Tải bản đầy đủ (.pdf) (234 trang)

Biến đổi tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.74 MB, 234 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
--------------------

Lê Thị Thu Hiền

BIẾN ĐỔI TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN
ĐÀ NẴNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
--------------------

Lê Thị Thu Hiền

BIẾN ĐỔI TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN
ĐÀ NẴNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62 31 06 40


LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI QUANG THANH

Hà Nội - 2017


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản luận án tiến sĩ: Biến đổi tín ngưỡng của cư dân
ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa là công trình do tôi viết và chưa
công bố, các tư liệu sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin
chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 9 năm 2017
Tác giả luận án

Lê Thị Thu Hiền


2
MỤC LỤC
LỜICAM ĐOAN ....................................................................................................... 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................ 3
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ ......................................................................... 4
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .. 25
1.1. Các khái niệm thao tác ....................................................................................... 25
1.2. Lý thuyết nghiên cứu ......................................................................................... 32
1.3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu ........................................................................... 39

Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 49
CHƯƠNG 2. TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦA CƯ DÂN VEN BIỂN
ĐÀ NẴNG ................................................................................................................ 50
2.1. Niềm tin và thực hành tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng ..................... 50
2.2. Đối tượng thờ tự ................................................................................................. 54
2.3. Cơ sở thờ tự (không gian văn hóa thực hành tín ngưỡng) ................................. 59
2.4. Hệ thống lễ cúng ................................................................................................ 65
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 73
CHƯƠNG 3. HIỆN TRẠNG TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦA CƯ
DÂN VEN BIỂN ĐÀ NẴNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA HIỆN NAY . 75
3.1. Khái quát về quá trình đô thị hóa ở Đà Nẵng .................................................... 75
3.2. Thay đổi trong niềm tin và thực hành tín ngưỡng.............................................. 82
3.3. Thay đổi đối tượng và cơ sở thờ tự .................................................................... 92
3.4. Thay đổi trong lễ cúng ....................................................................................... 99
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 108
CHƯƠNG 4. TÍN NGƯỠNG CƯ DÂN VEN BIỂN ĐÀ NẴNG TRONG
QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA, MỘT SỐ VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ........................ 109
4.1. Nhận diện đặc trưng văn hóa của cư dân ven biển Đà Nẵng qua thực hành
tín ngưỡng ............................................................................................................... 109
4.2. Những nhân tố tác động đến biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà
Nẵng trong quá trình đô thị hóa .............................................................................. 116
4.3. Các xu hướng biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng .................. 127
Tiểu kết chương 4.................................................................................................... 133
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 135
DANH MỤC CÁC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ....................... 138
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 139
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 152


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Ch.b

: Chủ biên

CTQG

: Chính trị Quốc gia

ĐHQG

: Đại học Quốc gia

KHXH

: Khoa học xã hội

Nxb

: Nhà xuất bản

PL

: Phụ lục

STT

: Số thứ tự


TP

: Thành phố

Tr

: Trang


4
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng 1.

Hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hóa áp dụng cho Việt Nam ..30

Bảng 3.1.

Biến đổi niềm tin vào tín ngưỡng của cư dân làng Mỹ Khê,
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng .....................................................85

Bảng 3.2.

Biến đổi niềm tin vào tín ngưỡng của cư dân làng Nam Thọ,
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng .....................................................85

Bảng 3.3.

Biến đổi niềm tin vào tín ngưỡng của cư dân làng Thanh Khê,
quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng ................................................86


Bảng 3.4.

Đóng góp của các hộ gia đình cho hoạt động thực hành tín ngưỡng .88

Bảng 3.5.

Đến cơ sở thờ tự của làng Mỹ Khê, Nam Thọ và Thanh Khê ............88

Bảng 3.6.

Tham gia lễ hội của người dân địa phương ........................................90

Bảng 3.7.

Nguyên nhân không tham gia lễ hội tại các điểm nghiên cứu ............90

Bảng 4.

Thực trạng thực hành tín ngưỡng của bộ phận
thanh niên làng Mỹ Khê ....................................................................130

Biểu đồ 3.1. Sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành (1997 - 2015) ........................76
Biểu đồ 3.2. Sự tăng giảm dân thành thị và nông thôn
ở thành phố Đà Nẵng (1997 - 2015) ...................................................78
Biểu đồ 3.3. Niềm tin vào tín ngưỡng của cư dân tại ba điểm nghiên cứu .............83
Biểu đồ 3.4. Tần suất cúng bái tại các cơ sở thờ tự ................................................87
Biểu đồ 3.5. Tần suất đến các cơ sở thờ tự của ba làng hiện nay ...........................89


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Biến đổi là một quy luật tất yếu trong sự vận động không ngừng của lịch sử,
chi phối mọi lĩnh vực của đời sống con người, trong đó có văn hóa. Tuỳ vào nhân tố
tác động cũng như “bản lĩnh tự thân”, các thành tố của văn hóa biến đổi khác nhau
về tốc độ, quy mô, phương thức, trạng thái. Sự biến đổi đó biểu hiện xu thế hay các
trạng hướng vận động mới của văn hóa. Và trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay, mà biểu hiện đặc trưng là đô thị hóa, văn hóa nói
chung cũng như tín ngưỡng nói riêng mỗi ngày một đổi thay mạnh mẽ do sự tương
tác của nhiều nhân tố khác nhau.
Hình thành dựa trên cơ sở niềm tin của con người vào cái siêu nhiên, tín
ngưỡng ra đời gắn với cuộc sống con người từ thuở còn sơ khai, mông muội, phát
triển thăng trầm qua các thời kỳ lịch sử và tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần người Việt hiện nay. Những niềm tin tưởng chừng “mơ hồ” trong tín
ngưỡng lại có tác dụng nâng đỡ tâm hồn con người trong một bối cảnh xã hội đầy
xáo động (về các giá trị xã hội, đạo đức, niềm tin...) với những đổi mới không
ngừng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước ngày nay.
Là một trong những địa phương tiêu biểu của cả nước về hiệu quả và tốc độ
đô thị hóa nhanh chóng, bộ mặt thành phố Đà Nẵng đang ngày càng thay đổi không
ngừng. Theo đó, nhiều giá trị văn hóa đã dần biến đổi dưới tác động của quá trình
đô thị hóa theo cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Hơn nữa, từ khoảng gần hai
chục năm trở lại đây, cũng như khá nhiều địa phương ven biển khác của Việt Nam,
Đà Nẵng đã và đang chủ động trong trào lưu hướng biển, tạo xây mối quan hệ kinh
tế và văn hóa biển, nhằm mục đích phát triển một cách toàn diện và bền vững Đà
Nẵng trong hiện tại và lâu dài. Do vậy, nghiên cứu diện mạo và biến đổi văn hóa
của cư dân ven biển, cụ thể là tín ngưỡng tại một thành phố đô thị hóa đang diễn ra
sôi động như Đà Nẵng là một trong những công việc giúp sự tiếp cận vấn đề lý luận
cũng như thực tiễn nghiên cứu có nhiều ý nghĩa hơn.



