Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Tiếp cận tín ngưỡng phồn thực từ góc nhìn Phân tâm học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.42 KB, 57 trang )

Tiếp cận tín ngưỡng phồn thực từ góc nhìn Phân tâm học
LỜI NÓI ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo và tín ngưỡng là một phạm trù không thể thiếu trong đời sống
tâm linh của con người. Nếu như vật chất về cơ bản phục vụ những nhu cầu hữu
hình, đảm bảo cho sự tồn tại sinh học, sự tiếp nối sinh học, những ý muốn hiện
hữu thì tinh thần dẫn nối con người với những mong muốn tồn tại trong tư duy
và nhận thức, những ước vọng, nguyện ý làm cho con người được thỏa mãn về
mặt tâm lý. Tôn giáo (Religion) và tín ngưỡng (Belief) cũng không phải là ngoại
lệ. Về cơ bản, tôn giáo (mang tính niềm tin cộng đồng) và tín ngưỡng (mang
tính niềm tin cá nhân) đều có chung nguồn gốc tâm lý, đó là sự thần thánh hóa
các hiện tượng tự nhiên, phi thường hóa mối liên hệ của con người đang sống
với những người đã chết, gán niềm tin (vốn được các học giả Hoa Kỳ cho rằng,
là hình thái ý thức làm cho con người mang một sức mạnh thần kỳ, lại cũng là
một sự lệ thuộc cố hữu, nhưng điều đó lại làm cho con người khác hẳn con vật,
có hành vi lý tính phức tạp, khó kiểm soát, tạo ra bản chất Người không thể
nhầm lẫn) vào ý thức của con người. Là một dạng thức tín ngưỡng, tín ngưỡng
phồn thực cũng không nằm ngoài điều đó. Mối quan hệ giao tính vồn luôn là đề
tại nhạy cảm nhưng lại gắn bó thiết thực với đời sống, do nó là một thành phần
không thể thiếu trong yếu tố cấu thành bản chất sinh học cũng như cấu trúc ra ý
thức con người luân lý. Với vai trò là một hình thức thể hiện mối liên hệ giữa
mối quan hệ giao tính vào hình thức sùng bái, đề tài tín ngưỡng phồn thực vốn
đã được nhiều học giả trong và ngoài nước xem xét từ trong các nghi lễ, hình
thức biểu hiện, văn, thơ nói chung chứ chưa xem xét ở vai trò tâm lý hình thành.
Với yêu cầu đó, người viết đã mạnh dạn sử dụng Phân tâm học - một môn khoa
học mới mẻ với nhiều lý thuyết đột phá về tâm lý, nhằm lấy đó làm cơ sở cho
phương pháp luận khi bước đầu nghiên cứu đề tài này. Tuy là một môn khoa học
ít nhiều còn xa lạ, nhưng với sự nghiên cứu liên ngành và đa ngành nói chung,
thì việc ứng dụng phân tâm học vào các ngành khoa học xã hội và nhân văn đã
1
được thực hiện. Chính vì lẽ đó, việc tiếp cận một tín ngưỡng từ góc độ chuyên


ngành này là một điều có thể chấp nhận được.
II. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo cứu tài liệu
- So sánh, đối chiếu.
- Phân tích, biện luận
- Phương pháp liên ngành với các khoa học xã hội và nhân văn.
III. Kết cấu đề tài
Gồm 2 chương :
- Chương 1 : Các khái niệm
- Chương 2 : Luận giải tín ngưỡng phồn thực
2
Chương I: Các khái niệm
I. Tín ngưỡng phồn thực
1. Khái niệm tín ngưỡng phồn thực
Tín ngưỡng phồn thực (Tiếng Anh: Lingaism, Tiếng Pháp: Lingaisme,
Tiếng Đức: Lingaismus) không phải là một khái niệm xa lạ trong việc nghiên
cứu văn hóa học nói chung cũng như lịch sử tôn giáo, tín ngưỡng nói riêng, dù
vậy việc nhìn nhận khái niệm này ở môi cảnh văn hóa nào lại là một vấn đề
đáng bàn.
Về lý thuyết, trong ý thức hình thành, tồn tại cũng như phát triển sự sống
của loài người, đặc biệt trong thời kỳ mà nông nghiệp đóng vai trò cốt yếu, thì
sự tươi tốt của mùa màng, sức sống mạnh mẽ của cây trồng vật nuôi là một suy
nghĩ có tính thường trực. Bên cạnh đó, để đảm bảo khả năng duy trì nòi giống,
không loại trừ khả năng nâng số lượng lao động - điều mà kinh tế nông nghiệp
(nhất là thời kỳ sơ khai) đòi hỏi như một yếu tố cơ bản, thì ước vọng sinh sôi
nảy nở cũng theo đó mà tạo lập một vị thế song song với mong muốn phát triển
nông nghiệp.
Nếu tách bạch hai vấn đề này ra, thì rõ ràng vấn đề nông nghiệp chỉ bao
hàm các phương thức canh tác, khả năng làm thủy lợi, “Nhất nước, nhì phân,
tam cần, tứ giống”; bên cạnh đó, việc chăn nuôi cũng chỉ dựa vào kinh nghiệm,

giống – loài vật nuôi, các vấn đề về cảnh quan và môi trường để tạo nền tảng đi
lên. Nói cách khác, yếu tố duy thức bản năng - một vấn đề cơ bản của phân tâm
học mà sẽ được đề cập sau, không đóng vai trò chi phối cho việc : liệu nền kinh
tế này có bước tiến hay một sự thay đổi tuân theo mong muốn chủ quan của con
người hay không, hay vẫn có một thế lực siêu nhiên (supernatural force) có tác
động nhất định đến vấn đề này, theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực phụ thuộc
vào thái độ của con người. Cũng với mạch tư duy như vậy, theo các nhà sinh
học Mỹ, việc con người xuất hiện thì rồi cũng không nằm ngoài quy luật tự
nhiên, tức là chỉ mang một nhiệm vụ cơ bản và tối thiểu là sao chép lại bộ nhiễm
sắc thể của nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác như một hình thức đặt ở thế
mặc định. Mọi yếu tố không bình thường (paranormal factors) thiên về ý thức là
3
điều bên lề và không có nhiều ảnh hưởng rõ rệt đến một hiện tượng được xem
như tất yếu.
Tuy vậy, khi đặt chung cả hai vấn đề vào để xem xét dưới góc độ phân
tâm học, đặc biệt là phân tâm học tôn giáo thì rõ ràng chúng mang một điểm
chung rất rõ, đó là vô thức của con người về mong muốn sinh sôi nảy nở, về ý
thức tính dục sơ khai - sự kết hợp giữa Trời Đất, Cha Mẹ, Đực Cái, trong mối
quan hệ giao hòa. Một trong nguồn gốc ý thức cơ bản để khai sinh ra tín ngưỡng
và tôn giáo chính là ý niệm về các thế lực không thể nắm bắt cai quản sự sống,
sự tồn tại của vạn vật. Sự bất lực của con người trước các vấn đề không thể giải
thích trong giai đoạn mở đầu của tư duy, nhận thức đã khiến họ vật chất hóa
những hiện tượng tự nhiên, quy về một mối mà chúng ta gọi là Thần thánh. Tín
ngưỡng phồn thực cũng không phải là ngoại lệ. Nếu nhận thức khoa học cổ đại
quy chuẩn sự kết hợp nêu trên về Triết lý Âm Dương rồi từ đó giải thích vạn vật
thì lẽ dĩ nhiên, trong điều kiện mà nhận thức dân gian vẫn đóng một vai trò quan
trọng thì việc khai sinh tín ngưỡng phồn thực không có gì đáng ngạc nhiên. Tuy
vậy, vấn đề này được nhìn theo quan điểm của lý thuyết phân tâm học, đặc biệt
là của Sigmund Freud thì có lẽ sẽ được xem xét như một hình thái ý thức có sẵn
của con người, được khẳng định và chỉ tìm phương thức biểu hiện ra bên ngoài

