Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoài Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.53 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
----------o0o-----------

HOÀNG THỊ THU LOAN

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT LÊ HOÀI NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

Thái Nguyên, năm 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------------

HOÀNG THỊ THU LOAN

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT LÊ HOÀI NAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS.Cao Thị Hồng

Thái Nguyên, năm 2017



i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ với đề tài “Đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoài
Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS.Cao Thị Hồng. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề
tài là trung thực và chưa công bố trong bất cứ tài liệu nào trước đây. Những số
liệu phục vụ cho việc phân tích được chính tác giả khảo sát từ tác phẩm. Ngoài ra,
trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các tác giả, cơ quan tổ
chức khác được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí khoa học và đều có trích dẫn
theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Nếu phát hiện có bất kì sự gian
lận nào tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Người cam đoan
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thu Loan


ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn - Xã hội, Trường Đại học Khoa học Đại học Thái Nguyên và các quý Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, tận tình
dìu dắt, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc nhất đến
TS.Cao Thị Hồng, người đã tận tâm hướng dẫn khoa học, định hướng, chỉ bảo,
truyền đạt những kiến thức vô cùng quý báu, giúp tác giả giải quyết các vấn đề

và những khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đồng
nghiệp và học trò đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành
luận văn.
Trân trọng.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thu Loan


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................... iii
PHẦN I: MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu .................................................................. 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 8
5. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 9
6. Cấu trúc của luận văn ....................................................................................... 9
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 10
PHẦN HAI: NỘI DUNG ................................................................................... 11
Chương 1: TIỂU THUYẾT LÊ HOÀI NAM TRONG BỐI CẢNH TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 ..................................................................... 11
1.1. Khái quát chung về thể loại tiểu thuyết ....................................................... 11
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết ............................................................................... 11

1.1.2. Những đặc điểm chính của tiểu thuyết ..................................................... 11
1.2. Những cách tân của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ................................... 14
1.2.1. Đổi mới về tư duy nghệ thuật ................................................................... 14
1.2.2. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người ........................................... 20
1.2.3. Đổi mới cái nhìn về hiện thực và phương thức phản ánh hiện thực ....... 27
1.3. Lê Hoài Nam với thể loại tiểu thuyết .......................................................... 29
1.3.1. Vài nét về cuộc đời và văn nghiệp của Lê Hoài Nam .............................. 29
1.3.1.1. Nhà văn Lê Hoài Nam ........................................................................... 29
1.3.1.2. Hành trình sáng tác của Lê Hoài Nam ................................................. 31
1.3.2. Quan niệm nghệ thuật của Lê Hoài Nam ................................................. 38
1.3.2.1. Quan niệm về trải nghiệm trong sáng tác ............................................. 38
1.3.2.2. Quan niệm về văn chương và trách nhiệm của người cầm bút ............ 40
1.3.3. Tiểu thuyết trong sự nghiệp sáng tác của Lê Hoài Nam.......................... 44


iv

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT LÊ HOÀI NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG
DIỆN NỘI DUNG ............................................................................................. 48
2.1. Đặc điểm cảm hứng nghệ thuật ................................................................... 48
2.1.1. Cảm hứng về hiện thực đời sống ............................................................. 48
2.1.1.1. Một cái nhìn đa diện, đa chiều về hiện thực chiến tranh ...................... 48
2.1.1.2. Số phận con người trong cuộc sống đời thường thời hậu chiến trong tiểu
thuyết Lê Hoài Nam............................................................................................ 54
2.1.2. Cảm hứng về con người ........................................................................... 56
2.2. Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết Lê Hoài Nam ...................................... 64
2.2.1. Nhân vật tha hóa và bị tha hóa .................................................................. 64
2.2.1.1. Tha hóa bởi môi trường, hoàn cảnh....................................................... 64
2.2.1.2. Tha hóa do quyền lực, lòng tham .......................................................... 65
2.2.2. Nhân vật vượt lên số phận........................................................................ 67

2.2.3. Nhân vật giàu đức hy sinh, lòng vị tha..................................................... 69
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT LÊ HOÀI NAM - NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ...................................................................... 71
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và khắc họa nội tâm nhân vật .................... 71
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật .................................................. 71
3.1.2. Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật .................................................... 77
3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong xây dựng nhân vật ............................. 79
3.2.1. Ngôn ngữ đời thường ............................................................................... 79
3.2.3. Ngôn ngữ độc thoại .................................................................................. 83
3.3. Kết cấu......................................................................................................... 86
3.3.1. Kết cấu theo trình tự thời gian ................................................................. 86
3.3.2. Kết cấu lồng ghép - tiểu thuyết trong tiểu thuyết ..................................... 87
3.4. Giọng điệu ................................................................................................... 89
3.4.1. Giọng trữ tình tha thiết ............................................................................ 89
3.4.2. Giọng thiết tha, thương cảm .................................................................... 90
3.4.3. Giọng hài hước, hóm hỉnh........................................................................ 94
3.4.4. Giọng triết luận ........................................................................................ 95
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 103


v


1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỷ XX là thế kỷ phát triển của công nghệ thông tin, của truyền hình
nên đứng trước sức cạnh tranh đó, đã có nhiều người cho rằng đây là “dấu chấm

