Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Nghiên cứu đề xuất nội dung cơ bản trong quy hoạch rừng thuộc ban quản lý rừng phòng hộ thanh chương tỉnh nghệ an theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 128 trang )

bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

trường đại học lâm nghiệp

Tăng Văn Tân

nghiên cứu đề xuất nội dung cơ bản
trong quy hoạch rừng thuộc ban quản lý
rừng phòng hộ Thanh chương - tỉnh nghệ an
theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững

luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà Tây 2007


bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

trường đại học lâm nghiệp
-------------------------------------------

Tăng Văn Tân

nghiên cứu đề xuất nội dung cơ bản
trong quy hoạch rừng thuộc ban quản lý
rừng phòng hộ Thanh chương - tỉnh nghệ an
theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững


Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Bảo Lâm

Hà Tây 2007


1

Đặt vấn đề
Rừng đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người v sản xuất xã
hội, rừng bảo vệ môi trường, điều hoà khí hậu, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất
chống xói mòn rửa trôi, ngăn chặn sa mạc hoá..., là đối tượng để con người lợi
dụng phục vụ cuộc sống, gắn liền với đời sống của một bộ phận nhân dân, có
giá trị to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Vì vậy sử dụng hợp lý và tiết kiệm
tài nguyên rừng, đi đôi với công tác bảo vệ và phát triển rừng luôn là nội dung
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và
của đất nước.
Trong nhiều thập kỷ qua, con người sử dụng tài nguyên này còn chưa
hợp lý đã làm cho tài nguyên rừng ngày càng giảm sút nghiêm trọng về cả số
lượng và chất lượng, gây ra những hậu quả nặng nề về kinh tế, xã hội và môi
trường. Nguyên nhân mất rừng chủ yếu do công tác quản lý sử dụng tài
nguyên rừng chưa hợp lý, sản xuất lâm nghiệp mang tính truyền thống, nền
kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp... Việc quy hoạch, lập kế hoạch, xác định
các giải pháp quản lý sử dụng tài nguyên rừng thường dựa trên hiện trạng sử
dụng và chức năng của tài nguyên rừng. Lấy mục tiêu sử dụng làm đối tượng
đề xuất các giải pháp quản lý sử dụng tài nguyên rừng, ít xem xét đến tiềm

năng và khả năng đáp ứng của tài nguyên rừng đối với nhu cầu kinh tế, xã hội
và môi trường. Chưa đánh giá đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng tới việc quản lý sử
dụng tài nguyên rừng một cách bền vững.
Hơn 10 năm trở lại đây, ngành lâm nghiệp nước ta đã có định hướng
trong việc sử dụng tổng hợp tài nguyên rừng, quản lý rừng bền vững và khai
thác hợp lý tài nguyên rừng bằng các giải pháp về chính sách, tổ chức quản lý,
xã hội hoá nghề rừng... song các tiêu chí QLRBV chủ yếu mới chỉ dừng lại ở
mức định tính.


2

Với những thực trạng trên thì yêu cầu về quản lý sử dụng tài nguyên
rừng một cách bền vững, hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu về kinh tế, xã hội và
môi trường là một trong những nội dung quan trọng hiện nay, được cộng đồng
quốc tế cũng như nhiều quốc gia cùng quan tâm thiết lập một hệ thống tiêu chí
về QLRBV, nhằm phát huy tác dụng nhiều mặt của rừng đối với con người và
xã hội một cách lâu dài và liên tục.
Ban quản lý rừng phòng hộ Thanh Chương đóng trên địa bàn thuộc
huyện miền núi Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, tiền thân là Lâm trường Thanh
Chương được thành lập và hoạt động hơn 45 năm; nhiệm vụ chủ yếu của Lâm
trường (cũ) là bảo vệ, khai thác, chế biến lâm sản, xây dựng và phát triển vốn
rừng, ngoài ra Lâm trường còn thực hiện một số các dịch vụ khác để nâng cao
đời sống cho cán bộ công nhân viên. Thực hiện Nghị định 200/2004/NĐ-CP
của Chính phủ về việc sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh,
năm 2006 Lâm trường đã chuyển đổi thành BQL rừng phòng hộ, chức năng
nhiệm vụ và tài nguyên rừng của BQL rừng phòng hộ Thanh Chương có nhiều
thay đổi do đó hoạt động quản lý rừng, sản xuất kinh doanh có những biến
động và thay đổi đáng kể, mặt khác tình hình sử dụng đất của đơn vị còn chưa
hợp lý. Từ đó công tác quản lý rừng, trồng, khoanh nuôi, bảo vệ, khai thác

rừng, giao khoán đất lâm nghiệp đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi cần phải có
những phương án, kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay của đơn vị.
Để góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng theo xu hướng phát
triển bền vững, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn trong quản lý rừng và trong sản
xuất kinh doanh, tác giả thực hiện đề tài "Nghiên cứu đề xuất nội dung cơ
bản trong quy hoạch rừng thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ Thanh
Chương tỉnh Nghệ An theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững".


3

Chương 1
Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1. Quy hoạch lâm nghiệp:
1.1.1. Quy hoạch lâm nghiệp trên thế giới:
Sự phát sinh của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp phát triển mạnh nên yêu cầu về gỗ ngày
càng tăng, sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của phong kiến và
bước vào thời đại kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm
nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có
ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch lợi dụng lâu dài cho
các chủ rừng. Vì thế công tác quy hoạch lâm nghiệp được hình thành và phát
triển, được thể hiện ở cả mặt lý luận và thực tiễn.
Đầu thế kỷ thứ XVIII, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết
việc "khoanh khu chặt luân chuyển" hay phương pháp "phân phối", có nghĩa là
đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu
kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc
diện tích để đảm bảo thu hoạch lâu dài và liên tục. Phương thức này thích hợp
với cây lá rộng kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn.
Sau cách mạng công nghiệp ở thế kỷ 19, phương thức kinh doanh rừng

chồi phục vụ cho chất đốt ngày đã được thay thế bằng phương thức kinh doanh
lợi dụng rừng hạt chuyên sản xuất hàng hoá cây lá kim. Người ta thấy như vậy
luân kỳ quá dài, khó có thể thực hiện được phương pháp "phân phối", do đó
xuất hiện phương pháp "chia đều" của Hartig[27]. Theo phương pháp này, chia
chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế
lượng chặt hàng năm. Sau đó phương pháp "bình quân thu hoạch" ra đời, quan
điểm phương pháp này là giữ đều thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại,
đồng thời đảm bảo được tính liên tục trong chu kỳ sau. Trên cơ sở đó yêu cầu
về mặt thời gian, có trình tự nhất định từ tuổi non đến tuổi già trong phạm vi
luân kỳ khai thác; về mặt không gian cần có sự sắp đặt lâm phần từ già đến


