Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ góc nhìn phân tâm học (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

DƯƠNG THÚY HẰNG

TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

DƯƠNG THÚY HẰNG

TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh

THÁI NGUYÊN - 2017



i
LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học Đại học Thái Nguyên và được sự đồng ý của người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh, tôi đã thực hiện đề tài: “Tiểu thuyết Nguyễn Đình
Tú từ góc nhìn phân tâm học”.
Bản Luận văn được hoàn thành bằng sự nỗ lực và cố gắng của bản thân
trong suốt thời gian từ khi nhận đề tài đến khi kết thúc vào tháng 6 năm 2017.
Trong suốt quá trình viết Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình và hướng dẫn chu đáo của PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh.
Tôi cũng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất
của các thầy giáo, cô giáo khoa Văn- Xã hội, trường Đại học Khoa học – Đại
học Thái Nguyên để Luận văn được hoàn thành đúng thời hạn.
Đồng thời, tôi cũng nhận được sự động viên, chia sẻ của gia đình, bạn
bè đồng nghiệp, hỗ trợ tôi rất nhiều về mặt tinh thần.
Cho phép tôi bày tỏ lòng tri ân tới PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh và lời
cảm ơn sâu sắc tới các quý vị!
Thái Nguyên, tháng 6 – 2017

Học viên: Dương Thúy Hằng


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả được nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Thái Nguyên, tháng 6-2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Dương Thúy Hằng


iii

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ ii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 9
6. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 9
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
Chương 1. PHÂN TÂM HỌC VÀ TIẾP CẬN TIỂU THUYẾT
NGUYỄN ĐÌNH TÚ TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC ....................... 11
1.1. Khái lược lý thuyết phân tâm học ........................................................... 11
1.1.1. Phân tâm học của S.Freud .................................................................... 11
1.1.2. Phân tâm học của Jung (còn được gọi là Tâm phân học) ................... 16
1.2. Phân tâm học với nghiên cứu, phê bình văn học .................................... 19
1.3. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết của một số nhà văn trẻ Việt Nam
đương đại (Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương…) ................................ 21
1.4. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ...................... 25
1.4.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Tú ............................ 25
1.4.2. Ảnh hưởng từ phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ........ 28
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 31

Chương 2. DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC QUA CÁI NHÌN VỀ HIỆN
THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
......................................................................................................................... 32
2.1. Dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú qua cái nhìn
hiện thực .......................................................................................................... 32


iv
2.1.1. Không gian hiện thực đặc biệt - nơi hình thành những ẩn ức cá nhân 32
2.1.2. Không gian hiện thực của tiềm thức và giấc mơ - nơi chứa đựng
Những ẩn ức, mặc cảm, nỗi đau con người...................................................35
2.1.3. Không gian hiện thực tâm linh, phi lí - nơi cứu rỗi tâm hồn con người
......................................................................................................................... 39
2.2. Dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn con người trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú ........................................................................................................... 43
2.2.1. Con người bản năng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ..................... 44
2.2.2. Con người ẩn ức, mặc cảm, cô đơn trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
......................................................................................................................... 55
2.2.3. Con người thần kinh, đa nhân cách trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú . 63
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................ 67
Chương 3. DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC TRONG NGHỆ THUẬT TIỂU
THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ ................................................................... 68
3.1. Biểu tượng nghệ thuật mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú ............................................................................................. 68
3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nghiêng về thế giới vô thức của
nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú .................................................. 70
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú ............................................................................................. 74
3.3.1. Ngôn ngữ miêu tả hoạt động tính dục .................................................. 74
3.3.2. Giọng điệu ............................................................................................ 79

Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 93
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn xuôi đương đại ngày càng xuất hiện những gương mặt trẻ, tiêu
biểu, gây được tiếng vang và sự quan tâm, chú ý của giới phê bình cũng như
bạn đọc. Tuy nhiên, những tác phẩm trẻ trung ấy vừa xuất hiện và còn nóng
hổi tính thời sự nên thành tựu nghiên cứu về chúng vẫn còn khiêm tốn. Bởi
thế, việc nghiên cứu những tác phẩm của họ là cần thiết để góp phần đánh giá
một cách toàn diện về diện mạo nền văn xuôi Việt Nam hiện đại thế kỉ XXI.
1.2. Nguyễn Đình Tú là cây bút thuộc thế hệ 7x, từ rất sớm nhà văn này
đã có ý thức đi theo con đường chuyên nghiệp. Anh còn là một cây bút đa tài,
sáng tác ở nhiều đề tài, nhiều thể loại khác nhau, từ truyện ngắn đến tiểu
thuyết, từ văn học thiếu nhi đến văn học về giới trẻ, về chiến tranh… Và ở thể
loại nào, tác phẩm của anh cũng để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng độc
giả. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi, đổi mới “đứa con tinh thần” của mình,
tác phẩm Nguyễn Đình Tú luôn tạo nên những luồng dư luận nhiều chiều,
khen có, chê có, thích thú có, ghê sợ có… Bởi vậy mà các tác phẩm của
Nguyễn Đình Tú luôn “nóng hổi” tính thời sự và có sức hút đối với người
nghiên cứu.
1.3. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI đã
xuất hiện nhiều xu hướng đổi mới, cách tân cả về mặt nội dung và hình thức.
Để đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện đặc điểm, thành tựu và hạn chế của
thể loại văn học này cần áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu. Trong số
đó, hướng tiếp cận văn chương từ góc nhìn phân tâm học ngày càng được chú

ý. Đặt tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú dưới ánh sáng phân tâm học, người viết có
cơ sở khoa học để soi sáng các giá trị, chỉ ra các ưu điểm, nhược điểm trong
tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Từ đó nhằm đánh giá sáng tác của ông một cách
toàn diện và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, đây là một công việc hết sức khó khăn


