Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tiểu thuyết trinh thám kinh dị của di li

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ LĨNH

TIỂU THUYẾT TRINH THÁM – KINH DỊ CỦA DI LI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ LĨNH

TIỂU THUYẾT TRINH THÁM – KINH DỊ CỦA DI LI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN ĐỨC HẠNH

Thái Nguyên – 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lĩnh



1
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học
Khoa học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng
dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lĩnh



2
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 4
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ..................................................................... 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 7
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 8
6. Cấu trúc của luận văn ......................................................................................... 8
7. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 9
NỘI DUNG.......................................................................................................... 10
Chương 1. TIỂU THUYẾT TRINH THÁM – KINH DỊ CỦA DI LI
TRONG VĂN XUÔI TRẺ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ................................... 10
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài .................................................................................. 10
1.1.1. Giới thuyết về truyện trinh thám ................................................................ 10
1.1.2. Giới thuyết về truyện kinh dị ..................................................................... 13
1.1.3. Truyện trinh thám – kinh dị trong văn học Việt Nam hiện đại .................. 18
1.1.4. Sự kết hợp hài hòa truyện trinh thám và truyện kinh dị trong sáng tác
của Di Li ............................................................................................................... 21
1.2. Nhà văn Di Li và những sáng tác đặc sắc trong văn xuôi trẻ Việt Nam
đương đại .............................................................................................................. 23
1.2.1.Tiểu sử ......................................................................................................... 23
1.2.2 Quá trình sáng tác........................................................................................ 24
1.2.3 Sáng tác của Di Li trong văn xuôi trẻ Việt Nam đương đại ....................... 26
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 29
Chương 2. CỐT TRUYỆN, TÌNH HUỐNG TRUYỆN, NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT TRINH THÁM - KINH DỊ CỦA DI LI ............... 30
2.1. Cốt truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li ........................... 30
2.1.1. Khái niệm Cốt truyện ................................................................................. 30

2.1.2. Một số kiểu cốt truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li .... 31
2.2. Tình huống truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li .............. 39


3
2.2.1. Khái niệm Tình huống truyện .................................................................... 39
2.2.2. Một số kiểu tình huống truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của
Di Li ..................................................................................................................... 41
2.3. Các kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li ........... 51
2.3.1. Khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học.............................................. 51
2.3.2. Một số kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li . 54
2.3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của
Di Li ..................................................................................................................... 61
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 75
Chương 3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT TRINH THÁM- KINH DỊ CỦA DI LI ............... 76
3.1. Khái niệm không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết ................ 76
3.1.1. Khái niệm Không gian nghệ thuật ............................................................. 76
3.1.2. Khái niệm Thời gian nghệ thuật................................................................. 77
3.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh
thám kinh dị của Di Li ......................................................................................... 78
3.2.1. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li ..... 78
3.2.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám và kinh dị của Di Li .... 88
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 94
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 98


4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam đang trên con đường đổi mới, tìm tòi với những nỗ
lực cách tân đáng chú ý. Trong bối cảnh đổi mới sáng tạo, thể tài văn học trinh
thám – kinh dị là một lối đi rất độc đáo, mới mẻ, hứa hẹn nhiều vấn đề thú vị
cần được tìm hiểu, đánh giá. Việc nghiên cứu thể tài này sẽ giúp cho chúng ta
có cái nhìn đầy đủ, toàn diện, khách quan và công bằng hơn về một dòng văn
học lâu nay vốn chưa thực sự được quan tâm đúng mức ở Việt Nam.
Di Li là một nhà văn trẻ đã gây tiếng vang trên văn đàn với tư cách là
một trong những tác giả tiên phong và thành công với dòng văn học trinh thám
– kinh dị. Sáng tác của chị đã được bạn đọc yêu mến và tìm đọc, được một số
nhà nghiên cứu - phê bình văn học tìm hiểu và đánh giá cao. Tiểu thuyết của Di
Li đã kết hợp được các đặc trưng nghệ thuật cơ bản của truyện trinh thám truyện kinh dị để tạo ra một thể tài văn học mới mẻ, hấp dẫn. Có thể nói, đây là
cây bút nữ đầu tiên sáng tác thành công thể tài văn học này ở Việt Nam.
Nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li, chúng tôi mong muốn
không chỉ góp phần nhận diện, khẳng định giá trị của tác phẩm, đóng góp của
nhà văn vào thành tựu chung của văn học nước nhà mà còn để nhận thức rõ
hơn các khuynh hướng sáng tác đa dạng phong phú của văn xuôi trẻ Việt Nam
đương đại. Mặc dù tác phẩm của Di Li chưa được giảng dạy trong nhà trường
nhưng là một giáo viên dạy Ngữ văn trường THPT, sau khi thực hiện đề tài
này, chúng tôi mong muốn có thêm tư liệu tham khảo để giảng dạy tốt hơn
phần văn học Việt Nam hiện đại trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Di Li là cây bút trẻ đầy bản lĩnh và cá tính khi dám mạnh dạn đi vào
một con đường sáng tác hấp dẫn những cũng rất chông gai, đó là văn học
trinh thám, kinh dị - hai thể tài đòi hỏi sức tưởng tượng phi thường. Hai cuốn
tiểu thuyết “Trại Hoa Đỏ” và “Câu lạc bộ số 7” của Di Li với sự kết hợp giữa


