Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Đánh giá về quá trình tự do hóa tài chính tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.38 KB, 46 trang )

1

Trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
Lớp: VB2K19FN01A
STT đề tài: 4
Tên đề tài:
Đánh giá về quá trình tự do hóa tài chính tại Việt Nam

Thành viên:
1.Nguyễn Trung Kiên
2. Hà Phương Anh
3. Trân
4. Hồ Bảo Vy


2

Đề Cương
Chương 1: Khái quát về tự do hóa tài chính
1. Khái quát về tự do hóa tài chính
2. Kinh nghiệm tự do hóa tài chính một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho VN
Chương 2: thực trạng tự do hóa tài chính ở Việt Nam.
1. Sự cần thiết tiến hành tự do hóa tài chính ở việt nam
2. Quá trình tự do hóa tài chính ở VN
Chương 3: Đánh giá về quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam
1. Thành tựu đạt được
2. Hạn chế và nguyên nhân


3


CHƯƠNG 1
Khái quát về tự do hóa tài chính
1.1. Tài chính kiềm chế.
1.1.1. Tài chính kiềm chế là gì?
Tài chính kiềm chế là một cơ chế tài chính được đặc trưng hóa bởi sự can thiệp quá mức
của nhà nước vào các hoạt động và các quá trình tài chính. Trong đó, nhà nước sẽ ấn định những
mức lãi suất trần, trực tiếp điều tiết quá trình phân phối tín dụng bằng các quyết định hành chính
nhiều hơn là thông qua cơ chế thị trường, ưu tiên cho khu vực kinh tế nhà nước và đặt ra các tỷ lệ
dự trữ bắt buộc quá cao và kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn trong và ngoài nước.

1.1.2. Hậu quả của tài chính kiềm chế.
Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc đẩy
tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng như sự
mất ổn định kinh tế vĩ mô như:
− Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc đẩy tăng
trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng như sự mất ổn
định kinh tế, tiềm năng tài chính không được sử dụng và đầu tư vào sản xuất bởi vì lãi suất thấp
thì công chúng sẽ không muốn gởi tiết kiệm mà sẽ hiện vật hóa dưới dạng vàng, đá quý, ngoại tệ
mạnh, hàng hóa tiêu dùng. Vì vậy, gây ra tình trạng thiếu vốn đầu tư, khan hiếm hàng hóa giả
tạo, mất cân đối nghiêm trọng trên thị trường hàng hóa.
− Cầu về vốn vượt xa khả năng của các nguồn cung cấp nên các danh mục đầu tư có tỷ suất lợi
nhuận cao phải hủy bỏ hoặc sử dụng vốn từ các thị trường ngầm.
− Ngân sách nhà nước luôn phải bao cấp và thiếu hụt vì các doanh nghiệp nhà nước luôn được ưu
tiên vay vốn với lãi suất bao cấp dẫn tới luôn ỷ lại, không sản xuất và kinh doanh có hiệu quả.
− Hệ thống tài chính không được phát triển và không thể thực hiện được những chức năng trong
việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
− Thị trường tài chính có thể không có hoặc manh mún, phân tán và đầy rủi ro, lạm phát và tỷ giá
biến động không thể kiểm soát được.

1.2. Tự do hóa tài chính

1.2.1. Tự do hóa tài chính là gì?
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của Nhà
nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do


4
hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
Tự do hóa tài chính được chia làm hai cấp độ:
− Tự do hóa tài chính nội địa: Bằng cách xóa bỏ sự kiểm soát lãi suất và phân bổ tín dụng
− Tự do hóa tài chính quốc tế: Loại bỏ kiểm soát vốn và các hạn chế trong quản lý ngoại hối.
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của thị
trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm ra sự
phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
kinh tế – xã hội.

1.2.2. Lợi ích của tự do hóa tài chính
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động tài chính cũng giống như các hoạt động trao đổi mua
bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác động tích cực đến thu nhập và sự tăng
trưởng của tất cả các đối tác tham gia. Lợi ích của việc tự do hoá các hoạt động thương mại trong
lĩnh vực dịch vụ tài chính có thể có được nhìn nhận trên một số khía cạnh sau:
− Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực dịch vụ tài chính hoạt động
có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các tổ chức tài chính nội địa có điều kiện cải thiện
năng lực quản lý.
− Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được cung cấp (do sự độc
quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng,
tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất.
− Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển giao công nghệ và làm
giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
− Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính sách kinh tế vĩ mô có
hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong một nền kinh tế mở, trên cơ sở đó thực hiện

phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước
và thế giới.
1.2.3. Mặt trái của tự do hóa tài chính
Tiềm năng lợi ích của tự do hoá tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hoá tài chính cũng cố
những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt trong điều kiện xu thế tự do
hoá tài chính cũng mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban dầu. Những hạn chế của tự do hoá tài
chính thông thường được nhìn nhận trên hai gốc độ:
− Thứ nhất: Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng tài chính nếu
tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các


5
biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế.
− Thứ hai: Tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực đặc biệt cần
được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan trọng của một quốc gia.
Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc
điều hành thực hiện những mục tiêu của nhà nước vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ
không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện
hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi
các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều khiển
thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phương hại đến mục tiêu
chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ
lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ...
gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
1.2.4. Lộ trình tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính được tiến hành sau tự do hóa thương mại. Lộ trình tự do hóa tài chính
trải qua những bước sau:
Bước 1: Cải tiến và hiện đại hóa ngân hàng, đây là điều kiện cần thiết để phát triển cơ sở
hạ tầng trên thị trường tài chính.
Bước 2: Tự do hóa hoàn toàn lãi suất và thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có sự quản lý

của nhà nước.
− Tự do hóa lãi suất là một phần quan trọng của tự do hóa tài chính, bản chất của tự do hóa lãi suất
chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị trường xác định lãi suất
cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ để điều hành theo định hướng.
− Tự do hóa lãi suất gắn liền với cải cách cơ cấu, bao gồm: Cơ cấu lại các khoản nợ khó đòi, tiến
hành tư nhân hóa một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, áp dụng các chính sách kích thích
cạnh tranh lành mạnh trong khu vực ngân hàng.
− Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ giá giao động
trong một khoảng giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá chính thức của ngân hàng trung ương.
Bước 3: Tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai, xóa bỏ hoàn toàn cơ chế phân bổ
quota và những rào cản khác trong giao dịch vãng lai.
Bước 4: Từng bước tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn.
− Tự do hóa giao dịch vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế đối với các giao dịch này như xóa
bỏ hoàn toàn những quy định hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài. Cho


6
phép các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn về nước với các khoản đầu tư dài hạn-ngắn hạn
thông qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cho các doanh nghiệp trong nước tự do tiếp cận với
các nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành cổ phiếu – trái phiếu.
− Đối với người dân tự do hóa nguồn vốn cho phép họ thực hiện các hoạt động ở nước ngoài như
mở tài khoản ngân hàng, tham gia các hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi nhuận cao.
− Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hưu các công ty khác nhau, các dòng vốn được tự do
di chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang những nơi có tỷ suất sinh lợi cao.
1.2.5. Điều kiện để cho tự do hóa tài chính thành công
Cải cách tài chính ở Việt Nam, hội nhập tài chính bằng cách mở cửa dần từng bước các
giao dịch thương mại trên lĩnh vực tài chính là một xu hướng tất yếu. Việt Nam muốn hội nhập
tài chính thì chính sách tài chính và chính sách tiền tệ phải linh hoạt - ổn định đáng tin cậy.
Những điều kiện cho việc tự do hóa tài chính thành công là:









Quản lý kinh tế vĩ mô vững chắc và tiết kiệm quốc gia cao.
Thực hiện đúng lộ trình tự do hóa kinh tế.
Hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả.
Hệ thống giám sát ngân hàng hợp lý và việc thi hành có hiệu quả.
Không có khoản cho vay mang tính chất chính trị và lạm dụng hệ thống tài chính.
Một Chính Phủ triệt để chống tham nhũng và lãng phí.
Tính minh bạch trong công bố thông tin.
2.1.1 Kinh nghiệm tự do hóa tài chính một số quốc gia
2.1.1.1
Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu chính sách mở cửa kinh tế vào năm 1979. Tuy nhiên, trong 5 năm đầu
tiên của thời kỳ mở cửa, công cuộc cải cách dường như chưa chạm đến hệ thống tài chính
ngân hàng. Dấu hiệu cải cách trong hệ thống tài chính thực sự mới xuất hiện vào năm 1984 khi
hệ thống ngân hàng tách thành hai cấp: ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc) và Ngân hàng thương mại. Kể từ đó mới xuất hiện dấu hiệu cạnh tranh giữa các ngân
hàng và ở một mức độ thận trọng, các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập và
hoạt động ở Trung Quốc.
Nhìn chung cho đến nay, hệ thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn bị chính phủ khống
chế và kiểm soát chặt chẽ. Mức độ mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động còn rất
hạn chế.Những đặc điểm chính của thị trường dịch vụ tài chính của Trung Quốc như sau:
HỆ thống ngân hàng:
Bốn ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước kiểm soát trên 80% thị phần và thực hiện việc phân
phối tín dụng dựa trên kế hoạch tín dụng của trung ương. Những ngân hàng này giữ một phần