2

bởi bản thân lý thuyết Phân tâm học không dễ thấu hiểu và chưa được vận
dụng phổ biến trong nghiên cứu văn chương ở nước ta.
Vì những lí do trên, người viết lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú từ góc nhìn Phân tâm học” với mong muốn góp phần
khám phá và luận giải về những vấn đề về nội dung và nghệ thuật trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu văn học từ góc nhìn Phân tâm học ở Việt Nam
Phân tâm học đã được đưa vào nghiên cứu văn học ở Việt Nam từ khá
sớm qua các công trình: Chuyên luận về Hồ Xuân Hương Thân thể và văn tài
(1936) của Nguyễn Văn Hanh, bài viết Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương của
Trương Tửu. Chuyên luận Hồ Xuân Hương – Hoài niệm phồn thực (1995)
của Đỗ Lai Thuý. Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm, Đáp lời con quái vật
Sphinx hay Ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu… in trong tập Bút pháp của
ham muốn, Phân tâm học và văn hoá nghệ thuật, Phân tâm học và văn hoá
tâm linh cũng là những công trình có tính ứng dụng cao của Đỗ Lai Thuý.
Phân tâm học trong nghiên cứu văn học (bài giảng của Evelyne Grossman,
GS Văn học Pháp đương đại ĐH Pari, Nguyễn Thị Từ Huy dịch), Phân tâm
học và nghiên cứu, phê bình văn học nghệ thuật (bài báo khoa học của Lê
Đình Cúc, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam), Phân tâm học trong
nghiên cứu văn học ở Việt Nam (đề tài khoa học cấp Đại học của Cao Thị
Hồng), Phân tâm học văn bản và phê bình văn học (bài báo khoa học của

Đoàn Anh Dương, Viên khoa học)...
Ngoài ra, trong phạm vi các trường Đại học cũng xuất hiện một số công
trình nghiên cứu văn học từ lý thuyết Phân tâm học dưới dạng các khoá luận
tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ.


3

2.2. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Bàn về các tác phẩm cụ thể là Nháp, Kín, Phiên bản và Hoang tâm
người viết xin trích dẫn lại một số ý kiến tiêu biểu. Cụ thể là các bài viết:
Nháp - tiểu thuyết mới của Nguyễn Đình Tú (Lương Giang), Nháp hay là một
sự xới xáo đáng trân trọng (Hoàng Anh), Nháp, từ một cuộc sống phàm phũ
đến dự cảm văn chương (Đình Khôi), Nháp hay là sự yếm thế tâm hồn (Hoài
Hương), Nháp và nỗi cô đơn khi… sex (Lương Nguyên), Nháp hay văn
chương dành cho giới trẻ? (Mai Đình Khôi).
Xoay quanh tác phẩm này đã có những cuộc bút chiến nảy lửa. Trong
bài viết “Nháp - sự tha hóa và vỏ bọc tri thức”, Bùi Công Thuấn đã lấy dẫn
chứng một số ý kiến nhận xét về Nháp: “Tiểu thuyết Nháp của Tú đúng là tác
phẩm mới ở dạng nháp thôi. Nó là cuốn trung bình non, có gì mà ầm ĩ lên
thế” (Lê Tự). “Chu Lai hiểu thực chất cuốn tiểu thuyết này như thế nào.
Nhưng ông này không đủ dũng cảm để nói thẳng, bởi thế ông phải dùng một
loại ngôn ngữ hỏa mù. Nhưng Chu Lai là người không giỏi thao tác loại ngôn
từ này nên mới viết như thế. Xin tác giả Nháp bình tĩnh và thành công trong
tác phẩm tới và nên quên đi những lời giới thiệu vô thưởng vô phạt như thế
này” (Ngô Hoàng Lễ). Bùi Công Thuấn đã phân tích cái vỏ bọc tri thức trong
tác phẩm để đi đến nhận xét: “Nếu như trước đây những cuốn như Bảy đêm
khoái lạc, Cô giáo Thảo bị coi là đồi trụy, bị truy quét thì Nháp còn đồi trụy
gấp nhiều lần những cuốn sách truyền tay nhau ấy chỉ vì nó được khoác cái
vỏ “tư tưởng” và vỏ trí thức khiến cho người ta phải lưỡng lự khi kết luận về

nó, không biết nó là một tác phẩm tư tưởng hay một cuốn sách đồi trụy. Sự
độc hại nguy hiểm của Nháp chính là ở chỗ lập lờ ấy” [110].
Bên cạnh những ý kiến phê phán là tiếng nói khẳng định. Võ Thị Xuân
Hà đánh giá: “Nháp không chỉ là một thông điệp lạnh lùng, Nháp không chỉ
có sex và giết người” [44]. Hay một số bài viết như: Một cách nhìn khác về