theo cách này hay cách khác, mà cơ bản là việc thờ cúng các sinh thực khí và
các biểu tượng thể hiện cho bản thân hành vi giao phối, ngoài ra, các biểu tượng
(symbole) hay các hành vi (comportement) cũng như nghi lễ (ritual, ceremony)
khác được nhìn nhận từ góc độ của tín ngưỡng phồn thực thì cũng không nằm
ngoài những mục đích kể trên.
2. Các hình thức biểu hiện
1.2.1. Tục thờ sinh thực khí
Sinh thực khí (Sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) có thể coi là một
dạng ngẫu tượng (idolatrie) khắc họa chân thực bộ phân sinh dục nam và nữ,
tiêu biểu là hình tượng Linga và Yoni trong đạo Hindu. Tục thờ này bắt nguồn
từ các tộc người ở lưu vực sông Indus thuộc chủng tộc Sumer và Dravida. Như
học giả Will Durant trong tác phẩm Lịch sử văn minh Ấn Độ đã viết : “Tín
4
ngưỡng của họ gắn liền với thần thoại về thần Mẹ và sự thờ cúng âm lực, coi âm
vật của đàn bà là nguốn gốc của mọi sự sáng tạo. Bên cạnh thần Mẹ còn có thần
Nam, biểu hiện bằng phiến đá hình dương vật” .
- Linga hay Lingam có nghĩa là dấu hiệu (sign) hay đánh dấu (mark).
Về ý nghĩa, các học giả đều khá thống nhất khi cho rằng, nó là biểu hiện của
nguồn sống, của sức sinh sản, nhưng nó chỉ mang ý nghĩa đó một cách trọn vẹn
khi đứng trong cặp đối ngẫu với Yoni (bộ phận sinh dục nữ, hay các học giả
Pháp cho đó là Tử cung). Nếu không, khi tồn tại dưới hình thức tự thân, Linga
lại thuộc về lĩnh vực phi hình, không biểu hiện. Như học giả Bansi Padit trong
tác phẩm Hindu Dharma cho rằng, Linga là biểu tượng của thần Shiva, vị thần
Hủy Diệt, một trong Tam vị Nhất thể (Trimurty) của Hindu giáo. Linga là một
từ Sankrit được ghép bởi hai từ là laya (sự phân hủy, sự hòa tan)và agaman (sự
tái khởi tạo), nói cách khác, linga tượng trưng cho một thực thể mà trong đó, đi
từ sự phá hủy đến sự khởi tạo một chu trình mới của sự sống (cũng có ý kiến của
một số học giả Pháp như Jean Chevalier và Alain Gheerbrant thì cho rằng, từ
Linga có cùng gốc từ với langalâ, tức là cái cày, cái mai hay cái dương vật trong
tiếng Sankrit - tg). Điều này có thể thấy rõ trong các tượng Linga được chia làm

ba phần rõ rệt - phần đế hình vuông tượng trưng cho thần Brahmâ (Phạm Thiên)
(thần Sáng tạo), phần giữa có hình tám cạnh, tượng trưng cho thần Vishnu (Tỳ
Nữu) (thần Bảo tồn) và phần đỉnh có hình trụ, tượng trưng cho thần Shiva (Thấp
Bà Thiên) (Thần Hủy diệt). Linga ở đây đi từ sự Sáng tạo đến sự Bảo tồn và kết
thúc ở sự Hủy diệt, một chỉnh thể thống nhất về sự quá trình chuyển hóa vật
chất, tuy vậy, thần Shiva cũng là một vũ công mang tầm vóc vũ trụ, và dưới điệu
múa của thần, thế giới lại được tái sinh trong một diện mạo mới, bắt đầu cho
một quá trình mới. Còn theo Swami Sivananda, Linga mang ý nghĩa của một sự
đánh dấu, đưa tới sự suy diễn. Sự suy diễn này sẽ dẫn tới ý thức về Linga như
Trục của vũ trụ, hay cái rốn (omphalos) của vũ trụ, mặt khác, nó cũng thể hiện
cho hình ảnh đỉnh Kalaisa, nơi ngự trị của thần Shiva.
Ở Việt Nam, Linga được thể hiện dưói dạng các tượng, các thạch trụ, cái
Nõ (cái nêm - Lõ) hay cái chày giã gạo … Nhiều người thì quan niệm theo lối
5
đơn thuần thì cho rằng Linga chỉ là một mẫu gốc của cơ quan sinh dục nam,
nhưng xét theo cả góc độ tôn giáo học lẫn văn hóa học, thì đó là một dấu hiệu,
một hình tượng biểu thị rõ ràng cho nhịp điệu hình thành và hủy diệt vũ trụ. Vũ
trụ này được biểu hiện dưới nhiều hình thức, được thống hợp và tái sinh theo
định kỳ trong thể đơn nhất nguyên sơ, mà ở đây là Linga.