7
lớn các khoản tiền gửi nằm ngoài kênh gửi tiền chính thức nhằm mục đích đầu cơ. Các ngân
hàng thương mại thực hiện hoạt động cho vay ngầm nhiều hơn hoạt động cho vay chính thức.
Tỷ lệ đọng vốn, không có khả năng thanh toán tại các doanh nghiệp Nhà nước lớn.
Các ngân hàng nước ngoài chỉ được phép hoạt động ở một số vùng kinh tế đặc biệt. Chính
phủ Trung Quốc không cho phép các ngân hàng đầu tư nước ngoài mở chi nhánh.Ngân hàng
nước ngoài có thể hoạt động dưới dạng liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài nếu được cơ
quan có thẩm quyền cho phép và phải gửi 30% vốn tối thiểu vào Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc.Họat động giao dịch của ngân hàng nước ngoài chủ yếu hạn chế trong khuôn khổ các
ngoại tệ mạnh (gần đây có cấp phép cho một số ít ngân hàng nước ngoài được thực hiện giao
dịch bằng đồng nhân dân tệ).Ngân hàng nước ngoài chỉ được thực hiện các hoạt động dịch vụ
bán buôn (wholesale banking). Trước khi mở chi nhánh, ngân hàng nước ngoài phải có ít nhất
3 năm hoạt động dưới dạng văn phòng đại diện và phải có số vốn ít nhất 100 triệu nhân dân tệ
(NDT).
Hiện tại ở Trung Quốc có vào khoảng 540 văn phòng đại diện, 130 chi nhánh, 6 liên doanh
và 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, chỉ có 9 ngân hàng được phép kinh doanh
bằng NDT và hoạt động kinh doanh dịch vụ cũng chỉ được phép thực hiện tại Thượng Hải và
Quảng Châu. Trong tương lai những hạn chế của các ngân hàng nước ngoài có thể được nới
lỏng cả về mặt địa lý, đối tượng phục vụ và lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, việc nới lỏng đó ơ
rmức độ nào và với những điều kiện gì còn tuỳ thuộc vào sự đàm phán trên cơ sở lợi ích.Chính
phủ Trung Quốc tuyên bố rõ ràng Trung Quốc sẽ không hy sinh những lợi ích căn bản của
mình để theo đuổi mục tiêu thành viên WTO và coi sự ổn định của mình là mục đích lớn nhất
khi tham gia hội nhập.
Thị trường bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé và thống trị bởi các công ty bảo hiểm Nhà nước. Nhà
nước quyết định tỷ lệ hoa hồng bảo hiểm. Đa số tiền bảo hiểm thu được được gửi tại tài khoản
có tính lãi.
Công ty bảo hiểm nước ngoài muốn được cấp phép hoạt động đầy đủ phải chờ đợi trong

khoảng thời gian 3 năm thẩm định. Sở hữu vốn nước ngoài trong các công ty liên doanh chỉ
giới hạn đến 49%. Cho đến nay mới chỉ có khoảng 3 giấy phép được cấp cho các công ty bảo
hiểm nước ngoài. Việc hồi hương vốn bị hạn chế nghiêm ngặt. Các hãng bảo hiểm nước ngoài
bị hạn chế trong việc cạnh tranh với các công ty bảo hiểm thương mại của Nhà nước. Chiính
phủ Trung Quốc cam kết rằng khi trở thành thành viên WTO, Trung Quốc sẽ loại bỏ những
hạn chế về địa lý và định lượng trong khoảng thời gian 5 năm. Bên cạnh đó, việc cấp phép đầu


8
tư sẽ chỉ dựa trên cơ sở các tiêu chí thận trọng theo thông lệ quốc tế. Những hạn chế về tỷ lệ sở
hữu vốn đối với các doanh nghiệp liên doanh cũng sẽ bị loại bỏ.
Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán ở Trung Quốc chưa phát triển.Thị trường trái phiếu rất mỏng.Thị
trường trái phiếu phi chính phủ không đáng kể. Trung QUỐC chưa có Luật chứng khoán quốc
gia. Chính phủ kiểm soát giao dịch chứng khoán của các công ty, doanh nghiệp sở hữu Nhà
nước. Chỉ có khoảng 1/3 số cổ phiếu được giao dịch Quỹ hỗ tương không được phép thành
lập.
Các công ty nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không được phép thành
lập chi nhánh hoặc công ty con, mà chỉ được phép thành lập dưới dạng liên doanh. Sở hữu vốn
nước ngoài được phép đến 85%. Các văn phòng đại diện không được phép thực hiện hoạt
động kinh doanh chứng khoán của các công ty có vốn nước ngoài chỉ được phép đối với loại
chứng khoán có mệnh giá bằng ngoại tệ (Bshare). KHÔNG được phép thực hiện các giao dịch
phái sinh (Options...) Việc hồi hương lợi nhuận phải được chính phủ phê duyệt.
2.1.1.2

Canada

Canada là một trong những nước có trình độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới (là thành
viên của khối G7) với tư cách thành viên lâu đời của OECD, GATT và gần đây là NAFTA. Vì
vậy, lĩnh vực dịch vụ tài chính không những phát triển và có vai trò hết sức quan trọng đối với

nền kinh tế Canada, mà còn có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Năm 1997, khu vực
dịch vụ tài chính ở Canada chiếm tới 5,2% GDP và thu nạp 4,5% lao động của toàn bộ nền kinh
tế. Do việc mở cửa thị trường nên hoạt động dịch vụ tài chính ở Canada mang tính quốc tế hoá
cao, nhiều tổ chức, công ty nước ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh tại Canada và ngược lại,
nhiều tổ chức, công ty của Canada thực hiện các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Hoam Kỳ
là đối tác kinh doanh lớn nhất chiếm tới hơn 50% giá trị dịch vụ kể cả nhập khẩu và xuất khẩu.
Tuy mức độ mở cửa thị trường ngày càng trở nên thông thoáng trog thời gian gần đây (đặc biệt
kể từ khi ký kết hiệp định chung về thương mại dịch vụ nói chung - GATT - và hiệp định về dịch
vụ tài chính nói riêng - FSA), song việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở Canada cũng
không có nghĩa là tự do hoá hoàn toàn.
HỆ thống ngân hàng


9
Trước khi tham gia ký kết hiệp định về thương mại dịch vụ tài chính giữa các nước
thành viên WTO (năm 1997), cả một thời kỳ dài Canada áp dụng luật 10/25 trong lĩnh vực
ngân hàng. Luật này quy định cá nhân (tổ chức) nước ngoài không được phép sở hữu quá 10%
(25%) bất kỳ loại cổ phiếu nào của một ngân hàng nhất định được thành lập theo một điều
khoản riêng (Schedule I). Bên cạnh đó, việc mở chi nhán hoặc văn phòng đại diện trực tiếp từ
các ngân hàng nước ngoài là điều không thể. Các ngân hàng nước ngoài muốn hoạt động tại
Canada phải thành lập dưới hình thức công ty con hoạt động bằng vốn độc lập của chính công
ty con đó theo một điều khoản riêng (Shcedule II) và không được tham gia vào các hoạt động
dịch vụ bán lẻ. Những hạn chế này là những trở ngại đáng kể đối với sự thâm nhập của các
ngân hàng nước ngoài, nhưng đồng thời lại được coi là những biện pháp an toàn chon sự hoạt
động của các ngân hàng nội địa tránh được sự cạnh tranh và đảm bảo tính chủ quyền điều hành
của chính phủ trong một chừng mực nhất định.
Các ngân hàng được thành lập theo Schedule I đều là những ngân hàng lớn có mạng
lưới toàn quốc với hơn 8000 chi nhánh, nắm giữ trên 90% tài snr của toàn bộ ngành ngân hàng
và chủ yếu do người Canada sở hữu. NHỮNG công ty con của các ngân hàng nước ngoài
được thành lập theo Schedule II chỉ chiếm một thị phần nhỏ và chuyên biệt trong một số lĩnh