4

Nháp (Trần Tố Loan), Nháp không phải là một cuốn tiểu thuyết suy đồi (Nga
Sơn), Phản biện sex trong Nháp của Nguyễn Đình Tú (Lê Nhật Tăng). Nhà
phê bình Văn Giá có lời nhận xét: “Đọc Nháp, tôi cho rằng ít nhất Nguyễn
Đình Tú làm được việc rất quan trọng của tiểu thuyết: Thứ nhất, tiểu thuyết
có tư tưởng và thứ hai, nói được về thế hệ của chính anh trong xã hội hiện
nay” [39]. Đoàn Minh Tâm đánh giá Nháp có bốn cái mới như sau: “Một là
ngôn ngữ, hai là độ mở, ba là cách xây dựng nhân vật và bốn là tính giải trí.
Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú có chất luật, chất lính biểu hiện ở tính hình
sự điều tra”. “Xây dựng kiểu nhân vật thần kinh là bước nỗ lực lớn của
Nguyễn Đình Tú trong việc làm mới chính mình” [106].
Đối với tiểu thuyết Phiên bản, cuốn tiểu thuyết đoạt giải B Cuộc thi
sáng tác tiểu thuyết, truyện và kí vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống
(giai đoạn 2007 - 2010) do Bộ Công an phối hợp với Hội Nhà văn tổ chức,
Đoàn Ánh Dương khẳng định: “Nguyễn Đình Tú không lập hồ sơ tội phạm
bằng án tích mà chủ yếu bằng thương tích”. Ông cho rằng: “Nguyễn Đình Tú
không chú ý đi sâu vào xây dựng tình huống, những tình tiết giàu kịch tính,
những hình ảnh li kỳ, gay cấn giống như những tác phẩm trinh thám của nhân
vật, thái độ, xúc cảm của nhân vật trong cái nhìn hồi cố” [28]. Phiên bản còn
nhận được những đánh giá, nhận xét ở nhiều bình diện, nhiều vấn đề qua các
bài viết như: Phiên bản hay tính thiện và tính ác trong một con người của Ma
Văn Kháng, Phiên bản, những mảng tối của cuộc đời của Nghiêm Tuấn,

Phiên bản của bạo lực và tính người của Giang Nam và Hoài Hương với bài
viết Nhà văn Nguyễn Đình Tú, tiểu thuyết Phiên bản: tội ác mang khuôn mặt
đàn bà.
Đến 2010, khi Kín ra đời thì cuốn sách dày hơn 400 trang này lại đi
sâu, bóc tách, lí giải chân dung lớp trẻ đương đại. Cuốn tiểu thuyết này tiếp
tục tạo nên sóng gió trên văn đàn. Nhà văn Nguyễn Hữu Quý không đánh giá


5

cao tác phẩm. Trong bài “Kín có bột chưa gột nên hồ”, ông nhận xét: “Vốn
sống, tư liệu là chất liệu quan trọng nếu không muốn nói là chủ yếu làm nên
tác phẩm, điều ấy ai cũng biết. Nhưng để những cái đó trở thành nhân vật,
chi tiết, không gian sinh động trong tiểu thuyết thì chẳng phải dễ dàng gì, nó
đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về tài trí, tâm sức của người cầm bút. Nếu không cao
tay, không nôn nóng vội vã, đôi khi có bột rồi ta cũng không gột nên hồ. Vốn
sống, tư liệu chỉ là thứ quặng thô, muốn thành sản phẩm tinh phải qua sàng
lọc, chế biến nghiêm ngắn với những công nghệ tiên tiến hiện đại càng có
chất lượng cao. Kín chưa phải là một sản phẩm tinh xảo, mới lạ”. [91]. Bên
cạnh đó lại có rất nhiều ý kiến bênh vực tác phẩm. Đối thoại với Nguyễn Hữu
Quý, Phí Thùy Hương cho rằng: “Trong mặt bằng tiểu thuyết hôm nay, thiết
nghĩ, với việc công bố Kín, Nguyễn Đình Tú đã cho ra đời một tác phẩm ấn
tượng. Theo cách nói của Nguyễn Hữu Quý, chất liệu trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú là thứ bột nhưng chưa gột nên hồ. Chúng tôi lại thấy ngược
lại, rằng Nguyễn Đình Tú đã làm nên thứ bánh có chất lượng, nói theo ngôn
ngữ kinh doanh tức là có thương hiệu riêng và được người tiêu dùng ủng hộ”
[61]. Lê Quốc Hiếu cũng nhận định “Kín là cảm thức về thân phận lạc loài,
hoang hoải của Nguyễn Đình Tú” [51]. Nhà nghiên cứu Inrasara còn dự cảm
“Kín chấm dứt một hành trình, mở ra một hành trình khác” [65] trong sự
nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Tú.

Với lối viết độc đáo, mới lạ, “không giống ai”, Nguyễn Đình Tú đã mở
ra cho mình một hướng đi riêng trong làng văn, có lẽ vì vậy mà tác phẩm của
anh luôn có những ý kiến trái chiều, khen rất nhiều nhưng chê cũng không ít.
Đến nay, xoay quanh tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú không chỉ dừng lại ở những
lời giới thiệu, những bài viết ngắn nêu ý kiến tranh luận, đánh giá của các nhà
văn, giới phê bình, một số công trình nghiên cứu bài bản, có hệ thống, quy mô
và chất lượng dưới dạng khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ đã làm rõ


6

nhiều khía cạnh về nội dung cũng như nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú như: khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Thùy “Ngôn từ nghệ thuật
trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú”, nó đã phân tích, kiến giải mối quan hệ
giữa ngôn từ tiểu thuyết và cảm quan về thế giới quan của nhà văn. Luận văn
thạc sĩ của Phạm Thị Bình với đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú”, trong đó
khảo sát một số phương diện nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú.
2.3. Một số ý kiến liên quan trực tiếp đến đề tài
Trong tham luận trình bày tại Hội thảo “Văn học đương đại dưới cái
nhìn Phân tâm học”, bài viết Yếu tố kì ảo trong Nháp của Nguyễn Đình Tú từ
góc nhìn Phân tâm học đã phân tích và lý giải những chi tiết nghệ thuật bằng
lý thuyết của Freud: “Nói như Freud, chấn thương là nguồn gốc của mọi sự
bấn loạn về tinh thần. Mọi thương tổn đều có thể gây ra những rối loạn, ám
ảnh, hằn sâu trong tâm hồn mỗi người. Sự mặc cảm lan tỏa như một thứ bóng
đen gặm nhắm, bào mòn. “Nháp” không thiếu những mặc cảm như thế. Đó là
những thương tổn trong quá khứ, day dẳng trong hiện tại buộc con người đi
về trong nỗi sợ hãi, và cô đơn ghê gớm. Để chạm vào những lo âu, đau đáu
trong vô thức, hay chập chờn của nỗi sợ, Nguyễn Đình Tú lồng vào đó những
yếu tố kỳ ảo. Khi con người mất niềm tin, họ thường hay trốn vào siêu hình,