4

non ngược với hướng gió để đảm bảo gieo hạt tự nhiên và tránh gió đổ, do đó
xuất hiện kết cấu "rừng tiêu chuẩn". Diện tích khai thác hàng năm ít hay nhiều
thì dựa vào mức chênh lệch giữa phân phối cấp tuổi thực tế và phân phối "tiêu
chuẩn" mà quyết định, nhằm mục đích khiến cho những lâm phần kinh doanh
đạt tới sự phân phối cấp tuổi tiêu chuẩn.
Đến cuối thế kỷ XIX, với sự phát triển mạnh của Chủ nghĩa tư bản, lấy
mục tiêu là thu nhập để quyết định luân kỳ khai thác, từ đó xuất hiện phương
pháp "lâm phần kinh tế" của Judeich, ông cho rằng những lâm phần nào đảm
bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào diện khai thác, sau đó dựa
vào cấp tuổi mà định lượng khai thác hàng năm [27].
Hai phương pháp "bình quân thu hoạch" và "lâm phần kinh tế" chính là
tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau.
Phương pháp bình quân thu hoạch và sau này là phương pháp cấp tuổi
chịu ảnh hưởng của lý luận tiêu chuẩn rừng, có nghĩa là phải có kết cấu tiêu
chuẩn về tuổi cũng như về diện tích và trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao
vào diện tích khai thác. Còn phương pháp lâm phần kinh tế và hiện nay là

phương pháp lâm phần không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ
thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích xác định sản lượng và biện pháp
kinh doanh, phương thức điều chế rừng. Cũng từ phương pháp này còn phát
triển thành phương pháp kinh doanh lô và phương pháp kiểm tra.
Quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng hình thành môn học đầu tiên ở
nước Đức, áo và mãi đến thế kỷ 18 mới hình thành môn học hoàn chỉnh độc
lập. Thời kỳ đầu môn học quy hoạch lâm nghiệp lấy việc xác định sản lượng
rừng làm nhiệm vụ duy nhất nên gọi là môn học "tính thu hoạch rừng". Sau đó
nội dung quy hoạch lâm nghiệp chuyển sang bàn về việc lợi dụng bền vững
nên môn học đổi tên thành môn "quy ước thu hoạch rừng". Sau này nội dung
môn học chuyển sang nghiên cứu về điều kiện sản xuất và tổ chức kinh doanh
rừng, tổ chức rừng với sự chi phối về giá cả, lợi nhuận và môn học có tên là
"quy ước kinh doanh rừng".


5

Hiện nay tuỳ theo mục đích, nhiệm vụ của quy hoạch lâm nghiệp phải
đảm bảo trong từng nước mà môn học có tên gọi và nội dung khác nhau, ở các
nước thuộc Liên Xô cũ có tên là "quy hoạch rừng", các nước có trình độ kinh
doanh cao và công tác quy hoạch yêu cầu tỷ mỷ hơn (Đức, áo, Thuỵ Điển...)
môn học có tên là "thiết kế rừng", các nước Anh, Mỹ, Canada... gọi tên môn
học là "quản lý rừng".
1.1.2. Quy hoạch lâm nghiệp ở Việt Nam :
Do việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng chưa bền vững và nhu cầu rất
lớn về khai hoang đất rừng, khai thác lâm sản cho phát triển kinh tế - xã hội,
nên diện tích và chất lượng rừng trong nhiều năm trước đây đã bị suy giảm
liên tục, từ năm 1943 đến năm 1990 diện tích rừng suy giảm nhanh chóng từ
14,3 triệu ha với độ che phủ là 43% vào năm 1943 xuống còn 9,18 triệu ha, độ
che phủ rừng là 27,2% năm 1990[23] . Sự suy giảm về tài nguyên rừng không

chỉ giảm về trữ lượng gỗ mà còn kéo theo sự suy giảm về tính đa dạng sinh
học, khả năng bảo vệ môi trường và các nguồn lợi khác của người dân địa
phương.
QHLN ở nước ta được nghiên cứu từ thời Pháp thuộc, đến nay lực lượng
quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được tăng cường và mở rộng. Viện điều tra
quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra quy hoạch của các sở
lâm nghiệp không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp
của các nước cho phù hợp với điều kiện, trình độ tài nguyên rừng ở nước ta.
Tuy nhiên so với sự phát triển của các nước khác thì quy hoạch lâm nghiệp
nước ta hình thành và phát triển muộn hơn nhiều. Vì vậy những nghiên cứu cơ
bản về kinh tế - xã hội, kỹ thuật và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác
quy hoạch lâm nghiệp chưa được giải quyết nên công tác này ở nước ta đang
trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng.
Môn học quy hoạch lâm nghiệp cũng đã được đưa vào giảng dạy ở các
trường đại học thuộc ngành Lâm nghiệp. Trước năm 1975 bài giảng môn học
này ở miền Bắc chủ yếu dựa vào giáo trình quy hoạch rừng, ở miền Nam là


6

giáo trình điều chế rừng của nước ngoài. Nội dung của các giáo trình này chủ
yếu phục vụ cho việc tổ chức kinh doanh rừng và tổ chức rừng đồng tuổi, ít
loài cây chưa phù hợp với điều kiện tài nguyên rừng nước ta. Đồng thời mới
chỉ dừng lại ở tổ chức kinh doanh rừng mà chưa giải quyết sâu sắc về tổ chức
rừng. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong thực tiễn sản xuất lâm nghiệp, môn
quy hoạch lâm nghiệp đã được đổi mới ngày càng phù hợp hơn.
Về thực tiễn, quy hoạch lâm nghiệp áp dụng ở nước ta từ thời kỳ Pháp
thuộc như việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, rừng sản xuất. Đến
năm 1955 -1957 tiến hành sơ thám mô tả để ước lượng tài nguyên rừng. Năm
1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc. Từ năm 1965

1990, công tác quy hoạch lâm nghiệp mới tiến hành sơ thám, mô tả để ước
lượng tài nguyên rừng và chỉ dừng ở việc cải tiến phương pháp quy hoạch để
phù hợp với trình độ và thực tế tài nguyên rừng nước ta. Từ năm 1990 đến nay,
công tác quy hoạch lâm nghiệp đã thực sự được coi trọng nhằm bảo vệ tài
nguyên rừng hiện có, phát triển vốn rừng và đưa nghề rừng trở thành một
ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu phát triển kinh tế đất nước.
Theo các cấp quản lý, quy hoạch lâm nghiệp được chia thành các cấp
sau:
- Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ: ở nước ta, các
cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành chính từ toàn quốc tới
tỉnh, huyện và xã. Để phát triển mỗi đơn vị đều phải xây dựng phương án quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các ngành sản
xuất và quy hoạch dân cư, phát triển xã hội.
- Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh: Bao
gồm quy hoạch tổng công ty lâm nghiệp, công ty lâm nghiệp, lâm trường, các
khu rừng phòng hộ, bảo tồn Các nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các
cấp quản lý sản xuất kinh doanh là khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của
mỗi đơn vị và thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất lâm nghiệp. Các đơn
vị quản lý, sản xuất kinh doanh rừng như các lâm trường, công ty lâm nghiệp,
ban quản lý rừng phòng hộ, quy hoạch lâm nghiệp luôn giữ vai trò rất quan