Hình 1 : Bản vẽ chi tiết Linga
Ở Trung Quốc, tương đương với Linga là một mảnh ngọc thạch, hình tam
giác kéo dài, gọi là Kuei. Nó được đặt ở điểm chính giữa các chùa đền hay các
ngã tư hoặc các đỉnh núi với cùng ý nghĩa gợi lên sự thiêng liêng của hành vi
sinh đẻ, của cuộc hôn phối âm dương thiêng liêng.
- Yoni : có nguyên nghĩa là sự nắm giữ (hold) hay người nắm giữ
(holder) bộ phận sinh dục của nữ hay Tử cung, được biểu hiện dưới nhiều hình
thức như đế hình vuông có rãnh; một hình ba cạnh lộn ngược, đỉnh quay xuống
dưới, ba cạnh là ba tính năng cơ bản của tự nhiên (tập trung, phân tán, lan rộng);
hình tượng hang động (cave), các loại bình, lọ; cái Nường (Lường), cái cối giã

gạo … Về cơ bản, Yoni tượng trưng cho sự chứa đựng năng lượng, theo cả hai
nghĩa là năng lượng vật chất và tinh thần. Đó cũng là nơi chứa đựng tình
thương, sự ấm áp, sự bao bọc cho những mầm sống, những phôi thai. Trong cặp
6
đối ngẫu với Linga, nó biểu hiện cho sự hiển lộ, sức sinh sản, thậm chí là cả sự
tái sinh tinh thần. Về mặt tôn giáo, Yoni là nơi thu nhận tinh dịch (semence -
biểu hiện của dòng chảy sự sống), là sự thể hiện cho âm lực (shakti) của thần
Shiva. Trong sách Bhagavad Gitâ, tử cung được đồng nhất với thần Brahmâ như
sự khởi nguyên của vũ trụ, trong khi đó, ở các sách Puranâ, Yoni lại được đồng
nhất với thần Vishnu trong mối liên hệ với thần Shiva, nói cách khác, thần Shiva
ở đây cũng được hiểu theo nghĩa tử cung của vũ trụ (do sự tái khởi tạo từ sự
hủy diệt).
Ở một số tộc người ở Châu Mỹ, học coi cái Lỗ (hole) - cả thiên tạo lẫn
nhân tạo, như cơ quan sinh dục của Đất Mẹ, mang nguồn năng lượng vĩnh cửu.
Chính vì lẽ đó, trong một số nghi lễ đi săn (hunting rites), việc giao phối với Mẹ
Đất là một cách để họ lấy được nguồn sức manh to lớn này.
Hình 2 : Bản vẽ chi tiết biểu tượng Yoni
7

Hình 3 : Tượng đá Yoni thế kỷ XII ở Bheragat. Madhya Pradesh
1.2.2. Một số hình tượng (biểu tượng)
- Các thần cai quản việc sinh đẻ, sự sinh sôi nảy nở, các ý nghĩa tính
dục tương đương.
+ Trong Thần thoại Hy Lạp :
a, Các thần Nguyên Thủy :
Gaia : Đất Mẹ.
Eros : Thần của tình yêu và tình dục.
b, Các Titan :
Rhea : Nữ Thần của sự sinh sản, sự màu mỡ.
c, Các thần trên đỉnh Olympus :

Hera : Nữ Thần của hôn nhân, gia đình và làm mẹ.
Aphrodite : Nữ Thần của sắc đẹp và tình yêu, tượng trưng cho sự không
thể kìm hãm của sức sản sinh.
Artemis : Nữ Thần săn bắn, chủ trì sự ra đời và phát triển của sinh linh.
d, Các thần khác :
Aristaeus : Nữ Thần của gia súc, chăn nuôi.
Eileithyia : Nữ thần của sự sinh con
+ Trong thần thoại La Mã
8
Tiêu biểu nhất là hai nữ thần Venus, về sau được đồng hóa với nữ thần
Aphrodite, và nữ thần Diane, chủ trì việc sinh sản, tồn tại và phát triển của
muôn loài. Ngoài ra còn có nữ thần Déméter, Mẹ Đất vĩ đại.
+ Trong thần thoại Ấn Độ
Nữ thần Parvati (vợ của thần Shiva) là sự thể hiện cao cả nhất cho âm
lực và nghĩa vụ sinh đẻ thiêng liêng của cư dân Ấn Độ.
- Biểu tượng Bộ ngực (sein) : thể hiện rõ ràng cho bản nguyên nữ,
tượng trưng cho sự che chở và sự chừng mực. Gắn liền với khả năng sinh sản và
nuôi dưỡng, bộ ngực là nơi sinh ra nguồn Sữa như sự kết tinh cao nhất về tình
thương, sự dịu dàng cũng như sự tin cậy.
- Biểu tượng Ngón tay cái (thumb) : tượng trưng cho dương vật, quyền
lực tối thượng của dương tính.
- Biểu tượng Quả cam (orange) : thể hiện cho sự sinh sản, một số bộ tộc
còn lấy đó làm món quà để cầu hôn.
- Biểu tượng Bò cái (vache) hay Lợn nái (truie) : Ở Ai Cập, bò cái là
cội nguồn của vũ trụ hữu hình, mẹ của Mặt trời. Trong chức năng thể hiện cho
sự sinh đẻ, hình tượng bò cái Hathor được coi là điển hình trong thần thoại Ai
Cập. Nó vừa thể hiện cho sự phì nhiêu, sự giàu có, là bản chất của sự phục sinh,
của niềm vui. Ở vùng Lưỡng Hà, hình tượng Mẹ vĩ đại hay Bò cái vĩ đại cũng
được Jean Chevalier đánh giá như một nữ thần phồn thực. Ở người Đức cổ, con
bò cái dưỡng sinh tên là Audumla là bạn gái của Ymir, người khổng lồ đầu tiên;

Audumla được coi là thủy tổ của sự sống, là biểu tượng phồn thực tiêu biểu. Đặc
biệt ở Ấn Độ, bò cái là mẫu gốc của người mẹ mắn con , của bản nguyên âm
tuyệt đỉnh.

9

Hình 4 : Bò cái
Cũng cùng mang ý nghĩa như vậy, hình tượng con lợn nái cũng được thần
thánh hóa như biểu hiện cho sự sinh đẻ dồi dào và sự sung mãn. Chính vì lẽ đó
mà người Ai Cập thể hiện hình tượng nữ thần Nout - hiện thân của bầu trời
trong cuộc hôn phối với Đất, trong hình tượng một con lợn nái. Ở La Mã, lợn
nái cũng thường được dùng để cúng tế Déméter, Mẹ Đất thiêng liêng và cao cả,
nguồn cội của mọi sự sống đã, đang và sẽ tồn tại. Lợn nái biểu trưng cho chức
năng sinh đẻ thần thánh của phụ nữ.

Hình 5 : Lợn nái
- Biểu tượng Cừu đực (Bélier) : biểu hiện cho sức sinh sản mãnh liệt
đánh thức vạn vật. Ở Châu Phi, học giả Marcel Griaule đã dẫn chứng ra hình
10
tượng con Cừu Đực Trời - thần nông nghiệp, đứng bên bắp ngô dựng đứng, đuôi
nối trực tiếp với đầu rắn như một biểu tượng phồn thực mãnh liệt.


