới. Quán triệt tinh thần Nghị quyết
22-NQ/TW, ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Hội nhập quốc tế”, các đoàn thể và
tổ chức nhân dân ta nỗ lực, chủ động hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, từ hòa bình, đoàn kết,
hữu nghị đến kinh tế, hợp tác ngành, nghề. Các tổ chức này tích cực đóng góp nhiều kinh
nghiệm, sáng kiến mang tính xây dựng hòa bình, hợp tác, phát triển tại nhiều diễn đàn, hội nghị,
hội thảo quốc tế và khu vực; đồng thời, đăng cai tổ chức nhiều hoạt động đa phương tại Việt
Nam, thể hiện tốt vai trò, vị thế của tổ chức trong cơ chế đa phương.
+ Tích cực hoạt động trên nhiều lĩnh vực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường quốc phòng, an ninh. Thông qua hoạt động đối ngoại nhân dân, các đoàn thể, tổ chức
nhân dân vận động, tranh thủ được nguồn lực đáng kể vật chất, tri thức, sự hỗ trợ của bạn bè và
các đối tác quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả chiến
tranh. Đồng hành với các nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin, các đoàn thể và tổ chức nhân dân
kiên trì công tác vận động bạn bè, đối tác ủng hộ nạn nhân, xoa dịu nỗi đau da cam. Công tác
thông tin tuyên truyền đối ngoại tiếp tục được quan tâm triển khai thông qua các sản phẩm,
phương tiện truyền thông và lồng ghép trong nhiều hoạt động đối ngoại nhằm giới thiệu với bạn
bè quốc tế về chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại của ta và hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam; đồng thời, giúp quần chúng nhân dân và hội viên tiếp cận thường xuyên hơn với
thông tin về các vấn đề đối ngoại và hoạt động đối ngoại của tổ chức mình.

Câu 14: Kể tên những tổ chức quốc tế thuộc Liên hiệp quốc có mặt tại Việt Nam. Nêu
ngắn gọn vai trò của những tổ chức này ở Việt Nam.


Trả lời:
_ Tên các tổ chức Liên Hợp Quốc có mặt tại Việt nam
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.

FAO: Quỹ Nông nghiệp và Lương thực LHQ
ILO: Tổ chức Lao động quốc tế
IOM: Tổ chức Di cư quốc tế
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
UNAIDS: Chương trình phối hợp của LHQ về AIDS

UNDP: Chương trình phát triển LHQ
UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa của LHQ
UNFPA: Quỹ Dân số LHQ
UNHCR: Cao ủy LHQ về người tị nạn
UNICEF: Quỹ Nhi đồng LHQ
UNIFEM: Quỹ Phát triển LHQ cho phụ nữ
UNODC: Cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm LHQ
UNV: Tổ chức tình nguyện LHQ
UNEP:Chương trình môi trường LHQ
WHO: Tổ chức Y tế thế giới
WB (WORLD BANK): Ngân hàng thế giới
IPU:Tổ chức Bưu chính thế giới
IMO:Cơ quan Hàng Hải Quốc Tế

_ Vai trò của những tổ chức này tại Việt Nam:
Liên Hợp Quốc được thành lập nhằm 4 mục tiêu:
(1) Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế;
(2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng
về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết;
(3) Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ
bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo;
(4) Xây dựng Liên Hợp Quốc làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế vì các mục tiêu
chung.
Trên cơ sở quan hệ đối tác với Chính phủ và nhân dân Việt Nam, Liên Hợp Quốc hoạt
động nhằm bảo đảm rằng tất cả người dân Việt Nam đều được hưởng cuộc sống ngày càng khoẻ


mạnh và thịnh vượng hơn, trong đó phẩm giá con người ngày cao và ngày càng nhiều sự lựa
chọn hơn cho mọi người. Thông qua nỗ lực chung hoặc của từng cơ quan, Liên Hợp Quốc quan

tâm và tạo ra cơ hội cho người nghèo và những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, và cho
thế hệ trẻ - chủ nhân của tương lai.
Liên Hợp Quốc thúc đẩy các nguyên tắc về bình đẳng và công bằng xã hội, đồng thời cung
cấp các ý kiến tư vấn khách quan, trình độ kỹ thuật và tạo khả năng tiếp cận tri thức toàn cầu và
kinh nghiệm địa phương nhằm đối phó với các thách thức phát triển của Việt Nam.
Liên Hợp Quốc đã cung cấp tư vấn chính sách cho Chính phủ; giúp Việt Nam củng cố thể
chế thực hiện hiệu quả các chính sách nhằm bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng lợi từ
phát triển; cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và một loạt các hình thức hỗ trợ và dịch vụ khác.
Cùng tác nghiệp, Liên Hợp Quốc là một đối tác mạnh trong việc cung cấp các dịch vụ xã
hội và bảo trợ cho người dân Việt Nam, trong đó đặc biệt chú trọng đến các nhóm dân cư dễ bị
tổn thương nhất như những người di cư, những người bị nhiễm HIV và các dân tộc thiểu số. Liên
Hợp Quốc đồng thời hỗ trợ các sáng kiến liên ngành về HIV, truyền thông về giới, và phát triển
dựa trên các quyền, bao gồm các hoạt động liên quan đến thanh niên.
Những tổ chức Quốc tế thuộc LHQ có mặt tại Việt Nam
FAO: Quĩ Nông nghiệp và Lương thực LHQ
ILO: Tổ chức Lao động quốc tế
IOM: Tổ chức DI dân quốc tế
UNAIDS: Chương trình phối hợp của LHQ về AIDS
UNDP: Chương trình phát triển LHQ
UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa của LHQ
UNFPA: Quĩ Dân số LHQ
UNHCR: Cao ủy LHQ về người tị nạn
UNICEF: Quĩ Nhi đồng LHQ
UNIDO: Tổ chức phát triển công nghiệp LHQ


×