Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Công tác cán bộ của đảng bộ tỉnh .. trong giai đoạn hiện nay khóa luận tốt nghiệp ngành chính trị học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.83 KB, 58 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn
coi trọng công tác cán bộ, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ngày càng vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong các giai đoạn cách mạng của
Đảng, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược quan
trọng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, do Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khởi
xướng và lãnh đạo từ Đại hội III đến nay, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
ngày càng có vai trò đặc biệt quan trọng.
Hiện nay, Đảng và nhân dân các bộ tộc Lào đang tiến hành đổi mới đất
nước, chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang từng bước đẩy
mạnh sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
mở rộng quan hệ quốc tế với các nước trên thế giới. Công cuộc đổi mới đất
nước được tiến hành trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có cả
thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, chứa đựng những yếu tố bất trắc
khó lường. Điều đó đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Nước Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi hỏi Đảng
Nhân dân cách mạng Lào phải có tầm nhìn sáng suốt để ra đường lối cách
mạng đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi. Để đạt được điều đó, yếu tố
quyết định là công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm, đáp ứng
đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước, trong đó khâu quan trọng là nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ.
Công tác cán bộ của các Đảng bộ và chính quyền ở Lào là sự hoạt động
có định hướng của Đảng nhằm xác lập, phát triển tuyển dụng, bộ trí cán bộ,
xây dựng niềm tin và định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới
quan khoa học, tư tưởng, tình cảm, nhân cách, lối sống tri thức để đảm bảo



2

cho con người có hành động tích cực, chủ động, sáng tạo, thực hiện thắng lợi
lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trước mắt trong giai
đoạn hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, công tác cán bộ đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng vẫn còn tồn tại không ít yếu kém, bất
cập. Sự phát triển của công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội cùng những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của
tình hình trong và ngoài nước, đòi hỏi công tác tuyển dụng của Đảng phải được
đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, phục vụ có hiệu quả công tác cán bộ, sử dụng cán bộ
trong Đảng bộ tỉnh Xiêng Khoảng để thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc nhân
dân cách mạng Lào; thực hiện “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai cùng các nước tiên tiến
trên thế giới.
Trong bối cảnh chung của đất nước, với tình hình thực tiễn của địa
phương, Đảng bộ tỉnh Xiêng Khoảng luôn xác định công tác cán bộ là công
tác của toàn Đảng bộ, là nhiệm vụ của mỗi cấp uỷ và toàn thể cán bộ, đảng
viên và trong hệ thống chính trị, là một trong ba mặt của công tác xây dựng
Đảng. Những năm qua Tỉnh uỷ Xiêng Khoảng đã tích cực kiện toàn đội ngũ
cán bộ, đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp hoạt động, vận dụng sáng
tạo bài học về sức mạnh tổng hợp vào công tác cán bộ. Nhờ vậy chất lượng và
hiệu quả công tác cán bộ được nâng cao, góp phần tăng cường sự thống nhất
trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó công tác này vẫn
còn bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập cần phải được tiếp tục nghiên cứu, giải
quyết trong giai đoạn hiện nay.



3

Từ những kiến thức lý luận được học tập và nghiên cứu tại Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn về đổi mới, chỉnh đốn
và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nhất là công tác
cán bộ của Đảng trong tình hình hiện nay, tác giả lựa chọn đề tài “ Công tác
cán bộ của Đảng bộ tỉnh Xiêng Khoảng nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu.
Trong thời gian qua có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học Việt Nam và các nhà khoa học Lào liên quan tới đề tài công tác cán bộ
được công bố trên các sách, báo mạng, tạp chí khoa học chuyên ngành. Đây
chính là một cơ sở thuận lợi để khóa luận tiến hành nghiên cứu, trong đó có
một số tài liệu được viết bằng tiếng Việt như:
- Đăm Đi Năn Tha Vông (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh
Xiêng Khoảng Nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào.
- Bun Lư Sổm Sắc Đi (2004), Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp tỉnh khu
vực phía Bắc của nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào.
- Sĩ Phon Ma la Vông (2010), Luân chuyển cán bộ tỉnh uỷ của tỉnh
Xiêng Khoảng Nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào.
Một số tài liệu bằng tiếng Lào như các báo cáo của Trung ương và của
tỉnh Xiêng Khoảng như:
- Bài tổng kết của Ban tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào. Năm 2006.
- Bài tổng kết của Ban tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào. Năm 2007.
- Bài tổng kết của Ban tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào. Năm 2008.



4

- Bài tổng kết của Ban tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào. Năm 2009.
- Bài tổng kết của Ban tổ chức tỉnh uỷ Xiêng Khoảng. Năm 2006.
- Bài tổng kết của Ban tổ chức tỉnh uỷ Xiêng Khoảng. Năm 2007.
- Bài tổng kết của Ban tổ chức tỉnh uỷ Xiêng Khoảng. Năm 2008.
- Ban tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào ( 1995),
Xây dựng Đảng, (35).
- Ban tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào hội nghị cán
bộ toàn quốc, (07/11/1995).
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về công tác cán bộ, khóa luận
phân tích thực tiễn công tác cán bộ ở Đảng bộ tỉnh Xiêng Khoảng và đề xuất
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác cán bộ tại tỉnh Xiêng Khoảng
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác cán bộ
- Phân tích thực trạng công tác cán bộ tỉnh Xiêng Khoảng, nước cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác cán bộ
tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khóa luận tập trung nghiên cứu về công tác cán bộ của Đảng bộ tỉnh
Xiêng Khoảng trong thời gian 2011 đến nay và đề xuất giải pháp để nâng cao
hiệu quả công tác cán bộ của Đảng bộ tỉnh Xiêng Khoảng trong thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:



