Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Hoạt động xuất bản sách phục vụ cộng đồng người việt nam ở nước ngoài khóa luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.76 KB, 66 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh đất nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tăng cường hội nhập quốc tế, cơng tác đối ngoại trong đó có
cơng tác cung cấp thơng tin cho người Việt Nam ở nước ngồi đóng vai trị rất
quan trọng đối với việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy
động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất
là khi chúng ta đang tích cực triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2011-2020.
Những năm qua, công tác cung cấp thông tin cho người Việt Nam ở
nước ngồi, trong đó có xuất bản sách, đã góp phần quan trọng quảng bá hình
ảnh Việt Nam, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế,
củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế, bảo
vệ chủ quyền biên giới lãnh thổ, biển và hải đảo, khuyến khích, động viên
đồng bào ta ở nước ngồi hướng về q hương, đất nước.
Cơng tác thơng tin, xuất bản sách đã góp phần phản ánh kịp thời chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc
tế của Việt Nam, giúp dư luận bên ngoài hiểu rõ hơn, đúng hơn về Việt Nam,
thu hút sự quan tâm và gây ấn tượng tốt đẹp với bạn bè quốc tế về Việt Nam.
Hình ảnh đất nước Việt Nam hồ bình, ổn định, đổi mới, phát triển năng động,
là điểm đến an toàn và tin cậy của đầu tư, du lịch; con người, lịch sử và nền
văn hoá lâu đời hết sức phong phú và giàu bản sắc dân tộc của Việt Nam đã
được nhân dân thế giới và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài biết tới
thơng qua nhiều kênh và bằng nhiều hình thức khác nhau.
Cùng với việc tăng cường quảng bá thông tin về đất nước, con người và
sự phát triển của Việt Nam, chúng ta đã chủ động đấu tranh hiệu quả hơn với

1



những luận điệu xuyên tạc về Việt Nam, nhất là trong vấn đề dân chủ, nhân
quyền, dân tộc, tôn giáo, biên giới lãnh thổ. Chúng ta đã tăng cường cung cấp
thơng tin chính thống, có định hướng về chính sách và những nỗ lực của Việt
Nam trong việc phát huy dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền tự do tôn
giáo, những thành tựu của đất nước ta trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói
giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thông tin, xuất bản sách
dành cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi cũng cịn một số hạn chế.
Cơ chế chỉ đạo, điều hành, thông tin, phối hợp có lúc cịn bị động, lúng túng,
nhất là trước những vấn đề phức tạp mới nảy sinh. Nhận thức về vị trí, vai trị
của cơng tác thơng tin tuy có chuyển biến, nhưng cịn chậm và chưa đầy đủ.
Nội dung thông tin chưa phong phú, thiếu hấp dẫn, sức thuyết phục chưa cao.
Công tác đấu tranh phản bác lại các luận điệu xuyên tạc, thù địch chống lại
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam chưa được tiến hành
một cách có hệ thống, lập luận đấu tranh trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền,
biên giới lãnh thổ chưa chú ý đến những đối tượng ít thông tin, những đối tượng
dễ bị lợi dụng, kích động.
Sự phát triển nhanh của đất nước, những biến chuyển mau lẹ của tình
hình thế giới và khu vực đã và đang đặt ra cho công tác thông tin, xuất bản
sách cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cả thuận lợi và thách thức
đan xen. Thuận lợi là những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, vị thế
ngày càng được nâng cao của đất nước là chất liệu quý giá, nguồn đề tài
phong phú để khai thác. Địa bàn và đối tượng của công tác thông tin ngày
càng mở rộng, có nhiều kênh thơng tin, quảng bá hình ảnh Việt Nam. Đặc biệt
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ giúp thông tin tiếp cận các
phương tiện, kỹ thuật thông tin hiện đại, những phương thức chuyển tải thông
tin mới phong phú, đa dạng và hiệu quả.

2



Mặt khác, công tác thông tin, xuất bản sách cho cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài cũng đứng trước nhiều thách thức. Những diễn biến phức
tạp của tình hình quốc tế và khó khăn nảy sinh trong phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh Việt Nam. Các thế lực thù
địch, phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước tiếp tục sử dụng chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, “bảo vệ chủ quyền lãnh thổ” để
xun tạc, bơi nhọ hình ảnh Việt Nam, kích động nhằm làm thay đổi chế độ chính
trị ở nước ta.
Do đó, trong tình hình hiện nay, vấn đề làm tốt cơng tác cung cấp thơng
tin, trong đó có xuất bản sách phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài, thực sự cần thiết và đặt ra cấp bách. Cơng tác thơng tin có nội dung
phong phú và bao gồm nhiều kênh như phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất
bản, v.v..
Hiện nay có gần 10 nghìn đảng viên đang học tập và cơng tác ở nước
ngồi và có trên 4 triệu người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, phân bổ
không đồng đều ở 103 nước và lãnh thổ trên thế giới. Cộng đồng người Việt
Nam sinh sống ở nước ngồi khá đơng, nhưng chúng ta chưa có một chiến
lược, kế hoạch cụ thể, thường xuyên về xuất bản sách phục vụ cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài. Làm thế nào để cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngồi có điều kiện tiếp cận thường xun chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay? Làm thế nào để cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngồi, nhất là thế hệ trẻ có thể nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn
về tình hình đất nước, lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống đấu
tranh anh dũng của dân tộc, đất nước và con người Việt Nam? Đây chính là
những nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho cơng tác xuất bản sách, trong đó có
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật nhằm góp phần phục vụ tích cực
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