7

trọng, nó là kế hoạch, phương án thực hiện kinh doanh trong một giai đoạn
nhất định.
Các văn bản chính sách của Nhà nước đề cập đến quy hoạch phát triển
lâm nghiệp thể hiện qua: Hiến pháp của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 nêu "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy
hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, Nhà nước

giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài".
Luật đất đai năm 1993 quy định rõ 6 loại đất với 5 quyền sử dụng, tùy theo
từng loại đất và mục đích sử dụng mà được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý
và sử dụng. Luật đất đai năm 2003 quy định rõ 3 nhóm đất với 5 chủ thể được
giao và thuê đất, tuỳ theo từng loại đất và mục đích sử dụng mà được giao cho
tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991
phân định rõ 3 loại rừng làm cơ sở cho phát triển lâm nghiệp. Luật này được
sửa đổi năm 2004 đã quy định về công tác quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát
triển rừng phù hợp và đồng bộ với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp. Để cụ thể và
chi tiết cho việc quản lý rừng, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định ban hành
quy chế quản lý rừng, tại quy chế quản lý rừng ban hành theo quyết định
186/2006/QĐ-TTg quy định rõ về việc tổ chức quản lý, bảo vệ, phát triển và
sử dụng ba loại rừng. Luật đất đai, luật bảo vệ và phát triển rừng trong quy
hoạch và giao đất nông - lâm nghiệp đã xác định rõ vai trò của địa phương
trong quy hoạch và giao đất giao rừng. Năm 1999 thực hiện tổng kiểm kê rừng
toàn quốc nhằm chuẩn bị cho thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và
phát triển kinh tế lâm nghiệp nhiều địa phương đã lập dự án quy hoạch rừng
của địa phương. Kể từ đó công tác quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được
quan tâm.
1.2. Quản lý rừng bền vững:
1.2.1. Những quan điểm về quản lý rừng bền vững:
Trong nhiều thập kỷ qua, vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền
vững đã được các nhà khoa học trên thế giới và trong nước có sự quan tâm đặc


8

biệt. Nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của vấn đề sử dụng
đất đai, tài nguyên rừng của mỗi quốc gia đều phụ thuộc cách nhìn nhận và

trình độ quản lý, trình độ tiếp cận khoa học kỹ thuật của nhân loại. Quan điểm
về sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững đã được nhiều đề tài ở các quốc
gia khác nhau đề cấp tới, việc đưa ra một quan điểm thống nhất là một điều
khó có thể thực hiện, nhưng các khái niệm đều cho thấy những điểm giống
nhau khi nói đến quản lý sử dụng đất đai tài nguyên rừng bền vững đều được
thể hiện ở ba vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường.
Do sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và các
nhu cầu của con người ở các quốc gia, vùng lãnh thổ nên công tác quản lý sử
dụng tài nguyên rừng bền vững cũng gặp những khó khăn, phức tạp và đa
dạng cho mỗi vùng sinh thái khác nhau. Nhưng cuối cùng người ta cũng đã cố
gắng đưa ra một định nghĩa về QLRBV nhằm diễn đạt bản chất của nó, đồng
thời để từ đó xây dựng nên những nguyên tắc cơ bản trong công tác QLRBV.
Theo Tổ chức gỗ nhiệt đới (ITTO) thì : QLRBV là quá trình quản lý những
diện tích rừng cố định, nhằm đạt được những mục tiêu là đảm bảo sản xuất
liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng như mong muốn mà không làm giảm
đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng, không gây ra
những tác động tiêu cực đối với môi trường vật lý và xã hội[24]. Còn theo
Tiến trình Helsinki thì Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất rừng
một cách hợp lý để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh,
sức sống của rừng, đồng thời duy trì tiềm năng thực hiện các chức năng kinh
tế, xã hội và sinh thái của chúng trong hiện tại cũng như trong tương lai, ở cấp
địa phương, quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với các hệ
sinh thái khác[24].
Mặc dầu có sự diễn đạt khác nhau về ngôn từ , nhưng các khái niệm
QLRBV đều có chung ý nghĩa như sau: "QLRBV là quá trình quản lý rừng để
đạt được một hay nhiều mục tiêu cụ thể đồng thời xem xét đến việc phát triển
sản xuất dịch vụ và sản phẩm lâm nghiệp, không làm giảm giá trị hiện có và


9


ảnh hưởng đến năng suất sau này, cũng như không gây ra các tác động xấu
đến môi trường tự nhiên và xã hội"[24].
Như vậy QLRBV được hiểu là hoạt động nhằm ngăn chặn được tình
trạng mất rừng, mà trong đó việc khai thác lợi dụng rừng không mâu thuẫn với
việc duy trì diện tích và chất lượng của rừng, đồng thời duy trì và phát huy
được chức năng bảo vệ môi trường sinh thái lâu bền. QLRBV nhằm phát huy
đồng thời những giá trị về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của rừng.
Trên quan điểm kinh tế sinh thái thì hiệu quả về mặt môi trường có thể xác
định bằng giá trị kinh tế. Thực chất việc nâng cao giá trị về môi trường sinh
thái của rừng sẽ góp phần giảm chi phí cần thiết để phục hồi và ổn định môi
trường sống. Với ý nghĩa này QLRBV đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách,
một giải pháp quan trọng cho sự tồn tại lâu dài của con người và thiên nhiên.
1.2.2. Quản lý rừng bền vững trên thế giới:
Đầu thế kỷ XVIII là thời kỳ cách mạng công nghiệp, nhu cầu gỗ tăng
lên đột biến. Vì vậy vào thời điểm đó mục tiêu kinh doanh rừng chủ yếu là
khai thác được nhiều gỗ và liên tục. Các nhà lâm học kinh điển thời đó như
G.L.Hartig, J.C.Hurdeshagen đã đề xướng lý luận "rừng chuẩn", đặt nền móng
ban đầu cho lý thuyết quản lý rừng gắn với quá trình tổ chức kinh doanh rừng
từ khâu điều tra rừng đến tổ chức đơn vị kinh doanh rừng, xác định phương
thức kinh doanh và xây dựng phương án thiết kế kinh doanh rừng.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX lâm nghiệp trở thành một ngành
chuyên môn riêng, trong quản lý rừng bắt đầu chú ý đến nuôi dưỡng rừng, đã
hiểu sâu hơn về rừng qua việc phân tích kết cấu rừng, tìm hiểu các công năng
khác của rừng như lâm sản ngoài gỗ, săn bắn, du lịch, chăn nuôi dưới tán rừng.
Đến thời điểm này quan niệm về rừng không chỉ là cung cấp gỗ mà còn cung
cấp và bảo hộ cho nhiều lợi ích khác, rừng là tổng hợp của nhiều tài nguyên và
công năng hữu ích, là một hệ thống đang vận hành và phát triển.
Đến những năm 80 của thế kỷ 20, công nghiệp phát triển mạnh, môi trường
bị ô nhiễm nặng nề, cân bằng sinh thái bị đảo lộn, tài nguyên rừng đã bị suy