5

Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, quan điểm Chủ tịch Cay
xỏn Phôm Vi Hản về công tác cán bộ của Đảng bộ.
* Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy nạp –
diễn dịch, ....
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 3 chương, 8 tiết


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

1.1. Quan niệm về cán bộ và công tác cán bộ
1.1.1. Quan niệm về cán bộ
Khái niệm “cán bộ” được sử dụng rất rộng rãi trong tổ chức và hoạt
động lãnh đạo của các đảng cộng sản và ở các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả ở
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
Trong Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1993, thuật ngữ cán bộ được
hiểu theo 2 nghĩa:
Một là, người làm công tác nghiệp vụ có chuyên môn trong cơ quan
Nhà nước, đơn vị Đảng và đoàn thể. Theo nghĩa này, cán bộ không chỉ là

những người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước
mà còn ở trong cả hệ thống chính trị.
Hai là, người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người không có chức vụ. Với nghĩa này, cán bộ là những người
làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống chính
trị, là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, là những người có chức vụ để phân
biệt với người không có chức vụ. Bộ phận cán bộ này được hình thành thông
qua việc bầu cử dân chủ, đề bạt, bổ nhiệm.
Thông qua cách tiếp cận trên có thể hiểu, cán bộ là những người làm
việc chuyên môn nghiệp vụ hoặc giữ cương vị lãnh đạo trong hệ thống
chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một khi đã có đường lối cách mạng
đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Người viết: “Muôn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
Cán bộ là những người đem đường lối, chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân


7

chúng báo cáo lại cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho
đúng. Thực tế là mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ đều do
cán bộ nghiên cứu đề xuất, đồng thời cũng do cán bộ tổ chức, hướng dẫn nhân
dân thực hiện. Đường lối của Đảng đúng hay sai, tổ chức thực hiện thành hay
không đều phụ thuộc vào cán bộ. Động lực của mọi cuộc cách mạng là quần
chúng nhân dân, mà hạt nhân chủ yếu của nó là lực lượng cán bộ. “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc” chính là quan điểm về con người với tính cách
vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Qua đó có thể hiểu rằng: Cán bộ là người có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ nhất định, làm việc trong các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính

trị và là người giữ chức vụ trong các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị.
Ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, thuật ngữ “cán bộ” xuất hiện
trong đời sống xã hội của Lào từ khi phong trào cách mạng Lào có tổ chức
đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, nó được dùng làm tên
gọi cho những người đi làm cách mạng mà nhân dân hay gọi những người đó là
cán bộ Lào ít-xa-la và được sử dụng rất nhiều ở vùng giải phóng của Mặt trận
Lào yêu nước. Trong Báo cáo của Tổng bí thư Kay Sỏn Phôm Vi Hản trước
Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào ngày 22 tháng 03 năm 1955 (Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào hiện nay), từ cán bộ đã ghi vào trong chính sách cơ bản và
chương trình hành động trước mắt của Đảng như sau: Tích cực đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, trước hết phải quan tâm cán bộ là công nhân - nông dân,
dân tộc ít người.
Sau ngày giải phóng giành được độc lập hoàn toàn trên cả nước, chính
quyền về tay nhân dân, thành lập nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào ngày
02 tháng 12 năm 1975, từ đó Đảng trở thành Đảng cầm quyền, từ cán bộ được
sử dụng một cách phổ biến trên cả nước và dường như thay hoàn toàn cho từ
“viên chức” đã được gọi trong chế độ bù nhìn Viêng Chăn. Kể từ đó đến nay,
trong xã hội đã hiểu danh từ cán bộ là danh xưng cho tất cả những người làm


8

việc trong bộ máy cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội, các nhà máy, xí nghiệp Nhà nước, lực lượng vũ trang. Cách
hiểu như thế xuất phát từ chỗ, các đối tượng này có điểm chung là những
người được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, theo Từ điển tiếng Lào, xuất bản
năm 1986, cán bộ cũng đồng nghĩa với công chức, nhà chức trách [19, tr.356].
Ngày 19/5/2003, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ nhân
dân (CHDCND) Lào đã ra Sắc lệnh số 82/CP về Quy chế cán bộ, viên chức

nhà nước CHDCND Lào, trong đó Điều 3 đã quy định: “Cán bộ nước Cộng
hoà Dân chủ nhân dân Lào là công dân Lào được biên chế và bổ nhiệm làm
việc thường xuyên, trong các cơ quan Trung ương, địa phương hoặc được uỷ
nhiệm làm việc ở các cơ quan đại diện nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân
Lào ở nước ngoài, được hưởng lương và phụ cấp từ ngân sách nhà nước”.
1.1.2. Quan niệm về công tác cán bộ
Công tác cán bộ bao gồm các việc xác định hệ thống các quan điểm,
nguyên tắc, nội dung, quy trình công tác chặt chẽ, hoàn chỉnh để xây dựng đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Đây
được coi là hoạt động lãnh đạo của tổ chức.
Công tác cán bộ của Đảng là hệ thống các công việc: xây dựng các
chính sách, nguyên tắc, nội dung, quy trình công tác để xây dựng đội ngũ cán
bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Đây là hoạt
động lãnh đạo của Đảng, trước hết là các cấp ủy, đồng thời phát huy vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị theo những nguyên tắc
nhất định.
Từ nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của cán bộ trong giải quyết mọi
công việc, mọi nhiệm vụ của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy cần
phải có đội ngũ cán bộ tốt và để có đội ngũ cán bộ tốt Đảng cần đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ Đảng, phải coi “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”,