họ muốn tìm một nơi ẩn náu. Yếu tố kỳ ảo xuất hiện như một sợi dây mong
mảnh giữ lấy tâm hồn người, níu lại, không để họ trượt dài trong buông xuôi,
vô vọng” [55].
Khoá luận tốt nghiệp “Giọng điệu tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ yếu tố
tính dục” của Nguyễn Thị Phương Nhi, Đại học Đà Nẵng, 2012 đã bước đầu
đề cập đến quan niệm của nhà văn về tình dục và sự chi phối của tính dục đến
việc xây dựng nhân vật và lựa chọn giọng điệu trong các tiểu thuyết. Bài viết
Những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết Nháp của Đoàn Minh Tâm


7

cũng đề cập đến việc nhà văn vận dụng Phân tâm học trong xây dựng nhân
vật: “Cùng với việc miêu tả nhân vật trong một “lát cắt cuộc sống đủ dài” mà
chúng tôi vừa đề cập ở trên, Nguyễn Đình Tú có bước thay đổi lớn lao khi lần
này anh miêu tả, xây dựng kiểu nhân vật tâm thần (được hiểu là lệch chuẩn về
tâm sinh lý). Dựa trên nguyên lý khá nổi tiếng của một nhà phân tâm học:
Mọi người đều là người điên, duy chỉ có người điên là giống họ hơn chúng ta
mà thôi, Nguyễn Đình Tú đã phác thảo nhiều chân dung những con bệnh thần
kinh mà tiêu biểu là Thạch và Nguyễn Toàn. Điểm khác biệt giữa hai nhân
vật này với các nhân vật như Bạch Đàn hay Minh Việt (trong hai tiểu thuyết
trước) là ở chỗ tuy cùng gặp bất hạnh trong cuộc sống nhưng bất hạnh của
họ không chịu tác động lớn của nhân tố bên ngoài - tức là do hoàn cảnh sống
đưa đẩy. Bất hạnh của Thạch và Nguyễn Toàn ở dạng hoàn toàn khác. Nó có
nguồn gốc tự bản thân họ. Họ phải chống chịu với những ý nghĩ, những ham
muốn bản năng - mà ý chí, lương tâm - biết là lệch lạc đang ngày đêm hiện
hữu nơi xác thân” [106]. Như vậy, ta có thể thấy các bài viết, các công trình
nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích yếu tố tính dục chứ chưa đi
sâu vào bản thể tinh thần và mới đề cập đến một tác phẩm cụ thể mà chưa có
sự tìm tòi, nghiên cứu toàn diện các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú từ góc

nhìn Phân tâm học. Với những lý do trên, người viết lựa chọn đề tài này với
hi vọng góp một cái nhìn thấu triệt hơn về tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ góc
nhìn Phân tâm học.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Dấu ấn phân tâm học qua cái nhìn về con người và hiện thực cuộc
sống trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu


8

Thông qua tìm hiểu dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú, luận văn góp phần soi sáng thêm những giá trị tư tưởng và đặc sắc
nghệ thuật của cây bút văn xuôi hiện đại này.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ
- Khái lược lý thuyết phân tâm học và việc vận dụng phân tâm học vào
phân tích tác phẩm văn học ở Việt Nam.
- Từ góc nhìn Phân tâm học, làm sáng tỏ những đóng góp riêng biệt của
Nguyễn Đình Tú qua cái nhìn nghệ thuật về hiện thực và con người.
- Phân tích sự chi phối của thuyết Phân tâm học trong những sáng tác
của Nguyễn Đình Tú.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn Phân tâm học: khái lược
hệ thống lý thuyết Phân tâm học, từ đó soi chiếu sự ảnh hưởng của lý thuyết
này đối với tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
- Phương pháp tổng hợp: Người viết tiếp cận văn bản tác phẩm Nguyễn
Đình Tú, phân tích các chi tiết sự kiện... để đi đến hình thành và xác lập luận
điểm khoa học về dấu ấn Phân tâm học trong các sáng tác đó một cách thống

nhất.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn hóa học, Xã hội học):
nghiên cứu ảnh hưởng của nó đối với sáng tác và phê bình văn học trong đó
trực tiếp nghiên cứu ở tác phẩm Nguyễn Đình Tú.
- Phương pháp so sánh đồng đại lịch đại: trong những trường hợp cần
thiết, người viết sử dụng phương pháp so sánh để tìm thấy sự khác biệt trong


9

cách phản ánh hiện thực và con người của Nguyễn Đình Tú với các nhà văn
cùng thời và trước đó.
- Phương pháp thi pháp học.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu bốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú:
Nháp (2008, Nxb Thanh niên), Kín (2010, Nxb Văn học), Phiên bản (2011,
Nxb Văn học), Hoang tâm (2013, Nxb Hội Nhà văn).
- Ngoài ra luận văn còn so sánh, mở rộng tới những dấu vết của phân
tâm học trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy
Anh hay trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,…
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Phân tâm học và tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ
góc nhìn phân tâm học
Chương 2: Dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn về hiện thực và con
người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Chương 3: Dấu ấn Phân tâm học trong nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú.
7. Đóng góp của luận văn
- Góp thêm cái nhìn mới mẻ về tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú và về

quan niệm nghệ thuật của nhà văn này về hiện thực và con người.
- Tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ một góc nhìn khác, góc nhìn
Phân tâm học, từ đó lý giải các vấn đề về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm Nguyễn Đình Tú.


10

- Đánh giá những đóng góp cũng như vị trí của tác giả trong tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại
nói chung.