3



Chính vì vậy, chúng tơi mạnh dạn lựa chọn vấn đề: Hoạt động xuất
bản sách phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi để làm khóa
luận tốt nghiệp đại học
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, thống kê sơ bộ cho thấy, công tác xuất bản các xuất bản
phẩm phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi trong thời gian qua,
trong đó có Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật chưa thực sự được chú
trọng. Trong số hơn 60 nhà xuất bản hiện nay, rất ít nhà xuất bản tổ chức
xuất bản sách và có sách phục vụ trực tiếp cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngồi. Số cơng ty, doanh nghiệp có chức năng, nhiệm vụ xuất nhập
khẩu sách báo ra nước ngồi, trong đó có phục vụ người Việt Nam ở nước
ngồi khơng nhiều.
Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài chủ yếu cung cấp
một số văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước cho cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài.
Nhà xuất bản Thế giới có nhiệm vụ tổ chức dịch và xuất bản sách bằng
tiếng Việt ra các thứ tiếng, chủ yếu là tiếng Anh, Pháp,... (các sách song ngữ
phần lớn là sách Việt - Anh, Việt - Pháp) cho người nước ngoài quan tâm tìm
hiểu Việt Nam. Loại sách này cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của đông đảo
bà con Việt kiều. Sách song ngữ xuất bản và xuất ra nước ngồi cịn ít, mỗi
năm khoảng vài chục tên sách với số lượng bản in hạn chế.
Nhà xuất bản Trẻ có bán sách cho người Việt Nam ở nước ngồi thơng
qua một số cơng ty tư nhân có kênh kinh doanh sách ở nước ngoài, chủ yếu
là Mỹ. Ngoài ra, một số công ty của người Việt Nam tại Mỹ nhập sách của
Nhà xuất bản Trẻ theo lô hàng, mỗi lô khoảng từ 50 đến 60 tựa sách, cao
nhất đạt khoảng 100 tựa sách. Các sách của Nhà xuất bản Trẻ được người
Việt Nam ở nước ngoài quan tâm là sách lịch sử Việt Nam qua tranh, sách về
văn hóa Việt Nam,…


4


Về cơng tác xuất nhập khẩu sách báo, trung bình mỗi năm, Tổng Công
ty Xuất nhập khẩu sách báo Việt Nam (XUNHASABA) xuất khẩu khoảng
200.000 bản sách với gần 3.000 tên sách. Trong đó có đến 75% là các cuốn
sách có nội dung mang tính giải trí hoặc phổ biến kiến thức phổ thông như
sách văn học, sách hướng dẫn nấu ăn, hướng dẫn thẩm mỹ, tâm lý, các vấn đề
y học thường thức,... Đối tượng của loại sách này là tầng lớp bạn đọc phổ
thơng. 25% cịn lại là các loại sách về văn hóa, lịch sử, ngơn ngữ, kinh tế, xã
hội,... Đối tượng của loại sách này là chủ yếu các thư viện, học giả, nhà
nghiên cứu, sinh viên.
Tìm hiểu về việc trợ giá cước xuất bản phẩm ra nước ngoài cho thấy:
Nhà xuất bản Thế giới là đơn vị duy nhất được hưởng chính sách trợ giá của
nhà nước để thực hiện xuất bản một số loại sách và tạp chí bằng các ngơn
ngữ Anh, Pháp, Nga, Nhật, Hàn Quốc, Đức, Trung Quốc, Tây Ban Nha,...
đến một số tổ chức và cá nhân của Việt Nam ở nước ngoài như: Đại sứ quán,
Tổng lãnh sự quán, đại diện cơ quan báo chí, Thơng tấn xã Việt Nam, cơ
quan đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài; Hội hữu nghị Việt Nam ở
các nước; các nhà Việt Nam học ở nước ngoài; một số đảng Cộng sản và
đảng Cánh tả các nước; thư viện, trường đại học, các nhà nghiên cứu, sinh
viên một số nước; một số đại lý và hiệu sách, nhà sách hoặc nhà phân phối
sách ở nước ngồi.
Một số đơn vị được hưởng chính sách trợ cước như: Tổng Công ty
Sách Việt Nam; Tổng Công ty Xuất nhập khẩu sách, báo; Nhà xuất bản Thế
giới; Công ty Phát hành sách Hà Nội; Công ty Phát hành sách Thành phố Hồ
Chí Minh; Tổng Cơng ty Xuất nhập khẩu và phát triển văn hóa.
Tuy một số cơ quan, đơn vị có đề án, chương trình liên quan đến chủ đề
này, nhưng cho đến nay chưa có đề án, chương trình nào mang tính tổng thể,

hệ thống và đầy đủ về công tác xuất bản sách phục vụ cộng đồng người Việt

5


Nam ở nước ngồi. Do vậy, nội dung của khóa luận là hồn tồn mới, khơng
trùng lặp với bất kỳ đề tài, trước đó.
3. Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu
- tìm hiểu công tác xuất bản sách cho người Việt Nam ở nước
nghoài,đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác này
3.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát, đánh giá tình hình cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
và nhu cầu đọc sách của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi.
- Đánh giá thực trạng cơng tác xuất bản, phát hành sách phục vụ cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài; chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên
nhân của ưu điểm, hạn chế trong công tác xuất bản, phát hành sách phục vụ
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác xuất bản, phát hành sách phục vụ cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động xuất bản sách cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
4.2 Phạm vi
- Hoạt động của ngành xuất bản Việt Nam về xuất bản sách cho
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
- Giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm tư 2001 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích tổng

hợp, đối chiếu, so sánh,phương pháp tra cứu ,phương pháp phỏng vấn,
phương pháp thống kê ...

6


6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khóa luận được kết cấu thành hai chương:
Chương 1: Khái quát về cộng đồng người Việt ở Nước ngoài và
xuất bản sách cho nghười Việt Nam ở nước ngoài
Chương 2: Công tác xuất bản sách phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài

7


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở
NƯỚC NGOÀI VÀ XUẤT BẢN SÁCH CHO NGƯỜI VIỆT NAM
Ở NƯỚC NGỒI
1.1. Khái niệm về người Việt Nam ở nước ngồi
Hiến pháp 1992 dùng khái niệm "Người Việt Nam định cư ở nước
ngoài" thay thế cho khái niệm “Việt kiều”. Điều 75 Hiến pháp 1992 (sửa đổi)
viết: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận của dân tộc Việt
Nam. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài...”.
Khái niệm “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” lần đầu tiên được
giải thích một cách chính thức trong Luật quốc tịch Việt Nam 1998: “Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt

Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài” 1. Tuy nhiên, việc giải
thích khái niệm này trong Luật quốc tịch Việt Nam 1998 vẫn còn những điều
cần chú ý.
Thứ nhất, “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” ở đây được hiểu
bao gồm hai đối tượng “công dân Việt Nam” và “người gốc Việt Nam”. Khái
niệm công dân Việt Nam có thể hiểu là những người có quốc tịch Việt Nam
và như vậy phải chăng “người gốc Việt Nam” là những người khơng cịn quốc
tịch Việt Nam? Thực tế cho đến nay, khái niệm “người gốc Việt Nam” cũng
chưa được định nghĩa một cách chính thức và có nhiều cách hiểu khác nhau.
Thứ hai, Luật quốc tịch Việt Nam 1998 lấy yếu tố “cư trú, làm ăn, sinh
sống lâu dài ở nước ngoài” để giải nghĩa cho khái niệm “định cư”. Tuy nhiên,
Luật cũng không đưa ra một cơ sở nào để xác định tính “lâu dài” trong định
1

Trích Điều 2, Khoản 4, Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

8


nghĩa. Vì vậy, định nghĩa này cũng chỉ mang tính ước lệ. Trong thực tế, để
xác định rõ quy chế định cư của người Việt Nam ở nước ngoài, chúng ta
thường phải xem xét trong từng trường hợp cụ thể trên cơ sở các giấy tờ của
đương sự, các mối quan hệ, luật pháp nước sở tại.
Khái niệm “Người Việt Nam ở nước ngồi” lần đầu tiên được giải thích
một cách chính thức trong Luật quốc tịch Việt Nam 1998. Điều 2 Khoản 3
định nghĩa: “Người Việt Nam ở nước ngồi” là cơng dân Việt Nam và người
gốc Việt Nam đang thường trú hoặc tạm trú ở nước ngồi. Có thể nói, đây là
khái niệm rộng nhất, bao hàm tất cả các đối tượng người Việt Nam không phụ
thuộc vào yếu tố quốc tịch hay cư trú.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi ln chiếm một vị trí

quan trọng trong cơng tác dân vận của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay,
gồm ba lĩnh vực chủ yếu: thơng tin tun truyền, hoạch định chính sách và
vận động cộng đồng. Ngày nay, đất nước ta đã bước vào giai đoạn phát triển
mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Vận hội mới và thách thức mới đòi hỏi chúng ta phải củng cố và phát huy cao
nhất sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó có cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngồi. Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26-3-2004 của
Bộ Chính trị một lần nữa khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận
không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân
tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta
với các nước; và xác định công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là
trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị và của tồn dân.
1.2 Đặc điểm về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
- Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là cộng đồng trẻ, năng
động, nhanh chóng hịa nhập với xã hội nước sở tại, có mặt ở hầu khắp các
châu lục nhưng phân bố không đều. Theo tài liệu của Uỷ ban Nhà nước về

9


người Việt Nam ở nước ngồi, hiện nay có khoảng 4 triệu người Việt Nam
đang sinh sống và làm việc tại trên 100 nước và vùng lãnh thổ có trình độ
phát triển, văn hố, chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Người Việt Nam ở
nước ngoài ngày nay đã có mặt ở cả những khu vực nghèo và đang phát
triển ở châu Phi, Trung Đông và Nam Mỹ hoặc các đảo nhỏ ở Thái Bình
Dương. Tuy nhiên, số lượng phân bố không đồng đều: đại bộ phận người
Việt (khoảng 98%) tập trung ở 21 nước thuộc năm khu vực địa lý: Bắc Mỹ,
Tây Bắc Âu, Nga và Đông Âu, Đông Nam Á, Đông Bắc Á và châu Đại
dương. Tại các khu vực khác như: Nam Á và Tây Bắc Á, Trung Đơng, châu
Phi, Nam Mỹ, tuy có người Việt làm ăn sinh sống, song số lượng không

đáng kể.
Khoảng 80% người Việt đang làm ăn, sinh sống ở các nước cơng
nghiệp phát triển, cụ thể: ở Mỹ có hơn 2.200.000 người; ở Pháp khoảng
300.000 người; Ôxtrâylia, Canađa mỗi nước khoảng 250.000 người; Đức,
Nga mỗi nước có trên 100.000 người; Hàn Quốc hơn 90.000 người; Séc
60.000 người; Anh, Nhật Bản mỗi nước trên 40.000 người; Ba Lan, Nauy
mỗi nước khoảng 20.000 người; Hà Lan, Bỉ, Thuỵ Điển, Đan Mạch mỗi
nước trên 10.000 người,…
Hiện nay, phần lớn người Việt Nam ở nước ngoài đã được hưởng quy
chế định cư rõ ràng, tuy nhiên tỷ lệ này có khác nhau ở từng khu vực: tại
các nước phát triển phương Tây như Mỹ, Ôxtrâylia, Pháp, Canađa..., tỷ lệ
người Việt Nam có quốc tịch nước sở tại khá cao, khoảng 80%, do các
nước này khơng địi hỏi phải từ bỏ quốc tịch gốc và chỉ cần đáp ứng các
tiêu chuẩn theo luật nhập cư là có thể được chấp nhận nhập tịch. Trong khi
đó tại Nga và các nước Đông Âu, tỷ lệ này cịn thấp.
- Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi phát triển nhanh về số
lượng và ngày càng đa dạng về thành phần. Bên cạnh những người đã xa Tổ

10


quốc lâu năm, hằng năm lại có thêm hàng chục ngàn người Việt Nam đi đồn
tụ gia đình, học tập, lao động, làm ăn, kinh doanh ở nước ngoài; số lượng
người Việt Nam kết hơn với người nước ngồi hiện nay lên tới hơn 100.000
người. Bên cạnh những người từ trong nước ra đi, đã có thế hệ thứ hai, thứ ba
là các thanh thiếu niên gốc Việt sinh ra ở nước ngoài. Cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài đang tiếp tục ổn định, hội nhập tốt hơn vào xã hội sở tại.
- Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được đánh giá là một
cộng đồng năng động, có tiềm lực đáng kể về tri thức và kinh tế, trong đó
tiềm lực về tri thức mạnh hơn về kinh tế. Trong những năm gần đây, có