Hình 6 : Cừu đực
- Cái Cày (charrue) và Sự đi cày (labourage) : Cái cày được coi là biểu
tượng cho sự làm cho thụ tinh do lưỡi cày giống như cơ quan sinh dục nam xâm
nhập vào luống cày là cơ quan sinh dục nữ. Nói cách khác, hành động đi cày là
sự hợp nhất của hai bản nguyên, của Trời và Đất, tức là sự sinh sản và mùa thu
hoạch. Chính vì lẽ đó mà trong sử thi Ramayana, vợ của Rama có tên là Sita
(luống cày), tương truyền bà sinh ra từ đường cày được xới lên bằng lưỡi cày -

hóa thân của thần Vishnu. Việc đi cày được coi là một hành động siêu lý cho
việc giải phóng nguồn năng lượng của Đất; do đó, ở Trung Hoa, đường cầy đầu
tiên phải do một cặp nam nữ thực hiện, đôi khi phải đi kèm với hành vi giao cấu.
Điều đó đảm bảo cho việc sinh sôi nảy nở của mầm sống và cây trồng, một sự
kết hợp thiêng liêng không chỉ của loài người mà cao hơn thế, là của những thế
lực thiên nhiên cai quản vạn vật

11

Hình 7 : Đi cày


Hình 8 : Cái cày

- Biểu tượng cái Chày (pilon) : Hình dạng giống cơ quan sinh dục nam
đồng thời, nhịp lên xuống của cái chày được đồng nhất với trục sinh ra vạn vật,
chính vì lẽ đó mà trong văn hóa Ấn Độ, cái chày được đồng nhất với linga ở
nhiều phương diện.


Hình 9 : Cái chày
1.2.2. Hành vi giao phối
12
Đây là một hình thức thờ tín ngưỡng phồn thực khá đặc biệt, phổ biến ở
khu vực Đông Nam Á. Không coi đó là một hành vi mang tính đời thường thì rõ
ràng đây là một cách tả chân để khắc họa tín ngưỡng phồn thực ở mức cao độ
nhất để có thể cảm nhận trực tiếp bằng giác quan, đơn cử là thị giác. Các hình
tượng trên các bức phù điêu, các bức tượng hay trên các sản phẩm đúc đồng ở
thời kỳ muộn, mà có thể lấy ví dụ là thạp đồng Đào Thịnh :
“Trên nắp thạp đồng tìm được ở Đào Thịnh (Yên Bái, niên đại 500 năm

tr.CN), xung quanh hình mặt trời với các tia sáng là tượng 4 đôi nam nữ đang
giao hợp. Ở thân thạp khắc chìm hình những con thuyền, chiếc sau nối đuôi
chiếc trước khiến cho hai con cá sấu - rồng được gắn ở mũi và lái của hai chiếc
thuyền chạm vào nhau trong tư thế giao hoan. Hình chim, thú, cóc,... giao phối
tìm thấy ở khắp nơi.”
1

Ngoài ra, với các lễ hội có quy định về sự va chạm giữa nam và nữ (Hà
Sơn Bình), hay điệu “tùng dí” ở Phú Thọ đều thể hiện hành vi này, chỉ khác ở
chỗ mức độ thể hiện mà thôi.
Dĩ nhiên là trong khuôn khổ của một báo cáo khoa học, tác giả khó lòng
trình bày toàn bộ những ký hiệu hay biểu tượng có cùng những ý nghĩa kể trên
như hình tượng con cóc trên trống đồng (vốn đã được rất nhiều nhà khoa học đề
cập) hay hình thức “tắm tiên” (sẽ đề cập bằng phân tích ở chương sau) … nhưng
có thể nói chúng ít nhiều đều được nhìn nhận dưới góc độ tín ngưỡng phồn thực
với đầy đủ lý luận xác đáng.
II. Phân tâm học
1. Khái niệm Phân tâm học
Phân tâm học (Tiếng Anh: Psychoanalysis, Tiếng Pháp : Psychanalyse,
Tiếng Đức : Psychoanalyse) là một tập hợp lý thuyết và phương pháp có xu
hướng theo tâm lý học (và chỉ là xu hướng chứ không đồng nhất với tâm lý học
do không cùng dạng đối tượng nghiên cứu – tg) nhằm nghiên cứu cái vô thức
của con người, được nhà tâm lý học, thần kinh học người Áo gốc Đức Sigmund
Freud đề xướng từ thập kỷ 90 của thế kỷ XIX. Cái vô thức (unconscious -
1
Trần Ngọc Thêm – Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh, 1995.
13
l'inconscient - unbewusste) được diễn giả dưới nhiều hình thức, bao gồm như
ba cấp độ của tâm thức của con người :

- “Cái ấy” (es) là cái bể chứa bí mật, khó tiếp cận, gồm cái bẩm sinh
cũng như cái bị chèn ép, hoàn toàn thoát khỏi ý thức con người và chỉ nhận biết
gián tiếp qua giấc mơ, triệu chứng…
- Trái lại, “cái tôi” (ich) mặc dù cũng phần nào là không có ý thức, lại
bao gồm sự tiếp xúc có lý trí với thế giới bên ngoài và gồm các cơ chế phản vệ
để bảo vệ con người trước những kích thích có tính áp đảo. Không có “cái tôi”
(ich) thì cũng không có sự tự kiểm soát, và dĩ nhiên, sẽ không có văn minh.
- Cuối cùng, cái thứ ba là “cái siêu tôi” (überich), nó tương tự như lương
tâm, mặc dù một phần của cấp độ này cũng là không có ý thức. Ở đây, chủ yếu
xảy ra các xung đột nội tâm mà ngay cả những người khoẻ mạnh nhất, vững
vàng nhất về tâm lý cũng phải chịu đựng chúng.
2
Ngoài ra, vấn đề lý giải giấc mơ như một không gian chiều thứ năm,
không gian duy nhất mà vô thức và ý thức xây dựng riêng cho bản thân con
người một thế giới riêng biệt, phản chiếu và dự báo các vấn đề liên quan đến đời
sống xã hội mà căn cứ là chủ thuyết tâm linh cá nhân. Freud gọi đó là
Traumdeutung (ý nghĩa giấc mơ) một vấn đề đặt ra cho phân ngành giải mộng
và đoán mộng, rất có tác dụng trong nghiên cứu tâm bệnh học, đặc biệt là các
vấn đề Hysteria (một dạng bệnh tưởng) - vốn là đề tài mà Freud rất quan tâm.
Nhưng, vấn đề mà đặc biệt liên quan đến đề tài này chính là luận thuyết
của ông về libido (tính dục) trong vai trò như nguyên lý điều chỉnh hoạt động ý
thức và hoạt động hành vi. Freud coi đó như nền tảng để lý giải động cơ
(motive) cho mọi hành xử của con người, được quy chuẩn về một hình thái ý
thức nguyên sơ nhất, cơ bản nhất, ẩn sâu trong bản thân con người. Trong đời
sống, bằng cách này hay cách khác, hình thái này được bộc lộ ra theo nhiều
hướng, trở thành một trạng thái đa tuyến tính nhằm biểu hiện bản năng gốc
(basic instinct) của con người. Dù rằng, việc lấy tính dục làm cơ sở cho mọi luận
giải có thể coi là hơi khiên cưỡng, tuy vậy, Freud đã giải quyết được một vấn đề
2
Ngụy Hữu Tâm – Chân dung nhà tâm lý học : Sigmund Freud và học thuyết phân tâm, Tạp chí