hết” của tiểu thuyết. Nhưng trải qua thời gian với những thăng trầm, đến nay
tiểu thuyết vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn học của nhân loại. Bởi
nó có những ưu thế mà không một thể loại nào có được, tiểu thuyết được xem là
thể loại “năng động” nhất, là hình thức tự sự cỡ lớn, vừa có khả năng tái hiện
sâu rộng bức tranh hiện thực đời sống vừa có khả năng đi sâu khám phá đời tư,
tâm hồn con người một cách “tinh vi” nhất…Như vậy, tiểu thuyết ngay từ khi ra
đời cho tới nay, nó vẫn luôn là thể loại “mới mẻ” với những tìm tòi khám phá để
tìm ra “bức chân dung” của mình và “Trong cuộc kiếm tìm và hướng tới sự đổi
mới, điều quan trọng là phải thấy được sự cần thiết phải thay đổi bản thân khái
niệm của tiểu thuyết dẫn đến sự thay đổi của bản thân khái niệm về văn học
cùng với sự phát triển của nó” (Theo M.Butor).
Để làm nổi bật sự đổi mới đó, bên cạnh việc nghiên cứu tổng quát về
những đặc điểm văn học, thành tựu văn học, thiết nghĩ, cần điểm lại chân
dung của từng nhà văn với những thành công, những sáng tạo nghệ thuật của
họ đã ít nhiều góp phần tạo nên bộ mặt cho văn học giai đoạn này. Những tác
giả có công đưa tiểu thuyết nhập vào trào lưu đổi mới văn học không thể
không kể đến Lê Hoài Nam, ông là một chân dung mới của văn học Việt Nam
hiện đại thuộc giai đoạn này, thành công ở nhiều loại hình nghệ thuật như
truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản điện ảnh. Riêng về mảng tiểu thuyết, ông
sáng tác không nhiều, nhưng ở mỗi tác phẩm, ông đều tạo được những dấu ấn
riêng cả về nội dung lẫn phương thức thể hiện. Với các tiểu thuyết đã gắn liền
với tên tuổi của ông: Những đêm huyền ảo (NXB Phụ nữ, 1988), Đôi tình
nhân ham sống (NXB Hội Nhà văn, 1990), Hoang mạc tâm hồn (NXB Lao


2

động, 1998), Danh tiếng và bóng tối (NXB Phụ nữ, 2008). Điểm nhấn của các
tác phẩm này là nhìn thẳng vào sự thật, viết sự thật về xã hội đang trong giai
đoạn chuyển mình sáng, tối đấu tranh quyết liệt. Đó là cái nhìn của một người

dám đấu tranh cho lẽ phải, dám nhìn vào thẳng sự thật để phơi bày những
hiện thực đang diễn ra trong xã hội; sự ăn chơi sa đoạ của một số người. Sự
quái đản đó khiến cho người ta liên tưởng tới một sự tha hóa biến chất của
một số ít cán bộ có chức quyền, giống như một hồi chuông cảnh tỉnh về sự
băng hoại đạo đức xã hội và con người… Có những chuyện ngoài đời khi đưa
nguyên xi vào tác phẩm tự thân nó đã mang tính khái quát, điển hình. Trong
văn chương Việt Nam nhiều nhà văn của nhiều thế hệ đã viết theo cách này.
Nhưng Lê Hoài Nam không dẫm chân lên lối mòn mà người khác đã đi,
không viết những chuyện người khác đã viết. Chẳng hạn những truyện ngắn
khai thác đề tài lịch sử, ông khai thác lịch sử theo cách nhìn khá riêng của
mình. Trong mỗi truyện tưởng như đã cũ ấy, dưới ngòi bút và trí tưởng tượng
của ông, nó lại lấp lánh lên, tắm tưới vào tâm hồn người đọc một điều gì đó
rất mới mẻ. Thường là khi truyện khép lại, người đọc mới tự rút ra một ý
nghĩa xã hội, một giá trị nhân đạo, một triết lý nhân sinh.
Với tài năng và phong cách độc đáo, Lê Hoài Nam đã khẳng định mình
với một lối đi riêng. Bằng những cách tân, sáng tạo độc đáo, ông đã thay đổi
được quan niệm tiếp cận của độc giả và tạo nét mới cho tiểu thuyết Việt Nam.
Lựa chọn nghiên cứu “Đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoài Nam” để khẳng định
đóng góp của nhà văn ở những cách tân nghệ thuật của văn xuôi thời kì đổi
mới đặt trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời, chúng tôi
cũng mong muốn góp phần đem lại một cái nhìn toàn diện về cuộc đời và sự
nghiệp văn chương của nhà văn Lê Hoài Nam cũng như sự phát triển, đổi mới
của nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có một số bài viết, công triǹ h nghiên cứu về Lê Hoài Nam và sáng tác


3

của ông. Xem xét nô ̣i dung các bài viế t, các công trình nghiên cứu, chúng tôi

chia thành hai nhóm chiń h sau:
2.1. Những bài viế t về Lê Hoài Nam và sự nghiệp sáng tác văn chương.
Từ sau tiểu thuyết đầu tay Những đêm huyền ảo (NXB Phụ nữ, 1988),
các nghiên cứu về sáng tác của ông đã tạo được nhiều ấn tượng, dư vang trong
lòng bạn đọc nói chung và nhận được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu,
phê bình nói riêng. Những bài viết có tính chất nghiên cứu vẫn còn rất hạn chế,
thường chỉ quan tâm đến một tác phẩm nào đó, chưa có những bài nghiên cứu
mang tính tổng hợp. Hầu hết các bài viết được đăng rải rác trên các trang báo,
tạp chí, từ nguồn internet, hoặc từ trang cá nhân của một số bạn bè văn chương
của nhà văn Lê Hoài Nam, và nhất là được tập hợp khá đầy đủ trong trang cá
nhân của ông.
Trước hết, cần nói đến các bài viết, ý kiến về số phận con người trong tiểu
thuyết “Những đêm huyền ảo” (cuốn tiểu thuyết đầu tay của Lê Hoài Nam).
Vừa ra đời, tác phẩm đã nhận được nhiều ý kiến phê bình, nhận xét bởi vấn đề
được đặt ra.
Hoàng Ngọc Trì, trong bài viết số phận con người trong tiểu thuyết
“Những đêm huyền ảo” đăng trên Báo Văn nghệ năm 1988, ngay sau khi tác
phẩm ra đời đã khái quát tính bi thảm của cốt truyện trong cuốn tiểu thuyết
này. Theo tác giả, “Những đêm huyền ảo đã dẫn người đọc đi dần vào cái xã
hội ngột ngạt với những mâu thuẫn gay gắt, những chuyện đau lòng làm nhức
nhối tim gan những con người chân chính đang tiến hành công cuộc đổi mới
đầy gian nan phức tạp hôm nay”, tác giả bài viết đã khẳng định “Lê Hoài
Nam có cách viết khá hấp dẫn, cái hấp dẫn trong Những đêm huyền ảo
không phải ở đề tài còn ít người khai thác cũng không phải là ở những triết lý
sâu sắc làm lay động tiềm thức của người đọc mà là ở phương pháp tổ chức
những diễn biến của các tình tiết. Anh vận dụng lối kết cấu của kịch. Quá