thoái nghiêm trọng thì con người mới nhận thức được rằng tài nguyên rừng là


10

có hạn và cần được bảo vệ. Nếu theo đà mỗi năm mất khoản 15 triệu ha như
số liệu thống kê của FAO thì chỉ hơn một trăm năm nữa rừng nhiệt đới sẽ
hoàn toàn bị biến mất, loài người sẽ phải chịu những thảm họa khôn lường về
kinh tế, xã hội và môi trường[10].
Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều
tổ chức, đề xuất nhiều cam kết và Công ước bảo vệ và phát triển rừng, trong
đó có Chiến lược bảo tồn quốc tế (năm 1980 và điều chỉnh năm 1991), Tổ
chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO, 1983), Chương trình hành động rừng nhiệt
đới (TFAP, 1985), Hội nghị quốc tế về môi trường và phát triển (UNCED,
1992), công ước về buôn bán các loài động thực vật quý hiếm (CITES), Công
ước về Đa dạng sinh học (CBD, 1992), Công ước về thay đổi khí hậu toàn cầu
(CGCC, 1994), công ước về chống sa mạc hoá (CCD, 1996), Hiệp định quốc
tế về gỗ nhiệt đới (ITTA, 1997). Những năm gần đây nhiều hội nghị, hội thảo
quốc tế và quốc gia về QLRBV đã liên tục được tổ chức[10], đã đưa ra khái
niệm về QLRBV "QLRBV là quá trình quản lý những diện tích rừng cố định
nhằm đạt được một hoặc nhiều hơn những mục tiêu quản lý đã đề ra một cách
rõ ràng của công tác quản lý trong vấn đề sản xuất liên tục các lâm phẩm và
dịch vụ rừng mà không làm giảm đi đáng kể những giá trị vốn có và khả năng
sản xuất sau này của rừng, không gây ra những ảnh hưởng tiêu cực thái quá
đến môi trường vật chất và xã hội"[10].
Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế đã biên soạn một số tài liệu quan trọng như
"Hướng dẫn quản lý rừng tự nhiên nhiệt đới" (ITTO, 1990), "Tiêu chí đánh giá
quản lý bền vững rừng tự nhiên nhiệt đới" (ITTO 1992), "Hướng dẫn thiết lập
hệ thống quản lý bền vững các khu rừng trồng trong rừng nhiệt đới" (ITTO
1993)... Tổ chức ITTO đã xây dựng chiến lược quản lý bền vững rừng nhiệt

đới, buôn bán lâm sản nhiệt đới cho năm 2000.
Hiện nay trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững
cấp quốc gia (Canada, Thuỵ điển, Malaysia, Indonesia...) và cấp quốc tế (FSC,
PEFC, SFI...). Hội đồng quản trị rừng quốc tế và tổ chức gỗ nhiệt đới đã có bộ
tiêu chuẩn "Những tiêu chí và chỉ báo quản lý rừng" đã được công nhận và áp


11

dụng ở nhiều nước trên thế giới, các tổ chức cấp chứng chỉ rừng đều dùng bộ
tiêu chí này để đánh giá tình trạng quản lý rừng và xét cấp chứng chỉ QLRBV
cho các chủ rừng. Tính đến tháng 11/2005, trên thế giới đã có 341,95 triệu ha
rừng được chứng chỉ[5]. Với số lượng đó tuy chưa lớn nhưng cho thấy các
nước trên thế giới đã nhận thức và thực hiện việc QLRBV.
Tháng 9/1998, các nước trong khu vực Đông Nam á đã họp hội nghị
lần thứ 18 tại Hà Nội để thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu
chí và chỉ số về QLRBV ở vùng ASEAN (viết tắt là C&I ASEAN). Thực chất
C&I ASEAN cũng giống với C&I của ITTO là bao gồm 7 tiêu chí và cũng
chia làm 2 cấp quản lý là cấp quốc gia và cấp đơn vị quản lý[9]. Tuy nhiên,
những tiêu chí và chỉ báo này chỉ mang tính chất định hướng, do đó khi áp
dụng vào điều kiện mỗi Quốc gia cần được điều chỉnh bổ sung cho phù hợp
với đặc điểm điều kiện tự nhiên, sinh thái, điều kiện kinh tế - xã hội của từng
nước.
Nhìn chung, trong các châu lục thì Châu Âu, nhất là Tây Âu và Bắc Âu,
có diện tích rừng được cấp chứng chỉ nhiều và nhanh nhất, tiếp đó là Bắc
Mỹ[5]. Nguyên nhân do các nước ở hai châu lục này hầu hết là những nước đã
phát triển, chất lượng quản lý rừng đã đạt trình độ cao, hầu như đã đạt tiêu
chuẩn CCR của các quy trình ngay từ trước khi có tiêu chuẩn về QLRBV. Quy
mô quản lý rừng thường là rất lớn, phần lớn là rừng trồng, nên việc đánh giá
cấp chứng chỉ dễ dàng và ít tốn kém hơn nhiều so với rừng tự nhiên nhiệt đới.