5

chất trinh thám và kinh dị đã thực sự gây bất ngờ với độc giả cũng như giới
nghiên cứu phê bình. Đến nay, trước một kiểu loại sáng tác mới mẻ của một
tác giả còn trẻ tuổi, vẫn chưa có nhiều những bài viết nghiên cứu về tác phẩm
của Di Li. Đây là một khoảng trống mà chúng tôi mong muốn được lấp đầy.
Theo khảo sát của chúng tôi, mới chỉ có một số bài báo phân tích, đánh
giá về tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li. Nhìn chung các bài viết đều
khẳng định sự đổi mới của Di Li trong tiểu thuyết là sự kết hợp giữa trinh
thám và kinh dị. Tuy nhiên, vấn đề tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li
chưa ai đặt ra như một đối tượng nghiên cứu thực sự. Dẫu sao, những nhận
xét của các tác giả đã cho chúng tôi những gợi ý quý báu để đi vào nghiên
cứu.
Nhà văn Trần Thanh Hà trong một bài báo nghiên cứu về truyện trinh
thám của Việt Nam đã nhận xét: “Truyện trinh thám, cũng như truyện kinh dị,
rùng rợn, đều đã có ở Việt Nam từ thế kỷ trước với những tác phẩm của Thế
Lữ, Hồ Dzếnh(bút danh Lưu Thị Hạnh). Nhưng gần đây, hai thể loại này
không phát triển. Di Li là nhà văn nữ đầu tiên tạo nên hình thức kết hợp giữa
trinh thám và kinh dị”.
Tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7 thu hút được khá nhiều sự quan tâm của
các nhà văn, nhà phê bình. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều trong bài viết giới
thiệu mở đầu tiểu thuyết này đã đánh giá: “Di Li có một phẩm chất vô cùng
quan trọng trong sáng tạo thể loại trinh thám, đó là sự kiên nhẫn hay khả năng
mai phục. Kiên nhẫn gieo những chi tiết quan trọng một cách tưởng vô tình và
rải rác trong từng trang sách nhưng với một ý đồ rõ ràng và thông minh.
Chính điều đó làm nên hiệu quả là diễn biến của vụ án hoàn toàn diễn ra như
nó ở ngoài đời chứ không phải sự sắp đặt của tác giả. Yếu tố này làm nên sự
hồi hộp cho tác phẩm”. Lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Việt Hà trong trang
bìa sách tiểu thuyết này thì nhận định: “Văn chương trinh thám của người
Việt vốn đã khẳng định được chân diện của mình. Với Câu lạc bộ số 7, sự xác
tín đó càng rõ nét. Một cuốn tiểu thuyết lãng mạn trẻ trung đẫm đầy ly kỳ,



6
được viết dưới một chủ đề khá lạ ở ta. Những tội ác mang màu sắc nghi lễ tôn
giáo, cho dù đấy chỉ là một tà giáo. Sau Trại Hoa Đỏ, Di Li đích thực là một
khuôn mặt hiếm hoi của thể loại tâm lý hình sự xã hội Việt Nam”. Cũng trong
lời giới thiệu ở trang bìa sách tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7, đạo diễn Quốc
Trọng đã có nhận xét: “Câu chuyện khiến người đọc bị cuốn theo một cách
mê mụ bởi các chi tiết và tình huống. Chính sự đan cài khéo léo các tình tiết
tưởng chừng vô nghĩa đã khiến độc giả luôn bị nhầm lẫn trong việc đoán định
câu chuyện. Tội ác, một khi được nhào nặn với đức tin bệnh hoạn và mù
quáng, sẽ trở thành thảm họa của cộng đồng. Căng thẳng. Hồi hộp. Trộn lẫn
không khí đôi phần ma mị dường như vẫn là phong cách mang đậm chất Di Li
trong Câu lạc bộ số 7”.
Tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ được nhà văn Trần Thanh Hà tâm đắc giới
thiệu: “Trinh thám đòi hỏi bản lĩnh và sự tính toán chi li, người không bản lĩnh
chỉ lừa được độc giả trong vài quãng. Di Li lừa độc giả cho đến khi kết thúc.
Nói theo một hình tượng trong tác phẩm, Di Li là người giỏi chơi ma trận và đã
chơi thắng”.
Trong bài viết Một vài đặc điểm tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li
(Tạp chí Văn nghệ quân đội, 01/2017), tác giả Trần Thị Vân đánh giá: “Điểm
làm nên sức hấp dẫn nhất của tiểu thuyết trinh thám là sự bất ngờ, kịch tính.
Tiểu thuyết của Di Li cũng không ngoại lệ. Với Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ
số 7, yếu tố bất ngờ và kịch tính thể hiện rõ nét trong cách sắp đặt các chi tiết
của tác giả và ở cái kết. Di Li thường đưa người đọc từ bất ngờ này đến bất
ngờ khác, có những khi tưởng chừng như các sự kiện không hề có sự liên
quan với nhau, nhưng đến cuối cùng lại có mối liên hệ vô cùng mật thiết, làm
cơ sở để soi sáng cho vấn đề đã được nói đến”.
Như vậy, có thể thấy, dù đã có một số ít bài báo nghiên cứu, bài viết
đánh giá về tác phẩm của Di Li, nhưng chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở mức độ
khái lược và tính chất giới thiệu.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu


7
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu các phương diện cốt truyện,
tình huống truyện, hình tượng nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật,
không gian và thời gian nghệ thuật trong hai tiểu thuyết trinh thám - kinh dị
“Trại Hoa Đỏ” và “Câu lạc bố số 7” của Di Li. Tuy nhiên, phong cách là một
chỉnh thể, cho nên luận văn có lúc phải mở rộng sự quan tâm đối chiếu đến
một số phương diện khác trong sáng tác của các nhà văn đương thời.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng đến ba mục tiêu:
Thứ nhất, xác định cơ sở lý thuyết cho việc giải quyết đề tài, từ đó phân
tích làm rõ những đặc trưng nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh
thám - kinh dị của Di Li.
Thứ hai, nhận diện cá tính sáng tạo độc đáo của Di Li trong sự so sánh
mở rộng với các tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết kinh dị ở Việt Nam. Từ đó,
khẳng định tài năng, đóng góp của Di Li trên văn đàn đương đại.
Thứ ba, thông qua phân tích, khẳng định giá trị của tác phẩm và cá tính
sáng tác của nhà văn Di Li, chúng tôi mong muốn góp phần nhận diện và
khẳng định giá trị các khuynh hướng sáng tác trong văn xuôi trẻ Việt Nam
hôm nay.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu văn bản tiểu thuyết trinh thám - kinh dị “Trại Hoa Đỏ” và
“Câu lạc bộ số 7” của Di Li.
- So sánh mở rộng tới một số tác phẩm thuộc thể tài truyện trinh thám,
truyện kinh dị ở Việt Nam như tác phẩm của Phạm Cao Củng, Thế Lữ, Lan
Khai...