11

Chương 1
PHÂN TÂM HỌC VÀ TIẾP CẬN TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
1.1. Khái lược lý thuyết phân tâm học
1.1.1. Phân tâm học của S.Freud
Được mệnh danh là “Newton của tâm hồn” với câu nói đầy ấn tượng:
“Cái tôi không phải người chủ trong nhà của mình” cùng mong muốn được
vĩ đại như Anhxtanh, Copernic và Darwin, nhà triết học người Áo Sigmund
Freud (1856 - 1939) đã sáng lập ra Phân tâm học - một trường phái tư tưởng
hiện đại về lĩnh vực tâm lý học vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Ngay
từ khi ra đời, Phân tâm học đã thực sự gây choáng váng giới học thuật, thậm
chí, lúc bấy giờ người ta còn nói đến nó như một cuộc cách mạng về tư duy
trong triết học hiện đại.
Ở thế kỉ XV - XVI, chủ nghĩa nhân văn Phục hưng ra đời ở nhiều
nước đã mở đầu cho thời kì quá độ từ chế độ phong kiến lên tư bản chủ

nghĩa ở châu Âu gắn liền với lý tưởng đấu tranh cho con người được phát
triển tự do, được tôn trọng, đề cao, được thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh
thần và con người cá nhân được giải phóng. Cuộc cách mạng công nghiệp
cuối thế kỉ XIX cùng những phát minh mới về hình ảnh, các loại sách báo về
tình dục đã làm thay đổi quan niệm của con người. Song song với sự phát
triển của kinh tế cùng những khát vọng tự do cá nhân thì trong đời sống tinh
thần xã hội tư bản cũng xuất hiện những mâu thuẫn hết sức gay gắt giữa một
bên là những quan niệm truyền thống đã ăn sâu vào nếp nghĩ không thể xoá
bỏ của loài người với một bên là những tư tưởng, quan niệm mới nhằm giải
phóng con người. Vì lẽ đó, bản thân cá nhân luôn phải sống trong sự đấu
tranh nội tâm giằng xé, dễ dẫn đến nảy sinh sự ức chế trong hoạt động tinh
thần, đặc biệt lại là sự ức chế tình dục. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX cũng


12

là thời kì bão táp của các cuộc cách mạng và chiến tranh thế giới, nước Áoquê hương của Freud cũng bị cuốn vào vòng xoáy đó: cái chết, sự đói nghèo,
đau khổ, mất mát đe doạ cuộc sống thể xác và tinh thần của mỗi con người,
những căn bệnh tâm lý luôn có nguy cơ phát triển theo. Chính thực trạng này
đã thúc đẩy những bác sĩ khoa học tâm thần đi tìm những phương pháp trị
bệnh mới. Trong khi lúc bấy giờ, phương pháp thôi miên mà người ta sử
dụng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như mong muốn. Nhận
thấy sự hạn chế này, Freud đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu nhằm tìm ra
phương pháp mới hiệu quả hơn. Ông cho rằng những bệnh nhân bị nhiễm
bệnh nhiễu tâm - chứng bệnh tâm thần do rối loạn nhân cách dẫn đến sống
trong lo sợ, lo âu, thất vọng, cuồng loạn… xuất phát từ những gì trải qua ban
đầu thuở ấu thơ, phát triển trong một thời gian dài và do bản năng tính dục
mạnh mẽ ức chế không được giải toả. Freud thay thế phương pháp thôi miên
bằng phương pháp liên tưởng tự do, cho phép bệnh nhân trình bày các ý
nghĩa trong trạng thái thư giãn tỉnh táo và thông giải các ẩn ức thuở ấu thơ,

các giấc mộng để giúp bệnh nhân nhận biết một cách có ý thức các tình
huống bị quên lãng, từ đó bộc lộ nguyên nhân gây bệnh. Cả quá trình nghiên
cứu tâm huyết và cũng khá nhiều nhà nghiên cứu bấy giờ ủng hộ. Freud đã
lập ra học thuyết Phân tâm học với tư cách là một triết học về tâm lý và nhân
cách con người mà chủ đạo là vô thức và tính dục.
Freud đã đưa ra triết học về thế giới tinh thần của con người với việc
phát hiện ra “bộ máy tâm thần”. Ông viết: “Quá trình tâm lý chủ yếu là
thuộc về tiềm thức, còn như quá trình tâm lý của ý thức chẳng qua chỉ là
một động tác bộ phận được tách ra từ toàn bộ tâm linh. Chúng ta cần nhớ
rằng trước nay người ta cho tâm lý là ý thức, ý thức dường như là đặc trưng
của đời sống tâm lý, và tâm lý học được xem là khoa học nghiên cứu nội
dung của ý thức. Cách nhìn này quá rõ ràng đến nỗi bất kì một sự phản đối
nào cũng bị xem là gây rối. Nhưng mà trái lại, Phân tâm học không đề
kháng thành kiến này, không thể không phủ nhận lối nói tâm lý là ý thức.


13

Phân tâm học cho rằng tâm linh có bao hàm tác dụng của tình cảm, tư
tưởng, dục vọng… mà tư tưởng và dục vọng đều có thể là tiềm thức” [98,
tr.265]. Nhà tâm lý học này đã nêu ra kết cấu 3 tầng của hoạt động tâm lý
con người như sau:
Hệ thống vô thức: là kho tàng của dục vọng bản năng sinh vật. Những
bản năng và dục vọng này chất chứa những năng lượng tâm lý mạnh mẽ, phục
tùng theo nguyên tắc khoái lạc và ra sức xâm lấn vào cõi ý thức để thoả mãn.
Hệ thống tiềm thức (tiền ý thức, hạ ý thức): được cấu thành bởi những
kinh nghiệm, làm thành bộ phận trung gian giữa hệ thống ý thức và vô thức,
trong đó cất giấu lương tâm và lý tưởng cá nhân được cấu thành bởi những
chuẩn tắc, quy phạm và quan niệm về giá trị, về xã hội, luân lý tôn giáo… có
nhiệm vụ ngăn không cho những bản năng mạnh mẽ xâm nhập vào ý thức.