6
Bên cạnh đó, nằm trong nhóm thành phố đáng sống hàng đầu ở Việt Nam,
Đà Nẵng là một thành phố ven biển có cảnh quan đẹp, con người thân thiện, kiến
trúc thành phố hài hòa với thiên nhiên, cơ sở hạ tầng tốt. Tuy nhiên, để có thể tiếp
tục phát triển kinh tế - xã hội của thành phố một cách bền vững trong tương lai, Đà
Nẵng cần đảm bảo tăng trưởng kinh tế không tàn phá môi trường, không làm cho xã
hội bất ổn và đặc biệt là không làm mất đi các giá trị văn hóa truyền thống. Trong
khi đó, hiện tại Đà Nẵng mới phân bổ ngân sách cho hoạt động văn hóa hàng năm là
0,9%, thay vì 1,8% nguồn thu (GDP) của tỉnh theo quy định của luật [133]. Đó là
một trong những nguyên nhân dẫn tới các hoạt động văn hóa, nhất là hoạt động
nghiên cứu và bảo tồn chưa được quan tâm đúng mức, làm cho các giá trị văn hóa
truyền thống, bao gồm cả tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng chưa được nhận
thức đầy đủ và ngày càng bị mai một. Vì vậy, kết quả nghiên cứu tín ngưỡng cư dân
ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa sẽ góp thêm cơ sở, luận cứ cho các cấp
chính quyền địa phương có chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa thành phố nói
chung, tín ngưỡng cư dân ven biển nói riêng một cách đúng đắn, thiết thực hơn.
Mặt khác, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) đã xác định Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nghiên cứu về văn
hóa địa phương, cụ thể là tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển Đà Nẵng trên
hai phương diện truyền thống và biến đổi trong bối cảnh hiện đại hóa đang diễn ra
sôi động tại Đà Nẵng là việc làm hết sức cần thiết, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc,
vừa thực hiện theo đúng đường lối phát triển văn hóa của Đảng và Nhà nước Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Bàn về tín ngưỡng và biến đổi tín ngưỡng, dưới góc độ lý luận và thực tiễn,
đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước tiếp cận ở các góc độ khác
nhau. Riêng đối với Đà Nẵng, ngoài công trình chuyên khảo Tín ngưỡng cư dân ven
biển Quảng Nam - Đà Nẵng của Nguyễn Xuân Hương tiếp cận dưới góc độ văn hóa
dân gian, tập trung khảo tả tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam và Đà Nẵng ở



7
khía cạnh truyền thống, thì chỉ có một vài bài báo, tạp chí viết về tín ngưỡng thờ cá
Voi và lễ hội Cầu ngư của các làng ven biển Đà Nẵng. Do vậy, với những tư liệu
nghiên cứu sinh tiếp cận được, có thể khẳng định rằng, chưa có một công trình nào
nghiên cứu sâu sắc, toàn diện, hệ thống về diện mạo và biến đổi tín ngưỡng ở bộ
phận cư dân ven biển thành phố Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa hiện nay. Điều
đó có nghĩa, cần thiết phải có một đề tài nghiên cứu về biến đổi tín ngưỡng của cư
dân ven biển Đà Nẵng trong bối cảnh đô thị hóa thành phố hiện nay để bổ sung vào
phần khuyết thiếu này trong nghiên cứu về tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng nói
riêng, cư dân ven biển Việt Nam nói chung.
Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn vấn đề: Biến
đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa làm đề tài
nghiên cứu của luận án tiến sĩ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu trong nước về tín ngưỡng của cư dân ven biển Việt
Nam
Tín ngưỡng cư dân ven biển ở Việt Nam được đề cập đến trong một số công
trình cuối thế kỷ XIX song chỉ là những ghi chép tản mạn, thiếu hệ thống, chủ yếu
về tín ngưỡng thờ cá Voi ven biển. Những tác phẩm đầu tiên có thể kể đến là Gia
Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống chí - phần tỉnh
Thừa Thiên của Quốc sử quán triều Nguyễn có đề cập đến vai trò quan trọng của cá
Voi trong đời sống ngư dân Trung Bộ và Nam Bộ, vì thế mà được tôn sùng, kính
trọng [32], [72]. Tín ngưỡng thờ cá Voi còn được đề cập đến, không mô tả và bình
luận, trong các tác phẩm Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam của Nguyễn Văn
Huyên, Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh [45], [4]. Sau năm 1954, việc
nghiên cứu văn hóa của cư dân ven biển được chú ý nhiều hơn, nhưng chủ yếu vẫn
là tín ngưỡng thờ cá Voi. Tiêu biểu như: Kẻ thừa tự của ông Nam Hải của Cung
Giũ Nguyên và Tục thờ cá Voi của Thái Văn Kiểm cùng đề cập khá kỹ đến sự thờ

phụng cá Voi của cư dân ven biến phía Nam [46].