- Phân tích và đánh giá những giá trị của tác phẩm, cá tính sáng tạo của
nhà văn Di Li.


8
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu, đối tượng của đề tài, luận văn, chúng
tôi sử dụng đồng bộ các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại: sử
dụng phương pháp này để phân tích tiểu thuyết của Di Li ở các yếu tố của thể
tài trinh thám – kinh dị.
- Phương pháp nghiên cứu thi pháp học: sử dụng phương pháp này để
tiếp cận, cắt nghĩa, lí giải tiểu thuyết của Di Li một cách khoa học, hệ thống.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, xã hội học): sử
dụng phương pháp này để nghiên cứu tiểu thuyết của Di Li đặt trong mối
quan hệ với các ngành khoa học liên quan, giải quyết các vấn đề tâm lí học,
pháp luật.v.v..
- Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số thao tác nghiên cứu văn học
quen thuộc như so sánh, thống kê, liệt kê: sử dụng các thao tác này nhằm đưa
ra những cứ liệu và định lượng để nhận định, đánh giá vấn đề, làm sáng tỏ các
luận điểm.
5. Phạm vi nghiên cứu
Do khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu hai
tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li là “Trại Hoa Đỏ” (NXB Công an nhân
dân, năm 2009) và “Câu lạc bộ số 7” (NXB Lao động, năm 2016). Trong quá
trình thực hiện luận văn, chúng tôi còn so sánh đối chiếu với những tác phẩm
truyện trinh thám và truyện kinh dị khác khi cần thiết.
6. Cấu trúc của luận văn
Gồm 3 phần:
- Phần mở đầu

- Phần nội dung: chia làm 3 chương
+ Chương 1: Tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li trong văn xuôi
trẻ Việt Nam đương đại.


9
+ Chương 2: Cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật trong tiểu thuyết
trinh thám - kinh dị của Di Li
+ Chương 3: Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
trinh thám kinh dị của Di Li.
- Phần kết luận
- Phần tài liệu tham khảo
7. Đóng góp của luận văn
- Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên tìm hiểu toàn diện, hệ thống về
tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li.
- Ban đầu xác lập một số đặc trưng nổi bật của thể tài tiểu thuyết trinh
thám kinh dị.
- Khẳng định ưu điểm và hạn chế của tác phẩm cũng như đóng góp của
nhà văn vào thành tựu của văn xuôi trẻ Việt Nam đương đại.


10
NỘI DUNG
Chương 1
TIỂU THUYẾT TRINH THÁM – KINH DỊ CỦA DI LI
TRONG VĂN XUÔI TRẺ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1.1. Giới thuyết về truyện trinh thám
Truyện trinh thám là tập hợp những tác phẩm văn học xoay quanh một
vụ án, một hành trình điều tra. Câu chuyện được tổ chức theo sự vận động

tuyến tính, trong đó thám tử, tội phạm và tất cả các nhân vật liên quan đến
hành trình kiếm tìm không nằm ngoài định hướng làm sáng tỏ điều bí ẩn. Thể
tài văn học này bùng nổ trong xã hội phương Tây, bắt nguồn từ Mỹ, nở rộ ở
Anh, Pháp và sau đó lan rộng ra nhiều nước trên thế giới như Nga, Nhật,
Trung Quốc. Văn học trinh thám bắt đầu từ phương Tây, có mầm mống từ
Kinh Thánh với truyền thuyết về Abel và Cain, về Daniel…, được tiếp tục
trong các truyện bí hiểm đậm chất duy lí thời kì Khai Sáng (tiêu biểu là tác
phẩm “Zadig” của Voltaire), và đến thế kỉ XIX, văn học trinh thám chính thức
khai sinh với các sáng tác của nhà văn Mĩ E.A. Poe. Nhiều tác phẩm đã trở
thành niềm đam mê của đông đảo bạn đọc, như Bí mật của Marie Roget, Mi
cũng là một con người của E.A.Poe, Dải băng lốm đốm, Thám tử Sherlock
Holmes của Conan Doyle, Mười người da đen nhỏ của Agatha Christie, Độc
giả thứ 7, Đề thi đẫm máu của Lôi Mễ, Người đàn bà ở đầu dây điện thoại
của Shizuko Natshuki.v.v.. Ở Việt Nam, đó là Bàn tay sáu ngón, Kỳ Phát giết
người, Chiếc gối đẫm máu của Phạm Cao Củng, Mảnh trăng thu của Bửu
Đình, Vàng máu của Thế Lữ, cùng những tác phẩm thuộc thể tài truyện phản
gián - tình báo như Ông cố vấn của Hữu Mai, X30 phá lưới của Đặng
Thanh.v.v..
Truyện trinh thám chủ yếu gắn với nhu cầu giải trí của độc giả. Nhiều
nhà văn trinh thám đã coi nhẹ yếu tố văn chương để tập trung vào những tình