9

phải biết lựa chọn, đánh giá, sử dụng và đối xử đúng với cán bộ. Đảng phải
nắm bắt và phải biết rõ tình hình cán bộ. Người cho rằng muốn nắm và biết rõ
cán bộ phải thường xuyên xem xét cán bộ, nếu không sẽ là một khuyết điểm
to. Người chỉ cho ta thấy, tác dụng của việc thường xuyên xem xét cán bộ là
“tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác những người hủ hoá cũng lòi ra”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Phải cân nhắc cán bộ cho đúng và

phải dùng cán bộ cho khéo”. Người viết: “Khi cân nhắc cán bộ phải xét rõ
người đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng tin cậy mến phục hay
không”, nghĩa là phải xem xét uy tín cán bộ trước quần chúng đến mức độ
nào và phải xem người ấy xứng đáng với việc gì. “Nếu người có tài mà dùng
không đúng tài của họ, cũng không được việc”, “nếu cân nhắc không cẩn
thận không khỏi đem người chỉ nói mà không làm vào những địa vị lãnh đạo,
như thế rất có hại”. Người phê phán “thường chúng ta không biết tuỳ tài mà
dùng người”, “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành
thử hai người đều lúng túng”. Người chỉ ra tác dụng của việc bố trí sử dụng
đúng người, đúng việc “nếu biết tùy tài mà dùng người” thì sẽ thành công.
Song song với việc chỉ ra tầm quan trọng của việc sử dụng đúng người,
đúng việc, đúng chỗ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: Cân nhắc và khéo
dùng cán bộ, dùng đúng cán bộ là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, bởi vì
không đánh giá, sử dụng đúng cán bộ sẽ dẫn đến sự lãng phí nhân tài là sự
lãng phí lớn nhất của đất nước. “Lãnh đạo khéo thì tài nhỏ có thể hoá ra tài
to. Lãnh đạo không khéo thì tài to hoá ra tài nhỏ”, “cân nhắc cán bộ, phải vì
công tác tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế công
việc nhất định chạy”, “nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang nhất
định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế có tội với
Đảng, có tội với đồng bào”.
Để cân nhắc, sử dụng đúng người, đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc, theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh phải có quan điểm và phương pháp đánh giá đúng.


10

Người chỉ ra rằng phải có lòng độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ
một cách chí công vô tư không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi.
Người cho rằng: “Trong thế giới cái gì cũng biến hoá, không nên đem một cái
khuôn khổ nhất định mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau, quá khứ, hiện

tại, và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”. Theo Người
“Xem xét cán bộ không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem cả lịch sử, tất cả
công việc của họ. Trước khi cân nhắc cán bộ phải nhận xét rõ ràng. Chẳng
những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của
họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không? Chẳng những xem xét họ
đối với ta như thế nào. Ta nhận họ tốt còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận
họ tốt hay không? Phải biết ưu điểm của họ mà cũng phải biết khuyết điểm
của họ”.
Như vậy, quan điểm xem xét cán bộ của Hồ Chí Minh rất tổng hợp, lịch
sử và biện chứng, phải đặt cán bộ trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Chỉ
trên những quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ như vậy mới khắc
phục được những căn bệnh, những khuyết điểm chủ quan thường mắc trong
công tác cán bộ như: “ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn cho
họ là chắc chắn hơn người ngoài; ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà
chán ghét những người chính trực, ham dùng những người tính tình hợp với
mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình”…
1.2.

Vị trí, vai trò của công tác cán bộ

Công tác cán bộ là một bộ phận trong công tác xây dựng Đảng, là công
tác Đảng liên quan chặt chẽ với việc xác định đường lối, chủ trương, chính
sách và nhiệm vụ chính trị, với việc sắp xếp tổ chức, bộ máy, cơ chế và đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong cả hệ thống chính trị.
Trong các tác phẩm Lênin viết trước Cách mạng Tháng Mười, Người
đã khái quát về cán bộ như sau:


11


Cán bộ có vai trò quan trọng quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của giai cấp công nhân. Bởi vì, cán bộ của Đảng là người góp phần tích
cực trong quá trình xây dựng, giữ gìn, cụ thể hoá, phát triển và tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối chính sách của Đảng.
Trong lịch sử đã chứng minh, mỗi thời đại xã hội đều cần có con người
vĩ đại và không có con người như thế thì thời đại sẽ sáng tạo ra họ. Ngay từ
ngày đầu thành lập Đảng, V.I.Lênin rất coi trọng đến vai trò của cán bộ.
Người khẳng định: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được
quyền thống trị nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những
lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh
đạo phong trào" [20, tr.473]. Những con người sử dụng sức mạnh thực tiễn,
những lãnh tụ, đó là đội ngũ cán bộ của Đảng. Để có đội ngũ cán bộ phải tiến
hành xây dựng, nếu không Đảng không thể nào thể hiện và thực hiện được
những tư tưởng, không thể tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng của
quần chúng và không thể thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng. Nói cách
khác, cán bộ là rường cột của Đảng, của Nhà nước và các tổ chức đoàn thể
nhân dân. Bất cứ chế độ nào, mọi việc thành hay bại là ở công tác cán bộ.
Điều đó nói lên vai trò đặc biệt của cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.
V.I.Lênin chỉ rõ, muốn lật đổ chế độ Nga hoàng giành chính quyền phải
có đội ngũ “những nhà lãnh đạo chuyên nghiệp”. Ngay từ ngày đầu thành lập
Đảng, V.I.Lênin đã rất coi trọng công tác cán bộ, người chỉ đạo tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng. Cách mạng tháng Mười Nga không thể thành công nếu công
tác cán bộ không được xây dựng tốt. Khi có chính quyền thì yêu cầu đầu tiên
là phải lựa chọn, xây dựng, bố trí đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cán bộ có vai trò rất quan trọng với tổ chức, tổ chức mạnh sẽ duy trì
được phong trào cách mạng, tổ chức sẽ thu hút được đông đảo quần chúng