4


trình diễn biến của cốt truyện là quá trình phát triển của mâu thuẫn. Độ gay
gắt của các mâu thuẫn ngày càng tăng dần và nâng tới mức đỉnh điểm. Đỉnh
điểm của mâu thuẫn trong Những đêm huyền ảo là cảnh Huyên và Sen (vợ
Hoàng Phan) đều ra đi để lại cho Hoàng Phan một nỗi cô đơn trống vắng
mênh mông” [82].
Không chỉ phân tích tác phẩm để làm toát lên nội dung tư tưởng mà tác giả
Hoàng Ngọc Trì còn mạnh dạn nêu lên một số “chỗ yếu”, hạn chế của tác phẩm
như một lời chia sẻ chân thành dành cho nhà văn Lê Hoài Nam: “Nếu cần nói
đến những nhược điểm của Những đêm huyền ảo thì đó là một số đoạn triết lí
còn nhạt, chưa đạt tới chiều sâu cần thiết, một số câu văn chưa thật ổn về văn
pháp, một số từ dùng chưa thật chính xác. Biết anh đang tập trung sức chuẩn bị cho
một cuốn tiểu thuyết mới, nhắc anh lưu ý những điều trên đây, chắc là có ích” [82].
Với tiểu thuyết Danh tiếng và bóng tối, bài viết trên báo của Công ty cổ
phần sách Việt Nam Savina đã khẳng định “Văn chương trong Danh tiếng và
bóng tối giản dị nhưng không hề thô sơ. Người đọc bị cuốn hút từ đầu đến cuối
tác phẩm lối mô tả hiện thực, mô tả nhân vật và phương pháp dẫn chuyện của
tác giả. Ngồn ngộn hiện thực mà vẫn lấp lánh, bay bổng” [81].
Nếu bài viết trên báo của Công ty cổ phần sách Việt Nam Savina chỉ dừng
lại ở những lời nhận xét chung, đánh giá một cách khái quát, thì bài viết trên
trang cá nhân của mình, nhà văn Thủy Hướng Dương lại đi sâu vào việc mổ xẻ,
phân tích nội dung tác phẩm ở nhiều góc cạnh. Chị khẳng định một cách chắc
chắn, mạnh mẽ, rằng: “Tôi có cảm giác những sự việc, những tình tiết của cuốn
sách được tác giả viết hầu hết là sự thật, phần hư cấu là rất ít. Đó là cuốn tiểu
thuyết đầy ắp hiện thực. Hiện thực trên từng trang, từng trang viết. Hiện thực
trong từng cá thể nhân vật và hiện thực trong từng số phận con người. Bằng bút
pháp rất giản dị, tả thực theo lối truyền thống, Lê Hoài Nam đã khắc họa được
những nhân vật “Danh tiếng” cùng với những âm mưu thủ đoạn để ngoi lên địa


5


vị cao nhất trong ngành văn hóa của tỉnh “Hải Thành” từ một tên lưu manh
chuyên móc túi hay từ một tay thợ gò hàn thất học. Những mánh khóe để tiêu
diệt đối thủ của những nhân vật này được nhà văn lột tả ghê tởm đến mức rùng
mình. Nhưng ghê sợ hơn, là người đọc có cảm giác hình như mình đã gặp đâu
đó quanh đời sống thực của mình cũng có một nhân vật như thế” [81]. Đặc biệt,
chị còn nhấn mạnh “Danh tiếng và Bóng tối như thức tỉnh chúng ta… hãy nhìn
thẳng vào cuộc sống. Mong muốn cho chúng ta xây dựng một xã hội đẹp hơn,
như lẽ ra nó phải được như thế” [81].
Ngoài ra, còn hai cuốn tiểu thuyết của Lê Hoài Nam đó là Đôi tình nhân
ham sống và Hoang mạc tâm hồn nhưng chưa có bài viết nào đi phân tích nội
dung của chúng. Vì vậy, ở đề tài này chúng tôi sẽ đi khảo sát nội dung của hai
cuốn tiểu thuyết trên một cách cụ thể và đầy đủ hơn để người đọc thấy được giá
trị nhân văn, những triết lí sâu xa ẩn chứa trong mỗi cuốn tiểu thuyết của Lê
Hoài Nam.
Tuy nhiên, tác phẩm của nhà văn Lê Hoài Nam có rất nhiều độc giả. Dù
viết về bất cứ chuyện gì, chuyện của chiến tranh, chuyện hậu quả của chiến
tranh, chuyện thế thái của đời thường, chuyện vui, chuyện buồn, chuyện tốt,
chuyện xấu..., tất cả màu sắc âm thanh của cuộc sống hôm nay nhà văn đều viết
với một tinh thần công dân rất cao. Mỗi tác phẩm của ông, dù là truyện ngắn hay
tiểu thuyết, đều viết về những vấn đề của số phận con người, trong niềm vui,
trong nỗi buồn, trong thăng trầm, trong tất cả cảnh ngộ.... Chính vì thế, tác phẩm
của Lê Hoài Nam có sự vang dội trong xã hội. Ông là người viết về cái hôm nay,
viết cho ngày hôm nay, mặc dù có những cái không phải ở thì hiện tại. Sau chiến
tranh ông bắt đầu nhìn sâu vào cuộc sống và phát hiện ra những vấn đề phức tạp
của cuộc sống và con người. Lê Hoài Nam có thái độ quyết liệt đối với những
cái ác, cái xấu, sự băng hoại của đạo đức trước sự tác động của đồng tiền. Nhà