11
tiết gay cấn, li kỳ như một phương thức câu khách. Đây cũng là lí do khiến
truyện trinh thám dù thu hút đông đảo số lượng độc giả nhưng vẫn bị xếp vào
khu vực cận văn học, văn học bình dân. Tuy nhiên, trong tiến trình vận động
phát triển, văn học trinh thám đã có nhiều thay đổi để tiếp tục con đường
chinh phục độc giả với những đòi hỏi thẩm mỹ khắt khe hơn.
Bàn về văn học trinh thám, TS Nguyễn Văn Tùng đã nhận định rằng:
Sự ra đời của văn học trinh thám đáp ứng nhu cầu của nhân loại nhằm nâng

cao thức thức tự vệ, khả năng phát hiện và chống lại cái ác; rèn cho con
người tư duy loogic, khả năng phán đoán chính xác và phản ứng nhanh [theo
Lí luận văn học và đổi mới đọc hiểu tác phẩm, NXB Giáo dục Việt Nam,
tr162].
Là thể tài văn học thứ yếu, tiểu thuyết trinh thám (policier) trong cách
giải thích thuần túy nhất, là không phải tiểu thuyết đen, tiểu thuyết phản gián
hoặc tiểu thuyết li kì, giật gân (thriller), mà là tiểu thuyết trinh thám về ẩn
ngữ, trong đó người đại diện có một không hai là Agatha Christie đã sản sinh
ra những tác phẩm làm say mê nhất và có nhiều đổi mới nhất trong văn học.
Việc xuất bản mới đây những tác phẩm cuối cùng của ba “nữ hoàng về tội ác”
P.D.James, E.Georgeet, R.Rendell đã mang lại cho văn học bằng chứng về
các bậc thầy của thể tài này. Nếu, kể từ Tiểu thuyết Mới, tính hiện đại dường
như đã tước đi từ tiểu thuyết khuynh hướng trần thuật của nó, thì tiểu thuyết
trinh thám, ngược lại, đã cáng đáng trọn vẹn cái chức năng đầu tiên và cơ bản
này của văn học, ở điểm là ngày nay dường như chỉ còn duy nhất các nhà văn
tiểu thuyết trinh thám là những người còn biết kể những gì một câu chuyện
muốn kể.
Trung tâm của một tiểu thuyết trinh thám không phải là tội ác mà là
cuộc điều tra: “Cái chết thật đáng tò mò, bạn có thấy thế không? Khi con
người chết vì bệnh tật, đó thật là tàn nhẫn, vô lí, nhưng đó lại là cái chết thực
sự. Khi họ chết vì các tội ác, vì bọn giết người, bọn ám sát, cái chết lại trở nên


12
trừu tượng. Giống như là giải pháp về cái bí ẩn đã xảy ra từ trước. Giống như
ta đang sống trong tiểu thuyết trinh thám vậy” (Chủ nhật rực rỡ, phim của
Franỗois Truffaut, 1983). Trong tiểu thuyết trinh thám, cái chết không xuất
hiện như là sự phi lí, quá đáng, không thể tưởng tượng được, mà nó, giống
như trong một phương trình, một ẩn số thích hợp để cấp cho nó một giá trị.
Cái chết đó xui nên cuộc điều tra về ý nghĩa mà không gây sợ hãi hoặc làm

xáo trộn.
Sự sâu sắc của tiểu thuyết trinh thám là không được có ở đó bất cứ một
cái nhìn, một ý thức hệ, một chủ nghĩa tượng trưng nào coi đó như là ý nghĩa
và sự phong phú của truyện kể; truyện kể trinh thám là chính nó ở sự sáng tỏ
thực sự của nó, trong chừng mực mà nó bị phụ thuộc vào một ẩn ngữ. Những
“tiểu thuyết đen”, như các tác phẩm của James Ellroy, Ed McBain, Lieberman,
đều được biểu lộ qua một trạng thái căng giữa những khả năng bất tận của tính
mơ mộng, có thể nhập vào những luận đề về con người, thế giới, xã hội, Chúa
trời, với sự lôgic thuần túy mang tính tự sự và tuyến tính của tiểu thuyết trinh
thám. Bởi vì tiểu thuyết trinh thám không phải là gì khác hơn là “truyện kể vị
truyện kể”, cũng giống như “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Trong truyện trinh
thám, không có gì là “cho không” cả: mọi thứ được viết ra đều có một lí do tồn
tại- giống như thế giới của tiểu thuyết trinh thám bị chi phối bởi một “nguyên
lí về lí do đầy đủ”: “Chẳng có gì xảy ra mà không có lí do đầy đủ, nghĩa là
không có gì xảy ra mà không thể được đối với người hiểu biết tương đối các
sự vật để mang lại một lí do đủ xác định tại sao nó lại như vậy, mà không phải
khác đi” (Leibniz, Những nguyên lí của Tự nhiên và của Ân sủng, 1714).
Là công trình của lí tính, tiểu thuyết trinh thám trình bày ngay tức thì
như một cuộc điều tra về sự thật. Nhưng cái sự thật đó không cư trú ở ngoài văn bản, phó mặc cho độc giả và cho những kiến giải của họ: trong một cuốn
tiểu thuyết trinh thám, tất cả đều được nói ra, nói đúng ra, là để tưởng tượng.
Không hề có một “khoảng trống”, một sự bí ẩn nào, trừ cái người biết ai đã


13
giết người. Nhưng ngay cả sự bí ẩn đó cũng không phải chỉ có một, bởi vì sự
giải quyết chỉ được thấy ở đâu đó trong những gì đã được miêu tả và đã
được biết đến. Khuynh hướng tự nhiên của độc giả là tin rằng sự thật cần
phải được sáng tạo, nó nằm ở những chỗ sâu xa của truyện kể và rằng sự lí
giải phải có những nỗ lực mới đưa được ra ánh sáng. Vậy mà, sự thật thì vẫn
luôn luôn ở đó, nó không bị lộ ra, nhưng là hồi ức độc giả sẽ nhớ lại, vào lúc