Mặt khác quyền sở hữu rừng tại các quốc gia này chủ yếu là sở hữu tư nhân,
do vậy tính tự chủ, độc lập của chủ rừng trong mọi hoạt động về quản lý, tái
đầu tư, sử dụng tài chính trong kinh doanh và quản lý rừng rất cao, tạo điều
kiện quan trọng cho việc nâng cao và duy trì quản lý rừng đạt được yêu cầu
của chứng chỉ rừng. Còn ở khu vực Nam Mỹ, Châu á - Thái Bình Dương và
Châu Phi tiến triển rất chậm, diện tích được chứng chỉ mới chỉ chiếm khoảng
8% tổng diện tích đã được chứng chỉ của thế giới, chủ yếu là chứng chỉ
FSC[5]. Nguyên nhân là các nước trong các khu vực này phần lớn là kém phát
triển, quản lý rừng còn ở trình độ thấp, các chủ rừng không có đủ nguồn lực


12

cải thiện quản lý rừng để đạt tiêu chuẩn CCR, mặt khác chi phí cho CCR cũng
là một yếu tố hạn chế đối với các chủ rừng.
1.2.3. Quản lý rừng bền vững ở Việt Nam:
Do Việt Nam trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài đó là chiến tranh
chống Pháp và chống Mỹ, cùng với việc quản lý sử dụng chưa bền vững và
nhu cầu rất lớn về khai hoang đất rừng và lâm sản cho phát triển kinh tế - xã
hội, nên diện tích và chất lượng rừng trong nhiều năm trước đây đã bị suy
giảm liên tục, thời kỳ 1980 - 1990, bình quân mỗi năm hơn 100 nghìn ha rừng
đã bị mất. Nhưng từ 1990 trở lại đây, diện tích rừng đã tăng liên tục nhờ trồng
rừng và phục hồi rừng tự nhiên, đến năm 2005, diện tích rừng toàn quốc là
12,61 triệu ha (độ che phủ rừng 37%) trong đó 10,28 triệu ha rừng tự nhiên và
2,33 triệu ha rừng trồng[2]. Với vốn rừng như vậy, chỉ tiêu bình quân hiện nay
ở nước ta là 0,15 ha rừng/người, thuộc loại thấp so với chỉ tiêu của thế giới là
0,97 ha/người[23].
Có thể tóm lược công tác tổ chức quản lý sử dụng TNR của Việt Nam
chia làm 3 giai đoạn theo quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước như
sau:

* Giai đoạn trước năm 1945
Giai đoạn này TNR nước ta còn phong phú, nhu cầu sử dụng của xã hội
còn thấp, vấn đề khai thác sử dụng TNR được đặt dưới sự quản lý của nước
thuộc địa (Pháp), sản phẩm khai thác từ rừng chủ yếu cung cấp cho các ông
chủ thực dân dùng để đóng tàu thuyền, làm trụ mỏ hầm lò,... giai đoạn này
vấn đề QLRBV chưa được đề cập đến, mặt khác mức độ tác động của con
người vào TNR còn ít nên TNR còn phong phú đa dạng. Diện tích rừng nước
ta vào năm 1943 khoảng 14,3 triệu ha, tương đương độ che phủ là 43% [16].
* Giai đoạn 1945 - 1990
Giai đoạn này hoạt động của ngành Lâm nghiệp có nhiều tiến triển khác
nhau, sau hòa bình lập lại (1954) nhiều diện tích rừng và đất rừng ở miền Bắc
đều được quy hoạch đưa vào các lâm trường Quốc doanh. Nhiệm vụ chủ yếu
là khai thác lâm sản để phục vụ cho nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế


13

và đời sống nhân dân. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển vốn rừng được đề cập
đến nhưng các đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp không quan tâm đúng
mức, cùng với sự gia tăng dân số, sự phát triển kinh tế các ngành nên việc khai
thác rừng, chặt phá rừng làm đất nông nghiệp xảy ra với cường độ cao dẫn đến
diện tích mất rừng ngày càng tăng, cụ thể từ 14,3 triệu ha năm 1943 xuống
còn 10 triệu ha vào năm 1985 [16].
Thời kỳ này công tác QLBVR được chia làm các giai đoạn khác nhau :
- Từ 1945 - 1960 công tác quản lý rừng chủ yếu là khoanh nuôi bảo vệ,
hướng dẫn người dân miền núi sản xuất, canh tác trên đất nương rẫy, ổn định
công tác định canh định cư, khôi phục kinh tế sau chiến tranh chống Pháp.
- Từ 1961 - 1975 công tác quản lý bảo vệ rừng được tăng cường và chú
trọng, khoanh nuôi tái sinh rừng đã gắn liền với công tác định canh định cư,
công tác khai thác rừng đã chú ý đến thực hiện theo quy trình quy phạm kỹ

thuật, đảm bảo tái sinh tự nhiên.
- Từ 1976 đến 1990 : Công tác quản lý bảo vệ rừng được tổ chức chặt
chẽ, thông qua lực lượng kiểm lâm và xuống tận cơ sở là các lâm trường Quốc
doanh, đồng thời quản lý đến tận tiểu khu. Giai đoạn này Nhà nước thống nhất
quản lý toàn bộ TNR với hình thức quản lý là giao cho các lâm trường Quốc
doanh, là những đơn vị chủ rừng có trách nhiệm trước pháp luật, trước Nhà
nước về TNR mà đơn vị được giao cho sản xuất kinh doanh. Còn người dân và
cộng đồng đã bị tách rời khỏi các hoạt động quản lý sử dụng TNR, đây cũng
là nguyên nhân gây nên tình trạng suy thoái TNR trầm trọng.
* Giai đoạn từ năm 1991 đến nay
Giai đoạn này đất nước ta thực hiện chính sách đổi mới, chuyển đổi nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
điều tiết của Nhà nước. Lâm nghiệp nước ta cũng chuyển đổi từ nền Lâm
nghiệp Nhà nước sang nền Lâm nghiệp xã hội, vai trò của người dân đặc biệt
là người dân bản địa trong công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng được quan
tâm hơn. Công tác QLBVR, sử dụng TNR được quan tâm và có định hướng
phát triển tích cực.


14

Hệ thống luật pháp và những chính sách của nhà nước nhằm quản lý,
bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng bền vững đã được từng bước hoàn thiện,
trong đó đáng chú ý có một số văn bản pháp luật, các chỉ thị, nghị quyết của
Chính phủ cũng như trong các quy chế, quy phạm của ngành:
+ Luật bảo vệ và phát triển rừng (năm 1991) được sửa đổi năm (2004).
+ Luật Đất đai (1987) và được sửa đổi, bổ sung vào các năm (1993,
1998, 2001, 2003).
+ Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993;
được sửa đổi ngày 29/11/2005

+ Nghị định 139/2004/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2004 của Chính
phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản.
+ Nghị định 48/2002/NĐ-CP ngày 22/4/2002 của chính phủ về sửa đổi,
bổ sung danh mục thực vật, động vật hoang dã quý hiếm ban hành kèm theo
nghị định 18/HĐBT ngày 17/01/1992 của HĐBT quy định danh mục thực vật,
động vật hoang dã quý hiếm và chế độ quản lý bảo vệ.
+ Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
+ Quyết định 08/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về ban hành
quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất và rừng tự
nhiên.
+ Quyết định số 186/2006/ QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng.
+ Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng
Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao,
được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.
+ Quyết định 327/QĐ/CT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành một số chủ trương, chính sách
sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước.