nhiều người Việt Nam thành đạt trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, kinh
tế, chính trị, văn hố nghệ thuật,... và giữ các vị trí nhất định trong xã hội và
chính trường nước sở tại.
Theo thống kê chưa đầy đủ của Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam
ở nước ngoài, hiện có khoảng 400.000 người Việt Nam ở nước ngồi có
trình độ đại học, trên đại học, chuyên gia kỹ thuật có tay nghề cao, tập
trung chủ yếu ở các nước phương Tây, chiếm xấp xỉ 10% số dân cộng
đồng, trong đó khoảng 6.000 người có trình độ tiến sĩ, so với khoảng
16.000 tiến sĩ đang sống và làm việc trong nước thì tỷ lệ tiến sĩ/đầu dân của
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là 2/1.000, cao hơn khoảng 10 lần
trong nước. Ước tính có khoảng 40.000 trí thức tại Pháp, 20.000 trí thức tại
Canađa, 7.000 trí thức tại Ơxtrâylia. Tại Mỹ, đội ngũ trí thức người Việt
khá đơng đảo, gần 200.000 người, riêng thung lũng Silicon có khoảng
12.000 người đang làm việc và hơn 100 người làm việc cho Ngân hàng Thế
giới. Tiềm lực khoa học - công nghệ của các thế hệ người Việt Nam ở nước
ngoài khơng ngừng được nâng cao, trong đó một thế hệ trí thức mới gốc
Việt đang hình thành và phát triển, từng bước thay thế lớp lớn tuổi, làm thay
đổi cơ cấu cộng đồng, có cái nhìn đúng mực, khách quan hơn về tình hình đất
nước và sẽ trở thành đối tác đầy tiềm năng cho sự phát triển đất nước nếu có
11


chính sách khai thác đúng đắn.
- Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi tuy đã tích lũy được một
tiềm lực kinh tế nhất định, song vẫn còn rất khiêm tốn, thu nhập bình quân
đầu người thường bằng hoặc kém hơn người dân nước sở tại. Tổng thu nhập
hằng năm của người Việt Nam ở nước ngoài ước đạt 50 - 60 tỷ USD. Số
lượng và quy mô các doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài ngày một
phát triển, một số thành đạt, song chưa có những doanh nghiệp lớn tầm cỡ
quốc tế. Riêng ở Mỹ có hơn 150.000 cơ sở kinh doanh do người Việt làm

chủ, trong đó có hơn 14.000 doanh nghiệp bán lẻ, 8.500 doanh nghiệp dịch
vụ khoa học - kỹ thuật chuyên nghiệp,... Có người Việt đã lập và làm chủ
doanh nghiệp về công nghệ thông tin trị giá tới 1,8 tỷ USD. Ở nhiều nước
khác, nhất là ở các nước phát triển và Đông Âu, số lượng triệu phú đôla
người Việt ngày càng nhiều. Nhiều người đang đầu tư về Việt Nam, chủ yếu
với quy mô nhỏ (dưới 1 triệu USD), chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư với
mức vốn khoảng từ vài triệu USD trở lên. Ngoài ra, nhiều người đã tiến
hành có kết quả các hoạt động mơi giới, tìm kiếm đối tác và làm cầu nối hợp
tác giữa doanh nghiệp nước ngồi với các doanh nghiệp trong nước, góp
phần thu hút thêm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Doanh nhân người Việt
đã có những đóng góp ngày càng quan trọng, có ảnh hưởng ngày càng tăng,
khơng chỉ đối với cộng đồng mà cả đối với chính quyền sở tại. Khơng chỉ có
người Việt ở nước ngồi đầu tư về nước, ở các thị trường mới nổi như châu
Phi - Trung Đông đã xuất hiện thêm nhiều gương mặt doanh nhân Việt Nam
tham gia đầu tư, kinh doanh.
- Đa số đồng bào ln có tinh thần u nước, tự tơn dân tộc, có ý thức
giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hố và ln ln hướng về Tổ quốc. Phấn
khởi và tin tưởng vào thành công của công cuộc đổi mới của đất nước, các thế
hệ kiều bào ta ngày càng mong muốn được gắn bó, đóng góp nhiều hơn với
quê hương, đất nước.

12


Số kiều bào về Việt Nam ngày càng tăng, từ 300.000 lượt người năm
2003 đến nay trung bình hằng năm có khoảng 500.000 lượt kiều bào về nước,
trong đó khoảng 300 chuyên gia, trí thức về làm việc và hàng nghìn người về
tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh. Hằng năm, có hàng trăm lượt kiều bào là
chuyên gia trí thức kiều bào về nước nghiên cứu, giảng dạy, hợp tác với các
trường đại học, viện nghiên cứu; nhiều hội, đoàn và các tổ chức nghề nghiệp

của người Việt, đặc biệt là ở các nước phát triển được thành lập và hoạt động
có hiệu quả, hướng về quê hương đất nước, thực hiện các hoạt động, dự án
hợp tác khoa học, cơng nghệ và các hoạt động mang tính nhân đạo trợ giúp
đồng bào trong nước.
Hiện nay có hơn 3.200 dự án của kiều bào đầu tư về nước với tổng số
vốn lên tới khoảng 5,7 tỷ USD, trong đó có khoảng 60% dự án được đánh giá
là hoạt động có hiệu quả cao. Đặc biệt, tinh thần tương thân tương ái trong
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với bà con trong nước, nhất là đối
với vùng dân tộc, miền núi càng ngày càng được gắn kết và có nhiều hỗ trợ.
Số tiền bà con kiều bào ủng hộ đồng bào miền Trung bị lũ lụt năm 2010 đã
lên tới con số hơn 14,5 tỷ đồng1.
Điều đó cho thấy, kêu gọi, thu hút sự ủng hộ, chia sẻ, hướng về quê
hương của những người Việt Nam hiện đang sinh sống ở nước ngoài là một
việc làm cần thiết và có ý nghĩa vơ cùng to lớn trong cơng cuộc xây dựng
khối đại đồn kết tồn dân tộc. Kể từ khi triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW
(từ năm 2004 đến nay), đã có nhiều đột phá về tư duy, nhận thức cũng như
các chính sách ưu đãi đối với kiều bào ta ở nước ngoài. Cùng với sự phát triển
của cộng đồng, những năm gần đây doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài đã
tăng trưởng cả về số lượng và tiềm lực, có nhiều ảnh hưởng đến cộng đồng,
đến quan hệ nhiều mặt của Việt Nam với các nước sở tại và quốc tế.
1

Theo số liệu của Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài.