vực như dịch vụ đầu tư, dịch vụ vay trả, thanh toán đối với các doanh nghiệp kinh doanh.
Sau hiệp định FSA, một số hạn chế đối với hoạt động của các ngân hàng nước ngoài đã
được loại bỏ. Chẳng hạn luật sở hữu không quá 10% cổ phần nay được áp dụng chung cho cả
cá nhân trong nước và nước ngoài, luật sở hữu không quá 25% cổ phần (đối với tổ chức hoặc
nhóm cá nhân) được loại bỏ, các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh trực tiếp tại
Canada... Tuy nhiên một số hạn chế cần thiết vẫn được giữ nguyên. Chẳng hạn : chi nhánh của
ngân hàng nước ngoài (ngân hàng cho vay hoặc dịch vụ) không được phép thực hiện các hoạt
động thuộc về chức năng chuyên biệt của các công ty tài chính được quy định trong luật ngân
hàng. Chi nhánh của ngân hàng nước ngoài thực hiện chức năng dịch vụ chỉ được phép nhận
những khoản tiền gửi dưới 150.000 đô la Canada.... Một số bang còn đòi hỏi đa số thành viên
của hội đồng quản trị phải là cư dân Canada hoặc quy định người nước ngoài có thể không
được hưởng quyền bầu cử khi họ nắm giữ cổ phiếu của ngân hàng Canada trong một số trường
hợp nhất định.
Thị trường bảo hiểm
Mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm ở Canada tỏ ra thông thoáng nhất so với các lĩnh
vực khác trong hoạt động dịch vụ tài chính. Các hãng bảo hiểm nước ngoài chiếm thị phần
đáng kể. Chẳng hạn, theo số liệu báo cáo của WTO, tổng số phí bảo hiểm y tế và nhân thọ của
các hãng nước ngoài chiếm 27%. Tỷ lệ này trong hoạt động bảo hiểm thương tật và bảo hiểm


10
tài sản là 65%. Trong tổng số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế, 55 công ty là chi nhánh
của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế,
55 công ty là chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng số 196 công ty bảo
hiểm tài sản và bảo hiểm thương tật được thành lập theo luật liên bang thì 122 công ty là chi
nhánh của các hãng nước ngoài. Mặc dù việc mở cửa thị trường bảo hiểm đã ở mức cao song
vẫn có những hạn định ràng buộc nhất định khi cam kết tham gia hiệp định FSA. Những ràng
buộc này chủ yếu là những quy định về hình thức cung ứng dịch vụ, quyền sở hữu vốn hoặc
quyền điều hành.
Thị trường chứng khoán

Canada có lẽ là nước duy nhất trong số những nước phát triển duy trì sự hoạt động của
thị trường chứng khoán trên cơ sở điều luật và quản lý của các bang. Chính phủ liên bang
không tham gia điều chỉnh hoặc ban hành điều luật hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì
vậy mức độ tự do hoá hoàn toàn phụ thuộc vào quy định riêng của từng bang. Tuy nhiên sự
ràng buộc nói chung của đa số các bang thường là: cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện
thương mại, người mua bán chứng khoán phải đăng ký để thực hiện giao dịch thông qua các
nhà môi giới, ít nhất một giám đốc hoặc một cán bộ chủ chốt của một hãng kinh doanh chứng
khoán phải là cư dân của Canada trong thời hạn ít nhất một năm mới đủ điều kiện cho phép
thành lập.
2.1.1.3

Hàn Quốc

Hàn Quốc là một nước phát triển ở châu Á hiện nay được coi là đã khá vững vàng trong
quá trình tự do hóa tài chính mặc dù cũng mắc phải một số sai lầm trong từng giai đoạn nhất
định.
Từ những năm đầu thập kỷ 1980, Hàn Quốc bắt đầu tiến hành dần dần quá trình tự do hóa tài
chính và cải cách mạnh hơn trong những năm đầu của thập niên 1990 cho đến khi Hàn Quốc gia
nhập tổ chức OECD. Việc tự do hóa mạnh mẽ hệ thống tài chính được thực hiện trong giai đoạn
từ năm 1993 – 1997.
Các biện pháp được thực hiện như cổ phần hóa các NHTM, mở rộng và phát triển ngân
hàng bán lẻ, mở rộng quyền tự chủ trong quản lý điều hành của ngân hàng, hạ thấp các rào cản
trong khu vực tài chính, thay thế các biện pháp kiểm soát trực tiếp đối với tín dụng trong nước
bằng các công cụ gián tiếp thông qua nghiệp vụ cho vay chiết khấu, đưa ra nhiều công cụ tài
chính đã góp phần tăng cường sức cạnh tranh và nâng cao vị thế các lực lượng tham gia thị
trường.
Các định chế tài chính phi ngân hàng được nới lỏng kiểm soát sớm hơn so với hoạt động
của các ngân hàng, lý do là các ngân hàng vẫn phải có trách nhiệm cho vay theo chỉ định tới một
số đối tượng nhất định, vì thế chưa thể sớm xóa bỏ các mức sàn đối với lãi suất tiền gửi. Lãi suất
ngân hàng bị kiểm soát chặt chẽ trong khi lãi suất trái phiếu công ty và lãi suất của các chứng

khoán nợ ngắn hạn, chủ yếu là thương phiếu, (tức lãi suất phi ngân hàng) lại được hoàn toàn thả


11
lỏng. Điều này đã khiến thương phiếu trở thành công cụ chủ yếu tài trợ cho hoạt động của công
ty.
Các công cụ nợ ngắn hạn được tự do hóa sớm hơn các công cụ nợ dài hạn. Điều này thể
hiện rõ nhất trong việc nới lỏng các quy định về kinh doanh tín thác của ngân hàng. Từ năm
1993, các quỹ tín thác được phép đầu tư vào thương phiếu, giảm nhẹ những đòi hỏi trước đây
rằng chúng hoặc phải được đầu tư vào các chứng khoán dài hạn hoặc phải được cho vay tới các
hãng. Đa số những người gửi tiền đã không phân biệt giữa một tài khoản tiền gửi có thời hạn và
một tài khỏan tín thác do cùng một ngân hàng cung cấp, và dễ dàng chuyển dịch giữa hai tài
khoản này theo những khác biệt về lợi suất. (Không có một ngân hàng Hàn Quốc nào từng phá
sản, và những người gửi tiền cho rằng cả hai cộng cụ này đều có rủi ro thực chất bằng 0). Kết
quả là tiền của những người gửi đó đang được sử dụng để tài trợ cho những khoản đầu tư rủi ro
dài hạn của các công ty thông qua việc mua thương phiếu ngắn hạn của họ.
Số lượng các định chế tài chính tham gia các hoạt động được ghi bằng ngoại tệ tăng vọt
do có 24 công ty tài chính được chuyển đổi thành ngân hàng đầu tư trong thời gian 1994-1996.
Những định chế tài chính phi ngân hàng này vay ngắn hạn rất mạnh nhưng đầu tư vào những tài
sản dài hạn là chủ yếu; tạo ra những vênh ghép (mismatching) thời hạn giữa các khoản nợ nước
ngoài và tài sản.
Việc mở cửa tài khoản vốn được thực hiện từng bước, với ba biện pháp trọng tâm là a)
Nới lỏng mức trần của việc mua cổ phiếu nội địa của người nước ngoài; b) Nới lỏng những hạn
chế về việc vay ngắn hạn liên quan tới thương mại; và c) Nới lỏng kiểm soát đối với việc phát
hành chứng khoán của các công ty Hàn Quốc trên thị trường vốn nước ngoài và đối với việc đi
vay ở nước ngoài của các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư.
Việc tiến hành tự do hóa các giao dịch vẫn thực hiện chậm hơn so với tự do hóa các lĩnh
vực tài chính khác do lo ngại các doanh nghiệp Hàn Quốc bị nước ngoài thôn tính và chịu ảnh
hưởng bởi những diễn biến của tự do hóa tài khoản vãng lai. Trong giai đoạn 1986 - 1989, để
kiềm chế tốc độ tăng trưởng cung tiền và áp lực tăng tỷ giá hối đoái do thặng dư tài khoản vãng