6


văn đã có những cách nhìn, cách phát hiện vấn đề và đưa vào tiểu thuyết làm
cho những tác phẩm của mình có sức hấp dẫn với bạn đọc.
Qua đó, có thể thấy sự ảnh hưởng của Lê Hoài Nam cũng như tác phẩm của
ông đối với người đọc. Điều đáng chú ý hơn cả là những vấn đề được nêu ra
trong các tác phẩm lại chính là những hiện trạng của cuộc sống đời thường đang
diễn ra xung quanh chúng ta. Vì vậy, tác phẩm của Lê Hoài Nam gần gũi và gắn
bó với cuộc sống của con người. Điều này lí giải vì sao nhà văn cùng những tác
phẩm của ông lại có vị trí đặc biệt trong lòng người đọc.
2.2. Những bài viết có tính khái quát về tiểu thuyết Lê Hoài Nam
Theo thống kê của chúng tôi, đến nay có khoảng bốn nghiên cứu viết về
tiểu thuyết Lê Hoài Nam. Trong bài viết “Cuộc chiến giữa con người và quyền
năng sói” Mai Tiến Nghị đưa ra lời nhận xét: “Bằng lối viết giản dị và chân
thật, có thể khẳng định tác giả không hư cấu nhiều. Chính cái sự chân thực ấy
làm nên sự hấp dẫn. Tôi đọc một hơi hết tác phẩm và bị cuốn hút bởi sự đậm
đặc chi tiết sống động. Tuy nhiên tôi vẫn băn khoăn bởi tác giả thật quá. Liệu có
khỏi hệ luỵ gì không. Chắc chắn sẽ có những tiếng la ó nhân danh điều này,
điều nọ của những người tự vơ vào nhận mình là người trong cuộc. Thực lòng
khi đọc “Danh tiếng và bóng tối” tôi cảm thấy hơi nặng nề và buồn vì tiếc cho
một vùng quê văn hiến. Cách giải quyết của tác phẩm cũng còn hơi khiên cưỡng
và cách giải quyết ấy lại để ở thì tương lai. Vì biết rằng không có chuyện cổ tích
ở thời hiện tại và không nghi ngờ về tính chân thực của tác phẩm nên tôi cũng
tự an ủi mình: Muốn xây một lâu đài vững chắc thì phải chuẩn bị nền móng cho
vững chắc. Để có nền móng vững chắc buộc phải dọn dẹp đi những rác rưởi. Có
những thứ rác rưởi mắt thường khó nhìn thấy, hoặc có thấy nhưng người ta tặc
lưỡi: chẳng hề gì! Cứ xây, không sao! Nhưng toà lâu đài ấy liệu có bền vững?
Người xây dựng liệu có an toàn? Việc làm của tác giả trong tác phẩm có lẽ đã
làm được cái việc cảnh tỉnh cho những người xây dựng. Đó là việc làm tích cực



7

và là việc làm dũng cảm” [81]. Mai Tiến Nghị đã ghi nhận cái chân thực trong
tác phẩm của Lê Hoài Nam, chính cái sự chân thực ấy làm nên sự hấp dẫn và
cuốn hút người đọc bởi các chi tiết sống động. Tuy nhiên tác giả vẫn băn khoăn
bởi lối viết thật như vậy liệu có khỏi hệ luỵ gì không?
Nhìn chung, các bài viết về Lê Hoài Nam và các sáng tác của ông vẫn còn
khá khiêm tốn về nội dung cũng như số lượng và chỉ được đăng tải rời rạc trên
một số trang báo, tạp chí. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về
“Đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoài Nam”. Phần lớn là các bài viết ngắn, thiên về
cảm nhận, nhận xét và đánh giá. Các nghiên cứu chủ yếu dừng ở mức tiếp cận
về phương diện nội dung tác phẩm chứ chưa nghiên cứu về nghệ thuật tác phẩm.
Trên cơ sở kế thừa thành tựu khoa học quý báu của những người đi trước, với
luận văn này chúng tôi hy vọng tiếp tục khám phá, kiến giải những giá trị nghệ
thuật đặc sắc của tiểu thuyết Lê Hoài Nam, góp tiếng nói khẳng định sự nghiệp
và tôn vinh một nhà văn đương đại từng là người lính cầm súng trong quân đội
mà với lao động nghệ thuật bền bỉ, miệt mài, nghiêm túc ông đã dâng tặng cuộc
sống những trang viết tràn đầy giá trị nhân văn, để lại dấu ấn khó quên trong
lòng bạn đọc.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoài Nam.
3.2 Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm hướng tới mục tiêu:
- Đánh giá một số nét tổng quan về tiểu thuyết Lê Hoài Nam đặt trong bối
cảnh tiểu thuyết Việt Nam sau 1986; Tìm hiểu về cuộc đời, văn nghiệp của nhà
văn Lê Hoài Nam.