13


Có thể nói, để đạt được những kết quả đáng khích lệ nói trên, cơng tác
tun truyền, vận động của báo chí, xuất bản đã thực sự chiếm một vai trị, vị
trí quan trọng đối với dư luận trong nước cũng như dư luận quốc tế. Cùng với

việc quán triệt Nghị quyết, công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài cũng được
đẩy mạnh với nhiều nội dung, hình thức phong phú; được lồng ghép trong
nhiều hoạt động triển khai Nghị quyết. Số lượng các chương trình dành riêng
cho kiều bào ngày càng tăng, phong phú về nội dung, nhiều kênh được kiều
bào đón nhận và đánh giá cao như kênh truyền hình dành cho người Việt Nam
ở nước ngồi VTV4, kênh Truyền hình Thuần Việt, Tạp chí Quê hương,…
Nhờ đó, có rất nhiều người làm báo chuyên nghiệp là người Việt Nam ở
nước ngoài đã cộng tác, thường xun cung cấp những thơng tin có giá trị cho
báo chí trong nước. Theo đó, các trang mạng thơng tin điện tử của Đảng,
Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các bộ, ngành và địa
phương trong nước,… đã có điều kiện, cơ hội nhận và phản ánh kịp thời
những thông tin cho kiều bào ở các nước trên thế giới về mọi mặt của tình
hình đất nước, về các chính sách, pháp luật liên quan tới người Việt Nam ở
nước ngoài cũng như các vấn đề thời sự mà kiều bào quan tâm. Gần đây, vào
tháng 1-2013, tại Hà Nội, đại diện người Việt Nam định cư ở nước ngồi đã
tích cực góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tại hội nghị do Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức.
- Tuy nhiên, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng đang phải
đối mặt với nhiều vấn đề, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Ở một số
nước, địa vị pháp lý của người Việt Nam chưa vững vàng nên cộng đồng rất dễ
bị tổn thương trước những hành động bài xích, phân biệt đối xử, kỳ thị chủng
tộc. Sự khác biệt về văn hố, ngơn ngữ ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của
bà con. Ảnh hưởng của văn hoá bản địa và những yêu cầu của cuộc sống hằng

14


ngày là những thách thức đối với việc giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống và
tiếng Việt. Ở một số nước, kiều bào còn phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng,

chiến tranh, xung đột bộ tộc, sắc tộc, tơn giáo. Ngồi ra, một số nhỏ lực lượng
cực đoan, phản động vẫn đi ngược lại lợi ích của bà con, cộng đồng và đất
nước.
1.3. Vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi đối với sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
1.3.1. Vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Thứ nhất, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là nguồn lực kinh tế
quý báu của đất nước. Rất nhiều trung tâm thương mại của người Việt được
xây dựng ở các nước và vùng lãnh thổ, nhiều hội doanh nhân người Việt
Nam ở nước ngoài được thành lập là nòng cốt kinh tế của cộng đồng và hỗ
trợ tích cực cho các hoạt động đầu tư, thương mại, có khả năng tìm kiếm
đối tác làm cầu nối với các doanh nghiệp, tổ chức trong nước. Với tiềm lực
kinh tế của mình, người Việt Nam ở nước ngồi có xu hướng đầu tư về
nước ngày một nhiều hơn. Hằng năm, lượng kiều hối về nước tăng trung
bình 10 - 15%/năm, năm 2010 là 8,6 tỷ USD, năm 2011 đạt trên 9 tỷ USD,
sáu tháng đầu năm 2012 đạt khoảng 6,4 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một
trong 10 quốc gia nhận kiều hối nhiều nhất; đóng góp quan trọng vào việc ổn
định cán cân thanh toán và kinh tế của đất nước. Theo công bố mới nhất của
Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đứng thứ chín thế giới về nhận kiều hối, với
kết quả dự kiến đạt gần 11 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm trước 1. Trước đây,
tiền gửi về nước chủ yếu là để giúp đỡ thân nhân, nay Việt kiều chuyển sang
góp vốn kinh doanh quy mơ gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công
ăn việc làm, tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đến nay, doanh
nhân người Việt Nam ở nước ngồi đã có mặt ở 51/63 tỉnh, thành phố, với
1

Theo Tạp chí QueHuongOnline.vn, ngày 9-10-2013.

15



3.546 doanh nghiệp, số vốn đăng ký kinh doanh và vốn đóng góp của Việt
kiều đạt khoảng 8,4 tỷ USD.
Thứ hai, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi có tiềm lực tri thức
đáng kể, góp phần khơng nhỏ vào phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục
đào tạo của đất nước.
Kiều bào ta ở nước ngoài được đánh giá là cộng đồng trẻ, năng động,
có nhiều tiềm năng về đầu tư, kinh doanh, tri thức quản lý và khoa học - công
nghệ, ngày càng hội nhập sâu hơn, không những luôn chấp hành tốt luật pháp
nước sở tại mà cịn có vị thế chính trị cũng như kinh tế trong xã hội sở tại,
được nhân dân và Chính phủ nước sở tại yêu mến. Thế hệ trẻ kiều bào (thứ
hai và thứ ba) đang thay thế dần lớp người lớn tuổi trong các sinh hoạt cộng
đồng, chiếm đa số là lớp trí thức trẻ, tập trung chủ yếu ở Bắc Mỹ, Tây Âu và
châu Đại dương, làm việc trong hầu hết các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, kỹ
thuật công nghệ cao từ điện tử, tin học, viễn thông, vật liệu mới, sinh học cho
đến công nghệ hàng không, vũ trụ, sản xuất vũ khí,... Có một số người Việt có
tên tuổi và uy tín khoa học lớn được thế giới, xã hội nước sở tại vinh danh
như: Giáo sư Vật lý Trần Thanh Vân - người châu Á thứ ba được nhận Huy
chương Tate do Viện Vật lý Mỹ trao tặng nhằm vinh danh những người có
cơng lao to lớn trong việc tổ chức và lãnh đạo các hoạt động vật lý trên quy
mô quốc tế; Giáo sư Thiên văn học Trịnh Xuân Thuận được Học viện Pháp
quốc tặng Giải thưởng thế giới Cino del Duca 2012; Giáo sư Đặng Lương
Mô, người nổi tiếng thế giới với 300 công trình nghiên cứu và 12 phát minh,
sáng chế; Giáo sư Ngơ Bảo Châu xuất sắc vượt qua nhiều nhà tốn học tên
tuổi khác trên thế giới để nhận Giải thưởng Fields - giải thưởng cao quý nhất
trong lĩnh vực toán học; Giáo sư Vũ Hà Văn được Hội Quy hoạch toán học và
Hội Toán học Mỹ trao Giải Fulkerson, một giải thưởng dành cho các bài báo
xuất sắc về toán học rời rạc; hay gần đây nhất, Giáo sư Đàm Thanh Sơn được