lai lớn Hàn Quốc khuyến khích các luồng vốn ra như thanh toán trước hạn các khoản vay nước
ngoài, nới lỏng đầu tư ra nước ngoài, đồng thời kiểm soát và giảm dòng vốn vào, thắt chặt việc
vay, nợ nước ngoài, hạn chế kiều hối...
Một phần nguyên nhân khiến cho quá trình tự do hóa tài chính ở Hàn Quốc đi xuống là
trình tự không hợp lý, thiếu đồng bộ, giám sát kém.
Mặc dù tự do hóa tài chính được tiến hành nhưng ở Hàn Quốc khuôn khổ giám sát phòng
ngừa yếu. Trên thực tế, một phân tích báo cáo xếp hạng tín nhiệm thực hiện bởi hai tổ chức xếp
hạng tín nhiệm ở Hàn Quốc đã cho thấy sự thực rằng những đánh giá tín nhiệm của họ đối với
các công ty rất thiếu độ tin cậy và tính chuyên môn. Đồng thời, chuẩn mực quản trị rủi ro thấp
hơn nhiều so với chuẩn mục quốc tế. Ở Hàn Quốc, vấn đề vốn hóa không đủ mức của các ngân
hàng vừa không được nhận biết đầy đủ vừa không được xử lý hợp lý trước khủng hoảng. Quan
trọng hơn là các chuẩn mực của Hàn Quốc về quản trị rủi ro thấp hơn nhiều so với các chuẩn
mực toàn cầu. Dự phòng mất khoản vay không thỏa đáng, thừa nhận một phần những mất mát
trong đánh giá lại dự trữ, và những chuẩn mực phân loại khoản vay và các quy tắc kế toán lỏng
léo đã dẫn tới sự khác biệt giữa những con số chính thức và thực trạng sức khoẻ của ngân hàng.
2.1.1.4
Thái Lan
Khái quát về quá trình tự do hóa tài chính tại Thái Lan có thể thấy. Trong lĩnh vực ngân
hàng, dịch vụ bảo hiểm và bảo hiểm phi nhân thọ, không được phép cung cấp dịch vụ tài chính


12
qua hình thức xuyên biên giới và tiêu dùng ngoài lãnh thổ.
Thái Lan cũng quy định về mức tối đa sở hữu nước ngoài trong các định chế tài chính là:
đối với bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ là 25% vốn đăng ký; các dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (trừ
quỹ lương hưu) là 49%; văn phòng đại diện của ngân hàng thương mại là 0%; ngân hàng nội địa
là 25% (mỗi công ty tối đa 10%); công ty chứng khoán là 49%; công ty quản lý tài sản là 25%
trong 5 năm đầu và 49% trong 5 năm tiếp theo; công ty cho thuê tài chính, dịch vụ bao thanh
toán, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ là 49%. Như vậy, ta thấy rằng Thái Lan rõ ràng chỉ tự do hóa tài
chính chỉ một phần và đối với lĩnh vực ngân hàng là không hề có một sự tự do nào đối với các

ngân hàng nước ngoài. Động tác này nhằm vào việc Thái Lan bảo hộ cho các định chế tài chính
nước mình tránh sự cạnh tranh mạnh mẽ dẫn đến việc sở hữu các tổ chức tài chính nội địa của
các nước đầu tư vào Thái Lan.
Trong lĩnh vực ngân hàng thì Thái Lan không có hạn chế trong việc cung cấp dịch vụ tài
chính nhưng ngoại trừ dịch vụ tư vấn tài chính và xử lý dữ liệu tài chính; hiện diện thương mại
không hạn chế đối với các chi nhánh ngân hàng đã hoạt động.
Đối với các công ty chứng khoán, Thái Lan không giới hạn việc tiếp cận thị trường và đối xử
quốc gia theo phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ. Cụ thể là cho phép đối xử quốc gia đối với
phương thức cung cấp xuyên quốc gia; cho phép tiếp cận thị trường theo phương thức hiện diện
thương mại đối với các văn phòng đại diện.
Từ khi gia nhập WTO đến trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, Thái Lan kiểm
soát chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhưng lại thả lỏng đối với nguồn vốn
vay nước ngoài. Số vốn vay này được tổ chức hỗ trợ ngân hàng Thái Lan thu hút rất đáng kể.
Nhưng số vốn này được tiếp tục cho vay mà không tính đến tính hiệu quả của dự án. Cộng thêm
chính sách kinh tế vĩ mô không phù hợp đã khiến cho Thái Lan trở thành nước châm ngòi cho
khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Nổi bật trong chính sách đó chính là việc Thái Lan neo
tỷ giá cố định theo đông đô la Mỹ dẫn đến việc đồng Baht được đánh giá cao hơn thực tế mà dự
trữ về ngoại tệ của ngân hàng trung ương không đủ đáp ứng cho giá trị của đồng Bath.
Sau khủng hoảng, một mặt Thái Lan dựa vào nguồn vốn hỗ trợ từ IMF mặt khác bắt đầu
mở cửa đón nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm tái vốn hóa hệ thống ngân hàng trong nước
đang gặp khó khăn, thu hút công nghệ ngân hàng tiên tiến và bắt đầu thay đổi về mặt chính sách.
Tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong hệ thống ngân hàng cũng được điều chỉnh gia tăng đáng kể. Kết
quả là lĩnh vực ngân hàng tại Thái Lan đã có những bước chuyển biến tích cực và năng động đối
với lĩnh vực tài chính tại Thái Lan.
2.1.2 Bài học cho Việt Nam


13
Thứ nhất: Tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển mà cụ thể là tự do hoá lãi suất
là mạo hiểm trong điều kiện lạm phát cao hay mất cân đối kinh tế vĩ mô lớn liên quan đến việc

đầu tư kém hiệu quả và các món nợ khổng lồ của các tập đoàn tư nhân và khu vực công. Tiết
kiệm hạn chế và vấn đề nợ quá hạn có thể đặt các thị trường tài chính dưới sự căng thẳng hơn và
đẩy lãi suất thực tế lên cao. Trong điều kiện Chính phủ tái diễn việc tài trợ các khoản thâm hụt
tài chính trong nước, các trái phiếu phải bảo đảm khả năng sinh lời cao mới thu hút được tiết
kiệm tư nhân. Nếu lặp lại việc in tiền sẽ phải đối diện với vấn đề lạm phát và sự mất lòng tin của
khu vực kinh tế tư nhân do giá trị tài sản tài chính bị xói mòn.
Trái lại các nước có nền kinh tế vĩ mô khá ổn định có thể tránh được những nguy cơ lãi
suất thực cao, những giao động trong tỷ giá hối đoái thực và tình trạng không trả được nợ của
các hãng và ngân hàng. Vì thế một số nước mà có tình trạng kinh tế vĩ mô không ổn định nên lựa
chọn thực hiện tự do hoá từ từ, họ sẽ vẫn duy trì được một số kiểm soát nhất định đối với lãi suất
và luồng vốn đồng thời khuyến khích cạnh tranh mạnh hơn và điều chỉnh lãi suất cho phù hợp
với các điều kiện của thị trường.
Thứ hai: Do mức độ tập trung ngân hàng cao và phương thức sở hữu nội bộ nên hoạt
động tài chính kém hiệu quả. Cần kích thích sự cạnh tranh giữa các ngân hàng bằng cách thực
hiện tổng hợp các phương thức như tự do hoá lãi suất, tư nhân hoá các ngân hàng, thành lập các
thị trường trái phiếu và thúc đẩy các hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, dỡ bỏ
hàng rào cản đối với ngân hàng mới gia nhập để bảo đảm cạnh tranh bình đẳng và tối thiểu hoá
rủi ro.
Bài học thứ ba cần quan tâm đến các vấn đề như rủi ro thiếu thông tin hoặc chia cắt thị
trường tín dụng ảnh hưởng đến cơ chế phân phối tín dụng theo hướng bất lợi cho các nông trại
vừa và nhỏ. Ngoài ra cũng phải quan tâm giải quyết các vấn đề nợ quá hạn, khủng hoảng tài
chính do thiếu các quy định quản lý và thực hiện quy định đó kém hiệu quả. Không nên can thiệp
quá sâu vào hoạt động ngân hàng.
Thứ tư: Vấn đề nợ trong nước của khu vực công và những món nợ khó đòi của hệ thống
ngân hàng là rào cản cho sự thành công của tự do hoá tài chính. Tình trạng vỡ nợ hàng loạt của
các ngân hàng và người đi vay gây chi phí cao cho các cơ quan tiền tệ gây thiệt hại cho ngân
hàng trung ương làm tăng thêm nợ công cộng trong nước và không kiểm soát được tiền tệ. Giải
quyết vấn đề nợ đó là hết sức cần thiết đối với hệ thống tài chính. Các hướng dẫn thích hợp đối
với vấn đề nợ quá hạn nên được hình thành như là một phần của hệ thống các qui định.
Thứ năm: Trong khi giá cả bị lệch lạc do các biện pháp bảo hộ hoặc kiểm soát giá tự do

hoá tài chính có thể không cải thiện được vấn đề phân phối nguồn lực một trong những mục tiêu


14
của nó. Trên thực tế xoá bỏ điều tiết có thể làm vấn đề tồi tệ hơn như ở Chilê tỷ giá hối đoái tăng
quá cao đầu thập kỷ 80 dẫn đến đầu tư quá mức vào bất động sản khi cải cách tài chính thì nguồn
lực đổ vào khu vực này càng cao khủng hoảng nổ ra khu vực này bị thiệt hại nặng nề nhất. Vì
vậy điều chỉnh tỷ giá hối đoái cải cách thương mại và chính sách doanh nghiệp hoá Nhà nước
nên thực hiện trước hoặc cùng với tự do hoá tài chính.
Thứ sáu: Sự can thiệp trực tiếp vào khu vực tài chính phải được thay thế bởi một hệ
thống luật pháp và quy định phù hợp và giảm can thiệp.