cuối truyện rằng văn bản đã giấu nó ngay từ đầu. Mối liên quan với sự thật
và nguyên lí của lí do đầy đủ đã tổ chức nên điều đó (toàn bộ những gì được
viết ra đều bị phụ thuộc vào cốt truyện, cốt truyện ở đây là lí do cuối cùng)
đã khiến tiểu thuyết trinh thám là một phản - tiểu thuyết.
1.1.2. Giới thuyết về truyện kinh dị
Khi công chúng bắt đầu chán chê các loại tiểu thuyết, nhất là tiểu
thuyết hiện thực vốn đã chiếm ưu thế từ năm 1860 thì họ bắt đầu tìm kiếm
những thể tài mới. Dĩ nhiên là vẫn còn nhiều người đọc các loại tiểu thuyết
ấy, nhưng riêng những độc giả tinh tế, sâu sắc và đòi hỏi cao hơn thì lại
muốn có một cái gì đó khác với việc miêu tả trung thực thế giới khách quan
hay những con người trong đời thực. Văn học loại này phụ thuộc quá nhiều
vào logic, lý trí và những chuẩn mực của xã hội nên nhiều khi đã tỏ ra đơn
điệu và cứng nhắc.
Tất cả những ai khao khát một sự thật sâu sắc và một điều gì đó như là
sự tiết lộ đều quay sang thể tài kinh dị với nhiều hy vọng. Họ linh cảm rằng
chỉ có thể tài này mới có thể đáp ứng được những nguyện vọng sâu kín nhất
của họ. Yếu tố kinh dị có thể được nuôi bằng sự hoang tưởng, đôi khi là sự
cuồng loạn, nhưng nó luôn được nuôi bằng niềm hy vọng của độc giả.
Hầu hết các giới đều phản đối các nhà văn viết tiểu thuyết kinh dị.
Những người có thần kinh mạnh mẽ thì không thích những chi tiết ma quái
vì họ luôn nhớ là ngày xưa ở trường, người ta đã dạy họ rõ ràng là một với
một là hai. Những người theo đạo Thiên Chúa giáo thì ngờ rằng các nhà văn


14
viết truyện kinh dị đã về phe với quỷ dữ. Những kẻ cầu tiến thì trách móc
các nhà văn, cho rằng họ không quan tâm đến những vấn đề chính trị và giới
trí thức nửa mùa thì chỉ coi truyện kinh dị là một thứ sách đọc thêm để rèn
luyện phong cách viết văn… Thế nhưng số còn lại, dù là số ít, vẫn ủng hộ
các nhà văn viết truyện kinh dị: đó là những kẻ hiếu kỳ, những người hay lo

sợ, những kẻ nhiệt thành hăng hái, những kẻ không mang đầu óc thủ cựu…
Nói tóm lại, đó là tất cả những ai muốn tìm kiếm một điều gì đó khác với
những cái đã thấy trong đời thường.
Thật tiếc khi người ta cho là yếu tố kinh dị gắn liền với sự điên rồ
cuồng loạn hay những trò phù thủy. Thực ra, kinh dị là một hiện thực được
nhìn dưới một con mắt khác. Yếu tố kinh dị cho phép các nhà văn đề cập các
vấn đề liên quan đến chúng ta, miêu tả bằng những từ ngữ cụ thể, những
hình ảnh sinh động rút từ những chuyện xảy ra trong đời sống thường ngày:
thời gian, định mệnh, thế giới bên kia, bộ mặt của Chúa Trời, sự cứu rỗi,
tình yêu… Các nhà nghiên cứu thần học và triết học cũng đã đề cập đến các
vấn đề này một cách sâu sát hơn nhưng tiếc thay, hiểu được họ chỉ có những
người có trình độ nhận thức cao hoặc có đầu óc cao siêu như họ. Các nhà
văn viết truyện kinh dị trái lại dùng những hình ảnh, những biểu tượng,
những phép liên tưởng… đôi khi cũng hơi mạo hiểm, để làm cho mọi người
hiểu được điều họ muốn nói. Họ thường khắc họa bằng những hình ảnh
thông thường bên ngoài: một bông hồng với sự liên tưởng đến mùa xuân,
đến một thiếu nữ, đến máu hay lòng ham muốn. Điều quan trọng là phải
nhìn bông hoa ấy theo một cách riêng biệt nào đó. Các nhà văn không hề
thay đổi đối tượng phản ánh. Họ chỉ nhân lên ý nghĩa và quyền lực của các
đối tượng ấy. Họ không hề bóp méo thế giới khách quan mà chỉ đưa ra một
cách nhìn mới về cái thế giới ấy.
Chỉ có yếu tố hoang đường, kỳ bí và yếu tố thần tiên là liên kết với
yếu tố kinh dị. Tất cả những cái còn lại đều là đối kháng hoặc xa lạ với nó.


15
Nếu văn học về khoa học viễn tưởng có một nền tảng khoa học với các giả
thuyết về sự tồn tại của sinh vật ở các hành tinh khác, sự tồn tại của các quy
luật sinh học khác… thì văn học kinh dị chỉ quan tâm đến một điều: thể xác
và linh hồn của con người ở ngay trên hành tinh này mà thôi. Ngược với các

nhà văn khác, tư tưởng của các nhà văn viết truyện kinh dị thường là phi lý:
tư tưởng ấy không hề lưu tâm đến cái gì khác ngoài những nguyên tắc và
nhưng phương thức thuộc về lĩnh vực thơ ca. Một nhà văn viết thể tài này
thường chỉ chú ý đến những điều kỳ diệu của cái thế giới bên trong của con
người. Họ xem nhẹ cái mà người ta gọi là thực tại. Một nửa cuộc đời mình,
con người dùng để ngủ và họ chỉ thức trong một nửa còn lại. Thế nhưng
Pascal đã từng tự hỏi: “Không biết là một nửa cuộc đời mà chúng ta ngỡ
rằng mình thức kia có phải cũng là một loại giấc ngủ hơi khác biệt với giấc
ngủ thực hay không, cái giấc ngủ mà trong đó chúng ta thức mà vẫn nghĩ
rằng mình đang ngủ”. Các nhà văn viết truyện kinh dị cũng thế. Lẫn lộn giữa
mộng và thực, thích mộng hơn thực, họ mạnh dạn và hăm hở lao vào khám
phá cái thế giới xa lạ, kỳ bí và rùng rợn, sản phẩm của chính cái trí tưởng
tượng vô cùng phong phú của mình.
Sẽ rất sai lầm khi nghĩ rằng những người đọc tiểu thuyết kinh dị luôn
bằng lòng với những gì mà các nhà văn viết theo thể tài ấy đem đến cho họ.
Dù nhàm chán cái đơn điệu của các loại tiểu thuyết khác, và say mê tìm
kiếm một cái gì đó mới hơn, thế nhưng người đọc cũng không muốn những
chi tiết thường gặp trong các cuốn tiểu thuyết kinh dị làm xơ cứng tâm hồn
mình. Lúc đầu, công chúng dễ dàng bị lôi cuốn bởi các yếu tố rùng rợn, ma
quái… Thế nhưng dần dà, họ trở nên quen thuộc với những thứ đó. Loại tiểu
thuyết đen (roman noir) khi mới xuất hiện đã tạo ra những cơn sốt trong giới
độc giả. Thế nhưng dần dần, nó trở nên quen thuộc đến độ người ta có thể rút
ra một “công thức chung” như “cách thức làm bánh” cho kết cấu của một
cuốn tiểu thuyết loại này: Một lâu đài cổ xưa mà một nửa đã đổ nát; Một bà
già chết treo với nhiều nhát dao đâm ở cổ; Một hành lang dài có nhiều cánh