16



Đại học Chicago (Hoa Kỳ) bổ nhiệm làm “Giáo sư Đại học” vật lý - danh
hiệu đại diện cho khát khao học thuật cao nhất của Đại học Chicago bởi
những người được bổ nhiệm là những nhà khoa học có tài năng xuất sắc,
được quốc tế cơng nhận và có tầm ảnh hưởng rộng lớn,…
Theo ước tính của Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước
ngoài, trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi có khoảng 400.000
người có trình độ đại học, trên đại học, cơng nhân kỹ thuật bậc cao, được đào
tạo chính quy trong mơi trường khoa học hiện đại, được tiếp cận và cập nhật
những tiến bộ mới nhất của khoa học kỹ thuật thế giới và có nhiều kinh
nghiệm thực tiễn trong hầu hết các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, kỹ thuật công
nghệ cao từ điện tử, tin học, viễn thông, vật liệu mới, sinh học cho đến công
nghệ hàng không, vũ trụ, sản xuất vũ khí. Trong những năm gần đây, mỗi năm
đã có khoảng 200 - 300 chun gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài,
chủ yếu từ các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản,… về nước
tham gia có hiệu quả vào các cơng việc giảng dạy, tư vấn và đầu tư, chuyển
giao tri thức thông qua nhiều hoạt động phong phú như tham gia trực tiếp
giảng dạy tại các trường đại học, viện nghiên cứu, biên soạn giáo trình; cung
cấp thơng tin, tài liệu, kinh nghiệm; làm việc trong các dự án hợp tác với nước
ngoài, phối hợp với các chuyên gia, trí thức trong nước thực hiện các chương
trình nghiên cứu, triển khai ứng dụng; làm cầu nối, mở rộng hợp tác quốc tế
giữa các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu của Việt Nam với nước sở tại;
làm tư vấn cho các bộ, ngành, các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạch định
chính sách, đặc biệt các ngành, lĩnh vực phát triển mới. Bên cạnh đó, do có
điều kiện được tiếp cận với nền khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại, nắm
bắt xu hướng phát triển mới của thế giới, kiều bào ta có thể đóng góp ý kiến,
kiến thức về xây dựng pháp luật, thể chế, hoạch định chính sách phát triển
kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, v.v.. Với ảnh hưởng ngày càng tăng của


17


cộng đồng đối với chính quyền sở tại, kiều bào có thể vận dụng thúc đẩy quan
hệ chính trị, kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các nước; tranh thủ sự ủng
hộ quốc tế đối với Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế.
Thứ ba, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là cầu nối quan trọng
để chúng ta mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với các quốc gia, vùng lãnh
thổ, khu vực và thế giới. Đây là nhân tố quan trọng trong thực hiện đường lối
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi có nhiều lợi thế trong
công tác đối ngoại, bởi họ là lực lượng tuyên truyền, quảng bá nhanh, hiệu
quả về văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới thông qua
các hoạt động văn hóa cộng đồng và hỗ trợ, tham gia các triển lãm, hội chợ
quảng bá văn hóa, thương mại, du lịch của Việt Nam với thế giới, góp
phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh
thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung.
Thứ tư, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi cịn là lực lượng quan
trọng, đóng góp tích cực, chủ động trong cuộc đấu tranh phịng, chống và vơ
hiệu hóa chiến lược “Diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch. Ở hải ngoại hiện nay có hơn 100 tổ chức chính trị phản động người
Việt Nam đang ni chí “phục thù” nhằm thực hiện ý đồ đen tối “phục quốc”.
Cầm đầu các hội, nhóm trên phần lớn là những phần tử cực đoan, từng là
ngụy quân, ngụy quyền cũ, có nhiều nợ máu với cách mạng. Chúng đã, đang
móc nối, câu kết chặt chẽ với nhau và với bọn phản động trong nước để hoạt
động chống phá cách mạng nước ta, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc.
Chúng đẩy mạnh truyền đạo trái phép để “tơn giáo hố” các vùng dân tộc, lơi
kéo, dụ dỗ đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền. Những
năm gần đây, chúng tăng cường lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do
tôn giáo”, tổ chức các cuộc hội thảo về quyền con người, cái gọi là “Lễ mất


18


đất” (ngày 4 tháng 6 hằng năm), “Ngày thành lập FULRO” (ngày 20 tháng 9
hằng năm), thu thập, phát tán tài liệu (bản đồ, sách, tập san, tạp chí, băng,
đĩa,...) để vu cáo Việt Nam hay gửi kiến nghị thư có liên quan đến vấn đề lãnh
thổ,… Thực tế cho thấy, nếu chúng ta phát huy cao độ những lợi thế của lực
lượng người Việt Nam ở nước ngoài để phân hóa, cơ lập các lực lượng phản
động, thì có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực từ xa chiến lược “Diễn
biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ đối với cách mạng Việt Nam của các thế lực
thù địch, nhất là trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi.
1.3.2. Một số hoạt động và đóng góp của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài
Thời gian qua, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài liên tục phát
triển và lớn mạnh cả về lượng và chất. Về mặt lượng, ngày càng đơng người
Việt sang nước ngồi theo diện lao động, kinh doanh, nghiên cứu, du học,
lao động xuất khẩu hoặc định cư, đồn tụ gia đình, du lịch, kết hơn,… nâng
tổng số người Việt Nam ở nước ngồi hiện nay lên hơn 4 triệu người. Địa
bàn cư trú của cộng đồng được mở rộng trên 103 nước và vùng lãnh thổ trên
khắp thế giới, kể cả những khu vực nghèo và đang phát triển ở châu Phi,
Trung Đông, Nam Mỹ hoặc các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, đại
bộ phận (khoảng 98%) vẫn tập trung ở 21 nước thuộc năm khu vực địa lý:
Bắc Mỹ, Tây Bắc Âu, Nga và Đông Âu, Đông Nam Á, Đông Bắc Á và châu
Đại dương.
Bên cạnh đó, tiềm lực kinh tế của kiều bào ngày càng được nâng cao,
bà con có xu hướng đầu tư về nước ngày một nhiều hơn. Thống kê cho thấy,
mỗi năm trung bình có khoảng 500.000 lượt kiều bào về nước, trong đó có rất
nhiều người về để tìm hiểu cơ hội kinh doanh. Tính đến nay, đã có 51 trong
tổng số 63 tỉnh, thành phố có các dự án đầu tư của kiều bào với hơn 3.500