Chương 2
Tự do hóa tài chính ở Việt Nam.
2.1

Sự cần thiết phải tiến hành tự do hoá tài chính tại Việt Nam.
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều hướng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống vật

chất, tinh thần của con người thông qua các hoạt động kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn
hoá...,trong đó, hoạt động kinh tế đóng vai trò quyết định. Chính vì vậy, mục tiêu chính của các
nước đang phát triển hiện nay là phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng giống như các nước đang
phát triển khác, để làm được điều đó, Việt Nam không thể chỉ sử dụng nguồn lực trong nước mà
cần phải huy động tối đa các nguồn lực bên ngoài bằng cách mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do
hoá kinh tế nói chung và tự do hoá tài chính nói riêng. Như đã phân tích ở chương 1, tuy còn có
những tranh luận về lợi ích và tác hại của tự do hoá tài chính nhưng chắc chắn rằng, những lợi
ích mà tự do hoá tài chính mang lại sẽ lớn hơn nhiều so với những nguy cơ mà nó có thể gây ra,
đồng thời, những nguy cơ ấy là hoàn toàn có thể phòng tránh được nếu chúng ta có một lộ trình
thực hiện đúng đắn, một cơ chế giám sát chặt chẽ có hiệu quả và sự chuẩn bị tốt cho năng lực
của các tổ chức trung gian trong nước.

2.2

Quá trình tự do hóa tài chính ở VN.
Ý thức được tầm quan trọng của khu vực tài chính trong nền kinh tế, ngay từ khi bắt đầu

công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có rất nhiều những cải cách liên quan đến khu vực này theo
hướng nới lỏng dần cơ chế quản lý đối với hệ thống tài chính, từng bước nâng cao vai trò của thị


15
trường trong sự vận hành của đồng vốn. Phần viết dưới đây tập trung phân tích những kết quả
cũng như tồn tại của quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam theo các khía cạnh: lãi suất, thị
trường tín dụng, các định chế tài chính, dịch vụ tài chính và bước đầu đánh giá một số tác động
của quá trình đó tới nền kinh tế Việt Nam
2.2.1 Tự do hóa lãi suất.
Chính sách lãi suất luôn có tác động rất lớn tới tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Cơ cấu
và các mức lãi suất trong một nền kinh tế thị trường nhằm để hỗ trợ cho ba mục tiêu sau đây:
- Khuyến khích tiết kiệm và trung gian tài chính.
- Hướng các nguồn lực tài chính vào các hoạt động có tỷ suất lợi nhuận cao nhất, cũng
như điều chỉnh co cấu kỳ hạn của các luồng vốn tài chính, tức là ngắn hạn với dài hạn.
- Mang lại mức chênh lệch đủ để các tổ chức tài chính trang trải chi phí hoạt dộng, chi
phí vốn, chi phí chấp nhận rủi ro và lợi nhuận trên vốn tự có.
Để đạt được những mục tiêu trên, lãi suất thực phải dương và thống nhất với những giao
dịch tài chính. Chính sách lãi suất của Việt Nam cũng không đi chệch những mục tiêu này.
a) Thành tựu:
Từ khi bắt đầu chương trình đổi mới, NHNN đã chuyển từ cách điều hành can thiệp sâu
trước đó sang tạo mức chủ động cao hơn cho các ngân hàng trong việc ấn định từng loại lãi suất
cụ thể và giảm bớt những lệch lạc. Các mốc cụ thể là:
- Tháng 3/1989, NHNN quán triệt một mức lãi suất dương, tuy nhiên do không kiềm chế
được lạm phát ( năm 1990 đến năm 1992 ) nên lãi suất âm vẫn xuất hiện.

- Tháng 10/1993, NHNN đã hạn chế được tính bao cấp hành chính và phức tạp trong
chính sách lãi suất bằng việc loại bỏ các lãi suất cho vay cụ thể theo ngành, thay bằng lãi suất
phân biệt theo cơ cấu kỳ hạn khoản vay ( cơ chế lãi suất trần tín dụng ) và đồng thời thi hành cơ
chế lãi suất thoả thuận đối với những trường hợp cho vay từ nguồn phát hành kỳ phiếu. Thêm
vào đó, NHNN đã ấn định lãi suất danh nghĩa ở mức làm cho lãi suất thực chủ yếu là dương,
điều này cho thấy sự kiềm chế về tài chính đã được giảm thiểu.
- Tháng 1/1996, NHNN áp dụng cơ chế một trần lãi suất tín dụng, khống chế chênh lệch
lãi suất đầu vào - đầu ra, tự do hoá lãi suất đầu vào , trần lãi suất tín dụng trung - dài hạn được
qui định cao hơn trần lãi suất tín dụng ngắn hạn. Tới thời điểm này, các ngân hàng mới thực sự
có tính tự chủ trong các hoạt động của mình. Việc áp dụng mức chênh lệch lãi suất tiền gửi và
cho vay ở mức 0,35%/ tháng không đem lại hiệu quả kinh tế và gây khó khăn phức tạp trong
việc tính toán và kiểm soát của NHNN.
- Tháng 1/1998, NHNN chỉ tập trung vào điều hành trần lãi suất tín dụng ( bỏ mức chênh
lệch khống chế), tiếp tục nâng cao một bước tính tự chủ của các ngân hàng.
- Giai đoạn thứ ba (từ tháng 8/2000 - 5/2002): NHNN đã thực hiện cơ chế điều hành lãi


16
suất theo Luật NHNN (cơ chế điều hành lãi suất cơ bản) thay cho cơ chế lãi suất trần. Theo
cơ chế này, NHNN công bố lãi suất cơ bản hàng tháng (lãi suất cơ bản xác định căn cứ vào lãi
suất cho vay tốt nhất của
14 NHTM trong nước). Trên cơ sở lãi suất cơ bản các TCTD được phép cộng thêm biên độ,
đối với cho vay ngắn hạn cộng 0,3%/tháng, cho vay trung và dài hạn cộng 0,5%/tháng.
- Giai đoạn thứ tư (từ 1/6/2002 đến tháng 5/2008): Lãi suất VND được tự do hoá
hoàn toàn. NHNN áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại
bằng VND của TCTD đối với khách hàng. Theo đó, các TCTD xác định lãi suất cho vay
bằng VND trên cơ sở cung cầu vốn thị trường, chi phí hoạt động và mức độ rủi ro của
khách hàng. Tuy nhiên, NHNN vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để làm tham khảo và định
hướng lãi suất thị trường.
Các hạn chế đối với lãi suất từng bước được loại bỏ theo hướng tiến tới tự do hoá. Cơ

cấu lãi suất ngày càng được đơn giản và thống nhất hơn để làm tăng khả năng tiếp cận bình
đẳng của khách hàng đến tín dụng ngân hàng. Điều hành lãi suất được chuyển từ việc ấn
định các mức lãi suất cụ thể sang cơ chế lãi suất linh hoạt mà theo đó lãi suất của các TCTD
được phép biến động trong một phạm vi nhất định, cuối cùng là tự do hoá hoàn toàn như hiện
nay. Các TCTD có quyền tự chủ hoàn toàn xác định các mức lãi suất trong các giao dịch với
khách hàng tuỳ theo mức độ rủi ro, tin cậy và điều kiện thị trường.
Tuy nhiên, trong quá trình tự do hóa lãi suất từ tháng 6 năm 2002 tới nay, có những
thời kỳ, do yêu cầu ổn định nền kinh tế vĩ mô của đất nước, thực hiện nhiệm vụ cụ thể trong
từng giai đoạn mà quá trình tự do hóa lãi suất không được tiếp tục một cách liền mạch. Cụ thế
như sau:
- Giai đoạn thứ năm (từ tháng 5/2008 đến nay)
Từ giữa tháng 5/2008 do nhiều yếu tố tác động từ nền kinh tế nên quá trình tự do hóa
lãi suất tạm thời bị ngưng lại. Quản lý hành chính được thiết lập dưới nhiều hình thức:
+ Khống chế trần lãi suất tiền gửi: Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày
7/9/2011 của NHNN đã thể hiện rõ việc khống chế trần lãi suất huy động vốn của các TCTD.
NHNN đã đưa ra chính sách trực tiếp, gián tiếp để giảm nhiệt lãi suất trong giai đoạn này, các
NHTM không được phép vượt trần lãi suất huy động là 14% để hướng tới giảm lãi suất cho
vay xuống còn 17-19% mà đi đầu phải là 12 NHTM lớn. Tiếp theo đó, ngày 28/9/2011, NHNN
đã ban hành Thông tư 30/2011/TT- NHNN (có hiệu lực kể từ ngày 1/10/2011) quy định lãi suất
tối đa với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng các tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ thể: lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không