16
cửa trổ ra mà đa số là những cánh cửa bí mật; Ba xác chết đẫm máu; Trộm,
cướp thao túng; Một liều lượng vừa đủ những lời thì thầm, những tiếng rên la

tắt nghẹn và những tiếng động kinh hoàng… Tất cả những “vật liệu” trên
được trộn kỹ vào nhau, thêm “mắm, muối, gia vị” rồi chia làm ba phần hay ba
quyển. Thế là có một cuốn tiểu thuyết đen dành cho tất cả những ai muốn giải
trí trước khi đi ngủ.
Đồng thời, tiểu thuyết kinh dị càng khó gây được sự chú ý của độc giả
hơn. Những hồn ma vật vờ, những con quỷ hung tợn, những ngôi nhà mồ âm
u, những khu nghĩa trang hoang vắng lạnh lẽo… mà người ta đã gặp đầy dẫy
trong các quyển tiểu thuyết càng lúc càng khó tạo “ép-phê” hơn. Một lớp độc
giả mới được hình thành, tinh thế, sâu sắc và đòi hỏi cao hơn. Họ chờ đợi
những tác phẩm mới không những chỉ đơn giản kéo căng các dây thần kinh
của họ mà còn phải làm cho họ chao đảo thật sự và trở nên sâu sắc bằng cách
đi tìm ở đó những sợi dây bí ẩn làm rung lên những nỗi kinh hoàng mà trước
đó họ chưa bao giờ biết tới.
Các nhà văn viết truyện kinh dị có cái chung là đều xây dựng tác phẩm
của mình dựa trên yếu tố rùng rợn. Tuy vậy, ở mỗi người, kết cấu truyện, cách
xây dựng nhân vật, cách mô tả các sự kiện, cách sử dụng các chi tiết gây rùng
rợn, phong cách viết… lại mang những sắc thái hoàn toàn riêng biệt. Các tác
giả tên tuổi trong làng văn học kinh dị rất đông đảo: Hoffmann, Edgar Poe,
Hitchcock, Mérimée, Maupassant, Villiers de L’Isle - Adam, Alexandre
Dumas, Walpole, Maturin, Samuel, Beckett… nhưng nổi bật nhất là
Hoffmann, Edgar Poe, Hitchcock và Prosper Mérimée.
Hoffmann (nhà văn Đức, thế kỷ 18) đến với văn học kinh dị ngoài ý
muốn, mặc dù ở lĩnh vực này, ông đã đạt được nhiều thành công rực rỡ.
Hoffmann không thuộc những người ngay từ lúc mới trưởng thành đã thẳng
thừng tuyên bố: “Hoặc văn chương hoặc không gì cả”. Trong các truyện kinh
dị của mình, Hoffmann rất ít sử dụng những chi tiết kỳ diệu, sự xuất hiện của


17
các oan hồn, ma cà rồng hay người sói… Yếu tố kinh dị trong truyện của ông

nằm ở nội tâm: ông miêu tả những hoang tưởng tồn tại một cách oan nghiệt
trong ý thức của con người rồi được bộc lộ trong những giấc mơ, những cơn
mê sảng, những ảo giác hay những cơn sợ hãi cuống cuồng. Hoffmann không
nhằm vào yếu tố siêu nhiên như các nhà đạo đức và các nhà văn có tầm cỡ
trước ông đã làm. Trái lại, ông tiếp tục phân tích con người, nhưng trong một
lĩnh vực hoàn toàn khác. Cuốn “Rượu thuốc của con quỷ” là quyển sách có
giá trị nhất của Hoffmann vì nó mang cả hai chủ đề được coi là chính yếu của
ông: sự điên loạn và thế lực của cái ác. Truyện viết về một thầy dòng tên là
Médord. Bị giằng xé giữa trời cao và hỏa ngục, Médord đã uống một thứ rượu
thuốc của quỷ và trở thành một kẻ bị quỷ ám phạm vô số tội sát nhân trong vô
thức của mình. Các truyện nổi tiếng khác của ông là: “Công chúa Brambila”,
“Cái bình vàng”, “Thầy Bọ chét”, “Thái ấp”, “Hồn ma cưới vợ”… Ông không
chỉ thành công rất lớn ở Đức mà còn ở các nước khác như Anh, Pháp, Mỹ…
Nhiều nhà văn trong và ngoài nước thuộc các thể hệ sau ông đã chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ những truyện kinh dị của Hoffmann.
Nếu ở thế kỷ 18, Hoffmann đã giữ một địa vị gần như là độc tôn trong
lĩnh vực văn học kinh dị thì sang thế kỷ 19, nhà văn người Mỹ Edgar Poe
(1809 – 1849) chính là kẻ “kế vị”. Tuy là kẻ “hậu bối”, song Edgar Poe đã
gần như vượt hẳn Hoffmann vì ông đã đáp ứng đúng lúc cái thị hiếu của công
chúng ở những năm 1860 về truyện kinh dị: khoa học hơn, nhưng rùng rợn
hơn. Ở các truyện kinh dị của Poe, tất cả đều có vẻ đúng liều lượng, được tính
toán chi li, được sắp xếp kỹ càng để đạt tới một cứu cánh. Cốt truyện của Poe
mới đọc sơ qua thì có vẻ điên rồ, hoang đường và phi lý. Thế nhưng dưới
những con mắt tinh đời, truyện của ông thực sự là những tác phẩm mang giá
trị nhân bản và giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. So với Hoffmann thì có lẽ ở
thời đại thực nghiệm, Poe được ưa chuộng hơn và trên thực tế, “Những truyện
kinh dị” của ông đã làm hồi hộp không biết bao nhiêu là độc giả trên toàn thế
giới. “Con mèo đen”, “Bọ rầy vàng”, “Vụ án mạng ở đường Morgue”, “Mặt