cơng ty được thành lập hoặc góp vốn từ kiều bào với tổng số vốn đăng ký hơn

19


8,4 tỷ USD, phần lớn từ các nước như Mỹ, Canađa, Ơxtrâylia, Nga, Pháp, Hà
Lan, Séc,... Ngồi ra, ngày càng nhiều các trí thức, nhà khoa học Việt kiều trở
về phục vụ đất nước với kiến thức và trí tuệ được đào tạo ở các nền giáo dục
tiên tiến. Đó là những nguồn lực vô cùng quý giá cho công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước.
Lượng kiều hối gửi về nước hằng năm đều đạt mức cao - tương
đương với vốn ODA cho Việt Nam mỗi năm, và năm sau luôn cao hơn năm
trước. Lượng kiều hối về nước tăng liên tục là một minh chứng rõ ràng cho
xu thế gắn bó ngày càng tăng giữa cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
với Tổ quốc. Năm 2012, lượng kiều hối đạt mức kỷ lục, hơn 10 tỷ USD.
Theo một báo cáo công bố mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt
Nam đứng thứ hai Đông Nam Á, sau Philíppin, và đứng thứ chín thế giới
về kiều hối năm 2012.
Trong tổng giá trị kiều hối đổ về nước năm 2012, kiều hối gửi về Thành
phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng 42%, 70% trong số đó được đầu tư cho các
hoạt động kinh doanh, 23% vào bất động sản, và phần còn lại là biếu tặng cho
thân nhân.
Lượng kiều hối này cùng với các dự án đầu tư của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài là một nguồn đóng góp lớn và quan trọng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước,
trong điều kiện nền kinh tế thế giới và trong nước đang vật lộn với những khó
khăn do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, kiều hối từ
năm 2009 - 2011 vẫn tăng từ 6,2 tỷ - 8,8 tỷ USD, đóng góp 1/10 cho GDP của
cả nước. Cho đến nay, có khoảng 3.546 dự án đầu tư của kiều bào với tổng số
vốn đạt khoảng 8,4 tỷ USD, có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, xã hội, trực

tiếp góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết cơng ăn việc làm và phát triển
đất nước. Phần lớn những dự án đầu tư của Việt kiều trước đây chủ yếu nhằm

20


vào kinh doanh nhỏ như nhà hàng, khách sạn hoặc du lịch,... Gần đây, đầu tư
của kiều bào đang có xu hướng chuyển dịch sang nhiều lĩnh vực khác, có quy
mơ lớn hơn và thơng qua các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp đa dạng
hơn, như: dược phẩm, hóa chất, y tế, giáo dục, cơng nghệ thơng tin, xây lắp
cao cấp, tài chính - ngân hàng, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ
phần mềm,... Ngồi ra, trên thực tế, một phần khơng nhỏ đầu tư của bà con
được thực hiện dưới hình thức góp vốn liên doanh hay thông qua thân nhân
trong nước.
Thời gian qua, các hoạt động do Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam
ở nước ngoài tổ chức dành cho kiều bào như: Xuân Quê hương, diễu hành kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Giỗ Tổ Hùng Vương, Trại hè Việt
Nam, Đoàn kiều bào đi thăm và tặng quà quân, dân huyện đảo Trường Sa,...
không chỉ thu hút được đông đảo các đại biểu kiều bào là các doanh nhân, nhà
khoa học, giới trí thức trẻ, những lãnh đạo hội đồn nịng cốt, mà gần đây cịn
thu hút được sự quan tâm của các cơ quan truyền thông hải ngoại như Bolsa
TV, Viet Weekly, KBC hải ngoại,… tạo nên nhiều bước đột phá lớn trong
công tác thông tin tuyên truyền. Mặt khác, đây cũng là dịp để những người
con trước đây vì nhiều lý do phải xa Tổ quốc xích lại gần hơn với q hương,
cùng hịa chung nhịp thở của quê hương, cùng chung tay giải quyết các cơng
việc trọng đại của đất nước.
Dù cịn nhiều hạn chế, nhưng thực tế những năm qua đã cho thấy vai
trò đóng góp quan trọng của nguồn nhân lực người Việt Nam ở nước ngoài
cho sự phát triển chung của đất nước.
1.4. Quan điểm chỉ đạo, phương hướng và nhiệm vụ của công tác

thông tin đối ngoại và xuất bản sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài
Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương phát huy sức mạnh của khối đại
đồn kết tồn dân tộc, trong đó có cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài,

21


tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đảng và Nhà nước ta ln coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi là
một bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam,
là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa
nước ta và các nước, v.v.. Có thể thấy rõ điều này qua nhiều chủ trương, chính
sách rộng mở và biện pháp cụ thể được đề ra trong những năm qua nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho đồng bào về thăm đất nước và đầu tư làm ăn, thể hiện
trong một số nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước như:
- Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13-6-1992 “Về đổi mới và tăng cường
công tác thông tin đối ngoại” của Ban Bí thư khóa VII u cầu phải đổi mới
và tăng cường công tác thông tin đối ngoại nhằm đáp ứng những yêu cầu của
cách mạng trong tình hình mới, từ đó đề ra nhiệm vụ: “Tùy từng địa bàn, đối
tượng và yêu cầu của từng lúc mà xác định nội dung và hình thức thơng tin
cho thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm… Thơng tin cho cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở Tây Âu, Bắc Mỹ, Liên Xô (trước đây) và
Đông Âu”.
- Chỉ thị số 10/2000/CT-TTg ngày 26-4-2000 của Thủ tướng Chính phủ
coi thơng tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng của công tác đối ngoại
của Đảng, Nhà nước ta nhằm làm cho các nước, người nước ngoài (bao gồm
cả người nước ngồi đang sinh sống, cơng tác tại Việt Nam), người Việt Nam
đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài hiểu về đất nước, con người Việt
Nam, đường lối, chủ trương, chính sách và thành tựu đổi mới của ta, trên cơ
sở đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng

người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì
vậy, hơn lúc nào hết, công tác thông tin đối ngoại càng trở nên bức thiết, cần
phải được triển khai một cách đồng bộ, thiết thực và hiệu quả với sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương và sự tham gia tích cực của các bộ, ngành và địa