17
kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là
6%/năm. Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là
14%/năm, riêng Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi kỳ
hạn 1 tháng trở lên là 14,5%.
Năm 2012, trên cơ sở xu hướng giảm của lạm phát và điều kiện cung – cầu vốn thị
trường, Thống đốc NHNN quyết định điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành và lãi suất

tiền gửi tối đa với VNĐ qua thông tư 05/2012/TT – NHNN ngày 12/3/2012. Theo đó, lãi
suất huy động cao nhất của VNĐ là
13%/năm cho kỳ hạn từ 1 tháng trở lên, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng ,
mức lãi suất tối đa được áp dụng là 5%/năm, riêng Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định
mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi kỳ hạn 1tháng trở lên là 13,5%. Hiện nay, mức lãi suất
huy động cao nhất của VNĐ là 9%/năm cho kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là 13.5%.
+ Khống chế trần lãi suất cho vay: Tháng 5/2008, NHNN quy định các NHTM ấn
định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ.
Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam
ngày 19/5/2008. Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM; đồng
thời, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái
cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ.
Năm 2012, NHNN vẫn khống chế trần lãi suất cho vay và quy định lãi suất cho vay với
các khoản vay cũ không quá 15% /năm.
Ngoài ra, Ngân hàng nhà nước còn đưa ra các chế tài kiểm soát lãi suất khác và tiến
hành thanh tra giám sát việc chấp hành mức trần lãi suất đã đưa ra.
b) Tác động tích cực của việc thay đổi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường.
Đối với các nước, việc thực hiện cơ chế lãi suất thị trường là yếu tố có tính "hạt nhân" để
thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu, làm tăng tính cạnh tranh, thúc đẩy các
dịch vụ tài chính phát triển, góp phần ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô, hội nhập kinh tế quốc
tế (thể hiện ở chỉ tiêu M2/GDP- phản ánh mức độ huy động vốn trong nước của khu vực tài
chính chính thức tăng lên, như Thái Lan tăng từ 52% lên 80% năm 1994, Singapore tăng từ 58%
lên 84,4% so sánh giữa trước và sau thời điểm tự do hoá lãi suất...).
Đối với Việt Nam, quá trình thay đổi cơ chế lãi suất theo thị trường có những tác động
tích cực đối với kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính - tiền tệ, biểu hiện như sau:


18
Một là: việc "nới lỏng" cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường đã tạo khả năng
cho thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu.

Hai là: sự thay đổi của chính sách lãi suất là phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, nhưng
cũng chính yêu cầu phát triển nền kinh tế, tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế và sự hình thành
các nhân tố kinh tế thị trường đã buộc chính sách lãi suất phải có sự "nới lỏng" để chuyển dần
sang cơ chế lãi suất thoả thuận nhằm tạo điều kiện cho việc huy động tối đa nguồn lực trong
nước phục vụ cho đầu tư phát triển và đồng bộ với tổng thể chính sách kinh tế - tài chính - đối
ngoại (vốn huy động và tín dụng đối với nền kinh tế tăng trưởng trên 20%/năm; vốn tín dụng
cung ứng cho nền kinh tế tuy tăng trưởng mức cao, năm 1991 tương đương 21% GDP, năm 2001
là 40% (Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 7 năm 2002)
Ba là: việc "nới lỏng" cơ chế lãi suất làm cho lãi suất tự điều chỉnh linh hoạt và phù hợp
hơn với quan hệ cung - cầu vốn thị trường, các luồng vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi nhuận
cao với mức rủi ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư thúc đẩy việc các NHTM phát triển nhanh
chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa ra các mức lãi suất, sản phẩm dịch vụ
thích hợp cho các khách hàng. Thực tế những năm 1991 - 1995 cho thấy khi NHNN khống chế
chặt chẽ mức trần lãi suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích sự vay mượn lòng vòng trên thị
trường không chính thức, trốn tránh sự kiểm soát, lãi suất tiền gửi tăng, nhưng lãi suất cho vay
lại không tăng được và chênh lệch lãi suất chỉ đủ bù đắp chi phí kinh doanh, lợi nhuận rất thấp,
khả năng tài chính của các NHTM bị yếu đi, dễ gây xáo trộn, tổn thương cho thị trường tài chính.
Bốn là: quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận đi liền với quá trình "nới
lỏng" kiểm soát ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt làm cho lãi suất trong nước bám
sát hơn lãi suất quốc tế, việc huy động vốn ở trong nước và từ nước ngoài tăng lên để tài trợ cho
nhu cầu tín dụng trong nưóc.
Năm là: quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận làm cho mức biến động
ngày càng tăng của các luồng vốn đầu tư, NHNN phải sử dụng và phát huy nhiều hơn các công
cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ, tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng và phát triển
đồng đều các bộ phận của thị trường tiền tệ.
Sáu là: sau mỗi giai đoạn "nới lỏng" cơ chế điều hành lãi suất, việc huy động vốn và mở
rộng cho vay của TCTD được thuận lợi hơn, người sản xuất và tổ chức kinh tế ở nông thôn được
vay vốn nhiều hơn do khối lượng vốn chuyển về khu vực nông thôn tăng lên (tín dụng đối với
khu vực nông thôn 5 năm gần đây tăng bình quân 23 - 25%/năm, lớn hơn mức bình quân chung).
Bảy là: ngân sách Nhà nước có điều kiện huy động được tối đa nguồn lực trong nước để

bù đắp thâm hụt, thay vì đi vay nước ngoài quá lớn hoặc sử dụng tiền phát hành.


19
Như vậy, với điều kiện kinh tế - xã hội và thị trường tài chính - tiền tệ trong những năm
qua, việc áp dụng cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường là bước đi thích hợp. Tuy
nhiên, nhìn lại cơ chế điều hành lãi suất cơ bản thời gian qua có một số tồn tại.
c) Bất cập:
- Về thực chất, cơ chế lãi suất cơ bản vẫn còn sự can thiệp hành chính của Nhà nước, thể
hiện ở việc khống chế biên độ. Trên thực tế, lãi suất cho vay và huy động của TCTD của địa bàn
thành thị về cơ bản đã thực hiện theo cơ chế lãi suất thoả thuận; đối với địa bàn nông thôn lãi
suất cho vay đã sát biên độ, làm cho lãi suất nhiều khi không phản ánh đúng cung - cầu vốn thị
trường, các TCTD gặp trở ngại trong việc huy động và cho vay vốn.
- Do việc khống chế biên độ làm cho các TCTD không thể phản ứng kịp thời để phòng
tránh rủi ro về lãi suấtvà thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ trong và ngoài nước biến
động theo hướng tăng, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động bị thu hẹp do lãi suất huy động
tăng nhưng lãi suất cho vay không tăng.
- Cơ chế lãi suất có sự kiểm soát bằng công cụ hành chính không phù hợp với yêu cầu
của việc phát huy và khai thác nguồn vốn nội lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước, vì với tư cách là "hàng hoá", nó vận hành theo quan hệ cung - cầu, nếu lãi suất
thấp việc huy động vốn sẽ khó khăn.
Những tác động tích cực của cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường và hạn chế
của cơ chế lãi suất cơ bản thời gian qua cho thấy rằng việc chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất
cho vay thoả thuận là điều cần thiết.
2.2.2 Tự do hóa hoạt động tín dụng.
a) Thành tựu:
Chính sách tín dụng của NHNN Việt Nam theo đuổi các mục tiêu : đẩy mạnh huy động
vốn để cho vay; đổi mới cơ cấu tín dụng theo hướng giảm bớt tín dụng ngắn hạn, nâng dần tỷ lệ
cho vay trung và dài hạn; mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế; tín dụng không chỉ dành
riêng cho khu vực quốc doanh và dân cư ; nâng cao tính hiệu quả của tín dụng và hạn chế đến

mức thấp nhất rủi ro trong tín dụng.
Kết quả các năm vừa qua đã cho thấy công tác tín dụng đã đạt được một số kết quả tích
cực nhất định. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn so tổng dư nợ cũng như tỷ trọng tín dụng cấp cho các
doanh nghiệp quốc doanh đã giảm
Bảng 2.1. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn so với tổng dư nợ của các ngân hàng
Chỉ tiêu