18
nạ tử thần đỏ”… là những truyện được biết đến nhiều nhất trong số các truyện
kinh dị của Edgar Poe.
Hitchcock được nhắc đến rất nhiều trong làng văn học bởi các truyện
kinh dị được ông tuyển rải rác từ các tác giả khác và giới thiệu lại. Các tuyển
tập này thường mang những tựa đề rất “giật gân”: “Những truyện ghê rợn”,
“Những truyện gây sợ hãi”, “Những truyện không nên đọc ban đêm”…
Ngoài “Carmen”,… nhà văn Pháp Prosper Mérimée (1803 – 1870) còn
được biết đến qua những truyện kinh dị: “Tượng thần Vệ nữ ở Ille”, “Lokis”,
“Những linh hồn trong lò luyện tội”, “Rắn thần Djoumane”. Trong số các tác
phẩm trên, Mérimée coi “Tượng thần Vệ nữ ở Ille” là kiệt tác của mình và
ông quả đã không lầm vì truyện ấy đã được công chúng hoan nghênh nồng
nhiệt.
Nói về văn học kinh dị, mỗi người, mỗi giới đều có những ý kiến khác
nhau: người khen kẻ chê; người tán thành, kẻ phản đối. Dù sao đi nữa, qua
những bước thăng trầm của mình, văn học kinh dị đã luôn từng bước tiến tới
sự hoàn thiện. Cuộc đời vô cùng phong phú, đa dạng, con người theo bước
tiến của xã hội ngày càng có nhiều suy nghĩ mới lạ thì thiết tưởng văn học
cũng phải đa dạng, phong phú theo thì mới phản ánh đúng cuộc sống, tâm tư
tình cảm của con người và đáp ứng được những nguyện vọng, nhu cầu ngày
càng lúc càng nhiều của họ. Có người cho rằng văn học kinh dị các tác dụng
xấu, nhất là đối với giới trẻ. Trong một chừng mực nào đó thì điều này cũng
đúng. Đúng là không nên đọc văn học kinh dị một cách bừa bãi nhưng trên
tinh thần đổi mới tư duy hiện nay, thiết nghĩ cũng không nên nhận xét nó một
cách thô thiển hàm hồ và coi đó là một thể tài văn học đáng bị chối bỏ và đào
thải.
1.1.3. Truyện trinh thám – kinh dị trong văn học Việt Nam hiện đại
Ở Việt Nam, truyện trinh thám và truyện kinh dị đã có từ thế kỉ trước
với những tác phẩm của tác giả Phạm Cao Củng, Thế Lữ, Hồ Dzếnh (bút
danh Lưu Thị Hạnh), Bùi Huy Phồn, Lê Văn Trương... Nhưng trong thời kì



19
văn học hậu hiện đại, hai thể tài này hầu như không phát triển. Nhà văn Di Li
là người đầu tiên tạo nên hình thức kết hợp giữa trinh thám và kinh dị. Điều
đó đã tạo nên những tác phẩm có sức hấp dẫn lớn với độc giả trong và ngoài
nước. Cốt truyện hấp dẫn li kì gợi sự tò mò cho độc giả đi tìm kiếm, giải “mật
mã” và tìm kết quả cho vụ án. Tiêu biểu là tiểu thuyết “Trại Hoa Đỏ” và “Câu
lạc bộ số 7” đã gây được tiếng vang. Truyện trinh thám và truyện kinh dị là
hai thể tài riêng biệt trong loại hình tác phẩm tự sự ở mỗi thể tài ấy đều đã có
những tác giả tác phẩm xuất sắc trong kho tàng văn học thế giới nói chung và
văn học Việt Nam nói riêng. Truyện kinh dị (hay còn gọi là giả tưởng kinh dị)
ở phương Tây còn gọi là “tiểu thuyết đen" đã có những tác phẩm xuất sắc
Edgar Poe, ở phương Đông đã có Bồ Tùng Linh với Liêu trai chí dị, ở Việt
Nam ngay trong kho tàng văn học dân gian đã có những tác phẩm mang sắc
màu kinh dị như trong Việt điện u linh, truyện cổ tích Hà ô lôi (cổ tích
Nguyễn Đổng Chi), truyện người lấy ma, truyện tinh con chuột hóa thành
người chồng gặp gỡ người vợ khi người chồng đi xa.
Những truyện ma quỷ trong văn học dân gian Việt Nam đã mang sắc
màu kinh dị. Trong văn học viết có Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, tác
phẩm của Thế Lữ như "Vàng và máu", đặc biệt trong “Truyện đường rừng”
của Lan Khai có “Ai hát giữa rừng khuya''…
Truyện trinh thám cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tác giả tiêu
biểu của truyện trinh thám Việt Nam được bạn đọc biết đến nhiều là Phạm
Cao Củng với Vết tay trên trần (1936), Cái kho nhà họ Đặng, Ba viên ngọc
bích (1938), Người một mắt (1940), Kỳ Phát giết người, Nhà sư thọt (1941),
Đám cưới Kỳ Phát (1942), Đôi hoa tai của bà chúa (1942)... Các nhà văn
khác như Thế Lữ, Lê Văn Trương, Bùi Huy Phồn... đã viết một số tác phẩm
có tiếng vang trong văn đàn trước năm 1945.
Nhưng có sự kết hợp hài hòa đặc trưng và những phẩm chất nghệ thuật