12


tham gia phong trào, cán bộ là người lãnh đạo tổ chức, đưa phong trào đấu
tranh của quần chúng từ tự phát thành đấu tranh trong tổ chức. Cán bộ phải
làm tốt công việc của mình, không ngừng làm tốt công tác tổ chức. Do đó, cán
bộ phải lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp của mình …
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Sức mạnh của Đảng chính là
sức mạnh của quần chúng. Đảng chỉ mạnh khi quần chúng ủng hộ. Chính vì
vậy, cán bộ phải là người luôn có mối quan hệ mật thiết với quần chúng, trực
tiếp hoạt động trong phong trào quần chúng, đi sâu vào tất cả các giai cấp và
tầng lớp hướng dẫn tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ cách mạng cho quần
chúng, tổ chức quần chúng làm cách mạng. Cán bộ là “những người phát
sách báo truyền đơn, những người tổ chức các tiểu tổ và nhóm công nhân”.
Chính từ phong trào quần chúng mà nảy sinh ra đội ngũ cán bộ và rèn luyện
đội ngũ cán bộ “Quần chúng sẽ nảy sinh ngày càng nhiều những người cách
mạng chuyên nghiệp" [21, tr.160].
Được tôi luyện trong phong trào cách mạng của quần chúng, cán bộ
được coi là một nghề; và phải luôn rèn luyện mình để phục vụ phong trào
quần chúng: “Muốn “phục vụ” một phong trào quần chúng thì cần phải có
những người đặc biệt chuyên và hoàn toàn chuyên về hoạt động dân chủ xã
hội và phải kiên trì, bền bỉ, kiên quyết tự rèn luyện mình thành những người
cách mạng chuyên nghiệp” [21, tr 161].
V.I.Lênin, người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã đặc
biệt coi trọng việc xây dựng một đội ngũ những nhà cách mạng chuyên
nghiệp cho phong trào cộng sản. Đó là những cán bộ nòng cốt đầu tiên của
Đảng cộng sản Bônsêvich Nga, những người giúp Đảng “đảo ngược nước
Nga, là “ những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị của
giai cấp tư sản”.


13


Khi Đảng chưa có chính quyền, vấn đề cán bộ đã rất được quan tâm.
Khi có chính quyền, vấn đề cán bộ càng trở lên quan trọng và cấp bách hơn.
Đảng phải gấp rút lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ về số
lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới. Những vấn đề quan trọng
về cán bộ và công tác cán bộ đã được V.I.Lênin bàn đến nhiều ở giai đoạn
Đảng đã giành được chính quyền và tập trung ở thời kỳ sau khi chính quyền
được thiết lập trong cả nước.
Khi chính quyền lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
V.I.Lênin đã tiến hành đánh giá, sắp xếp lại cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ. Năm 1922, Người khẳng định: Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ
có bản lĩnh hiện nay là then chốt. Nếu không thì tất cả mệnh lệnh và quyết
định chỉ là mớ giấy lộn. V.I.Lênin khẳng định: Cán bộ luôn giữ vị trí cực kỳ
quan trọng trong cách mạng dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở
bất kỳ giai đoạn cách mạng nào cán bộ luôn là trung tâm của mọi vấn đề, là
nguyên nhân của mọi thành công, trong sự nghiệp cách mạng, nếu thiếu đội
ngũ cán bộ tiên tiến, tiêu biểu thì cách mạng không thể thành công. Cán bộ
không đủ năng lực, thiếu bản lĩnh sẽ không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Vận dụng quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Đảng Nhân dân cách mạng Lào qua các kỳ đại hội đã luôn khẳng định, cán bộ
và công tác cán bộ là nhân tố quyết định việc thực hiện đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là
vấn đề mấu chốt, là mắt xích quan trọng trong mọi giai đoạn của cách mạng,
của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, là nhân tố quyết định kết quả việc
tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Nói chung, công tác cán bộ
gắn liền trực tiếp với việc củng cố khả năng lãnh đạo của Đảng. Do vậy, công
tác cán bộ luôn được xem là công việc trọng yếu, nhằm đào tạo, rèn luyện,



14

chăm lo xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận trung với nước, tận hiếu với
dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ qua các thời kỳ cách mạng. Khi công
cuộc đổi mới do Đảng NDCM Lào khởi xướng và lãnh đạo càng đi vào chiều
sâu càng đặt ra những yêu cầu bức thiết phải xây dựng một đội ngũ cán bộ
đáp ứng được những yêu cầu mới.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1986) của Đảng là một bước
ngoặt có ý nghĩa chiến lược đối với quá trình phát triển của cách mạng Lào, là
Đại hội đề ra công cuộc đổi mới của đất nước. Đảng đã nghiêm túc tự phê
bình những sai lầm khuyết điểm, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra đường
lối đổi mới toàn diện trong đó có vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Đảng coi
cán bộ và công tác cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm nên
những thành tựu đã đạt được cũng như những tồn tại, yếu kém. Đại hội đã
nhấn mạnh: “Phải đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng
nhất mà Đảng phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa
cách mạng”.
Tại Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ V (1991) đã khẳng
định: Tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, xây dựng cho được một đội
ngũ cán bộ vững mạnh và đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Để ngày càng đáp ứng được nhiệm vụ chính trị, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1996) tiếp tục khẳng định: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn
diện về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng
lực thực tiễn. Quan tâm đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý,
các nhà doanh nghiệp và các chuyên gia, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ
chốt trong hệ thống chính trị. Coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc”.
Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và tổng
kết công tác cán bộ trong những năm đổi mới, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã đề ra Nghị quyết: Về chiến lược cán bộ



15

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đạo hoá đất nước. Nghị quyết đã
khẳng định vai trò cán bộ có tính chất đặc biệt quan trọng cán bộ là khâu theo
chốt trong công tác xây dựng Đảng và nêu rõ: “Đất nước đang bước vào thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng
nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng phải xây dựng một đội ngũ cán bộ
ngang tầm, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Lào xã hội chủ nghĩa”.
1.3.