8
Phải đến đầu thế kỷ XXI, hàng loạt các bài viết cũng như nhiều công trình
nghiên cứu về văn hóa dân gian làng ven biển Việt Nam được công bố và vì thế,
bức tranh văn hóa biển Việt Nam nói chung, tín ngưỡng cư dân ven biển Việt Nam
nói riêng ngày càng được phác họa rõ nét.
Trước hết, tín ngưỡng cư dân ven biển Việt Nam được đề cập trong những
công trình chuyên sâu về văn hóa làng ven biển hay cộng đồng ngư dân ở Việt
Nam. Các tác giả đa phần đều đi vào miêu thuật lại các thành tố văn hóa nổi bật tại
vùng đất mình nghiên cứu, vừa cố gắng khái quát hóa hết mức có thể nhằm xây
dựng bức tranh toàn diện, đa chiều; vừa chọn lọc, phân tích những yếu tố văn hóa
đặc thù để làm nổi bật nét riêng có của địa phương mình. Những thành tố được lựa
chọn thường là: Di tích, tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, diễn xướng, văn học dân
gian, tri thức bản địa. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu: Văn hóa dân gian
làng ven biển do Ngô Đức Thịnh chủ biên [82], Cộng đồng ngư dân ở ViệtNam của
Nguyễn Duy Thiệu [80], Văn hóa cư dân ven biển Quảng Ngãi của Nguyễn Đăng
Vũ [87], Cộng đồng ngư dân Nam Bộ do Trần Hồng Liên chủ biên [54], Văn hóa cư
dân Việt ven biển Phú Yên của Tập thể tác giả của Viện Văn hóa Nghệ thuật và Sở
Văn hóa - Thông tin Phú Yên [107], Văn hóa biển miền Trung Việt Nam của Lê
Văn Kỳ [51],Phong tục - tín ngưỡng dân gian làng biển Đông Tác củaLê Thế Vịnh
- Nguyễn Hoài Sơn [109], Đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của ngư dân và cư
dân vùng biển Nam Bộ của Phan Thị Yến Tuyết [104]...
Nghiên cứu riêng về tín ngưỡng cư dân ven biển ở Việt Nam, nổi bật hơn cả
là công trình chuyên khảo Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hòa của Lê
Quang Nghiêm. Công trình này đã đưa đến một cái nhìn cụ thể, rõ ràng hơn về niềm
tin, nguồn gốc thờ cúng và lễ nghi khấn vái của những người hành nghề đánh bắt cá
bằng cách đặt lưới cố định dọc theo chân các gành đảo ở Khánh Hòa qua việc điền
dã, khảo sát các tục thờ: Cúng ráp xương queo, cúng Tổ, cúng Tết thuyền, cúng

khai sơn, cúng kết gang, cúng ra mắt, cúng Lịch y, cúng Dàng, cúng Cầu ngư, cúng
mừng Rau, cúng Hạ đăng, cúng Tạ và nhấn mạnh, miêu thuật lại những tục thờ
cúng đặc biệt và kỳ lạ của 10 sở đầm đăng của Khánh Hòa [60].


9
Dù khan hiếm các công trình quy mô tìm hiểu về tín ngưỡng cư dân ven biển
Việt Nam nói chung hay cư dân ven biển tại các tỉnh thành, tuy nhiên từ những năm
đầu thế kỷ XXI cho đến nay, ngày càng xuất hiện nhiều các bài viết trên tạp chí đề
cập riêng về tín ngưỡng cư dân sinh sống ven biển. Tiêu biểu như các bài viết của
Tôn Thất Bình, Nguyễn Thanh Lợi, Phạm Văn Tú, Nguyễn Xuân Đức, Lê Thanh
Tùng... cùng hàng loạt bài tham luận trong các hội thảo: Tìm hiểu đặc trưng di sản
văn hóa, văn nghệ dân gian Nam Trung Bộ;Văn hóa sông nước miền Trung, Văn
hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam Bộ;Lễ hội đền Cờn, tục thờ Tứ Vị
Thánh Nương với văn hóa biển ở Việt Nam;Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa biển,
đảo Việt Nam...
Qua các bài báo, bài tham luận, có thể thấy nổi bật lên trong tín ngưỡng của
cư dân ven biển Việt Nam là tín ngưỡng thờ cá Voi. Dù có sự khác nhau về địa bàn
nghiên cứu (Quảng Bình, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Sóc Trăng,
Trà Vinh, Cà Mau, Cần Thơ…) song các tác giả đều gặp nhau ở phương pháp và
cách tiếp cận. Dựa trên khảo cứu nguồn tư liệu kết hợp quan sát, tham dự khi tiến
hành thực địa, các nghiên cứu gần như cùng có chung nhận định tín ngưỡng thờ cá
Voi của người Việt phổ biến và dàn trải trên khu vực Trung Bộ và Nam Bộ Việt
Nam, bắt nguồn từ tục thờ thần biển của người Việt và tiếp biến từ thờ vị thủy thần
Cha - Aih - Va của người Chăm. Xét về cơ bản, những biểu hiện cơ bản của tín
ngưỡng ở các địa phương như đối tượng thờ, nơi thờ tự, đám tang cá Voi, phong
tục, lễ nghi, lễ hội tương đối giống nhau, mặc dù trong từng tiểu tiết mỗi vùng miền
ít nhiều có sự khác biệt. Tiêu biểu như: Lê Văn Kỳ [51], Phạm Văn Tú [99],
Nguyễn Xuân Hương [46], Lê Thế Vịnh, Nguyễn Hoài Sơn [109], Nguyễn Thanh
Lợi [55],...

Bên cạnh tín ngưỡng thờ cá Voi, tín ngưỡng thờ Mẫu là đối tượng thứ 2
được nhiều nhà nghiên cứu lựa chọn khảo sát khi đề cập đến tín ngưỡng cư dân ven
biển Việt Nam. Quy mô hơn cả là hội thảo Lễ hội đền Cờn, tục thờ Tứ Vị Thánh
Nương với văn hóa biển ở Việt Nam tập trung phân tích các vấn đề xoay quanh 4 vị
thánh nữ - nhân vật trung tâm trong lễ hội đền Cờn ở Nghệ An và được thờ tự phổ