của cả hai thể tài này để tạo ra một thể tài văn học mới là truyện trình thám và


20
kinh dị là không nhiều. Di Li là một trong số tác giả đã thành công khi kết
hợp những phẩm chất nghệ thuật và sắc thái thẩm mỹ khác nhau để tạo ra
những sáng tạo nghệ thuật độc đáo vừa lôi cuốn trí tuệ của người đọc đi tìm
lời giải cho những vụ án tồn tại đến những câu đố hóc hiểm vừa pha trộn sắc
thái kì ảo ma quái tạo cảm giác hãi hùng cho độc giả. Như vậy, truyện trinh
thám và những “câu đố” trí tuệ, truyện kinh dị là những “cú huých” mạnh mẽ
đến kinh hoàng cho cảm xúc của tâm hồn. Khi cả hai phẩm chất nghệ thuật
ấy được kết hợp lại thì hiệu quả nghệ thuật được nhân đôi…
Trong văn học đương đại Việt Nam, truyện trinh thám và truyện kinh
dị có những tác phẩm: Sát thủ online và Có tiếng người trong gió của Nguyễn
Xuân Thủy, Phiên bản, Cô mặc sầu và Hồ sơ một tử tù của Nguyễn Đình Tú,
Trại Hoa Đỏ, Tầng thứ nhất, Điệu van địa ngục và Câu lạc bộ số 7 của Di
Li... Di Li là nhà văn đầu tiên có sự kết hợp hai thể tài trinh thám và kinh dị
trong sáng tác của mình.
Tại Trung tâm văn hóa Pháp - L’Espace đã diễn ra buổi tọa đàm “Văn
học trinh thám Việt Nam và tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Di Li”. Nhà
văn nữ ra mắt công chúng tiểu thuyết trinh thám Câu lạc bộ số 7 - tác phẩm
mới nhất của cô. Buổi tọa đàm có sự tham gia của nhiều gương mặt tên tuổi
trong giới văn nghệ như: nhà văn Nguyễn Quang Thiều, nhà phê bình PGS TS Văn Giá, nhà văn Võ Thị Xuân Hà, đạo diễn Quốc Trọng, nhà phê bình
Phạm Xuân Nguyên…
Theo nhà văn Nguyễn Quang Thiều: “Chúng ta đã đọc văn học trinh
thám từ rất lâu. Nhưng đây cũng là lần đầu tiên tôi trả lời câu hỏi như thế
nào là trinh thám? Theo tôi khi mà xã hội của chúng ta có nhiều mặt trái,
khiến con người ta không phân biệt được đâu là tốt, đâu là xấu thì đó là điều
kiện để văn học trinh thám phát triển. Trinh thám không chỉ là câu chuyện
về một vụ án, nó còn là câu chuyện nhiều lớp lang, đòi hỏi con người ta phải

tư duy logic một cách cao độ".


21
Dưới con mắt của một nhà phê bình, PGS.TS Văn Giá cho rằng: “Văn
học trinh thám có lịch sử từ thế kỷ 19 ở phương Tây và bắt đầu từ những
năm 1930 ở Việt Nam. Đó là một thể tài nhằm để chỉ một nội dung mà người
ta cố tình giấu đi, cố tình bưng bít. Công việc của các nhà trinh thám là phải
lật tẩy chúng. Để xây dựng tiểu thuyết trinh thám người ta có thể đi theo lối
kể truyện hình sự, hoặc kinh dị. Từ những năm 1930, Thế Lữ đã viết truyện
trinh thám. Nhưng bao giờ ông cũng dùng khoa học để giải thích những câu
chuyện của mình. Ngày nay, có nhiều vấn đề mà ngay cả khoa học cũng
không giải thích được, đó là một điều kiện để trinh thám phát triển".
Sau một số ý kiến trao đổi, tranh luận, nhà văn Di Li đã có những chia
sẻ về cuốn tiểu thuyết Câu Lạc bộ số 7. Sau tiểu thuyết Trại Hoa
Đỏ đến Câu lạc bộ số 7, người đọc tiếp tục theo chân cảnh sát điều tra Phan
Đăng Bách đi phá một vụ án giết người liên hoàn vô cùng nghiêm trọng.
Bảy cô gái xinh đẹp liên tục chết vì những lý do bất ngờ. Những cái chết
được ngụy trang khéo léo dưới hình thức những vụ tai nạn. Nhưng đằng sau
đó là cả một âm mưu man rợ của nhóm người thuộc thể vô tính. Chúng bị
ám ảnh bởi một mẫu người hoàn hảo và giết bảy cô gái trẻ để đánh cắp các
bộ phận trên người họ nhằm tạo ra những mẫu người hoàn hảo ấy.
Chia sẻ về quá trình sáng tác, Di Li cho rằng đây là tác phẩm quan
trong nhất của cô. Câu lạc bộ số 7 được Di Li sáng tác từ năm 2009 cho đến
2015, là cuốn tiểu thuyết tiêu tốn khá nhiều thời gian và bút lực của nhà văn.
Theo chị, trong nền văn học Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói
chung, ăn khách nhất là tiểu thuyết lãng mạn chứ không phải là tiểu thuyết
trinh thám. Di Li đầu tư viết tiểu thuyết trinh thám bởi nó là thế mạnh của cô
và nữ nhà văn đã say mê thể tài tiểu thuyết này từ khi còn nhỏ.
1.1.4. Sự kết hợp hài hòa truyện trinh thám và truyện kinh dị trong sáng tác

của Di Li


×