8


- Chỉ ra một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết Lê Hoài
Nam được thể hiện qua các phương diện: cảm hứng nghệ thuật, thế giới nhân
vật, nghệ thuật dựng truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
- Trên cơ sở đó luận văn khẳng định những thành công và sự độc đáo của
tiểu thuyết Lê Hoài Nam cả về nội dung và nghệ thuật.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát tác phẩm, thống kê, phân tích, chỉ ra những đặc điểm cơ bản tiểu
thuyết Lê Hoài Nam ở hai phương diện: Nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt luận
văn chú ý đi sâu nghiên cứu các thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tác phẩm,
từ đó khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của nhà văn.
- Khẳng định giá trị tiểu thuyết Lê Hoài Nam và những đóng góp của ông
đối với văn học đương đại Việt Nam, xác định vị trí của Lê Hoài Nam trong văn
xuôi Việt Nam từ sau 1986.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp hệ thống
Khảo sát, phân loại và xác định thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Hoài
Nam sau 1986 trên tinh thần kết hợp các yếu tố tương đồng về nội dung và hình
thức để rút ra những nhận định, đánh giá chính xác về hệ thống nhân vật trong
tác phẩm.
4.2.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Vận dụng phương pháp này, người viết có thể tìm hiểu, phân tích những
đặc điểm nổi bật của hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết Lê Hoài Nam sau 1986
ở một số phương diện như quan niệm nghệ thuật về con người, nhân vật và các
phương thức thể hiện nhân vật…


9


Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng một số phương
pháp và thao tác bổ trợ như: Phương pháp loại hình, phương pháp liên ngành
giữa văn học và văn hóa, thao tác so sánh, phân tích - tổng hợp để làm sáng tỏ
vấn đề thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Hoài Nam sau 1986.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoài Nam, chúng tôi tập trung khảo
sát bốn tác phẩm sau:
Những đêm huyền ảo (tiểu thuyết – NXB Phụ nữ, Hà Nội, 1988)
Đôi tình nhân ham sống (tiểu thuyết – NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1990)
Hoang mạc tâm hồn (tiểu thuyết – NXB Lao động, Hà Nội, 1998).
Danh tiếng và bóng tối (tiểu thuyết – NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2008)
6. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ
lục, phần trọng tâm là Nội dung chính gồm ba chương.
Chương 1: Tiểu thuyết Lê Hoài Nam trong bối cảnh tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986
Khái quát chung về thể loại tiểu thuyết, những cách tân của tiểu thuyết
Việt Nam sau 1986. Vài nét về cuộc đời, văn nghiệp và quan niệm về văn
chương nghệ thuật cũng như quan niệm về con người trong sáng tác của Lê
Hoài Nam. Giới thiệu sơ lược về thể loại tiểu thuyết trong sự nghiệp sáng tác
của Lê Hoài Nam.
Chương 2: Đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoài Nam nhìn từ phương diện
nội dung
Đây là phần tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu bốn cuốn tiểu thuyết
của Lê Hoài Nam. Nhìn từ phương diện nội dung, cảm hứng, có thể tìm thấy


10

nhiều đề tài khác nhau trong các sáng tác của Lê Hoài Nam sẽ được làm rõ như:

cảm hứng về hiện thực đời sống, cảm hứng về con người, đặc điểm nhân vật
trong tiểu thuyết Lê Hoài Nam. Trong chương này, nội dung cụ thể của mỗi tác
phẩm sẽ được tìm hiểu, phân tích, nhằm làm nổi bật chủ đề tác phẩm, cũng như
tư tưởng, quan niệm của nhà văn về cuộc đời và thân phận con người.
Chương 3. Đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoài Nam nhìn từ phương diện
nghệ thuật
Tập trung khảo sát một số đặc điểm về thể loại và hình thức ngôn từ trong
sáng tác của Lê Hoài Nam trong việc biểu đạt ý nghĩa nội dung. Đi sâu khai thác
các yếu tố chính: Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và khắc họa nội tâm nhân vật,
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong xây dựng nhân vật, kết cấu và đặc biệt là
một lối tự sự đa giọng điệu đã tạo nên nét độc đáo riêng của nhà văn.
7. Đóng góp của luận văn
- Là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về đặc
điểm tiểu thuyết Lê Hoài Nam. Làm sáng tỏ những đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoài
Nam đặt trong bối cảnh của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
- Luận văn góp phần khẳng định:
+ Mỗi thể loại có những cách thức kết tinh của nó và ở những tiểu thuyết
xuất sắc của mình Lê Hoài Nam đã tạo ra một giọng điệu trần thuật và một cách
thức tiếp cận hiện thực mới.
+ Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 (trong đó có tiểu thuyết của Lê Hoài
Nam) đã có những nỗ lực cách tân nghệ thuật, tạo nên những giá trị nghệ thuật
độc đáo, làm nên sự khởi sắc của văn xuôi Việt Nam trong một giai đoạn phát
triển mới.
+ Luận văn cung cấp một tài liệu tham khảo có giá trị cho những ai quan
tâm nghiên cứu, tìm hiểu về tiểu thuyết của Nhà văn Lê Hoài Nam.


11

PHẦN HAI: NỘI DUNG

Chương 1: TIỂU THUYẾT LÊ HOÀI NAM
TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Khái quát chung về thể loại tiểu thuyết
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và
hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có
thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã
hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính đa dạng.
Không phải ngẫu nhiên mà thể loại tiểu thuyết chiếm địa vị trung tâm trong hệ
thống thể loại văn học cận đại, hiện đại.
1.1.2. Những đặc điểm chính của tiểu thuyết
Đặc điểm thứ nhất làm cho tiểu thuyết khác biệt sử thi (anh hùng ca), ngụ
ngôn là ở cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư. Đời tư là tiêu điểm để miêu tả
cuộc sống một cách tiểu thuyết. Tùy theo từng thời kỳ phát triển, cái nhìn đời tư
có thể sâu sắc đến mức thể hiện được, kết hợp được với các chủ đề thế sự hoặc
lịch sử dân tộc. Nhưng yếu tố đời tư càng phát triển, chất tiểu thuyết càng tăng,
yếu tố lịch sử dân tộc càng phát triển, chất sử thi càng đậm đà. Tiểu thuyết sử
thi, theo nhà nghiên cứu Sirerin, là “tiểu thuyết mà từ trong tới ngoài vượt khỏi
các khung của nó, trong đó đời tư con người thấm nhuần lịch sử và triết học lịch
sử, con người được thể hiện như một phần tử sống động của nhân dân mình.
Tiểu thuyết sử thi nắm bắt những đổi thay của các thời kỳ lịch sử, sự tiếp nối của
các thế hệ, nó hướng tới các số phận tương lai của nhân dân hay giai cấp”. Tiểu
thuyết miêu tả cuộc sống “hiện tại” không ngừng biến đổi sinh thành. Nhưng đối
với tiểu thuyết cận đại, hiện đại mà đối tượng là hiện thực đương thời, thì dấu