1
991

Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn so với tổng dư nợ tín dụng (%)

1
997

8

1
998

6

5


20
5.0
Tỷ trọng cho vay doanh nghiệp quốc doanh (%)

0.5

9

0.0

4.5
5

1.0

7
5.0

Nguồn: Báo cáo của IMF 1- 2000
Quy chế tín dụng ngày càng phù hợp với nền kinh tế thị trường, "thông thoáng hơn". Gần
đây nhất, Quyết định số 1627/2001/QG-NHNN ban hành về Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng, với nhiều điểm mới:
- Đối tượng áp dụng được cụ thể hơn trước: các tổ chức tín dụng được thành lập và thực
hiện nghiệp vụ cho vay theo qui định của Luật các tổ chức tín dụng. Khách hàng vay tại tổ chức
tín dụng, bao gồm: các pháp nhân là: doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các pháp nhân, cá nhân là
người nước ngoài và các tổ chức khác có đủ các điều kiện qui định tại Điều 94 của Bộ Luật dân
sự, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân.
- Đối tượng cho vay được mở rộng bao gồm giá trị vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị và
các khoản chi phí hợp lý, trong đó tiền thuế xuất khẩu, lãi tiền vay trung dài hạn trong thời gian
tài sản cố định đang được thi công cũng được xem xét cho vay, trước đây không có qui định về
điều hành này.
- Thời hạn cho vay cũng qui định cụ thể hơn, bao gồm cho vay ngắn hạn tối đa đến 12
tháng, cho vay trung hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng, cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên.
- Quy chế còn quy định một số hình thức cho vay đặc thù như: cho vay ngoại tệ, cho vay
ưu đãi, cho vay đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch của Nhà nước, cho vay uỷ thác cho chính

phủ và tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước...
- Lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp với qui định của
NHNN tại thời điểm cho vay.
- Giới hạn cho vay so với tài sản làm bảo đảm tiền vay và không vượt quá 15% vốn tự có
của tổ chức tín dụng.
- Thời gian giải quyết cho vay của các tổ chức tín dụng được qui định cụ thể hơn nhằm
hạn chế tới mức thấp nhất phiền hà trong cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng,
chậm nhất là 10 ngày đối với cho vay ngắn hạn và 45 ngày đối với vay trung và dài hạn.
- Đưa ra các quy định khi khách hàng bị khó khăn về tài chính do nguyên nhân khách
quan, không trả đúng hạn nợ gốc và lãi thì tổ chức tín dụng xem xét cho gia hạn nợ vay, điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ, miễn giảm lãi tiền vay.
- Theo các quy định hiện hành, các đối tượng vay vốn không phải áp dụng các biện pháp
bảo đảm bao gồm:


21
+ Hộ gia đình nghèo vay vốn tại ngân hàng phục vụ người nghèo và vay tại các tổ chức
tín dụng khác.
+ Hộ nông dân (không thuộc diện nghèo) vay tại các tổ chức tín dụng có mức vay dưới 5
triệu đồng.
+ Doanh nghiệp Nhà nước vay vốn tại các ngân hàng thương mại quốc doanh.
+ Ngoài ra, một số đối tượng cho vay khác theo các mục tiêu chỉ định được chính phủ qui
định không phải thế chấp, cầm cố tài sản hoặc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp,
cầm cố như: cho vay vốn khắc phục bão lụt, thiên tai, cho vay đầu tư theo kế hoạch Nhà nước,
cho vay tôn nền làm sàn nhà trên cọc ở đồng bằng sông Cửu Long, cho vay đóng mới tàu thuyền
công suất lớn để thực hiện chương trình đánh bắt hải sản xa bờ...
b) Bất cập:
Mặc dù hoạt động tín dụng đã có nhiều điểm thông thoáng hơn so với trước đây như: đối
tượng, phạm vi khách hàng được mở rộng điều kiện cho vay cũng được nới lỏng, thời hạn cho
vay phù hợp với chu kỳ hoạt động kinh tế, phương thức cho vay được mở đa dạng và phong phú

hơn song vẫn còn nhiều vấn đề cần được giải quyết, mức độ tự do hoá còn chưa cao:
- Trên phương diện vĩ mô, hoạt động tín dụng có tính thụ động, chưa chú trọng vấn đề
phát triển thị trường, định hướng nền kinh tế.
- Hoạt động tín dụng vẫn còn mang tính bao cấp: các doanh nghiệp Nhà nước được
hưởng ưu đãi trong vay vốn hơn so với các doanh nghiệp tư nhân. Theo văn bản số 417/CVNH14 của NHNN, chính phủ quyết định các DNNN vay vốn của các NHTMQD không phải thế
chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, các doanh nghiệp bị thua lỗ từ năm trước chưa được xử
lý, nhưng có phương án kinh doanh có hiệu quả và được Bộ (đối với doanh nghiệp trung ương)
hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (đối với doanh nghiệp địa phương) chấp
thuận, và đơn vị cam kết sử dụng vốn đúng mục đích, cam kết trả nợ vay đúng hạn thì ngân hàng
cho vay tiếp. Như vậy, vô hình chung, việc các ngân hàng thương mại quốc doanh được phép cấp
tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước mà không cần phải có thế chấp là một việc làm hoàn
toàn xao nhãng đến những yêu cầu đòi hỏi đối với một khu vực ngân hàng lành mạnh. Rõ ràng là
các ngân hàng thương mại quốc doanh ngày càng bị lạm dụng như là nơi trung chuyển tín dụng
cho các doanh nghiệp Nhà nước. Thực tế này có thể được đánh giá như là hoạt động bao cấp
gián tiếp cho ngân sách Nhà nước. Kể từ năm 1997, tức là sau khi có quyết định nói trên, mức
tăng tín dụng cho khu vực DNNN nói chung đã tăng nhanh hơn một cách bất thường so với khu


22
vực ngoài quốc doanh (trước đó, tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh đã giảm). Trong
năm1998, khu vực DNNN đã nhận khoản trên 75% tổng lượng tín dụng cho các khu vực kinh tế.
Điều này thể hiện rõ sự bất bình đẳng giữa 2 khu vực DNNN và các doanh nghiệp tư nhân. Các
doanh nghiệp quốc doanh được cấp tính dụng khi có phương án kinh doanh song thực trạng hoạt
động sản xuất kinh doanh của các DNNN Việt Nam hiện nay lại rất kém hiệu quả. Trong khi đó,
các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn lại bị hạn chế tiếp
cận với các nguồn vốn. Như vậy, thực tế hiện nay đang phá vỡ tính ổn định của hệ thống ngân
hàng Việt Nam, đang ưu đãi khu vực kinh tế Nhà nước hơn là khu vực tư nhân và thể hiện sự bao
cấp gián tiếp cho ngân sách Nhà nước. Kết quả của thực tế này là tín dụng ngày càng bị phân bổ
sai; điều không tránh khỏi là quá trình tăng trưởng kinh tế phải chịu những tác động tiêu cực.