Tâm lý học năm 2005.
14
mang tính nhân bản, đó là đi sâu khai thác những ẩn ức được kìm nén và bị áp
chế của con người, những phức thể vốn bị “cái văn hóa” khống chế, kiểm soát,
và điều tiết nhằm đưa những tư tưởng đó vào những khuôn mẫu chuẩn mực
được xã hội thừa nhận như là mẫu số chung. Nhưng rõ ràng, đưa vào làm cái
chung (common) không đồng nghĩa với việc phủ nhận sự tồn tại của nó mà chỉ
là nhìn nhận nó một cách khoan hòa hơn, và Freud – trong cố gắng của mình, đã
trả tính dục về đúng cái chức phận của nó trong lý thuyết nhằm khai thác ý
nghĩa thiết thực của nó trong đời sống, đặc biệt là hỗ trợ con người trong việc
giải tỏa những vướng mắc tâm lý.
2. Các vấn đề khác
Về mặt văn hóa, không thể phủ nhận công lao của Freud trong việc
nghiên cứu khía cạnh tinh thần (spiritual aspect) của nó. Đặc biệt với tác phẩm
“Vật tổ và cấm kị”, Freud đã đưa ra rất nhiều luận điểm đáng lưu tâm về nguồn
gốc văn hóa và tôn giáo, đặc biệt là totem giáo mà trong chừng mực nào đó, có
thể nghiên cứu trong sự đối sánh với những luận điểm của nhà dân tộc học Pháp
Lévy Strauss cũng về đề tài này. Không những thế, qua những ý kiến của mình,
Sigmund Freud còn muốn khẳng định vai trò của văn hóa trong việc xác lập con
người lý tính, cũng như sự mâu thuẫn giữa “cái văn hóa” và “cái bản năng” mà
qua đó, tạo ra những bùng nổ tâm lý hoặc các chướng ngại tâm lý tự định hình
(selfdetermine). Ông lấy các hiện tượng văn hóa xã hội, những dạng khúc mắc
tâm lý từ các bệnh nhân của mình (thường là thông qua thôi miên – hypnose) để
làm hệ quy chiếu của mình vào đối tượng là văn hóa, từ đó mà Freud đưa ra
những luận điểm để phân tích, giải thích những dạng thức biểu hiện văn hóa, mà
xét ở một chiều nào đó, đó là cách tiếp cận bằng phân tâm học. Dù phần nhiều
những nghiên cứu của Freud hướng vào cá thể trung tâm hơn là suy xét môi
trường khách quan, nhưng Freud cũng vẫn chỉ ra cho ta thấy được bản chất ý
thức con người - thực phức thể, hữu sinh bất hữu hình.
Sigmund Freud định nghĩa văn hóa theo nghĩa hẹp, tức là tổng thể những

cấu trúc, hoạt động được tạo ra, sử dụng nhằm khai thác tự nhiên để đưa con
người sang một vị thế mới, vượt xa con vật về mọi mặt, đồng thời có khả năng
15
tạo ra các mối quan hệ giữa người với người và xử lý chúng theo cách hợp lý
nhất. Một khi đã có khái niệm thi Sigmund Freud cũng hiểu chức năng của văn
hóa là tiết chế cái “tự nhiên“ bằng sự chèn ép, trấn áp theo những khuôn khổ
định sẵn được cộng đồng chấp nhận, song song với đó là tạo ra những phương
thức để biểu hiện cái “tự nhiên“ theo cách để dung hòa với xã hội. Tuy nhiên, do
quá đề cao sự thoát thai của cái “tự nhiên“ mà Freud đã nhìn nhận văn hóa có
phần sai lệch, vì vậy, trong nghiên cứu nói chung, việc sử dụng đồng thời những
lý thuyết của phân tâm học cổ điển do Freud tạo dựng cùng với những quan
điểm phân tâm học hiện đại do những học trò của ông khởi xướng như C.G.
Jung hay của E.Fromm là việc đúng đắn nhằm xây dựng một cái nhìn khoa học
chắc chắn và toàn diện nhất trong khả năng. Ngoài ra, với phương pháp tiếp cận
liên ngành, việc ứng dụng những luận điểm của ngành Nhân học tôn giáo
(religional anthropology), Tâm lý học tôn giáo (religional psychology), Biểu
tượng học (symbology), Mỹ học (aesthetics) được coi là một cách thức hữu hiệu
và có giá trị. Theo đó, tác giả tin rằng bước đầu có thể luận giải tín ngưỡng phồn
thực theo một phương pháp mới, đi sâu khai thác động cơ tâm lý chứ không phải
theo lối thể hiện tín ngưỡng này, vốn đã là đề tài nghiên cứu và khảo nghiệm của
nhiều học giả trong và ngoài nước. Dĩ nhiên, khi đề cập đến vấn đề ý thức, ta
không sa vào quan điểm siêu hình (métaphysique) hay chủ nghĩa duy tâm mà về
cơ bản, phải đi sâu vào nghiên cứu để tìm ra ý nghĩa của tín ngưỡng này theo
quan điểm biện chứng, có logique và có luận điểm rõ ràng. Chính vì lẽ đó, các
học thuyết của C.G. Jung, với một cách nhìn nhận có tính tương đối dễ chấp
nhận hơn, cũng như lối tư duy vấn đề của E.Fromm về tôn giáo đứng từ vị thế
những nhà phân tâm học kế tục sự nghiệp của Freud được coi là những căn cứ
mang đậm tính nhân văn và tính duy vật, đủ sức nặng khoa học để đứng vững
trên lập trường phân tâm học mà không xa rời lý thuyết vốn có của bộ môn khoa
học này. Theo nhận định chủ quan, do có những khác biệt nhất định trong tư duy

của hai nhà khoa học là Freud và C.G. Jung (là hai học giả chính mà tác giả lấy
hệ tư tưởng làm hằng số tham chiếu) nên những vấn đề, đặc biệt là vấn đề Tín
ngưỡng phồn thực trong vai trò Biểu tượng còn cần phải đi sâu nghiên cứu. Ở
16
nước ta, qua một số tác phẩm dịch (tuy chưa nhiều do hầu hết là bằng tiếng Đức,
hoặc nếu có thông qua ngôn ngữ khác thì khả năng chuyển ngữ sao cho nêu
thoát được ý cần diễn giải cũng rất khó khăn - tg) hoặc qua nghiên cứu của một
số học giả mà tiêu biều là Giáo sư, Bác sỹ Nguyễn Khắc Viện thì việc nắm bắt
phần nào lý thuyết phân tâm học cũng đã được giải quyết. Tuy nhiên, do đây
còn là một ngành khoa học mới mẻ, lại thuộc về tâm lý - vốn rất phức tạp và gây
tranh cãi nên trong điều kiện chung của giới học giả là chưa thể nêu ra hết được
những luận thuyết phân tâm học. Chính vì vậy, trong tương lai, bắt buộc phải có
những những khảo nghiệm kỹ hơn về chuyên ngành này nhằm phát triển một
nền tảng lý thuyết làm cơ sở tham vấn cho các ngành khoa học khác như văn
hóa học, nghệ thuật học, mỹ học, biểu tượng học, bệnh học tâm thần …