12

hiệu khu biệt chất tiểu thuyết và chất sử thi lại là yếu tố nội dung lịch sử anh
hùng dân tộc hiện đại.

Đặc điểm thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường ca, thơ
trường thiên và sử thi là chất văn xuôi, tức là một sự tái hiện cuộc sống không
thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa. Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng
thời đang sinh thành, tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang
bề bộn của cuộc đời, bao gồm cái cao cả lẫn tầm thường, nghiêm túc và buồn
cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Các thể loại nói trên, nói chung, không thể
dung nạp chất văn xuôi như một đặc trưng của nội dung thể loại, mặc dầu trên
quỹ đạo của văn học hiện đại, thể loại ấy có thể bị “tiểu thuyết hóa” và dung nạp
ít nhiều chất văn xuôi. Chính chất văn xuôi đã mở ra môt vùng tiếp xúc tối đa
với thời hiện tại đang sinh thành làm cho tiểu thuyết không bị giới hạn nào đó
trong nội dung phản ánh.
Thứ ba, nhân vật tiểu thuyết khác với nhân vật sử thi, nhân vật kịch, nhân
vật truyện trung cổ là ở chỗ nhân vật tiểu thuyết là “con người nếm trải” trong
khi các nhân vật kia thường là nhân vật hành động. Nhân vật tiểu thuyết cũng
hành động, và trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhân vật còn tích cực
tham gia cải tạo môi trường, nhưng với tư cách là đặc trưng thể loại, nhân vật ấy
xuất hiện như là con người nếm trải tư duy, chịu khổ đau dằn vặt của đời. Tiểu
thuyết miêu tả con người trong hoàn cảnh, không tách nó khỏi hoàn cảnh một
cách nhân tạo, không cô lập nó cũng như không cường điệu sức mạnh của nó.
Nó miêu tả nhân vật như một con người đang trưởng thành, biến đổi và do đời
dạy bảo. Trong khi hành động, nhân vật tiểu thuyết “lãnh đủ” mọi tác động của
đời. Khi miêu tả nhân vật, phân tích tâm lí là một phương tiện rất đặc trưng cho
tiểu thuyết, mặc dù nói chung, loại văn học nào cũng không thể bỏ qua được
khía cạnh tâm lí.


13

Thứ tư, tiểu thuyết khác với truyện ngắn trung cổ, truyện vừa, “tiểu thuyết
đoản nhiên” (noven) như Mười ngày của Boocaxio là ở chỗ trong các truyện ấy,

cốt truyện đóng vai trò chủ yếu cùng với nhân vật. Mọi yếu tố tác phẩm được tổ
chức sát với sự vận động của cốt truyện và tính cách, hầu như không có gì
“thừa”, tất cả nằm trọn trong các liên hệ nhân quả. Lời nói nhân vật cũng chỉ là
một khâu thúc đẩy cốt truyện phát triển, hoặc mở nút. Tiểu thuyết thì không thế.
Nó chứa bao nhiêu cái “thừa” so với cốt truyện vừa và truyện ngắn trung cổ, mà
đó lại là cái chính yếu trong thành phần của thể loại tiểu thuyết: các suy tư của
nhân vật về thế giới, về đời người, sự phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, sự
trình bày tường tận các tiền sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người
với người, về toàn bộ tồn tại của con người.
Thứ năm, xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần thuật
như một khoảng cách về giá trị dẫn đến lí tưởng hóa của anh hùng ca, tiểu thuyết
hướng về miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời của người trần thuật. Là
một hiện tại cùng thời, tiểu thuyết cho phép người trần thuật tiếp xúc, nhìn nhận
các nhân vật một cách gần gũi như những người bình thường, thường tình, có
thể hiểu họ bằng kinh nghiệm của mình. Chính khoảng cách gần gũi này làm
cho tiểu thuyết trở thành một thể loại dân chủ, nó cho phép người trần thuật có
thể có thái độ thân mật, thậm chí suồng sã đối với nhân vật của mình. Và từ đó,
có thể nhìn hiện tượng từ nhiều chiều, sử dụng nhiều giọng nói. Tiểu thuyết hấp
thu mọi lời nói khác nhau của đời sống, san bằng ngăn cách lời trong trong văn
học và ngoài văn học, tạo nên sự đối thoại giữa các giọng khác nhau. Cuộc sống
trong tiểu thuyết là một cái gì đó chưa xong xuôi. Kết cấu của tiểu thuyết cũng
thường là kết cấu để ngỏ.
Cuối cùng, với các đặc điểm đã nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả
năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các loại văn học khác
nhau. Những hiện tượng tổng hợp đó làm cho bản thân thể loại tiểu thuyết cũng