Nội dung của công tác cán bộ

Công tác cán bộ là một hoạt động cụ thể, nhằm định hướng cho một
chiến lược lâu dài của sư nghiệp cách mạng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cánh mạng, tác động đồng bộ lên các khâu cán bộ, bao gồm: tiêu chuẩn đánh
giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bổ nhiệm, điều động, luân
chuyển, chính sách, kiểm tra, quản lý cán bộ. Công tác cán bộ giữ vị trí quan
trọng quyết định trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào. Công tác cán bộ gồm những nội dung cụ thể sau đây:
- Xác định tiêu chuẩn cán bộ, chỉ rõ những quy định đối với các bộ về
phân chất đạo đức, trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ ...
- Tuyển dụng cán bộ, lựa chọn những người đáp ứng được các tiêu
chuẩn cán bộ theo chức trách, nhiệm vụ cụ thể để giao nhiệm vụ.
- Đánh giá cán bộ: quá trình xem xét, đối chiếu tiêu chuẩn cán bộ với
khả năng phấn đấu, rèn luyện trong thực tế của người cán bộ.
- Quy hoạnh cán bộ là quá trình thực hiện đồng bộ các chủ trương, biện
pháp tạo nguồn để xây dựng đội ngũ cán bộ. Khi có quy hoạch cán bộ cần
phải đưa cán bộ đi bồi dưỡng để bổ sung những mặt còn hạn chế, thiếu sót

của cán bộ.
- Điều động, luân chuyển cán bộ là tạo điều kiện để rèn luyện, tu
dưỡng, thử thách cán bộ, nhất là cán bộ trẻ có triển vọng, giúp cán bộ trưởng


16

thành nhanh, vững vàng và toàn diện hơn, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu
dài của toàn bộ hệ thống chính trị, của cán cấp các ngành...
- Lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ là nắm tình hình, tìm kiếm những người
có đủ phẩm chất, năng lực để bố trí, sử dụng cán bộ phục vụ việc xây dựng,
củng cố tổ chức vững mạnh.
- Chế độ, chính sách đối với cán bộ cũng là khâu rất quan trọng trong
công tác cán bộ, tạo điều kiện để cán bộ yên tâm công tác.
- Quản lý cán bộ là hoạt động chủ động, thường xuyên có mục đích của
cơ quan quản lý cán bộ, của cấp có thẩm quyền tác động có định hướng vào
đội ngũ cán bộ, nhằm rèn luyện, bồi dưỡng phát huy khả năng của đội ngũ
cán bộ và từng cán bộ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Các nội dung của công tác cán bộ là một thể thống nhất, có quan hệ mật
thiết, chặt chẽ với nhau, tác động, thúc đẩy lẫn nhau. Thực hiện tốt nội dung
này sẽ là tiền đề và cơ sở để thực hiện tốt các nội dung khác. Trong các nội
dung của công tác cán bộ, mỗi nội dung có vai trò, vị trí quan trọng khác
nhau, nên không được tuyệt đối hóa hay coi nhẹ bất cứ nội dung nào.
Những năm gần đây, tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực có
nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạp. Với sự phát triển như vũ bão của khoa
học - công nghệ, sự giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng và gia tăng, các nước
đang phát triển có điều kiện rất thuận lợi để có thể rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong điều kiện mở cửa, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế phải trao đổi và học tập, áp dụng kinh nghiệm tốt của các nước
phát triển trên thế giới và trong khu vực, phù hợp với điều kiện thực tế ở Lào,

trong đó, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước của một số nước
được quan tâm nghiên cứu. Xu thế phát triển của thời đại đòi hỏi công tác cán bộ
phải không ngừng được nâng cao chất lượng. Nếu không đáp ứng chất lượng thì
sự nghiệp cách mạng khó khăn sắp tới cũng không thực hiện thắng lợi được.


17

Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào là yêu cầu cấp
thiết, nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và có ý nghĩa quyết định tới sự
nghiệp cách mạng Lào. Hiện thực cách mạng đã chỉ rõ, mức độ chính xác của
đường lối và việc cụ thể hoá đường lối một cách đúng đắn kịp thời và đạt hiệu
quả cao hay không đều tuỳ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ. Trong công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta phải xây dựng, kiện toàn
và đổi mới hơn nữa các khâu của công tác cán bộ, tạo ra đội ngũ cán bộ, nhất
là cán bộ chủ chốt các cấp có trí tuệ, tài năng, uy tín để thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng và bảo vệ thành công Tổ
quốc Lào xã hội chủ nghĩa.


18

Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH XIÊNG
KHOẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Khái quát chung về tỉnh Xiêng Khoảng nước Cộng hòa dân
chủ Nhân dân Lào
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, tỉnh Xiêng Khoảng.
Xiêng Khoảng là tỉnh miền núi, cao nguyên, nằm ở vùng Đông Bắc của