2.2.3 Tự do hóa hoạt động của các định chế tài chính trung gian.
a) Thành tựu:
Cùng với tiến trình đổi mới kinh tế, thị trường tài chính của Việt Nam đã có những thay
đổi đáng kể, việc chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp chuyển sang 2 cấp với ngân hàng
Nhà nước giữ vai trò quản lý và hoạch định chính sách, còn các ngân hàng thương mại được tự
do thực hiện các dịch vụ tiền tệ và tín dụng trong khuôn khổ các qui định của ngân hàng Nhà
nước ban hành đã đánh dấu bước hoà nhập đầu tiên của hệ thống tài chính Việt Nam vào các tiêu
chuẩn cơ bản của TTTC thế giới.
Kể từ năm 1990, các qui định về lĩnh vực hoạt động của từng ngân hàng đã được bãi bỏ
và các tổ chức tài chính có đủ điều kiện đều được phép tham gia vào hệ thống các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam. Cùng với các năm sau đó, thị trường liên ngân hàng ngoại tệ và vốn
ngắn hạn đã được thiết lập giữa hệ thống các ngân hàng thương mại, nghiệp vụ bảo lãnh cho vay
cùng các loại hình dịch vụ ngân hàng khác đã bắt đầu phát triển thể hiện một bước tiến lớn trong
việc đổi mới nghiệp vụ hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Nhờ kết quả của những nỗ lực đổi mới này, khu vực ngân hàng ở Việt Nam đã phát triển
nhanh chóng cùng với việc cho ra đời nhiều loại hình dịch vụ phù hợp với yêu câù của thị
trường. Tính cho đến nay, hệ thống trung gian tài chính ở Việt Nam đã phát triển tới: 4 ngân hàng
thương mại quốc doanh, 38 ngân hàng thương mại cổ phần, 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
40 văn phòng đại diện chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 2 công ty cho thuê tài chính 100% vốn
nước ngoài và 2 công ty liên doanh cho thuê tài chính , 948 quĩ tín dụng nhân dân, 82 hợp tác xã
tín dụng.
Trong đó:


23
- Các ngân hàng thương mại quốc doanh: có quyền thực hiện tất cả các nghiệp vụ huy
động vốn, cho vay bằng VNĐ và ngoại tệ, kinh doanh ngoại hối, thực hiện các dịch vụ thanh
toán trong nước và quốc tế, kinh doanh vàng bạc, đá quý và cung cấp các dịch vụ tư vấn, thuê
mua và bảo lãnh vay vốn...
- Các ngân hàng thương mại cổ phần: có cổ đông lớn là các ngân hàng thương mại quốc

doanh, các doanh nghiệp Nhà nước và cổ phần. Đa số các ngân hàng thương mại cổ phần được
thành lập trong giai đoạn 1991 - 1993.
- Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài: các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
chủ yếu cung cấp các dịch vụ tín dụng và tiền tệ bằng ngoại tệ. Đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ
thương mại (cụ thể là xuất nhập khẩu), hoạt động kinh doanh bằng nội tệ vẫn còn bị hạn chế do
các ngân hàng này chỉ được phép huy động một khối lượng giới hạn tiền gửi bằng VNĐ.
Các ngân hàng liên doanh: 4 ngân hàng liên doanh cả 4 ngân hàng thương mại quốc
doanh và các ngân hàng đối tác nước ngoài cũng phải chịu các qui định hạn chế về lượng huy
động tiền gửi bằng VNĐ giống như các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam.
Mặc dù hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần, liên doanh hay chi nhánh ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam không được hưởng các quy chế ưu đãi như các ngân hàng thương
mại quốc doanh. Nhưng trên thực tế, hoạt động của các khu vực ngân hàng này đã có những
bước tiến đáng kể và thực sự là các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng đối với các ngân hàng thương
mại quốc doanh một khi khu vực ngân hàng phải mở cửa theo cơ chế tự do cạnh tranh.
Nếu so sánh với tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại quốc doanh, tổng dư nợ của
các ngân hàng còn lại vẫn còn chiếm một tỷ trọng tương đối khiêm tốn. Tuy nhiên, có thể nhận
thấy chênh lệch dư nợ cho vay bằng ngoại tệ ở cả 2 khu vực ngân hàng là không lớn và nếu như
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Châu Á không làm tỷ giá của VNĐ biến động mạnh
thì chắc chắn mức độ tăng dư nợ ngoại tệ của nhóm các ngân hàng còn lại trong các năm 1997 và
1998 sẽ còn cao hơn.
Bảng 2.2. Cơ cấu tổng tín dụng cho vay (%)
1
996
Tổng cho vay

997

Cho vay ngoài quốc doanh

00


4

1
00
5
2,4

4

1
4
8,2

4

2
000

00

5
0,2

1
999

1

5

2,8

1
998

1
00

Cho vay DNNN

1

5

1
00
4
4,9
5


24
7,2
Cho vay của NHTMQD, trong đó:

Cho vay của NHTM ngoài quốc
doanh, trong đó:
Cho vay DNNN

4,5


NHTMQD cho vay

Cho vay ngoại tệ, trong đó:

3

2
2,8

3,3

-

-

-

-

1

-

-

-

-


7

7

8,6
7

,4

5
,3

6
8,8

7
3,9

4,4

5
9,3

5
7,0

,5

1
2,6

2
6,1

1

2
4,4

1
3,2

2
5,6

1
8,0

1
8,0

3
1,2

5
6,3

9

2


4,4

7

4,3

3

2,2
NHTM khác

4,4

1

6,6
NHTMQD cho vay

3

5

0,1

4

5,1

7,1


6

3,3
NHTM khác

2,8

6
7,9

4

9

3,4

8
1,4

2

,4
Cho vay bằng đồng, trong đó:

7,2

3
2,1

1,8


7

4
3,4

Cho vay ngoài quốc doanh

7,6

7
5,5

Cho vay DNNN

9,8

1
1,6

6
,0

1
4,0

9,3
6
2,8
1

6,5
2
0,7
1
0,5
1
0,2

Nguồn: Báo cáo của IMF 1.2002
b) Bất cập:
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, hoạt động của hệ thống các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài ở Việt Nam cũng mới chỉ giới hạn ở giai đoạn thận trọng thăm dò và tiếp tục
nghiên cứu thị trường chứ chưa thực sự đưa ra chiến lược mở rộng hoàn toàn thị phần của Việt
Nam. Với việc được quyền thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đa năng ở Việt Nam, khả năng
chiếm lĩnh thị phần từ các ngân hàng này là hoàn toàn có thể. Trong khi đó, chúng ta dường như
vẫn chưa nắm bắt được chiến lược phát triển dài hạn của các ngân hàng này trên TTTC của Việt
Nam để đưa ra những giải pháp đối phó thích hợp và chấp nhận được.


25
Có thể nhận thấy, chính sự bao biện và can thiệp còn sâu của Nhà nước đối với chính
sách hoạt động của các NHTMQD cùng với cơ chế cho vay vượt mức đối với các cổ đông chính
trong các ngân hàng thương mại cổ phần là hình ảnh trái ngược đối với chính sách cho vay được
thẩm tra thận trọng của các ngân hàng nước ngoài. Cho đến nay, tổng dư nợ của các NHTMQD
vẫn chiếm tới trên 70% tổng dư nợ của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, phần nhiều trong
số đó được dành cho các DNNN (44.9%) và chủ yếu theo chỉ đạo của Nhà nước. Ngoài ra, các
DNNN vẫn tiếp tục nhận được các nguồn vốn vay ưu đãi, cho vay không cần thế chấp và được
dễ dàng vay vốn ngoại tệ, đổi lại, các NHTMQD được Nhà nước cho phép khoanh nợ trong
trường hợp khách hàng chưa có khả năng thanh toán đã càng làm tăng tâm lý ỷ lại của các
NHTM. Điều này cũng được coi là nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của các ngân

hàng Việt Nam trước các đối tác nước ngoài.
Ngoài ra, sự phân biệt đối xử trong hoạt động cho vay của các NHTMQD đối với khu
vực kinh tế tư nhân, hộ gia đình cũng là những kiềm chế và chưa tự do hoá trong hoạt động của
các định chế tín dụng trong nưóc. Hoặc các quy định khống chế các ngân hàng có dư nợ dưới 5%
tổng dư nợ tín dụng mới được thành lập các công ty chứng khoán hoặc được phép thực hiện các
giao dịch chứng khoán cũng là những yêu cầu quá chặt chẽ.
2.2.4 Tự do hóa thị trường chứng khoán
a) Thành tựu:
Cùng với công cuộc đổi mới sâu rộng nền kinh tế, kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nhiều thành phần và cùng với đó là hàng
loạt các vấn đề không năng động và hiệu quả đối với khu vực các DNNN. Khôi phục lại uy tín
của hệ thống ngân hàng và giảm thiểu các khoản chi ngân sách đã trở thành những ưu tiên hàng
đầu của chính phủ. Để tăng cường hiệu quả và năng lực tài chính của khu vực các DNNN, Chính
phủ đã tiến hành hàng loạt các biện pháp đổi mới khu vực này trong đó có cả chính sách cổ phần
hoá các DNNN.
Cùng với các nỗ lực cải cách khu vực DNNN, chính phủ cũng đẩy mạnh công tác phát
triển thị trường vốn:
- Năm 1997, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được thành lập với nhiệm vụ xây dựng
các khung pháp lý cơ bản cho các hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương
lai. Khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, ngoài chức năng xây dựng và ban
hành các văn bản, thông tư hướng dẫn chi tiết của Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ về chứng
khoán và thị trường chứng khoán; xây dựng các chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển của


×