Hình 10 : Chân dung Sigmund Freud
Tiểu kết
Trong chương này, bước đầu đã giải quyết vấn đề về việc xử lý các khái
niệm cơ bản được đề cập trong báo cáo. Khái niệm Tín ngưỡng phồn thực được
17
nhìn nhận không chỉ trong sự duy danh, định nghĩa đơn thuần từ góc độ ngôn
ngữ mà còn được đối chiếu qua các hình thức thể hiện, các ý nghĩa biểu trưng
nhằm làm sáng rõ ý nghĩa thiết thực của loại hình tinh thần này. Song song với
đó là việc đưa ra được một khái niệm bao quát về ngành khoa học Phân tâm, vừa
xa lạ nhưng lại vừa rất quen thuộc đối với các nhà nghiên cứu khoa học xã hội
và nhân văn. Việc đưa ra những lý thuyết cơ bản của ngành khoa này là nhằm
tạo ra được những hình dung có tính dẫn đường cho việc nhìn nhận khoa học
này như một chỗ dựa lý luận của đề tài.
Chương 2 : Luận giải tín ngưỡng phồn thực

I. Luận giải tín ngưỡng phồn thực ở khía cạnh Biểu tượng
1. Lý luận chung
18
Phân tâm học cổ điển và phân tâm học hiện đại (hay tâm lý học phân tích,
theo cách gọi của Jung, do thời kỳ sau, ông mang những quan điểm trái ngược
với lý thuyết của Freud) đều quan tâm đến vấn đề Biểu tượng. Theo Freud, nội
dung mà ý thức cung cấp gợi ý cho vô thức được coi là Biểu tượng. Trong khi
đó, theo luận cứ của Jung, ông lại cho rằng những điều này không phải là Biểu
tượng theo đúng nghĩa của nó mà đơn thuần chỉ là những dấu hiệu (sign) hay
triệu chứng (symptom) được biểu hiện ra bề ngoài dưới hình thức này hay hình
thức khác. Để đạt được nguyên nghĩa của Biểu tượng, sự thể hiện đó phải vượt
quá tầm lĩnh hội, đồng nghĩa với việc, nếu chúng ta chỉ hiểu ở nghĩa đen thì
không thể vượt quá nó để tự thân tìm ra chân lý nền tảng. Do tính không nhất
thiết phải có một đặc tính rõ ràng để cấu thành Biểu tượng, nên có thể coi bất cứ
thứ gì cũng là Biểu tượng, ở dạng này hay dạng khác. Do đó, tín ngưỡng phồn
thực, theo lí lẽ kể trên, chắc hẳn cũng là một Biểu tượng chứ không chỉ thuần
nhất trong khái niệm tinh thần hình thức. Vấn đề đặt ra là chúng ta hiểu nó theo
góc độ nào. Mỗi cá nhân đều có sự luận giải cho riêng mình về ý nghĩa và giá trị
Biểu tượng, tùy thuộc vào nhận thức của bản thân xem xét nó theo quan điểm gì,
lấy gì làm hệ quy chiếu, lấy gì để so sánh, dựa theo tư duy nào để định hình.
Theo Cirlot, có thể chia Biểu tượng ra làm ba loại :
- Biểu tượng quy ước bao gồm những hằng số như các Biểu tượng trong
công nghiệp hay trong các khoa học tự nhiên đòi hỏi sự diễn giải dưới dạng
công thức có tính chất toán học.
- Biểu tượng ngẫu nhiên, do các tiếp xúc chuyển tiếp mà ra.
- Biểu tượng mang tính phổ biến (có thể phổ biến trong một cộng đồng,
một khu vực lãnh thổ, nhưng tựu chung là được sự chấp nhận của số đông), thể
hiện mối quan hệ nội tại giữa bản thân Biểu tượng và bất kỳ những gì mà Biểu
tượng tượng trưng.
Theo ý kiến chủ quan, ta có thể xếp tin ngưỡng phồn thực vào loại thứ ba,

với ý nghĩa nội hàm của nó là đại diện tinh thần cho sự sinh sôi nảy nở của vạn
vật, tiêu biểu cho cây trồng vật nuôi và con người. Rõ ràng, với những hình thức
biểu hiện mà qua đó định nghĩa cho ta khái niệm Tín ngưỡng phồn thực trên thế
19
giới thì nó hoàn toàn mang đầy đủ các đặc trưng để được chuyển tiếp về mặt
nhận thức thành một Biểu tượng trong ngôn ngữ và tư duy. Theo đó, nó sẽ chứa
đựng các thành phần như sau :
- Biểu tượng trong nó và chính nó (hay cái nó chứa đựng và sự biểu hiện
nội hàm).
- Sự liên kết của nó với chức năng thiết thực (sự gắn kết với thực tiễn
cuộc sống ở một phương diện nào đó).
- Ý nghĩa siêu hình (metaphysical meaning).
Với vai trò đã được xác lập như thế, tín ngưỡng phồn thực tự thân nó đã
đề ra cho mình những diện mạo đi kèm nhằm khai triển chính bản thân nó cho
sự nhận thức của con người, nhào nặn cũng như quy định cho con người một lối
hành xử được một cộng đồng chấp nhận với một hiệu lực vượt tầm ý nghĩa. Khi
đã là một biểu tượng, nó có tác động nhất định đến tâm lý; khi nó xác định là
một tín ngưỡng (belief), nó càng có ảnh hưởng tới niềm tin cá nhân của người
ủng hộ nó, quy phục nó, thần thánh hóa nó theo chức năng chi phối, kiểm soát
và tiết chế. Nói cách khác, nó hội đủ điều kiện để tạo ra những xúc cảm, có tính
chức năng, tính động lực, huy động được toàn bộ tâm trí con người trong một
khoảng thời gian nhất định (các nghi lễ chẳng hạn).
2. Nguồn gốc hình thành dạng biểu tượng Tín ngưỡng phồn thực
Vậy, đâu là cơ sở cho sự hình thành cho một hình thức tín ngưỡng như
vậy ? Theo Jung, ta có thể gọi cái nguồn gốc (origine) đó là mẫu gốc
(archétype), hay theo ý kiến của Freud, ở nghĩa hẹp hơn, coi đó là những huyễn
tưởng nguyên thủy. Theo đó, nó được Freud định nghĩa như là những cấu trúc
huyễn tưởng điển hình (cuộc sống bào thai, kịch cảnh nguyên thủy, thiến hoạn,
quyến rũ ...) được phát hiện, coi là sự tạo thành cuộc sống huyễn tưởng, không
phụ thuộc những trải nghiệm cá nhân của các đối tượng. Freud coi đó là một di