Lào, phía Bắc giáp tỉnh Hủa Phăn, phía Tây giáp tỉnh Luông Phạ Bang, phía
Nam giáp với tỉnh Viêng Chăn và tỉnh Bo Ly Khăm Xay, phía Đông Bắc giáp
tỉnh Nghệ An (Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Tỉnh có đường biên giới
dài 164 km2, có một cửa khẩu quốc gia Nằm Cắn (thuộc huyện Nóng Hét).
Toàn tỉnh có 8 huyện, 564 bản, có 39.771 hộ dân; dân số 258.742 người, trong
đó có 123.478 nữ. Dân số trong tỉnh thuộc các bộ tộc lớn như: Lào Lùm
44,5%; Lào Thâng 8,1%; Lào Xủng 38,4%; Tày 5%; Phóng 2,4%; và dân tộc
khác 1,6%.
Điều kiện tự nhiên của tỉnh thuận lợi cho phát triển nền kinh tế, có núi,
rừng, sông, đồng cỏ tự nhiên, có diện tích trồng trọt và chăn nuôi khá lớn, có
khả năng nuôi trâu, bò, dê, lợn và trồng cây nông nghiệp.
Tỉnh có nguồn tài nguyên phong phú như: Mỏ sắt, than đá, vàng (Phu
Bia), đồng (Phu Sắn), tuy nhiên các tài nguyên đó đang được các công ty
nước ngoài như Trung Quốc và Úc khai khác.
Tỉnh có đường quốc lộ số 7 qua tỉnh từ phía Tây Nam sang phía Đông, từ
tỉnh Luông Phạ Bang qua các huyện và thị xã Phôn Xã Văn, kéo dài đến cửa
khẩu Nằm Cắn vào tỉnh Nghệ An (Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Với
chiều dài 269 km2, Quốc lộ 7 rất thuận lợi cho giao thông vận tải và thương
mại trong và ngoài nước và là cầu nối giữa các tỉnh trong cả nước và nước
ngoài (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Ngoài ra tỉnh còn có đường số


19

6, từ huyện Khăm đến biên giới tỉnh Hủa Phăn có chiều dài 96 km 2 và các con
đường khác của địa phương, thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế trong tỉnh và
các tỉnh trong nước.
Trong tỉnh có nhiều vùng du lịch tự nhiên và văn hoá cổ xưa như cánh đồng
Trum thuộc huyện Péch thị xã Phôn Sạ Vắn 7 km2, hồ nước Nóng Tằng thuộc
huyện Mương Khăm cách thị xã Phôn Sạ Vắn 65 km2, đây là một khu du lịch

nổi tiếng của tỉnh thu hút nhiều du khách trong nước và nước ngoài đến thăm.
Tỉnh còn có nhiều sông như sông Nắm Ngừm, Nắm Xiêng, Nắm Mồ,
Nắm khổ, Nắm Nhuôn, Nắm Săn, chạy theo địa bàn của tỉnh, tạo điều kiện rất
thuận lợi về xây dựng kinh tế và cung cấp nguồn nước phục vụ đời sống nhân
dân các bộ tộc trong tỉnh.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội, văn hóa – xã hội
* Về kinh tế
Hiện nay, kinh tế của tỉnh Xiêng khoảng đã có sự phát triển. Toàn tỉnh có
8 huyện, trong đó có 3 huyện nghèo, dân số 242.149 người, tăng 1,1% so với
2009 – 20010, có 564 bản, có 39.771 hộ dân. Trong đó có 3.817 hộ dân
nghèo; 196 bản nghèo; tổng sản phẩm quốc nội của tỉnh năm 2008 - 2009 là:
1.226,28 tỷ kíp (tương đương 128.136 triệu USD), tốc độ tăng trưởng kinh tế
7.8% /năm. Thu thập bình quân đầu người 4,718,618 kíp, (tương đương 852
USD/ người/năm). Trong những năm gần đây, kinh tế của tỉnh đạt mức tăng
trưởng khá; cơ cấu kinh tế có chuyển biến tiến bộ, đúng hướng. Tỷ trọng nông
nghiệp - dịch vụ trong GDP và bình quân đầu người tăng.
Đầu tư của nhà nước có 72 dự án, đạt 100% kế hoạch trong năm. Trong
đó lĩnh vực kinh tế đạt được 36 dự án; văn hóa – xã hội 19 dự án và du lịch 17
dự án; đầu tư của tư nhân trong nước và ngoài nước 19 dự án. So với những
năm trước, đầu tư phát triển có trọng điểm và trọng tâm hơn, góp phần làm
thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn.


20

Nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp
chuyển biến tích cực, theo hướng sản xuất hàng hóa; cơ cấu cây trồng, vật
nuôi từng bước được chuyển đổi; tỉnh có diện tích 15.880 km 2. Trong đó, diện
tích rừng 551.252 ha, diện tích đất nông nghiệp 37. 324 ha (trong đó, đất làm
ruộng 37.249 ha, đất trồng ngô 23,487 ha, trồng rau 720 ha). Trong năm 2006

– 2010 có đất làm ruộng 29.211 ha, thu nhập được 104. 694 tấn; đất vụ chiếm
49 ha, thu nhập 164 tấn; đất trồng ngô 23.487 ha, bằng 115.235 tấn.
Về thương mại, du lịch, vận tải, điện lực, bưu điện và cơ sở hạ tầng có
bước chuyển biến tốt đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngoài buôn
bán giao lưu lượng hàng hoá trong tỉnh, còn có hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là
ngô, gỗ, trị giá 6.911USD, tăng 87,96% so với năm 2008, phần lớn là xuất
khẩu sang Việt Nam và Trung Quốc; nhập khẩu trong nước trị giá 13.738 triệu
USD, tăng 78,80% so với năm 2008, chủ yếu là hàng hoá công nghiệp, máy
móc phục vụ nông nghiệp, vật tiệu xây dựng và phụ tùng phương tiện.
Sản xuất nông nghiệp, tuy gặp khó khăn về giá cả, dịch bệnh nhưng cũng
đã phát triển tương đổi toàn diện, cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển đổi đa
dạng, tăng tích luỹ nội bộ ngành; trồng trọt phát triển theo hướng sản xuất
hàng hoá gắn với thị trường; chăn nuôi đã có bước phát triển các vùng chuyên
canh theo hướng công nghiệp, quy mô lớn, tập trung; sản xuất lâm nghiệp
đang chuyển dần theo hướng xã hội hoá.
Các ngành dịch vụ thương mại tiếp tục phát triển theo hướng thị trường
hàng hoá, phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng được mở rộng, đáp ứng được
nhu cầu mua và bán của nhân dân; các loại hình giao dịch thương mại văn
minh, hiện đại đang hình thành và phát triển.
Tuy nhiên, đến nay tỉnh Xiêng Khoảng vẫn là một trong các tỉnh chậm
phát triển: kinh tế phát triển chưa vững chắc, mức tăng trưởng còn thấp so với
khu vực và chưa tương xứng với tiềm năng. Sức cạnh tranh của nền kinh tế


21

còn yếu, doanh nghiệp còn nhỏ bé, khả năng hội nhập kinh tế quốc tế còn
thấp; cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng chưa theo kịp như phát triển kinh tế - xã
hội. Một số vấn đề y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội, môi trường còn bất cập.
* Về chính trị - xã hội.