22


phương. Đồng thời, Chỉ thị cũng lưu ý: Công tác thơng tin đối ngoại cần được
triển khai tồn diện, rộng khắp, song có trọng tâm, trọng điểm, trước hết là
đối với các nước láng giềng và trong khu vực, cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài; ưu tiên cung cấp thơng tin đúng định hướng cho người nước
ngồi đến Việt Nam sinh sống, làm việc, du học. Để làm tốt nhiệm vụ này,
cần tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, có trọng tâm, trọng
điểm để phục vụ công tác thông tin đối ngoại; chú ý đầu tư cho các cơ quan
báo chí, truyền thơng đại chúng, bao gồm cả báo chí điện tử, các cơ quan xuất
bản; các cơ quan hợp tác và giao lưu văn hố với nước ngồi; xây dựng chính
sách trợ giá, trợ cước cho việc in ấn và phát hành các tài liệu (bao gồm cả
sách) dùng cho thông tin đối ngoại.
- Ngày 27-1-2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 20CT/TW “Về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành sách lý
luận, chính trị trong tình hình mới”. Chỉ thị nêu rõ: cần xây dựng chương trình
đầu tư của nhà nước về xuất bản, phát hành sách lý luận, chính trị theo kế hoạch
5 năm và hằng năm cho từng loại sách, từng đối tượng và từng vùng.
- Tháng 3-2004, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã
ra Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngoài, thể hiện bước đổi mới tư duy quan trọng trong công tác này và sự quan
tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước tới đồng bào ta đang sống xa Tổ quốc. Nghị
quyết đã đánh giá tình hình và cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài
thời gian qua, nêu rõ những chủ trương, phương hướng công tác và những
nhiệm vụ chủ yếu đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới.

Nghị quyết khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta:
“Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là một
nguồn nhân lực của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam” và nhận định rằng
trong thời gian qua chúng ta chưa có hình thức thỏa đáng để cung cấp kịp thời

23


và đầy đủ thơng tin về tình hình đất nước và chính sách của Đảng và Nhà
nước; cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của tồn
bộ hệ thống chính trị, là nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Nghị
quyết yêu cầu: “Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình
thức tập hợp với mục đích đồn kết người Việt Nam ở nước ngồi quan tâm,
giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích các hoạt động hướng về Tổ quốc,... Hỗ trợ
các dự án của người Việt Nam ở nước ngồi với mục đích trên”. Về các nhiệm
vụ chủ yếu, Nghị quyết nêu rõ: Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học
tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngồi... Đổi mới cơng tác thông tin,
tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước ngồi hiểu đúng tình hình đất
nước và chính sách của Đảng và Nhà nước... Hỗ trợ việc xuất bản báo và các
phương tiện truyền thơng; hỗ trợ kinh phí và đơn giản hóa các thủ tục đối với
việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra nước ngồi phục vụ cộng đồng.
- Ngày 25-8-2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 42CT/TW về “Nâng cao chất lượng tồn diện của hoạt động xuất bản”, trong đó
có nêu nhiệm vụ xây dựng chương trình quốc gia xuất bản các loại sách thiết
yếu về chính trị - xã hội - văn hóa.
- Luật xuất bản 2004 sửa đổi và bổ sung năm 2008 tại Điều 6 Khoản 2
nêu rõ: Nhà nước có chính sách đặt hàng đối với xuất bản phẩm về lý luận,
chính trị;... xuất bản phẩm cần phổ biến rộng rãi nhằm phục vụ nhiệm vụ
chính trị, xã hội trọng yếu và thông tin đối ngoại. Điều này được khẳng định
lại tại Điều 7 của Luật xuất bản 2012.

- Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg ngày 6-6-2008 của Thủ tướng Chính phủ
về việc tiếp tục tăng cường triển khai thực hiện Chương trình hành động của
Chính phủ về cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi.

24


- Ngày 5-8-2008, Văn phịng Trung ương Đảng có Thơng báo số 449TB/VPTW thông báo ý kiến chỉ đạo của đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên
Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư tại buổi làm việc với Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật. Trong Thơng báo có đề cập nhiệm vụ trang bị
sách lý luận chính trị cho cơ sở xã, phường, thị trấn, cho cán bộ lãnh đạo cấp
tỉnh và cơ quan trung ương, cho trí thức và người Việt Nam ở nước ngồi.
- Ngày 10-9-2008, Ban Bí thư Trung ương Đảng có Chỉ thị số 26CT/TW về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường cơng tác thơng tin đối ngoại trong
tình hình mới”. Chỉ thị nêu rõ trong thời gian tới cần tiếp tục tăng cường
tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, cơng cuộc đổi mới của đất nước ta để bạn bè quốc tế và đồng bào ta ở
nước ngồi có hiểu biết nhiều hơn, đầy đủ và đúng đắn hơn về sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đẩy mạnh tuyên truyền,
giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử, văn hóa và con người Việt
Nam, tiềm năng phát triển và hợp tác của Việt Nam với cộng đồng quốc tế
trên các lĩnh vực,... Về phương thức, lực lượng tham gia và tổ chức thực hiện,
Chỉ thị nêu rõ: cần huy động mọi lực lượng, mọi khả năng để mở rộng và đa
dạng hóa các phương thức thông tin, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho hoạt động thông tin,... Các nhà xuất bản đẩy mạnh xuất bản các ấn
phẩm bằng nhiều thứ tiếng giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người
và văn hóa Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước có đơng
người Việt Nam định cư.
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt
Nam, tháng 1-2011 chỉ rõ: Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn
hóa, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Mở

rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, báo chí, xuất bản,… Hỗ trợ đồng bào định cư

25


×