sản được truyền lại theo con đường phát sinh loài, kế tiếp nhau qua con đường
duy trì ý thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa đó,
phải chăng tín ngưỡng phồn thực được sinh ra từ những ức chế tâm lý cần tìm
lối thoát ? Nếu như vậy, liệu qua các thế hệ, lối thoát ấy có là phù hợp hay phải
20
có những biến đổi thích hợp phụ thuộc vào hoàn cảnh, do không phải ức chế của
thời kỳ nào cũng giống thời kỳ nào, chưa kể đến các mức độ của ức chế tâm lý
nhằm đạt đến ngưỡng cần tìm biện pháp giải phóng ? Rõ ràng, nó không đơn
thuần chỉ dựa vào những ức chế mà kết cấu thành một dạng thức tín ngưỡng như
vậy. Hãy xem qua lý thuyết của Jung. Mẫu gốc hay siêu tượng là tập hợp
những biểu tượng ăn sâu trong vô thức dến mức đủ để tạo thành một mạng lưới
ký tích (theo cách gọi của Jung). Vậy là trong ý thức của con người, nó tự thân
trở thành những dạng tiền tạo (tức là được hình thành từ trước do những va
chạm tâm lý với môi trường khách quan), được phân loại theo các kiểu tâm lý (ở
tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng muốn có sự sinh sôi nảy nở ..) được sắp xếp
theo các cấp độ. Ngoài ra, nó không chỉ tự đưa vào cấu trúc (structure) mà còn
mang vai trò định hướng một cách có mục đích, nghĩa là những tập hợp có khả
năng phô bày cảm xúc và gây xúc động được định hình khối, mang theo đó sự
năng động và sáng tạo của tư duy. Dĩ nhiên là trong khoảng thời gian kéo từ thời
kỳ nguyên thủy cho đến nay, đó vẫn là những kết cấu tâm thức được số đông
biết đến, chấp nhận, truyền bá; được biến thành một đặc tính bẩm sinh, có thể
thừa kế liên tiếp về mặt tâm lý, hay nói cách khác, nó biến thành một thứ ý thức
tập thể. Tín ngưỡng phồn thực bao quát đầy đủ những đặc điểm trên. Thêm vào
đó, mỗi một mẫu gốc đều có khả năng thúc đẩy cũng như góp phần vào sự phát
triển nhân cách, mà ở đây, ta gọi đó là nhân cách tôn giáo hay nhân cách tín
ngưỡng. Với ý kiến của Jung, chúng ta có mẫu gốc như một hình thức tái tạo
những ý tưởng giống hoặc có đặc điểm tương đồng ... hay một trạng thái cấu
trúc gắn bó mật thiết với tâm thần, thậm chí, về mặt sinh học, có liên hệ với não
bộ. Tuy vậy, đó chỉ là lý thuyết chung, còn thực tế, nó có thể thay đổi tùy theo
các thời đại (era), các tộc người, các cá nhân độc lập. Chúng trở thành một hệ

tổng hợp các hình ảnh đa dạng về biểu hiện, song chúng ta không vì lẽ đó mà bỏ
qua sự hình thành có tính cá thể của chúng hay đồng nhất nó với sự điển hình
mà không chú tâm tới các phức thể (complex) có tác động tới nó, vì mẫu gốc
trong tiềm thức được coi là sự nối liền tính phổ biến với cái cá thể tự thân.
21
Ngoài ra, khi nhắc đến biểu tượng trong tín ngưỡng phồn thực, không thể
không nhắc tới hệ biểu tượng. Với những ví dụ đã nêu ở chương I, có thể thấy
ngay rằng, hệ biểu tượng này có mối quan hệ và và những sự giải thích gắn liền
với một biểu tượng chung, bao quát nhất (ở đây là tín ngưỡng phồn thực) hay
gắn liền với một truyền thống (sự thờ cúng hay các nghi lễ có tính quy phạm cho
tín ngưỡng phồn thực chẳng hạn). Với lối nhận thức như thế, ta mới có thể có
được cái nhìn tổng thể về những biểu tượng như thế ở Việt Nam, như chùa Một
Cột với hồ sen vuông, Khuê Văn Các với Thiên Quang Tỉnh, Tháp Bút và Đài
Nghiên, các trò chơi dân gian như ném còn, đánh phết ...
Vốn dĩ phải đưa vấn đề Biểu tượng và hệ biểu tượng gắn với tín ngưỡng
phồn thực như vậy, là do theo J. Lacan, đó là một trong ba vấn đề cốt yếu cần
nghiên cứu khi khảo nghiệm Phân tâm học, bên cạnh đó là trí tưởng tượng và cái
thực tại. Theo ông, hệ biểu tượng cũng là một dạng “ngôn ngữ“ mà Phân tâm
học có nhiệm vụ phải tìm ra quy luật cấu thành, cũng như diễn giải được ý nghĩa
của chúng. Đối với Freud, hệ biểu tượng có ý nghĩa ổn định và được nhận diện
trong các sản phẩm khác nhau của vô thức. Ông nhấn mạnh đến vai trò của biểu
trưng và sự được biểu trưng (quan hệ bao hàm) theo phân tâm học cổ điển, còn
với Lacan, lại chú trọng xem xét cấu tạo và cách sắp xếp biểu tượng để từ đó rút
ra ý nghĩa chung nhất mà biểu tượng đó mang đến cho nhận thức con người.
Theo cách hiểu đó, thậm chí cả nhà dân tộc học người Pháp Lévy Strauss cũng
phần nào đồng tình, và cho rằng văn hóa - ở một khía cạnh nào đấy, là tập hợp
của các hệ biểu tượng. Tín ngưỡng không nằm ngoài vấn đề đó, cũng có nghĩa là
tín ngưỡng phồn thực hiện diện trong đối tượng nghiên cứu của Phân tâm học.
3. Lý luận về Biểu tượng và chức năng đi kèm
Ngược dòng lịch sử, ta đã coi mọi sự vật hiện tượng hiện hữu đều có thể