Tình hình chính trị của tỉnh có sự ổn định. Cán bộ, đảng viên và nhân
dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, yên tâm công tác, lao
động, sản xuất và đời sống của nhân dân tương đổi ổn định. Hệ thống chính
trị tiếp tục được củng cố; vai trò và hiệu lực lãnh đạo, quản lý của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân tiếp tục được tăng cường; quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở ngày càng được phát huy; công tác xây dựng Đảng
được chỉ đạo thực hiện trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên được
nâng cao từng bước. Tỉnh đã xây dựng và chỉ đạo tổ chức thực hiện có kết quả
một số chỉ thị, nghị quyết, chuyền đề, chương trình và nhiều đề án lớn về
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác cán bộ có chuyển biến tích
cực, số cán bộ được đi đào tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng lên.
* Về giáo dục.
Tỉnh đã chăm lo tuyên truyền, khuyến khích nhân dân góp phần đầu tư
để đẩy mạnh giáo dục, phát triển trường học các cấp. Hiện nay toàn tỉnh có 1
trường đại học sư phạm, 1trường đào tạo cán bộ, 53 trường phổ thông, 478
trường tiểu học. Nhìn chung sự phát triển về giáo dục thể hiện khá rõ nét sau
mỗi năm.
* Về y tế
Tỉnh đã quan tâm củng cố và phát triển mạng lưới y tế xuống cơ sở.
Toàn tỉnh có 2 bệnh viện và các huyện có 8 bệnh viện, có 41 trạm xá. Các cơ
sở nông thôn vùng sâu, vùng xa có hiệu thuốc tạo điều hiện cho nhân dân các
bộ tộc được khám chữa bệnh nhiều hơn và chăm sóc sức khoẻ của bà mẹ, trẻ


22

em. Việc hạn chế sự phát triển của bệnh sốt rét, bệnh pôly được đặc biệt quan
tâm, nhờ đó tỷ lệ chết của bà mẹ và trẻ em ở tỉnh đã giảm xuống rõ rệt, dân số
toàn tỉnh được chăm sóc y tế ở những mức độ khác nhau.

* Về văn hoá - xã hội, thể dục thể thao
Xiêng Khoảng là một tỉnh bị chiến tranh tàn phá nhiều nhất so với các
tỉnh trong nước, hầu hết các công trình kiến trúc cổ xưa về văn hoá bị tàn phá.
Tuy nhiên, tỉnh Xiêng Khoảng có nhiều địa danh đặc sắc về văn hoá trên cả
nước như: Lăm Phuôn, Phon Bắng Phay. Tỉnh là một trong những địa phương
có truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng, truyền thống của cư
dân nông nghiệp trồng lúa nước và chăn nuôi.
* Về an ninh quốc phòng
Xiêng Khoảng là một địa bàn chiến lược của Vàng Pao, một lực lượng
đặc biệt của đế quốc Mỹ trước giải phóng, cho nên tỉnh Xiêng Khoảng là
trọng điểm về an ninh quốc phòng. Từ khi giải phóng đến nay, tỉnh thường
xuyên và trực tiếp bị tác động của tình hình khá phức tạp do hoạt động của
bọn phỉ trong tỉnh, bọn phản động quốc tế và phản động Lào lưu vong ở ngoài
nước chống phá cách mạng. Trong những năm qua tình hình bên trong tuy có
bước phát triển có lợi nhưng chưa vững chắc, còn nhiều yếu tố có thể gây mất
ổn định về chính trị.
* Về mặt tâm lý và tín ngưỡng
Qua khảo sát thực tế cư dân của tỉnh Xiêng Khoảng và các huyện trong
tỉnh có thể chia cư dân làm hai bộ phận, cư dân tại chỗ và cư dân mới đến.
Cư dân tại chỗ bao gồm cư dân các bộ tộc đã cư trú ở vùng sâu, vùng xa
hàng trăm năm, thuộc 3 thành phần lớn, Lào Lùm, Lào Thâng, Lào Sủng.
Các bộ tộc có hàng chục nhóm địa phương khác nhau. Đặc điểm có bản của
nhóm cư dân này là dựa trên nền tảng của công xã nông thôn mang nhiều tính
chất cổ truyền, sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp, công cụ thô sơ, kỹ thuật lạc
hậu, phân công lao động chưa phát triển.