15

+ Quyết định số 661/1998/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về trồng mới 5 triệu ha rừng.
+ Nghị định 02/CP (1994) của Chính phủ về giao đất lâm nghiệp cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
+ Nghị định 01/CP (1995) của Chính phủ về việc Giao khoán sử dụng
đất lâm nông nghiệp vào mục đích sản xuất nông lâm ngư nghiệp trong các

doanh nghiệp Nhà nước.
+ Nghị định 163/1999/NĐ/TTg của Thủ tướng chính phủ về giao đất,
cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài
vào mục đích lâm nghiệp (thay thế cho Nghị định 02/CP, 1994).
+ Quyết định 40/2005/QĐ-BNN ngày 07/7/2005 của Bộ Trưởng Bộ
Nông Nghiệp và PTNT ban hành quy chế về khai thác gỗ và lâm sản khác.
+ Nghị định 200/TTg ngày 03/12/2004 của chính phủ về sắp xếp, đổi
mới và phát triển Lâm trường quốc doanh.
Tháng 2 năm 1998, Cục phát triển lâm nghiệp cùng với sứ quán Vương
quốc Hà Lan và WWF Đông dương, Hội đồng quản trị rừng thế giới đã tổ
chức hội thảo quốc gia về QLRBV và CCR. Hội thảo nhằm làm rõ các khái
niệm, nguyên tắc, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá về QLRBV của quốc tế, hiện
trạng quản lý rừng của Việt Nam. Cũng từ đó "Tổ công tác quốc gia" về chứng
chỉ rừng được thành lập, tổ công tác quốc gia đã biên soạn tài liệu "Tiêu chuẩn
Việt Nam QLRBV" dựa trên bộ tiêu chuẩn của FSC quốc tế, có điều chỉnh bổ
sung cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tháng 7/2006, Việt nam đã khai
trương và đưa vào hoạt động Viện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng,
đây là tổ chức phi Chính phủ, phi lợi nhuận, là thành viên của hội đồng quản
trị rừng thế giới. Viện được thành lập nhằm đẩy mạnh quá trình QLRBV tại
các địa phương; hỗ trợ các khu vực trọng điểm rừng quốc gia xây dựng các
tiêu chuẩn rừng được quốc tế công nhận trước khi các sản phẩm rừng Việt
Nam được chế biến thương mại[22].
Hiện nay chúng ta đang xây dựng dự thảo Bộ tiêu chuẩn quốc gia về
QLRBV và chứng chỉ rừng, sau nhiều lần chỉnh sửa nay đã đi tới phiên bản 9c


16

với nội dung ngày càng phù hợp với điều kiện nước ta. Bộ tiêu chuẩn bao gồm
10 tiêu chuẩn có thể tóm tắt, như sau:

- Tiêu chuẩn 1: Tuân theo pháp luật và FSC Việt Nam
- Tiêu chuẩn 2: Những quyền và trách nhiệm trong sử dụng đất
- Tiêu chuẩn 3: Những quyền của nhân dân địa phương
- Tiêu chuẩn 4: Mối quan hệ cộng đồng và quyền của công nhân
- Tiêu chuẩn 5: Những lợi ích từ rừng
- Tiêu chuẩn 6: Tác động môi trường
- Tiêu chuẩn 7: Kế hoạch quản lý
- Tiêu chuẩn 8: Kiểm tra đánh giá
- Tiêu chuẩn 9: Duy trì các khu rừng có giá trị bảo tồn cao
- Tiêu chuẩn 10: Rừng trồng
Về cơ sở lý luận, ở Việt Nam mặc dầu vấn đề QLRBV còn mới, nhưng
cũng đã có một số công trình nghiên cứu phân tích những nhân tố ảnh hưởng
đến quản lý sử dụng TNR và đã đề xuất những giải pháp cụ thể để QLRBV
cho từng địa phương như các công trình nghiên cứu của các tác giả:
- "Quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững lưu vực sông Sê San" của
Phạm Đức Lân và Lê Huy Cường[15];
- "Quản lý bền vững rừng khộp ở Ea Súp - Đắc Lắc" của Hồ Viết
Sắc[20];
- "Du canh với vấn đề QLRBV ở Việt Nam" của Đỗ Đình Sâm[21];
- "Rừng lá rộng rụng lá ở miền Nam Việt Nam và quản lý bền vững"
của Hoàng Sỹ Động;
- "Nghiên cứu một số giải pháp quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền
vững tại khu vực rừng phòng hộ hồ Cấm Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc
Giang" của Nhữ Văn Kỳ (luận văn Thạc sỹ khoa học lâm nghiệp) [14].
- "Nghiên cứu cơ sở và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy
hoạch quản lý rừng bền vững tại lâm trường Ba Rền - công ty lâm nghiệp
Long Đại - tỉnh Quảng Bình" của Lê Văn Hùng (luận văn Thạc sỹ khoa học
lâm nghiệp) [13].



17

Những nghiên cứu trên có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần vào
công tác QLRBV của Quốc gia nói chung và các địa phương nói riêng, thể
hiện được sự cam kết của Việt nam đối với quốc tế trong vấn đề QLRBV. Tuy
nhiên, đây mới chỉ là những nghiên cứu mang tính chất về cơ sở lý luận, mới
chỉ phân tích được các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng
bền vững và bước đầu đưa các nghiên cứu áp dụng vào một số địa phương.
Về thực tiễn, ở Việt Nam đã có một số công trình, chương trình nghiên
cứu, thực thi về QLRBV:
- Năm 2003 Phân viện điều tra quy hoạch rừng Trung Trung bộ đã thực
hiện công trình "điều tra, đánh giá tình hình lợi dụng gỗ cây đứng và khảo sát
khả năng lợi dụng của một số loài cây chủ yếu trong rừng tự nhiên khu vực
Trung Trung bộ theo mục tiêu QLRBV".
- Trong những năm gần đây, việc thực hiện QLRBV ở Việt Nam chủ
yếu là từ các dự án tài trợ của nước ngoài, như:


Dự án "Kết nối: Tạo hành lang liên kết và quản lý bền vững vườn

quốc gia Kon Ka Kinh và khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng" do quỹ môi
trường toàn cầu (GEF) tài trợ thông qua UNDP với tổng vốn đầu tư gần 3 triệu
USD, trong đó có mục tiêu tạo điều kiện để quản lý rừng bền vững và chứng
nhận chứng chỉ rừng bền vững ở lâm trường Dăkroong và Trạm lập.