Hệ thống ý thức: phục tùng nguyên tắc hiện thực, loại bỏ những bản
năng và dục vọng của con người, làm cho giữa cá nhân và xã hội thường
xuyên trong trạng thái đối lập. Bản năng và dục vọng bị dồn nén sẽ chuyển
dần vào lĩnh vực vô thức, để bảo toàn năng lượng tâm lý, cũng có khả năng
chuyển hoá thành bệnh tâm thần nếu không có lối thoát, không đủ sức chịu
đựng. Nó tìm cách giải thoát để được thoả mãn qua những giấc mơ và đặc biệt
hơn là thăng hoa trong những phát minh khoa học hoặc sáng tạo nghệ thuật.
S.Freud đã triển khai Phân tâm học vào nghiên cứu nhiều mảng đề tài
khác nhau từ con người đến văn hoá. Trong đó, tâm lý và nhân cách con
người luôn là những vấn đề đáng quan tâm. Theo ông, nhân cách con người
được xây dựng qua sự tương tác phức hợp giữa các xung năng với những
kinh nghiệm thời niên thiếu của họ. Hành vi con người là kết quả của cách
nuôi dạy, đối xử của bố mẹ khi còn ở thời tuổi nhỏ, đặc biệt trong năm năm
đầu tiên của cuộc đời. Trong lý thuyết của ông, con người tiếp tục thoả mãn
những mong muốn của họ theo cách mà họ tương tác với người khác trong
quá khứ, hay cách mà họ thoả mãn mong muốn của mình thời thơ ấu. Những


14

vấn đề quan trọng được họ đề cập tới trong lý thuyết của Freud đó là bản
năng, vô thức và cấu trúc nhân cách của con người. Về bản năng, ông cho
rằng con người được sinh ra với những bản năng thuộc về vô thức. Nó bao
gồm các bản năng sống (Eros) và các bản năng chết (Thanatos).
Bản năng sống: bao gồm tất cả những gì liên quan đến sự tồn tại của
cá nhân và tập thể như: đói khát, tình dục. Năng lượng của bản năng sống
này được ghi vào libido - bản năng tình dục. Tình dục là bản năng sống mà
Freud gắn vào tầm quan trọng nhất trong việc phát triển nhân cách. Nó là
năng lượng của sự sống, năng lực làm chúng ta sống, hoạt động, hưởng thụ,
tạo sự thăng bằng bên trong cơ thể chúng ta bằng cách làm cho con người

tránh được những căng thẳng, đau đớn, thoả mãn nhu cầu của con người.
Bản năng sống rất quan trọng để duy trì cuộc sống cá nhân cũng như sự tiếp
tục của loài.
Bản năng chết: là hệ thống năng lượng của những sinh vật sống săn
đuổi liên tục một trạng thái cân bằng và chỉ có thể đạt được thông qua cái
chết. Fred chủ trương mục tiêu của toàn bộ cuộc sống là cái chết, cái không
sinh sống có trước cái sinh sống. Bản năng chết thể hiện khuynh hướng bất
khả kháng của mọi sinh vật sống là quay về trạng thái vô cơ. Biểu hiện của
bản năng chết là lặp lại một trạng thái, nỗi buồn, nỗi đau có trước nào đó.
Bản năng chết còn được thể hiện ở bản năng gây gổ, bản năng huỷ diệt, đặc
biệt là huỷ diệt chính bản thân mình. Bản năng chết được xem như là nền
tảng của toàn bộ hành vi hiếu chiến và tàn sát như: sát nhân, tự tử, thù
nghịch, tàn nhẫn, những lời thoá mạ, sự tấn công bằng vũ lực. Người có bản
năng chết mạnh thường có xu hướng tự tử. Theo Freud, những tham vọng
hiếu chiến, cội nguồn của những bản năng chết quan trọng ngang bằng với
bản năng sống trong việc thúc đẩy hành vi con người.
Trong con người luôn tồn tại hai loại bản năng có sức mạnh ngang
nhau và có xu hướng chống đối nhau, một loại thúc đẩy hành động sống và


15

chinh phục cuộc sống, một loại thúc đẩy sự buông xuôi, tan biến và dẫn đến
cái chết. Sự tương tác của hai bản năng này dẫn đến tính chất lưỡng năng
tình cảm trong cảm xúc con người.
Về cấu trúc nhân cách, Freud cho rằng nó có ba cấu thành: cái nó (Id),
cái tôi (Ego) và cái siêu tôi (Super Ego). Cái nó hoạt động theo nguyên tắc
thoả mãn, gồm bản năng vô thức và thúc đẩy con người thoả mãn những
mong muốn mà không tính tới các nguyên tác và các quy định của xã hội.
Cái tôi hoạt động và kiểm soát bằng thực tiễn thế giới xung quanh. Cái siêu