23

Cư dân mới đến bao gồm cư dân thành thị và cư dân của tỉnh khác di cư

đến làm ăn, sinh sống sau giải phóng do cán bộ của Đảng và Nhà nước đưa
lên, với ý định làm một trong những lực lượng trụ cột để xây dựng vùng kinh
tế mới.
2.1.3. Đặc điểm đảng bộ tỉnh Xiêng Khoảng
Xuất phát từ yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh do vậy cần tăng cường chức
năng lãnh đạo Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trên cả 3 mặt:
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng ủy các cấp đã quan tâm triển khai nghị
quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh
Xiêng Khoảng lần thứ VI, phát triển tổ chức cơ sở đảng làm cho đảng bộ, chi
bộ cơ sở tăng lên.
Hiện nay, Đảng bộ tỉnh Xiêng Khoảng có 8 đảng bộ huyện, 79 đảng bộ
cơ sở, 890 chi bộ, so với năm 2010 tăng lên 32,64% .
Số lượng đảng viên toàn tỉnh có 13.838 đảng viên, trong đó đảng viên
nữ 3.179 đảng viên, tăng 42,73% so với năm 2015.
Số chi bộ vững mạnh toàn diện: 211 chi bộ, chiếm 29,50%;
Chi bộ vững mạnh: 307 chi bộ, chiếm 40,98%;
Chi bộ khá: 220 chi bộ, chiếm 29,26%;
Chi bộ không được xếp loại: 04 chi bộ,chiếm 0,51%.
Đảng ủy các cấp đã coi trọng và quan tâm đến việc kiểm tra, quản lý và
bảo vệ nội bộ đảng. Lấy việc kiểm tra thường xuyên là chủ yếu, kiểm tra
Đảng kết hợp với kiểm tra Nhà nước là quan trọng, do vậy đã quan tâm giải
quyết những tiêu cực trong nội bộ đảng một cách nhanh chóng và khẩn
trương, kiên quyết khai trừ đảng viên thoái hóa, biến chất ra khỏi tổ chức
đảng làm cho tổ chức đảng trong sạch và vững mạnh.
Năm 2015, số lượng cán bộ toàn tỉnh là 6.456 người, trong đó:


24


- Nam là: 3.750 người, chiếm đến 58,08% của cán bộ, công chức toàn Tỉnh.
- Nữ là: 2.706 người, chiếm 41,92% cán bộ, công chức toàn Tỉnh.
Cán bộ ở các cơ quan sở và cơ quan tương đương sở có 5.181 người,
nữ chiếm 2.099 người; còn lại cán bộ, công chức các tổ chức chính trị - xã hội
hoặc tổ chức quần chúng là 1.275 người, nữ chiếm 607 người.
Như vậy, tỷ lệ cán bộ, công chức nam giới vẫn còn chiếm tỷ lệ cao hơn
so với nữ giới, điều này sẽ dẫn đến sự hạn chế trong những chính sách dành
cho nữ giới, đồng thời cũng cho thấy sự hạn chế trong việc sử dụng tài năng
của nữ giới cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nói chung và góp
phần xây dựng tỉnh Xiêng Khoảng nói riêng.
Do có sự chênh lệch tỷ lệ về giới như vậy nên trong thời gian qua Đảng
và Nhà nước Lào nói chung và tỉnh Xiêng Khoảng nói riêng luôn quan tâm,
tạo điều kiện ưu tiên nhất định cho nữ giới. Hiện tại, Nhà nước đang có chủ
trương cân bằng trong sử dụng và đào tạo cán bộ, công chức nam và nữ, nhằm
tạo điều kiện cho nữ có thể có cơ hội phát triển tài năng, có thể khẳng định
được năng lực của bản thân mình. Tuy nhiên, trong thực tế vấn đề đào tạo, bồi
dưỡng trình độ cán bộ, công chức nữ còn gặp nhiều khó khăn bởi nhiều
nguyên nhân như: đối với nữ phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh gia đình, vào
tinh thần và ý chí của bản thân... Vì những lý do đó mà từ trước đến nay cán
bộ, công chức nam giới và nữ giới vẫn có sự chênh lệch nhau cả về số lượng
và chất lượng...
2.2. Những thành tựu, hạn chế trong công tác cán bộ của Đảng bộ
tỉnh Xiêng Khoảng
2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
luôn quan tâm đến công tác cán bộ và xác định việc xây dựng đội ngũ cán bộ
có đức, có tài là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành


25


công hay thất bại của cách mạng. Đánh giá về thực trạng đội ngũ cán bộ hiện
nay, Đảng NDCM Lào nhận định:
“Không ít chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã
không được thực hiện một cách có hiệu quả theo mong muốn. Điều đó, là do
điểm xuất phát của cơ sở sản xuất kinh tế thấp, tinh thần trách nhiệm và trình
độ của đội ngũ cán bộ nói chung chưa cao, nhất là trong đội ngũ cán bộ, lãnh
đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước còn có bộ phận yếu kém về tư
tưởng, đạo đức”.[10, tr.3-4].
Để nhấn mạnh vấn đề công tác tổ chức cán bộ, đồng chí Tổng Bí thư
Kay Sỏn Phôm Vi Hản đã nói: “vấn đề then chốt của nhiệm vụ cách mạng mà
Đảng ta đang gánh nặng trong tình hình hiện nay là phải chú trọng mọi cố
gắng và sự đổi mới công tác cán bộ, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đồng
bộ, có chất lượng tốt nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới toàn diện của
đất nước và có sự kế thừa một cách vững vàng, chắc chắn giữa các thế hệ
cán bộ. Nếu giải quyết vấn đề trên không tốt thì những Nghị quyết của Đảng
ta tuy đúng đắn phù hợp đến mấy cũng chỉ là những tài liệu nằm yên mà
thôi” [12, tr.125].
Trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh Xiêng Khoảng đã chú trọng tới
công tác cán bộ và đạt được những thành tựu quan trọng:
Về quy hoạch cán bộ
Đảng bộ tỉnh đã đề ra tiêu chuẩn rõ ràng về phẩm chất đạo đức, tư
tưởng, phẩm chất chính trị, năng lực, quá trình công tác và rèn luyện.
Những cán bộ được đưa vào quy hoạch được rèn luyện, thử thách trong
phong trào của quần chúng.
Các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nâng cao nhận
thức về công tác quy hoạch cán bộ và coi đó là nhiệm vụ trọng yếu của công



×