Dự án "Khôi phục và QLRBV ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng

Ngãi, Bình Định và Phú Yên" do Chính phủ Đức viện trợ với tổng vốn đầu tư
là 12,3 triệu Euro (năm 2005). Mục tiêu của dự án là nhằm nâng cao mức sống

của người dân nông thôn chủ yếu sống dựa vào rừng thông qua tạo việc làm,
tăng thu nhập nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều hoà nguồn
nước tại các vùng được phục hồi và khu vực lân cận, điều hoà tiểu khí hậu và
tăng tính đa dạng sinh học.


Dự án "Chương trình hỗ trợ quản lý và sử dụng rừng bền vững,

thương mại và tiếp thị các sản phẩm lâm sản chính ở Việt Nam" do Chính phủ
Đức viện trợ với tổng vốn đầu tư là 4,5 triệu Euro (năm 2005). Mục tiêu của
dự án là đảm bảo tính hiệu quả và tính bền vững trong công tác quản lý rừng,


18

cải thiện việc tiếp thị các sản phẩm của ngành lâm nghiệp Việt Nam trong
tương lai.
- Bên cạnh đó, nhận thức được xu hướng phát triển, một số cơ sở sản
xuất đã và đang tiến hành thử nghiệm, thẩm tra đánh giá rừng và có nguyện
vọng được cấp chứng chỉ rừng như: Công ty lâm nghiệp và dịch vụ Hương Sơn
(Tỉnh Hà Tĩnh), Công ty lâm nghiệp Hoà Bình (Tỉnh Hoà Bình)...
Nhìn chung, trình độ quản lý rừng ở Việt Nam đang còn rất thấp so với
tiêu chuẩn QLRBV quốc tế[5], việc cải thiện quản lý rừng để đạt tiêu chuẩn
cần những nguồn lực lớn và thời gian dài; các chủ rừng Việt Nam phần lớn
nhỏ bé, phân tán, hoạt động ở địa bàn khó khăn nên giá thành chứng chỉ có thể
sẽ rất cao, ngoài khả năng chi trả của rất nhiều chủ rừng; lượng gỗ khai thác từ
rừng tự nhiên ở Việt Nam quá nhỏ bé, không đủ làm động lực thị trường cho
CCR, trong khi đó các động lực khác như thu hút hỗ trợ, đầu tư, hưởng lợi ích
từ các chính sách ưu đãi hay miễn giảm thuế của Nhà nước, phát triển du lịch
sinh thái... cũng chưa xuất hiện hoặc chưa có tác dụng; sự hiểu biết về

QLRBV và CCR còn rất hạn chế, chủ rừng vẫn chưa hiểu về tiêu chuẩn
QLRBV, mục tiêu, lợi ích và quá trình của CCR.
Như vậy, QLRBV đã được nhận thức từ rất sớm trên Thế giới, hiện nay
đã được nhiều nước áp dụng. QLRBV đã thâm nhập vào ngành Lâm nghiệp
nước ta, tuy nhiên công tác nghiên cứu về QLRBV còn rất mới mẻ, việc quy
hoạch kinh doanh rừng cho các lâm trường, công ty lâm nghiệp, các BQL rừng
phòng hộ theo các tiêu chí QLRBV còn ít được nghiên cứu và ứng dụng trên
thực tế.
BQL rừng phòng hộ Thanh Chương Tỉnh Nghệ An tiền thân là Lâm
trường Thanh Chương, thực hiện Nghị định 200/2004/NĐ-CP về việc sắp xếp
đổi mới và phát triển Lâm trường Quốc doanh đã chuyển đổi thành BQL rừng
phòng hộ có địa bàn hoạt động ở Huyện Thanh Chương Tỉnh Nghệ An, quản
lý đất lâm nghiệp với tổng diện tích là 27.520,6 ha, trong đó diện tích đất rừng
phòng hộ là 19.693,5 ha, rừng sản xuất là 7.827,1 ha. Thực hiện những nhiệm
vụ quản lý, bảo vệ, xây dựng, phát triển và sử dụng rừng phòng hộ; đồng thời


19

tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh: khai thác gỗ từ rừng tự nhiên và rừng
trồng, trồng rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên, nuôi dưỡng, làm giàu
rừng, quản lý và bảo vệ rừng[1]. BQL đã đẩy mạnh việc thực hiện các biện
pháp kỹ thuật lâm sinh trong kinh doanh lợi dụng rừng và đã có những thành
công đáng kể. Tuy nhiên việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng như thế nào để
đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ mới, đáp ứng nhu cầu lâm sản cho các
ngành kinh tế và nhu cầu xã hội, nhưng vẫn đảm bảo được tính bền vững trong
kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái đó là vấn đề cần có lời giải cho công
tác tổ chức quản lý, xây dựng phát triển và kinh doanh lợi dụng tài nguyên
rừng bền vững trong giai đoạn hiện nay của BQL. Chính vì thế, việc nghiên
cứu một số nội dung cơ bản trong quy hoạch rừng cho BQL rừng phòng hộ

Thanh Chương theo các tiêu chuẩn QLRBV được đặt ra là một yêu cầu cấp
thiết, sẽ giúp cho đơn vị quản lý bền vững tài nguyên rừng, phát triển sản xuất
và cân đối hài hoà các nhu cầu, lợi ích về kinh tế, xã hội, môi trường cho đơn
vị cũng như vì sự phát triển của cộng đồng dân cư trong khu vực.


20

Chương 2
Mục tiêu, đối tượng, nội dung
và phương pháp nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài được xác định như sau :
2.1.1. Mục tiêu tổng quát:
Quy hoạch rừng thuộc BQL rừng phòng hộ Thanh Chương- tỉnh Nghệ
An ổn định trong 10 năm tới (2008 - 2017) trên cơ sở đảm bảo phát triển bền
vững về kinh tế - xã hội và môi trường.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích, đánh giá các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng
hưởng đến hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh của BQL.
- Đánh giá tình hình thực hiện các tiêu chuẩn QLRBV tại BQL.
- Đề xuất nội dung cơ bản xây dựng phương án quy hoạch rừng và các
giải pháp thực hiện theo các tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững cho BQL trong
10 năm (2008 - 2017).
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các hoạt động quản lý rừng, sản xuất
kinh doanh, hiện trạng sử dụng đất, tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế
xã hội, các chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của BQL
rừng phòng hộ Thanh Chương.
- Giới hạn nghiên cứu:

Vì thời gian có hạn nên đề tài nghiên cứu sử dụng các số liệu được cung
cấp của các cơ quan chuyên ngành và BQL rừng phòng hộ Thanh Chương
đồng thời phúc tra tài nguyên rừng.
2.3. Nội dung nghiên cứu:
Xuất phát từ mục tiêu, phạm vi và giới hạn nghiên cứu, đề tài tiến hành
nghiên cứu một số nội dung sau:


21

1. Nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội trên địa bàn của BQL
rừng phòng hộ Thanh Chương. Phân tích những thế mạnh những hạn chế và
thách thức liên quan đến QLRBV tại khu vực nghiên cứu;
2. Nghiên cứu ảnh hưởng của ĐKTN, KTXH, TNR và các yếu tố chính
sách chủ yếu đến QLRBV trên địa bàn;
3. Đánh giá tình hình hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh của BQL
rừng trong những năm gần đây và việc thực hiện các tiêu chuẩn QLRBV của
Việt Nam tại BQL;
4. Đề xuất một số nội dung cơ bản trong quy hoạch rừng cho BQL rừng
phòng hộ Thanh Chương theo các tiêu chuẩn QLRBV.
2.4 . Phương pháp nghiên cứu:
2.4.1. Quan điểm phương pháp luận:
Quản lý rừng bền vững là một vấn đề mới mẻ ở Việt nam nhưng mang
tính cấp thiết liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy quy hoạch rừng
cho BQL rừng phòng hộ Thanh Chương - tỉnh Nghệ An theo tiêu chuẩn
QLRBV phải dựa trên các quan điểm sau:
- Kết hợp hài hoà giữa ngành lâm nghiệp với các ngành khác.
- Kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế với lợi ích xã hội và môi trường.
- Đáp ứng nhu cầu trước mắt và duy trì được lợi ích lâu dài.
- Kết hợp hài hoà giữa các ưu tiên Quốc gia và của toàn xã hội với

những nhu cầu, nguyện vọng của người dân với cộng đồng.
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu:
2.4.2.1. Phương pháp kế thừa:
- Kế thừa các tư liệu trong và ngoài nước: những số liệu, tài liệu thống
kê, các công trình nghiên cứu liên quan đến quy hoạch rừng, QLRBV.
- Khai thác, sử dụng các loại bản đồ (đất, hiện trạng rừng) tài liệu khí
tượng thuỷ văn, kết quả điều tra đất, thực vật, động vật, giá cả thị trường, các
tài liệu văn bản chủ trương chính sách, báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh
và phương hướng, nhiệm vụ của BQL... được thu thập từ các nguồn: Chi cục
Lâm nghiệp, Đoàn điều tra quy hoạch lâm nghiệp Tỉnh, BQL....


22

- Những tài liệu tổng kết về chính sách lâm nghiệp Việt nam.
2.4.2.2. Phương pháp đánh giá có sự tham gia (PRA)
Những chủ đề phỏng vấn tập trung vào:
(1) Thực trạng quản lý sử dụng rừng
(2) ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội nhân văn đến hiệu
quả quản lý sử dụng tài nguyên rừng
(3) Giải pháp nhằm góp phần QLRBV ở địa bàn do đơn vị quản lý.
Công cụ điều tra chủ yếu là bảng câu hỏi phỏng vấn, trong đó có những
câu hỏi định hướng và những câu hỏi bán định hướng.
2.4.2.3. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia sử dụng để điều chỉnh và hoàn thiện những
giải pháp đã được hình thành sau khi phân tích tài liệu ngoại nghiệp. Với
phương pháp này đề tài sẽ gửi báo cáo sơ bộ của luận án cho một số chuyên
gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý rừng và phát triển nông thôn miền
núi. Những ý kiến của họ sẽ được sử dụng để điều chỉnh và hoàn thiện các giải
pháp quản lý bền vững rừng ở địa phương.

2.4.2.4. Phương pháp khảo sát hiện trường
Điều tra khảo sát hiện trường nhằm bổ sung số liệu về điều kiện tự
nhiên, hiện trạng tài nguyên rừng, hiện trạng sử dụng đất bằng phương pháp
lập ô tiêu chuẩn điều tra thu thập các chỉ tiêu lâm học chủ yếu và bổ sung các
thông tin liên quan khác:
- Thu thập số liệu dân sinh - kinh tế - xã hội: Trực tiếp từ BQL, các
phòng ban trong huyện, các xã có đất của BQL kết hợp phỏng vấn CBCNV.
- Phúc tra trữ lượng rừng tự nhiên, rừng trồng:
+ Lập ÔTC đại diện trên các lô có rừng:
Đối với rừng gỗ tự nhiên: ÔTC diện tích 1000 m2 (20m x 50m).
Đối với rừng gỗ trồng: ÔTC diện tích 500 m2 (20m x 25m).
Đối với rừng tre nứa: ÔTC diện tích 100 m2 (10m x 10m)


23

+ Số lượng ÔTC: Đối với rừng trồng, mỗi cấp tuổi tiến hành điều tra
3 ÔTC; đối với rừng tự nhiên, mỗi trạng thái lập 3 ÔTC. Trong mỗi
ÔTC tiến hành điều tra thu thập các chỉ tiêu lâm học.
- Điều tra tình hình tái sinh:
+ Đối với đất có rừng: Tại các ô đo đếm trữ lượng rừng gỗ, cạnh trục
xuyên tâm ô về phía bên phải, lập giải đo đếm tái sinh kích thước 2m x 25m =
50m2 (tương đương 10 ô dạng bản, kích thước mỗi ô là 2m x 2,5m = 5m2).
+ Đối với đất trống IC và IB: Mỗi trạng thái lập 5 giải đo đếm tái sinh,
kích thước giải đo đếm 5x20m = 100m2
Nội dung thu thập trong ô: Đo đếm tất cả các cây tái sinh trong giải theo
loài, cấp chiều cao và cấp chất lượng (A, B, C).
2.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý thông tin:
2.4.3.1. Các thông tin về kinh tế xã hội
- Nhóm tài liệu về dân sinh kinh tế xã hội, khí hậu thuỷ văn, tài

nguyên sinh vật rừng được tổng hợp, phân tích qua hệ thống phụ biểu báo
cáo tuỳ theo mục đích của đề tài.
2.4.3.2. Các thông tin về hiện trạng tài nguyên rừng
- Nhóm tài liệu về hiện trạng tài nguyên rừng, hiện trạng sử dụng đất
đai được tổng hợp với các chỉ tiêu về diện tích, trữ lượng rừng.
- Đối với diện tích được tổng hợp từ lô, khoảnh đến tiểu khu và phân
theo trạng thái.
- Trữ lượng rừng được tính toán thông qua các chỉ tiêu trữ lượng bình
quân/ha của từng trạng thái.
2.4.3.3. Tính toán và xử lý số liệu:
- Chỉnh lý số liệu.
+ Sắp xếp D1.3 các cây trong các ÔTC theo cỡ kính 4 cm.
+ Sắp xếp Hvn các cây trong các ÔTC theo cỡ chiều cao 2 m.
- Tính trữ lượng rừng/ha:
+ Xác định thể tích cây bình quân (Vcây): Dùng biểu thể tích 2 nhân tố
để tra thể tích cây.


×