10
biến nhiều nơi ven biển nước ta. Ninh Viết Giao, Trần Thị An làm sáng tỏ nghi vấn
về thân phận của Tứ Vị Thánh Nương qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân
gian, tục thờ cúng. Nguyễn Xuân Đức “bóc tách” các lớp văn hóa tâm linh đền Cờn.
Nguyễn Thị Yên nhìn lễ hội đền Cờn trong trạng thái vận động và biến đổi qua so
sánh truyền thống và thực tại, trong khi Đinh Văn Hưng chỉ chú ý đến giá trị truyền
thống của lễ hội phản ánh đời sống văn hóa cư dân vùng biển Quỳnh Lưu. Hồ Phi
Hùng nhấn mạnh vào sự hiện tồn của các lễ hội khác ngoài lễ hội đền Cờn và văn
hóa biển ở Quỳnh Lưu có giá trị khai thác phát triển địa phương bên cạnh việc bảo
tồn, tôn tạo. Cũng quan tâm đến giá trị du lịch của đền Cờn là các tác giả Đào Tam
Tỉnh, Trương Minh Hằng, Đoàn Văn Nam. Từ văn hóa đền Cờn và tục thờ Tứ Vị
Thánh Nương ở Nghệ An, Hoàng Tuấn Phổ, Hồ Đức Thọ, Ngô Đăng Lợi, Nguyễn
Xuân Hương, Nguyễn Thanh Lợi đối chiếu đến tín ngưỡng thờ Tứ Vị Thánh Nương
và thờ Nữ thần ở các vùng biển khác như Thanh Hóa, Nam Định, Hải Phòng,
Quảng Nam - Đà Nẵng, Nam Bộ trên các mặt: Địa điểm, sắc phong, bố cục nơi thờ
tự, nghi lễ,... [65].
Ngoài thờ Tứ vị thánh mẫu, trong công trình Một góc nhìn về văn hóa biển tập hợp các bài viết đã đăng tạp chí của Nguyễn Thanh Lợi có một bài ngắn đề cập
đến tín ngưỡng thờ bà Thủy Long, trong đó khảo tả qua những nơi thờ bà Thủy
Long ở cư dân ven sông, ven biển miền Trung [55]. Còn Phạm Văn Tú lại tìm hiểu
sự thâm nhập của tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu vào đời sống tâm linh cư
dân vùng biển phía Nam Việt Nam [99].
Một số tác giả khác còn quan tâm đến tín ngưỡng thờ cô hồn ven biển Nam
Trung Bộ. Nhưng nếu như Nguyễn Đăng Vũ chỉ đưa ra những nét khái quát nhất về

nơi thờ, các nghi lễ, lễ vật, ý nghĩa tục thờ, qua đó nhấn mạnh vào nguồn gốc và các
hằng số giá trị trong tín ngưỡng thờ cô hồn dọc biển thì Nguyễn Thanh Lợi, bằng rất
nhiều cứ liệu cụ thể về tục thờ cô hồn tại các làng ven biển Nam Trung Bộ, đặc biệt
qua việc phân tích cơ sở thờ tự, nghi lễ và phong tục đã đưa đến một cái nhìn vừa cụ
thể vừa đa diện với những biểu hiện hết sức phong phú mang sắc thái riêng của từng
địa phương trên cùng mảnh đất Nam Trung Bộ [127].


11
Mặt khác, vấn đề tín ngưỡng cư dân ven biển trong nền kinh tế thị trường
gắn với việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống bước đầu
được một số nhà nghiên cứu chú ý, điển hình là 2 bài viết Đôi nét văn hóa dân gian
ven biển trong nền kinh tế thị trường và Bảo tồn và phát triển những giá trị văn
hóa, tín ngưỡng truyền thống của cư dân ven biển của Lê Hồng Lý. Dưới góc độ
quản lý văn hóa, sau khi điểm qua một số sinh hoạt văn hóa nổi trội của cộng đồng
cư dân ven biển, tác giả cho rằng trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố trong tín
ngưỡng truyền thống cư dân ven biển Việt Nam đang dần dần biến đổi theo cả hai
hướng tích cực và tiêu cực, từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn,
phát huy giá trị tín ngưỡng nói riêng, văn hóa cư dân ven biển nói chung [57]. Hoặc
dự báo các xu hướng phát triển của văn hóa dân gian ven biển, bao hàm cả tín
ngưỡng, trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có giá trị tham khảo cho các nhà
quản lý văn hóa đô thị ven biển [58].
Như vậy, có thể thấy cho đến nay trong lĩnh vực nghiên cứu tín ngưỡng cư
dân ven biển ở Việt Nam nổi bật lên một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất, về thời gian nghiên cứu: Mặc dù đã được đề cập đến trong một
số công trình cuối thế kỷ XIX song chỉ là những ghi chép tản mạn, thiếu hệ thống,
chủ yếu về tín ngưỡng thờ cá Voi ven biển. Cho đến cuối thế kỷ XX, có rất ít
chuyên khảo nghiên cứu về văn hóa cư dân ven biển nói chung, tín ngưỡng cư dân
ven biển nói riêng. Năm 2000, với Văn hóa dân gian các làng ven biển do Ngô Đức
Thịnh chủ biên, văn hóa cư dân ven biển Việt Nam, trong đó có tín ngưỡng, ngày

càng nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên mọi phương diện. Qua đó,
bước đầu góp phần nhận diện và làm sáng tỏ nhiều vấn đề về đời sống tín ngưỡng
của cư dân ven biển Bắc, Trung, Nam.
- Thứ hai, về không gian nghiên cứu: Bờ biển Việt Nam dài 3260km, bao
gồm trong đó hàng loạt đảo và quần đảo. Dọc theo bờ biển lại có nhiều vũng, vịnh,
đó là địa bàn thuận lợi để ngư dân sinh sống suốt từ Bắc đến Nam. Do đó, từ những
nghiên cứu bước đầu về văn hóa, tín ngưỡng các làng biển ở Bắc và Bắc Trung Bộ,


12
các nhà nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam đã mở rộng không gian, tập trung ngày
càng nhiều vào khu vực ven biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
- Thứ ba, về phương pháp nghiên cứu: Đa số đều vận dụng phương pháp
nghiên cứu định tính như quan sát, tham dự, phỏng vấn sâu với lối miêu tả, trần
thuật, kết hợp so sánh, phân tích và đạt được nhiều kết quả trong việc phục dựng,
khắc họa diện mạo tín ngưỡng trong nền văn hóa biển truyền thống ở Việt Nam.
Chưa có nhiều những công trình sử dụng kết hợp phương pháp định lượng trong
nghiên cứu tín ngưỡng cư dân ven biển để có thể “đo đạc” những đối tượng nghiên
cứu mang tính vô hình, trừu tượng như các giá trị, các ý nghĩ, thái độ và niềm tin…
của chủ thể tín ngưỡng.
- Thứ tư, về nội dung: Tín ngưỡng cư dân ven biển Việt Nam đã được triển
khai nghiên cứu trên nhiều bình diện, cơ bản làm rõ được các vấn đề về các loại
hình tín ngưỡng đặc thù, những biểu hiện đặc trưng của tín ngưỡng truyền thống
như nguồn gốc, đối tượng thờ, cơ sở thờ tự, nghi lễ... Tuy nhiên, tín ngưỡng cư dân
ven biển được tìm hiểu chủ yếu ở phương diện truyền thống với những biểu hiện bề
mặt, chưa đi sâu vào nghiên cứu những biến đổi của nó dưới tác động của các yếu
tố đương đại ngày nay.
Tựu trung, trong hơn một thập niên đầu thế kỷ XXI, nghiên cứu tín ngưỡng
cư dân ven biển bắt đầu trở thành hướng đi được giới học giả trong nước quan tâm,
chú trọng, đóng góp không nhỏ cho khoa học về mặt lý luận cũng như thực tiễn.