14

đang vận động, không đứng yên. So với sử thi, bi kịch, hài kịch, tức là các thể

loại đã trở nên cũ xưa, thì theo Bakhtin, tiểu thuyết là “thể loại duy nhất đang
hình thành và chưa xong xuôi” [7].
1.2. Những cách tân của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
1.2.1. Đổi mới về tư duy nghệ thuật
Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới đã đứng trước nhu cầu “đổi mới tư
duy tiểu thuyết”. Điều này chứng tỏ sự nghiêm khắc nghề nghiệp và sự tâm đắc
với thể loại của đội ngũ các nhà văn, các tiểu thuyết gia đương đại. Những năm
tiền đổi mới (1975-1985), tiểu thuyết vẫn theo vòng quay “quán tính” nghiêng
về sự kiện, về sự bao quát hiện thực trong một diện rộng, cảm hứng sử thi vẫn
chiếm vị trí đáng kể trong tư duy nghệ thuật của nhà văn: Năm 75 họ đã sống
như thế (Nguyễn Trí Huân), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Trong cơn gió lốc
(Khuất Quang Thụy)…Chỉ khi bước vào thời kì đổi mới, trong không khí dân
chủ của đời sống văn học, tiểu thuyết mới bùng phát, thăng hoa, mới thực sự đổi
mới ở tư duy nghệ thuật. Sự đổi mới ở tư duy nghệ thuật trong sáng tạo tiểu
thuyết sẽ dẫn đến hệ quả tất yếu là thay đổi các yếu tố thuộc về cơ cấu của tiểu
thuyết như: đề tài, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ.
Về đề tài: Tiểu thuyết thời kì đổi mới đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang
tư duy tiểu thuyết. Cảm hứng sáng tạo chuyển từ ngợi ca, khẳng định đến chiêm
nghiệm, suy tư. Thay vì cách nhìn rạch ròi thiện – ác, bạn – thù là cách nhìn đa
chiều, phức hợp về hiện thực và số phận con người. Đề tài chiến tranh và cách
mạng, lịch sử và dân tộc dần dần nhường chỗ cho đề tài thế sự và đời tư. Cảm
hứng sự thật về hiện thực và con người trở thành cảm hứng bao trùm trong cảm
hứng sáng tạo của nhà văn. Tiểu thuyết khai thác đề tài thế sự đời tư không chỉ
bộc lộ những nếm trải, suy tư, nghiền ngẫm mà còn phơi bày, phanh phui các sự
vật, hiện tượng để đi đến tận cùng cốt lõi của nó. Vấn đề con người, vấn đề cái
riêng trở thành mối quan tâm hàng đầu của người viết. Phạm vi, đối tượng sáng


15


tác được mở rộng, khai thác đến các tầng vỉa của hiện thực đời sống và con
người. Nhưng nhà văn không coi việc miêu tả hiện thực đời sống là mục đích
của nghệ thuật mà coi trọng hơn đến hiện thực con người, với thân phận và cuộc
đời của nó: Thời xa vắng (Lê Lựu), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Bến không chồng
(Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Nỗi
buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Ăn mày dĩ
vãng (Chu Lai), Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà), …
Trên phương diện đề tài, thể tài, tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới đã
triển khai và đi sâu vào cái hiện thực hàng ngày, cái đời thường của đời sống cá
nhân. Nhà văn dám nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh,
mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo. Các đề tài truyền thống
quen thuộc hay hiện đại, mới mẻ đều được đưa vào trường nhìn mới hướng tới
hệ quy chiếu: số phận cá nhân, sự nhập cuộc của con người, thấm đẫm cảm
hứng nhân văn.
Về cốt truyện: Trong loại hình văn xuôi nghệ thuật, cốt truyện đóng vai trò
quan trọng. Cốt truyện là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các
mối quan hệ và phát triển của tính cách nhân vật. Trong cơ cấu nghệ thuật của
tác phẩm cũng như những yếu tố khác, cốt truyện đã trải qua những chặng
đường khác nhau trong tiến trình văn học. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch
sử, trong mỗi trào lưu, khuynh hướng, hoặc trong thi pháp sáng tạo của nhà văn,
vai trò của cốt truyện trong tiểu thuyết nói riêng và trong thể tự sự nói chung có
những cách thể hiện khác nhau. Trong một số tiểu thuyết trước đây, người ta có
thể kể lại cốt truyện, chỉ chú ý đến cốt truyện mà ít để ý đến cách viết của nhà
văn. Tiểu thuyết từ sau đổi mới đa dạng hơn trong nội dung phản ánh, phong
phú hơn trong hình thức diễn đạt, tự do hơn ở cách thức dựng truyện. Bên cạnh
những cốt truyện giàu kịch tính là những cốt truyện giàu tâm trạng. Có những
kết cấu cốt truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, có kết thúc, cũng có những tiểu


16


thuyết cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở. Bên cạnh những tiểu thuyết tuân
thủ cốt truyện truyền thống là những cốt truyện dựa trên thi pháp hiện đại. Cốt
truyện đã vận động thay đổi trong sự phát triển của thể loại. Về đoạn kết của tiểu
thuyết, có mô hình kết thúc có hậu, các vấn đề được giải quyết một cách hoàn
tất, trọn vẹn. Có đoạn kết với kiểu kết thúc bỏ ngỏ, không hoàn kết. Tất cả các
dạng thức trên đều nhằm phân tích, lí giải những vấn đề phức tạp và bí ẩn của
con người, cuộc sống đương đại. Cốt truyện tiểu thuyết từ những năm đổi mới
đến nay, một mặt vẫn kế thừa và phát triển những đặc trưng của cốt truyện
truyền thống, mặt khác đã tiếp cận với tiểu thuyết hiện đại thế giới ở những nét
tinh túy. Nghệ thuật đồng hiện, kĩ thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp
ghép, sử dụng huyền thoại, nghệ thuật gián cách, đa giọng điệu là những vấn đề
còn mới mẻ trong văn xuôi Việt Nam đã được tiểu thuyết vận dụng, biến hóa
một cách linh hoạt và uyển chuyển trên tinh thần dân tộc hiện đại.
Trong văn xuôi Việt Nam, tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống vẫn
tồn tại, vẫn có độc giả: Thời xa vắng (Lê Lựu), Dấn thân (Xuân Cang), Mảnh
đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương
Hướng),… các tiểu thuyết này đều có cốt truyện, với mở đầu, diễn biến và kết
thúc. Cốt truyện với những sự kiện, biến cố và tình huống trở thành cái khung
chi phối phần lớn tính cách nhân vật. Bên cạnh những cây bút viết theo truyền
thống, trong đội ngũ những người viết tiểu thuyết có không ít tác giả đã cố gắng
đổi mới tư duy tiểu thuyết, tìm một hướng đi mới trong sự sáng tạo thể loại: Ma
Văn Kháng, Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo, Lê Hoài Nam,…
Những cây bút kể trên đã cố gắng cách tân trong sáng tạo với những tiểu thuyết
có cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ, co giãn, khó tóm tắt, khó kể lại. Ý thức cách tân
nghệ thuật, đổi mới tư duy tiểu thuyết là nỗ lực sáng tạo đáng kể của các cây bút
văn xuôi nhằm biểu đạt tâm hồn con người thời đại.