tôi hoạt động theo nguyên tác kiểm duyệt, bao gồm ý thức và đạo đức trong
mối quan hệ bên ngoài. Cả ba được quy định, ảnh hưởng lẫn nhau và có thể
gây mâu thuẫn dễ làm cho con người rơi vào tình trạng căng thẳng nhưng
chính Freud đã phát hiện ra giải pháp khắc phục là những cơ chế để tạo ra sự
cân bằng trong tâm lý của con người.
Tuy nhiên, trên thế giới, những ý kiến đánh giá đối với chủ nghĩa
Freud rất phức tạp. Nhà tâm lý học hành vi phương Tây B.F.Skinner đã kịch
liệt lên án Phân tâm học, cho nó là một thứ huyền thoại siêu hình. Liên Xô
cũng từng có xu hướng phủ định hoàn toàn Phân tâm học, cho nó là phản lý
tính, phản nghệ thuật. Phương Đông cũng không tránh khỏi lên án Phân tâm
học có lẽ do quá xa cách về truyền thống đạo đức. Ở Việt Nam, nhà phê bình
Phương Lựu bên cạnh việc khẳng định sức mạnh của Freud cũng cho rằng
tác giả đã “tuyệt đối hoá vô thức, đi đến chỗ phủ định vai trò chủ đạo của ý
thức đối với hành động của con người trong đời sống hiện thực. Hơn nữa,
ông chỉ thừa nhận trong vô thức cái bản năng tính dục như là hạt nhân cơ
bản mà không thấy những thuộc tính xã hội và văn hoá lịch sử của vô thức.”
[98,tr.276]
Bên cạnh đó, nhân loại cũng ghi nhận những sức mạnh và đóng góp
của học thuyết này. Phân tâm học với sự phát hiện thế giới vô thức của con
người góp phần vạch ra ranh giới giữa tâm lý học hiện đại và tâm lý học cổ


16

điển. Trong khi đó, tâm lý học cấu tạo của W.Wande chỉ nghiên cứu nội
dung tâm lý mà con người ý thức được, tâm lý học cơ năng của W.Janes chỉ
nghiên cứu sự nảy sinh ý thức trong mối tương tác giữa con người và ngoại
giới. Mặc dù có những đóng góp khác nhau nhưng các trường phái tâm lý nói
trên đều nghiên cứu các hoạt động ý thức rất rõ ràng. Còn Freud lại đưa ngành
tâm lý học sang một bước ngoặt mới với sự chú trọng nghiên cứu phần tiềm

thức và vô thức ẩn sâu trong tâm lý con người. Phân tâm học cũng gây ảnh
hưởng sâu sắc và bền vững đối với các lĩnh vực như y học, xã hội học, nghệ
thuật học, khoa học thực nghiệm, ngôn ngữ học…; chi phối lịch sử tư duy của
thế giới, góp phần định dạng lại kiến thức và giá trị của con người.
Freud đã xây dựng một học thuyết vĩ đại bắc cầu giữa triết học và tâm
lý học, tạo tiền đề cho sự phát triển của các học thuyết tiến bộ khác cũng
như những nghiên cứu và phát hiện khoa học liên ngành. Trước Freud không
có bất kì học thuyết nào có hệ thống để giúp cho việc cắt nghĩa tình trạng rối
loạn cảm xúc của con người như trong vô thức. Con người được thúc đẩy
như thế nào bởi những áp lực vô thức để tham dự vào các hành vi quan trọng
của mình, những hành vi đó phát triển và diễn tiến như thế nào, con người
biến đổi những hành vi đó theo hướng thiện ác ra sao… Trả lời những câu
hỏi này, có lẽ, giá trị thành công vĩ đại nhất của học thuyết Freud liên quan
đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống, không chỉ văn học nghệ thuật nói
riêng, Phân tâm học ra đời đã mang đến một cái nhìn tổng quan nhận thức về
bản chất và hành vi của con người. Sự phát triển của Phân tâm học cũng tạo
nên những bất đồng về quan điểm, nó phân ra làm nhiều nhánh khác nhau,
cũng chính điều đó tạo nên sự phong phú và đa dạng cho lý thuyết này.
1.1.2. Phân tâm học của Jung (còn được gọi là Tâm phân học)
Nhà phân tâm học người Thuỵ Sĩ Card Gustav Jung (1875 - 1961) là
học trò ưu tú của Freud. Jung có nhiều quan điểm đi ngược lại với quan
điểm của Freud nhưng lại là sự trái ngược với nhiều quan điểm tích cực như


17

cho rằng bệnh thần kinh không nhất thiết dựa trên sự dồn nén tình dục, các
giấc mơ không chỉ mang những ham muốn bị dồn nén… libido cũng là khái
niệm cơ bản trong lý thuyết của freud và Jung. Nhưng Jung cho rằng, libido
không chỉ là đặc điểm tình dục mà như một năng lượng sống nguyên cơ và

có tính vũ trụ. Đóng góp quan trọng của Jung trong Phân tâm học là xây
dựng lý thuyết vô thức tập thể - tài sản chung của nhân loại được cấu trúc
bởi những siêu mẫu hay cổ mẫu.
Theo quan niệm của Jung, ứng với mỗi trạng thái của con người sẽ có
một cổ mẫu tương ứng. Trong quá trình tìm kiếm cổ mẫu, Jung nhận thấy
một số cổ mẫu thể hiện quá trình phát triển tâm lý cá nhân theo một dòng
liên tục. Đó là Persona, Shadow, Anima, Animus, Self. Các cổ mẫu có tác
dụng dẫn đường và điều phối sự phát triển tâm lý con người từ một tâm thần
nguyên thuỷ chung thành những cá nhân riêng biệt mà Jung gọi là quá trình
cá nhân hoá (individuation).
Persona (mặt nạ nhân cách): Đây là loại cổ mẫu của tâm lý cầu đồng,
nó có tác dụng làm cho con người khi giao tiếp có thể che giấu “cái tôi thực”
và sắm một vai khác cho dễ phù hợp với xã hội. Phân tích Persona là đi tìm
cái đích thực cá nhân dưới lớp vô thức tập thể.
Shadow (cái bóng): Trong quá trình phát triển, đặc biệt để tạo dựng
một chiếc Pesona, con người buộc phải che giấu một phần nhân cách của
mình. Phần nhân cách bị che giấu đó, cả tốt lẫn xấu mà cái tôi hoặc là bị dồn
nén, hoặc là không bao giờ nhận biết được, có vai trò ngược lại với Persona,
gọi là Shadow. Về bản chất, Shadow được cấu thành chủ yếu từ ham muốn
bị dồn nén và những xung lực hoang dã, những động cơ thấp kém về đạo
đức, những huyễn tưởng trẻ con và những thù hận… tức là tất cả những gì
mà con người không tự hào. Những đặc trưng cá nhân không được nhận biết
này thường được trải nghiệm qua người khác thông qua sự phóng chiếu.