quy về biểu tượng. Hãy xem xét ý kiến của học giả Pierre Emmanuel, ta thấy
ngay được rằng, việc đưa tín ngưỡng phồn thực vào làm Biểu tượng là một điều
đúng đắn. Ông cho rằng, không chỉ có các vật định hình mà thậm chí cả các
khuynh hướng, một hình ảnh có tính ám ảnh, một giấc chiêm bao vụt đến còn
lưu lại trong ký ức, một hệ thuật ngữ chuyên môn (lingo system, système des
22
termes), một vài định đề nào đó có sự xác thực đều có thể trở thành biểu tượng.
Vấn đề ở chỗ là chúng có chứa đựng những năng lượng tinh thần (spiritual
energy) đủ để nâng nó lên mối quan hệ giữa một hình thái nắm bắt được (hay cái
chứa đựng) với cái không nắm bắt được (cái bị chứa đựng). Dù rằng, theo Freud,
ta lại có Biểu tượng diễn đạt gián tiếp niềm ham muốn hay xung đột (mà ít nhiều
là liên quan đến libido – cái mà Jung chỉ coi đó là một dạng xung năng), có mối
liên hệ bằng cách trong một hành vi hay hoạt động ý thức cụ thể, có sự che đậy,
lại có sự hiển lộ phần còn lại, thì đó là quan hệ mang tính biểu tượng. Không chỉ
có Freud, một số phân tâm học hiện đại vẫn coi cái được biểu trưng là vô thức
(hay tín ngưỡng phồn thực chính là một phần của vô thức theo chứng minh kể
trên). Đối với Jung, vô thức là lẽ dĩ nhiên, thì Biểu tượng còn chỉ ra cái bản chất
mà nhận thức con người còn mơ hồ về Tâm linh (tức là cả ý thức và vô thức) mà
con người không biết lấy ngôn ngữ nào đủ để diễn đạt cho thỏa đáng (nói cách
khác là ta không thể bao quát hết được). Nhưng khác với Freud cho rằng đó là
sự ngụy trang một dạng tinh thần thì Jung coi đó là sản phẩm của tự nhiên,
không nhất thiết phải có một sự kiểm duyệt tư duy rối tái hiện lại mà có thể chỉ
là triệu chứng xung đột được diễn giải mà thôi.
Nếu theo lý thuyết như vậy, chức năng của các hệ biểu tượng đối với tín
ngưỡng phồn thực là gì ?
Chúng ta có thể xác định ít nhất là 9 chức năng sau đây :
- Chức năng thăm dò : tức là sự nắm bắt ý nghĩa thật sự thông qua phép
liên tưởng.
- Chức năng thay thế : tức là sự chuyển đổi cách cảm nhận
- Chức năng trung gian : tức là tạo mối liên hệ từ vật chất hoặc hình

thức vật chất hóa vào tinh thần hay các yếu tố tinh thần.
- Chức năng thống nhất : tức là tạo ra một trung tâm cố kết các ý nghĩa
thành một mạng lưới vừa có sức hút, vừa có sức lan rộng.
- Chức năng giáo dục, trị liệu : tức là đem nhận thức đến tới con người
hay quy chuẩn hành vi qua sự nhận thức bằng giác quan trực tiếp.
- Chức năng xã hội hóa : tức là tạo sự gắn kết với môi trường xã hội.
23
- Chức năng cộng hưởng : tạo sự lan tỏa về nhận thức văn hóa.
- Chức năng siêu nghiệm : tức là nối liền và điều hòa cả những cái đối
lập (Âm Dương, Nam Nữ, Trời Đất chẳng hạn) tạo sự liên kết giữa những cái
tưởng chừng đối kháng thành mối hòa hợp ở dạng thống nhất, tạo ra sự tiến bộ
trong nhận thức .
- Chức năng biến đổi : tức là chuyển dạng năng lượng tinh thần (ở đây
là tín ngưỡng phồn thực) sang dạng hiện hữu có thể được nắm bắt, dạng bộc lộ
giá trị.
4. Logique của Biểu tượng
Vậy khi đã đưa tín ngưỡng phồn thực đi xa như vậy, liệu trong bản thân
nó có còn mang được tính logique tín ngưỡng, hay logique tâm linh hoặc ít nhất,
là có tính logique trong bản thân nó mà chưa cần xét đến dạng thể logique đó
như thế nào ?
Dĩ nhiên là vẫn có, nhưng không thể gò ép trong logique lý tính theo
phương thức
A  B của các khoa học tự nhiên được
Tâm lý con người là một phức thể biến đổi không ngừng, thế nên mọi
biểu tượng đều có tính đa chiều, hay diễn đạt dễ hiểu hơn, tín ngưỡng phồn thực
nhiều khi có ý nghĩa rộng hơn thế, hệ biểu tượng diễn đạt nó cũng chứa đựng ý
nghĩa rộng hơn thế - nếu dặt trong một sự sắp xếp khác. Và đã có sự sắp xếp, tức
là chúng đã có một dạng logique cảm tính nhất định. Lẽ dĩ nhiên, khi chúng ta
muốn cố gắng một cách khiên cưỡng để đặt nó vào logique lý tính, thì ít nhiều
chúng ta đã tự hủy diệt nó, vì một lẽ đơn giản : sai quy tắc, sai thứ tự, tức khắc

dẫn đến sai lệch hình thái tồn tại, đồng nghĩa với việc không tồn tại theo đúng
bản chất nó được đề ra. Logique là tập hợp cơ động nhiều mối liên hệ, nhưng
với các dạng thức tinh thần, logique của chúng chỉ biểu lộ với từng nhóm riêng
biệt, với từng cá thể, với từng giai đoạn tồn tại thì rõ ràng vấn đề sẽ trở nên khó
khăn trong định hướng hơn rất nhiều. Ta không đưa logique của tín ngưỡng
phồn thực ra làm một khái niệm để mổ xẻ, mà ta phải triển khai nó để đưa ra
một hình dung chân thực nhất về dạng thức mà nó tồn tại.
24
Ta có thể mô hình hóa một vài quan hệ như sau :
A : Tín ngưỡng phồn thực hoặc các hệ biểu tượng đi kèm nhằm diễn giải.
B, C : Các dạng thức khác có thể được hiểu.
a, A  B
Điều này chỉ đúng khi lý trí và cảm tính có sự tương đồng (dù rất tương
đối) về sự chuyển tiếp ý nghĩa.
b, A  B (C)
Tức là sự chuyển tiếp này có thể hiểu thành một dạng thức khác qua chức
năng biến đổi nhưng cuãng có thể trong sự biến đổi đó có ẩn giấu những cách
diễn giải khác (C) có thể mối liên hệ ngang hàng hoặc gần gũi hay có thể hiểu ra
chúng từ việc suy luận và phân tích (B).
c, A  B
C
Tức là trong sự chuyển tiếp này có thể xảy ra sự xuất hiện đồng thời hai
kết quả đều đúng cho cùng một phép biện luận logique theo quan hệ ngang
hàng.
Dĩ nhiên là còn rất nhiều dạng thức logique khác tùy thuộc vào nhận
thức, nhưng nói chung, chúng đều không tuân theo tuyệt đối cái mà ta gọi là
logique thông thường. Vì nếu làm vậy, chẳng khác gì việc chúng ta tự đẩy mình
vào một sự quẩn quanh trong nhận thức cố gắng tìm ta một trật tự được lý tính
chấp nhận, được hợp thức hóa theo lối quy chuẩn hành vi.
Tiểu Kết

Bằng lối áp dụng phân tâm học trong nghiên cứu Biểu tượng, chứng tỏ
được vai trò của Tín ngưỡng phồn thực trong chức phận Biểu tượng. Đồng thời
25

×