17


Về nhân vật: Nhân vật là yếu tố hàng đầu của tác phẩm văn học. Nhân vật
văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Tiểu
thuyết ngoài khả năng tái hiện bức tranh toàn cảnh của đời sống xã hội còn có
khả năng đi sâu khám phá số phận con người. Quan niệm nghệ thuật về con
người là yếu tố chi phối các yếu tố khác của nghệ thuật biểu hiện. Quan niệm
nghệ thuật về con người gắn với đời sống văn học của mỗi giai đoạn lịch sử.
Văn học từ sau 1986 có sự chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu
thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư. Tiểu thuyết đã
phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực, con người trong giai
đoạn mới một cách nhanh nhạy và sắc bén. Số phận con người trở thành mối
quan tâm hàng đầu của nhà văn. Nhiều cuốn tiểu thuyết đã hướng tới miêu tả số
phận những con người bình thường với những bi kịch của đời họ. Bi kịch giữa
khát vọng và thực trạng, giữa cái muốn vươn lên và cái kìm hãm, giữa nhân bản
và phi nhân bản.
Trong giai đoạn đổi mới, vấn đề con người cá thể được đặt ra một cách bức
xúc, mạnh mẽ trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn. Song con người cá thể
trong văn học hiện nay không phải là con người của chủ nghĩa cá nhân, của cái
tôi cực đoan, phủ nhận mọi nền tảng đạo đức đã được thiết lập, không chịu sự
tác động của xã hội. Mà ở đây số phận cá nhân được giải quyết thoả đáng trong
mối liên hệ mật thiết với cộng đồng, xã hội. Đằng sau mỗi cá thể là những vấn
đề mang ý nghĩa nhân sinh của thời đại.
Tiểu thuyết Việt Nam những năm đổi mới không chỉ đi sâu vào thân phận
con người mà còn đề cập tới khát vọng sống, về hạnh phúc cá nhân, về tình yêu
đôi lứa. Các tác giả đã khai thác con người tự nhiên trước nhu cầu của hạnh
phúc đời thường, của cuộc sống riêng tư. Khi con người trở về với cuộc sống
đời thường, trong hằng loạt các tác phẩm của Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Chu Lai,
Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Bình Phương, Dương Hướng, Lê Hoài Nam,…



18

đã thể hiện được sự gắn bó giữa sự nghiệp chung với hạnh phúc riêng, giữa con
người cá nhân và con người xã hội. Tiểu thuyết đã không ngần ngại miêu tả chất
sắc dục, tình yêu nhục thể là một lĩnh vực rất riêng của mỗi cá nhân. Miêu tả
những con người tự nhiên, khai thác yếu tố tích cực của con người tự nhiên cũng
là một khía cạnh nhân bản của văn học: Ngược dòng nước lũ của Ma Văn
Kháng, Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Hai nhà của Lê Lựu, Danh tiếng và bóng tối
của Lê Hoài Nam…
Ở giai đoạn lịch sử mới, người viết có những chuyển hướng trong nhận
thức tư duy về bản thể người. Các nhà tiểu thuyết Việt Nam đã phá vỡ cái nhìn
đơn phiếm, tĩnh tại để tạo ra một cái nhìn phức tạp hơn, đa diện hơn và vì thế
sâu sắc hơn về con người. Con người xuất hiện trong hàng loạt các tiểu thuyết
là con người trần thế với tất cả chất người tự nhiên của nó: ánh sáng và bóng
tối, cao cả và thấp hèn, ý thức và vô thức. Thế giới bên trong đầy bí ẩn và phức
tạp của con người chịu sự chi phối của hai lực lượng vừa đối lập vừa hòa đồng,
vừa chối bỏ lại vừa chung sống với nhau, bởi “Con người không bao giờ trùng
khít với chính nó” (M. bakhtin). Tiểu thuyết những năm đổi mới đã quan niệm
con người cá nhân như “một nhân cách, một nhân cách kiểu mới”. Nhà văn đã
nhận diện con người đích thực với nhiều kiểu dáng nhân vật, biểu hiện phong
phú và đa dạng nhu cầu tự ý thức, sự hòa hợp giữa con người tự nhiên, con
người tâm linh và con người xã hội. Nhà văn đã khắc họa chân dung những
con người vừa đời thường, trần thế vừa đẹp đẽ, thánh thiện, luôn khao khát cái
đẹp hướng tới cái thiện. Đó là nét nổi bật mang đậm ý nghĩa nhân văn khi nhìn
nhận con người, tạo nên tiếng nói đa thanh đầy “hòa âm” và “nghịch âm” trong
tiểu thuyết.
Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ của tiểu thuyết mang những đặc trưng của thể loại:
tính văn xuôi, tính tổng hợp, tính đa thanh. Trong những năm tiền đổi mới, ngôn



×