18

Anima (khía cạnh nữ tính ở nam giới): Đây vừa là một tổ hợp cá nhân,
vừa là một cổ mẫu trong tâm thần đàn ông. Đó là một nhân tố vô thức được
tái hiện lại ở mọi đứa bé trai và là nguồn gốc của những phóng chiếu tâm lý.

Lúc đầu, Anima được đồng nhất với người mẹ, nhưng sau đó nó được trải
nghiệm ở người phụ nữ khác và có ảnh hưởng chi phối tới toàn bộ cuộc đời
người đàn ông, Theo Jung, với tư cách là một nhân tố bên trong, Anima là
sự bổ sung cho Persona: Persona hình ảnh lý tưởng một người đàn ông muốn
vậy, được bù trừ ở bên trong bởi sự yếu kém nữ tính và vì ở bên ngoài, cá
nhân đóng một vai trò mạnh mẽ, nên ở bên trong anh ta chỉ là một người phụ
nữ, tức là Anima, vì Anima đã phản ứng là Persona. Nhưng bởi thế nên
người đàn ông không hoàn toàn nhận biết được yếu kém của mình và khi
anh ta càng đồng nhất mình với Persona, mặt đối trọng với nó, Anima sẽ
hoàn toàn ở trong bóng tối.
Animus (khía cạnh nam tính ở nữ giới): Giống như Anima, Animus
vừa là một tổ hợp cá nhân, vừa là một hình ảnh cổ mẫu, phụ nữ được bù trừ
bởi một yếu tố nam tính, do vậy, vô thức của phụ nữ cũng có dấu ấn nam tính.
Sefl (vô thức tự ngã/chân ngã): chiếm vị trí trung tâm trong các loại cổ
mẫu, nó có tác dụng tập trung những rời rạc của vô thức tập thể, có tác dụng
điều hoà nội tâm và ngoại giới. Sefl là cổ mẫu về sự tổng thể và trọng tâm
điều phối của tâm thần, một sức mạnh siêu cá nhân vượt qua cái tôi: Sefl
không chỉ là trung tâm mà còn là cái vòng tròn bao bọc cả ý thức lẫn vô
thức. Nó là trọng tâm của tổng thể này, giống như cái tôi là trọng tâm của ý
thức. Sefl xuất hiện trong những giấc mơ, huyền thoại và cổ tích dưới hình
ảnh một nhân cách siêu phàm. Do đó, về mặt thực nghiệm, Sefl biểu hiện
như là sự tương tác giữa ánh sang và bóng tối, mặc dù được nhận biết như là
một tổng thể và trong đó các mặt đối lập được thống nhất.
Jung cho rằng với tư cách là vô thức tập thể, các loại cổ mẫu này được
bảo lưu trong thần thoại nguyên thuỷ, đồng thời cũng được biểu hiện trong


19

những ảo giác mà giấc mơ của con người hiện đại. Ông cho rằng: loài người

sống trong thế giới các thần thoại hàng triệu năm, còn thế giới văn minh chỉ
mấy ngàn năm. Do đó, mặc dù ý thức con người văn minh khác xa với lối tư
duy thần thoại nhưng thực ra những cổ mẫu thần thoại đã ăn rễ sâu vào trong
vô thức của con người, những bóng mờ của tôn giáo đa số sẽ vụt hiện lên rõ
ràng khi chỉ một kích động thích hợp, chuyển vô thức ẩn chứa thành ý thức
tự thân mỗi người trong hành động. Như vậy, so với Freud, Jung xa rời cơ
sở thực nghiệm mơ hồ, ông đi sâu vào lĩnh vực văn hoá, thần bí, tâm linh,
đôi khi lý giải vấn đề một cách tư biện thuần thuý. Nhưng vì thế mà ông mở
ra một con đường mới để nghiên cứu lĩnh vực tưởng tượng của con người.
Ông có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực nghiên cứu văn hoá, nhất là về văn
hoá Phương Đông và văn học nghệ thuật. Mặt khác, Jung không giải thích
Libido theo lí thuyết bản năng tính dục của Freud, Jung cho cái bản ngã vô
thức chỉ là một bộ phận của vô thức. Vô thức cá nhân, cá thể là một lớp
mỏng nằm ngay cạnh dưới ý thức. Nó chứa đựng những nội dung và hoạt
động tâm lý không điều hoà được với ý thức nhưng có khả năng chuyển hoá
thành ý thức.
Lý thuyết Phân tâm học của Freud là nền tảng để các nhà nghiên cứu
khác đóng góp, bổ sung và phát triển. Phân tâm học ngày càng mở rộng và
phân thành nhiều nhánh nhỏ với những ưu nhược điểm bộc lộ ngày càng rõ
rệt. Do vậy, khi vận dụng lý thuyết này, ta cần vận dụng một cách hợp lý
trong từng lĩnh vực cụ thể.
1.2. Phân tâm học với nghiên cứu, phê bình văn học
Phân tâm học của Freud đã ảnh hưởng rộng rãi đến lĩnh vực sáng tác
và nghiên cứu phê bình văn học nghệ thuật. Trào lưu phê bình Phân tâm học
ra đời và rất thịnh hành ở Phương Tây những năm đầu thế kỉ XX. Nội dung
chủ yếu của các khuynh hướng phê bình không nằm ngoài các phương diện
vô thức, bản năng tính dục, cấu trúc nhân cách và giải thích giấc mơ. Mục



×