Những nghiên cứu này đã giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn sát thực và đầy đủ về
diện mạo tín ngưỡng của cư dân ven biển ở Việt Nam.
2.2. Các nghiên cứu về tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng
Trước đây, nghiên cứu văn hóa Đà Nẵng thường gắn liền với Quảng Nam
thành một tổng thể - văn hóa Quảng Nam - Đà Nẵng hay văn hóa xứ Quảng (có phần
chú trọng Quảng Nam hơn Đà Nẵng). Ban đầu chỉ là những bài viết, công trình đi sâu
vào một số lĩnh vực cụ thể của văn hóa như văn học, lễ hội, âm nhạc, phong tục tập
quán, ngôn ngữ, tính cách con người. Gần đây đã xuất hiện những công trình mang
tính tổng quát, khá quy mô của tập thể các tác giả Võ Văn Hòe, Hoàng Hương Việt,


13
Bùi Văn Tiếng [42]. Hay tác phẩm đề cập đến văn hóa Quảng Nam - Đà Nẵng dưới
dạng địa chí do Thạch Phương, Nguyễn Đình An chủ biên [68].
Từ sau khi tách tỉnh (năm 1997), văn hóa Đà Nẵng với tư cách là một tổng
thể riêng biệt mới bắt đầu được giới nghiên cứu quan tâm. Mọi công trình đều cố
gắng phác họa những đặc trưng riêng có của văn hóa Đà Nẵng trong đối sánh với
văn hóa Quảng Nam/xứ Quảng. Đó là Phạm Hoàng Hải [36], Lê Duy Anh, Lê
Hoàng Vinh [6], Bùi Văn Tiếng [90], [91], Võ Văn Hòe [40].
Về tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng, trong những công trình chung về
văn hóa Quảng Nam - Đà Nẵng, các hình thái tín ngưỡng của vùng đất này không
được tách bạch, mô tả rõ nét mà lồng trong diện mạo chung của tín ngưỡng cả khu
vực Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ góc nhìn đó, văn hóa Đà Nẵng nói chung và cư dân
ven biển Đà Nẵng nói riêng chỉ là những đốm sáng mờ nhạt, thấp thoáng sau Quảng
Nam rộng lớn.
Trong công trình Đình làng Đà Nẵng do Hồ Tấn Tuấn chủ biên, các tác giả
đã giới thiệu 35 ngôi đình trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có 6 ngôi đình
ở 6 làng ven biển Đà Nẵng là: đình làng An Hải, đình làng Mân Quang, đình làng
Mỹ Khê, đình làng Nại Hiên Đông, đình làng Nam Thọ, đình làng Thanh Khê. Ở
góc độ tín ngưỡng, đình các làng ven biển Đà Nẵng là nơi thờ Thành hoàng bổn xứ,

các bậc Tiền hiền, hậu hiền, đồng thời là nơi thực hiện nghi lễ cúng bái, tổ chức lễ
hội. Theo một “khuôn mẫu”, các tác giả trình bày lịch sử hình thành và những đổi
thay của ngôi đình gắn với những bước thăng trầm của làng trong lịch sử địa
phương, dân tộc, mô tả kiến trúc của đình, bài trí trong đình và lịch lễ được tổ chức
tại đình [100].
Cuốn sách Sắc phong ở Đà Nẵng lại tiếp cận tín ngưỡng ở Đà Nẵng nói
chung, cư dân ven biển ở Đà Nẵng nói riêng dưới một chiều cạnh khác. Qua các văn
bản sắc phong ở các làng ven biển như An Hải, Hóa Khuê Đông, Mân Quang, Nam
Thọ, Mỹ Khê, có thể biết được các vị thần được thờ tự ở các làng ven biển (và được
các tác giả làm rõ hơn qua việc “truy tìm” gốc tích một số vị thần có tính phổ quát,
phổ biến ở phần mở đầu của sách), mỹ hiệu được triều đình phong kiến gia tặng,


14
thái độ, ý thức của Nhà nước phong kiến đối với tín ngưỡng [89].
Ở phạm vi bài báo đăng trên tạp chí, Biển trong đời sống văn hóa của ngư
dân Đà Nẵng, hai tác giả Tống Quốc Hưng, Võ Văn Hoàng có điểm qua những tín
ngưỡng sinh hoạt đặc thù của ngư dân Đà Nẵng như thờ cá Voi và lễ hội Cầu ngư,
thờ Mẫu, một số kiêng kỵ. Ngoài ra, bài báo còn đề cập đến văn học, ẩm thực, nghề
truyền thống, các loại hình đánh bắt hải sản trên biển của ngư dân Đà Nẵng, xem đó
như những dấu ấn văn hóa biển độc đáo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn
hóa dân gian của thành phố Đà Nẵng [48]. Trong khi đó, bài viết của Đinh Thị
Trang lại hướng đến tục thờ cây của cư dân Đà Nẵng, bao hàm cả cư dân ven biển
như miếu ông Gốc ở hai làng biển Nam Ô và Xuân Dương, quận Liên Chiểu, nhưng
chỉ lý giải nguồn gốc tục thờ này ở nơi đây [92].
Những năm đầu thế kỷ XXI, hàng loạt các bài viết chuyên về tín ngưỡng cư
dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng được công bố trên các tạp chí chuyên ngành
Văn hóa và tác giả của chúng - Nguyễn Xuân Hương thực sự đã có đóng góp to lớn
vào lĩnh vực nghiên cứu này khi tác giả cho ra đời cuốn Tín ngưỡng cư dân ven biển
Quảng Nam - Đà Nẵng. Nội dung tác phẩm đã đi sâu vào phân tích, khảo tả các loại

hình tín ngưỡng, lễ hội ở cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng như: Tục thờ cá
Ông, lễ hội Cầu ngư, hát chèo đưa linh, tục thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ cô hồn - cô
bác, tín ngưỡng thờ tổ tiên. Hệ thống tín ngưỡng, lễ hội và sinh hoạt văn hóa cộng
đồng đề cập trong công trình được tác giả tiếp cận dưới phương diện loại hình theo
lịch sử hình thành, diễn trình phát triển. Dù là công trình duy nhất đến nay mang
tính hệ thống về tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng song chỉ khảo
sát ở phương diện lịch sử và biểu hiện của các tín ngưỡng, khía cạnh biến đổi của
tín ngưỡng được đề cập như một nội dung phụ trong công trình. Hơn nữa, đề cập
chung cả tín ngưỡng Quảng Nam và Đà Nẵng [46]. Ngoài ra, dưới dạng một bài viết
ngắn trong cuốn sách, các tác giả Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô [41], Lê
Duy Anh [5], có đề cập đến tín ngưỡng thờ cá Ông và lễ hội Cầu ngư làng Tân Thái
(nay thuộc phường Mân Thái, quận Sơn Trà). Đinh Thị Trang thì tìm hiểu tín
ngưỡng thờ cá Ông ở làng Nam Ô (nay thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên


15
Chiểu) và làng Tân Trà (nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn) [93],
[135].
Nằm trong phạm vi khảo sát của luận án, tín ngưỡng của cư dân làng Nam
Thọ, Mỹ Khê, Thanh Khê bước đầu được điểm qua trong các cuốn lịch sử đấu tranh
cách mạng phường Thọ Quang, Phước Mỹ và Thanh Khê Đông. Bên cạnh đó, có
thể kể đến công trình nghiên cứu do Hồ Tấn Tuấn chủ biên giới thiệu qua về lịch sử,
kiến trúc đình làng Nam Thọ, đình làng Mỹ Khê và đình làng Thanh Khê. Ở một
góc độ khác, trong khi đi tìm hiểu các bản sắc phong ở Đà Nẵng lưu giữ tại đình
làng, Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan đã cho biết thêm về các loại hình tín ngưỡng
và đối tượng tôn thờ của cư dân ven biển thuộc ba làng nói trên thông qua việc dịch
nội dung các sắc phong ở Nam Thọ và Mỹ Khê. Và một số bài viết ngắn mang tính
chất thông tin, giới thiệu về đình làng, lễ hội Cầu ngư của 3 làng trên các báo mạng.
Như vậy, cho đến nay, có rất ít công trình, bài viết nghiên cứu về văn hóa Đà
Nẵng và càng ít tác giả quan tâm đến lĩnh vực tín ngưỡng của bộ phận cư dân ven

biển Đà Nẵng, đặc biệt là đời sống tín ngưỡng và biến đổi tín ngưỡng trong bối
cảnh đô thị hóa mạnh mẽ, sôi động đang diễn ra ở Đà Nẵng hiện nay. Do đó, đây
vẫn là “mảnh đất” có nhiều khoảng trống cần được khai phá, lấp đầy.
2.3. Các nghiên cứu về đô thị hóa ở Đà Nẵng
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Đà Nẵng được nhìn nhận là
một trong những thành phố có tốc độ đô thị hóa nhanh và mạnh nhất Việt Nam thời
gian qua. Một trong những thành quả to lớn nhất của thành phố Đà Nẵng trong hơn
một thập niên qua là công tác quy hoạch và chỉnh trang đô thị, thu hồi đất, tái định
cư một cách hiệu quả. Do đó, những nghiên cứu về Đà Nẵng thường quan tâm đến
các vấn đề kinh tế - xã hội của thành phố trong quá trình đô thị hóa như vấn đề kinh
tế và môi trường; lao động nhập cư; giải phóng mặt bằng và sự chuyển đổi nghề
nghiệp; thu hồi đất và tái định cư…
Đề tài Biến đổi việc làm và thu nhập của nhóm dân sau tái định cư ở thành
phố Đà Nẵng của Trần Văn Thạch nghiên cứu những thay đổi trong cuộc sống của
người dân thành phố Đà Nẵng sau khi giải tỏa, tái định cư, trên hai phương diện


16
việc làm và thu nhập. Kết quả khảo sát thực tế cho thấy, quá trình xây dựng, cải tạo
và chỉnh trang đô thị đã ảnh hưởng ít nhiều đến vấn đề việc làm và thu nhập của
cộng đồng chuyển cư nhưng mức độ không như nhau ở mỗi nhóm xã hội. Nghiên
cứu cũng chỉ ra những nhân tố tác động đến biến đổi việc làm và thu nhập của nhóm
dân cư sau tái định cư; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần ổn định
việc làm và nâng cao thu nhập cho nhóm dân sau tái định cư [75].
Công trình Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng của Nguyễn Dũng Anh nghiên cứu đô thị hóa
Đà Nẵng ở phương diện tạo việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất. Việc thu
hồi đất để phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa của Đà Nẵng đã có những tác động
tích cực đến việc làm, thu nhập và đời sống của nông dân bị thu hồi đất; làm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, cải thiện kết cấu hạ

tầng, tạo nhiều cơ hội việc làm, đa dạng hóa nghề nghiệp cho người dân. Bên cạnh
đó, thu hồi đất để công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển kinh tế - xã hội nói chung và việc làm của nông dân bị thu hồi đất nói
riêng, đặc biệt là vấn đề tạo việc làm chưa được quan tâm, giải quyết thỏa đáng [7].
Đáng lưu ý là hội thảo Đô thị hóa ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và
những vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra do Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III
và trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng đồng tổ chức năm 2009. Qua hội thảo, những
đặc điểm chính của quá trình đô thị hóa tại Đà Nẵng với những yếu tố tích cực và
tiêu cực được các nhà nghiên cứu thống nhất về cơ bản như sau:
Về không gian, phạm vi đô thị ở thành phố Đà Nẵng được mở rộng, ranh
giới hành chính của các quận huyện được phân chia theo hướng đô thị hóa. Công
tác xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị cũng đã thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn thành phố. Các ngành công nghiệp,
dịch vụ không ngừng phát triển trong những năm qua. Quá trình đô thị hóa cũng tạo
ra sức hút với dòng di dân từ nông thôn và các tỉnh khác tới tạo nên những đóng
góp lớn về kinh tế. Đô thị hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, thu nhập và
điều kiện sống của người dân được nâng cao, có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch


17
vụ về điện, nước, y tế, giáo dục, văn hóa, giải trí và các cơ hội nghề nghiệp…
Song song với những tiện ích, tiến trình đô thị hóa ở Đà Nẵng cũng bộc lộ
một số nguy cơ tiềm ẩn rất đáng lo ngại. Việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và
tái định cư của các gia đình và cá nhân làm nảy sinh những phức tạp liên quan đến
nghề nghiệp, sinh kế, đời sống của người dân như mất việc, thay đổi công việc… ;
việc gia tăng dân số nhanh tập trung vào các quận nội thành làm cho cơ sở hạ tầng
tại đô thị quá tải; ô nhiễm môi trường gia tăng. Ở khía cạnh đời sống văn hóa, đô thị
hóa cũng đã khiến nhiều hoạt động văn hóa và lễ hội truyền thống bị mai một và
dần thay thế bởi những hoạt động giải trí hiện đại, như cà phê, internet, bi da, siêu
thị… Bên cạnh đó là các vấn đề về kiến trúc cảnh quan đô thị, giao thông, giá cả, sự

phân hóa giàu - nghèo, sự tách biệt ngày càng lớn giữa vùng nội thành và ngoại vi
thành phố… đang và sẽ là những vấn đề lớn mà thành phố phải đối mặt khi đô thị
hóa ở Đà Nẵng ngày càng được đẩy mạnh [64].
Bên cạnh đó, những biến đổi về văn hóa, tâm lý của của cư dân Đà Nẵng do
tác động của đô thị hóa cũng bắt đầu nhận được sự quan tâm của một số nhà nghiên
cứu.
Đề tài khoa học cấp thành phố Xây dựng đời sống đô thị trong quá trình đô
thị hóa ở thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và những giải pháp do Phạm Hảo làm
chủ nhiệm đề tài cho thấy bên cạnh những giá trị truyền thống được kế thừa, đã có
sự thay đổi các mô hình ứng xử, các lối suy nghĩ, các định hướng giá trị, các khuôn
mẫu hành vi của người dân Đà Nẵng, cho phù hợp với những thay đổi trong đời
sống xã hội đô thị hiện nay. Việc xây dựng lối sống đô thị theo hướng văn minh,
hiện đại ở Đà Nẵng đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ hệ thống những giải pháp về
kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội [37].
Đề tài Xây dựng văn hóa đô thị ở thành phố Đà Nẵng hiện nay của Nguyễn
Thị Triều cho thấy đô thị hóa đã tác động và làm thay đổi các lĩnh vực khác nhau
trong văn hóa Đà Nẵng theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Từ việc phân
tích các nguyên nhân tác động đến biến đổi, tác giả đã đưa ra bốn giải pháp chính,
đó là nâng cao nhận thức người dân; quản lý chặt chẽ vấn đề nhập cư, định cư; tăng


18
cường đầu tư cho văn hóa đô thị; nâng cao vai trò lãnh đạo quản lý, nhằm xây dựng
đời sống, văn hóa đô thị mang sắc thái hiện đại ở thành phố Đà Nẵng [95].
Ở một góc độ khác, đề tài Biến đổi gia đình ở thành phố Đà Nẵng trong quá
trình đô thị hóa của Trần Ngọc Sơn và đề tài Biến đổi tâm lý xã hội của cư dân
thành phố Đà Nẵng dưới tác động của quá trình đô thị hóa của Trịnh Duy Luân
tiếp cận tác động của đô thị hóa ở Đà Nẵng trên hai phương diện gia đình và tâm lý
xã hội của người dân thành phố. Dựa trên kết quả điều tra xã hội học, kết quả các
nghiên cứu cho thấy sự biến đổi của gia đình hay tâm lý xã hội của cư dân thành

phố Đà Nẵng diễn ra theo hai hướng, cả tích cực lẫn tiêu cực. Các nghiên cứu cũng
chỉ ra nguyên nhân và xu hướng biến đổi làm cơ sở đề xuất, kiến nghị các giải pháp
[74], [56].
Như vậy, những nghiên cứu về đô thị hóa ở Đà Nẵng mới chỉ tập trung chủ
yếu vào các khía cạnh kinh tế, xã hội, vốn là những lĩnh vực thành phố đạt được
nhiều thành tựu trong quá trình đô thị hóa, mà chưa quan tâm nhiều đến văn hóa,
đặc biệt là thực trạng, những biến đổi trong tín ngưỡng truyền thống của cư dân dân
ven biển Đà Nẵng dưới tác động của tiến trình đô thị hóa. Tuy nhiên, các nghiên
cứu đã giúp nghiên cứu sinh nhận ra những tác động nhiều chiều trên nhiều phương
diện của đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng khi đi vào tiếp cận tín ngưỡng cư dân ven
biển Đà Nẵng trong bối cảnh đô thị hóa thành phố hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất, phản ánh diện mạo tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng, chú
trọng làm rõ thực trạng tín ngưỡng và đời sống tín ngưỡng với những biến đổi của
nó trong quá trình đổi mới và đô thị hóa của thành phố Đà Nẵng trong hơn mười
năm trở lại đây.
Thứ hai, chỉ ra những tác nhân gây ra sự biến đổi trong tín ngưỡng của cư
dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa hiện nay.
Thứ ba, từ kết quả nghiên cứu, luận án nhận định, đánh giá về xu hướng biến
đổi của tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng nhằm đưa đến những ứng xử hợp lý,
sự can thiệp kịp thời định hướng cho quá trình biến đổi này diễn ra theo chiều


19
hướng tích cực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng
trong bối cảnh đô thị hóa ở thành phố. Khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu trên, nghiên
cứu sinh sẽ nghiên cứu các thành tố tạo nên tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng như:

Không gian thờ tự, đối tượng thờ tự, nghi lễ cúng, bộ phận phụ trách thực hành tín
ngưỡng trong các cơ sở thờ tự, niềm tin và thực hành tín ngưỡng của người dân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Không gian nghiên cứu của luận án là các khu vực dân
cư dọc theo biển Đà Nẵng. Các làng ven biển Đà Nẵng trước đây gồm có: Làng
Nam Ô, Kim Liên (nay thuộc quận Liên Chiểu); làng Thanh Khê, Xuân Hà, Hà
Khê, Phú Lộc (nay thuộc quận Thanh Khê); Thanh Bình, Thuận Phước (nay thuộc
quận Hải Châu); làng Nại Hiên, Nam Thọ, Mân Quang, Mân Thái, Mỹ Khê (nay
thuộc quận Sơn Trà) và làng Đông Hải, Tân Lưu (nay thuộc quận Ngũ Hành Sơn).
Trong đó, luận án tập trung vào 3 địa bàn nghiên cứu mang tính đại diện:
làng Nam Thọ (thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà), làng Mỹ Khê (thuộc
phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà) và làng Thanh Khê (thuộc phường Thanh Khê
Đông, quận Thanh Khê). Căn cứ lựa chọn điểm nghiên cứu:
- Về nghề nghiệp: Địa bàn nghiên cứu đảm bảo tính đại diện về nghề nghiệp,
đều là những làng từng có hầu hết dân cư lấy hoạt động ngư nghiệp làm nguồn sống
duy nhất hoặc chủ yếu cho gia đình mình. Hiện nay, làng Mỹ Khê đã chuyển sang
chuyên kinh doanh dịch vụ, du lịch; làng Nam Thọ vẫn thiên về đánh bắt hải sản
nhưng đánh bắt gần bờ; làng Thanh Khê thiên về đánh bắt hải sản xa bờ.
- Về tín ngưỡng: Địa bàn nghiên cứu đảm bảo tính đặc thù về tín ngưỡng của
cư dân ven biển với tín ngưỡng thờ cá Ông, tín ngưỡng thờ Tiền hiền, hậu hiền, tín
ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Hiện
nay, xét về cơ sở thờ tự và nghi lễ, làng Mỹ Khê có xu hướng giảm dần; làng Nam
Thọ vẫn duy trì tương đối về số lượng cơ sở thờ tự và quy mô tổ chức lễ; làng


20
Thanh Khê thì duy trì và có sự phát triển hơn trước.
- Về vị trí địa lý: Địa bàn nghiên cứu đảm bảo bao quát về mặt không gian, ở
các vị trí khác nhau, làng Mỹ Khê cách trung tâm thành phố 1km, làng Thanh Khê
cách trung tâm thành phố 3km và Nam Thọ cách trung tâm thành phố 5km. Tuy

nhiên, xét về thời điểm đô thị hóa thì làng Thanh Khê là nơi có đô thị hóa sớm nhất
vì nằm ngay cạnh và cùng bên quận trung tâm - quận Hải Châu. Làng Mỹ Khê và
làng Nam Thọ, đô thị hóa mới được đẩy mạnh sau năm 2000, khi cầu sông Hàn
được xây dựng nối liền vùng đất bên bờ Đông sông Hàn với trung tâm thành phố
Đà Nẵng. So với Nam Thọ, đô thị hóa ở làng Mỹ Khê có tốc độ và mức độ nhanh,
mạnh hơn nhiều.
Ở các vị trí, không gian khác nhau, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội không
như nhau sẽ tạo được nhiều cơ hội cho luận án có những cơ sở khoa học và thực
tiễn để tổng hợp, phân tích và nhận xét một cách khách quan sự biến đổi của tín
ngưỡng do tác động của đô thị hóa mà chủ nhân là những cộng đồng cư dân cùng
sinh sống ven biển. Đồng thời, từ những thực trạng nhận biết, có thể phản ánh được
sự biến đổi đa dạng ở những bộ phận cư dân ven biển nhằm xây dựng một bức tranh
đa chiều về tín ngưỡng nói riêng, văn hóa nói chung của cư dân ven biển Đà Nẵng
trong tiến trình đô thị hóa.
Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu tín ngưỡng của cư dân ven
biển Đà Nẵng từ năm 2003 đến nay. Năm 2003, Đà Nẵng được công nhận là đô thị
loại 1, từ đó đã đánh dấu sự vận động trở mình, vươn lên ngày càng mạnh mẽ của
thành phố; đồng thời đô thị hóaở Đà Nẵng không ngừng được đẩy mạnh, tạo nên
nhiều biến đổi trong đời sống xã hội và dân cư. Tuy nhiên, đề tài cũng nghiên cứu
về các giai đoạn lịch sử trước đó để có sự đối sánh, tham chiếu nhằm nhận diện
được sự biến đổi trong tín ngưỡng truyền thống của cư dân ven biển Đà Nẵng.
5. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Đô thị hóa ngày càng nhanh, mạnh ở Đà Nẵng đã tác động không ngừng làm
biến đổi đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của thành phố, trong đó có tín ngưỡng cư
dân ven biển. Do đó, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu là: Tín ngưỡng cư dân ven


21
biển Đà Nẵng ngày càng thay đổi sâu sắc/mạnh mẽ hơn khi đô thị hóa ở thành phố
Đà Nẵng được đẩy mạnh.

Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hóa, dù biến đổi tín ngưỡng cư dân ven biển
Đà Nẵng mang tính tất yếu song vẫn có những thành tố không biến đổi, có những
hình thức thực hành tín ngưỡng mang tính bền vững. Cái không biến đổi góp phần
thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống. Và như vậy, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra
là: Diện mạo tín ngưỡng truyền thống của cư dân ven biển Đà Nẵng như thế nào?
Trong quá trình đô thị hóa hiện nay, tín ngưỡng đó đã biến đổi ra sao?
Mặt khác, trong quá trình đô thị hóa, tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng
đang không ngừng biến động theo thời gian: Có những tín ngưỡng đã và đang dần
teo đi, mất đi, có những tín ngưỡng được phục hồi, phát triển, đồng thời xuất hiện
những yếu tố mới. Vậy, những nhân tố nào của đô thị hóa đã tác động và dẫn đến sự
biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng hiện nay? Và xu hướng
biến đổi của tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng sẽ ra sao?
6. Phương pháp nghiên cứu
Nhìn nhận văn hóa như một phức hợp và đặt trong bối cảnh lịch sử xã hội
không ngừng biến động đòi hỏi phải có cách tiếp cận liên ngành. Vì vậy, luận án kết
hợp sử dụng nhiều phương pháp của các ngành khoa học xã hội và nhân văn như
nhân học, văn hóa học, dân tộc học, sử học... Sự phối hợp liên ngành có tác dụng bổ
sung và hỗ trợ nhau trên cả phương diện lý thuyết lẫn phương pháp nhằm đạt được
hiệu quả cao trong việc thực hiện các mục tiêu của đề tài.
6.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận
Luận án sử dụng phương pháp biện chứng và lịch sử là cơ sở phương pháp
luận trong quá trình nghiên cứu. Luận án căn cứ vào mục đích đặt ra để tiếp cận đối
tượng nghiên cứu theo không gian văn hóa, nghiên cứu một số cộng đồng dân cư
theo tiêu chí xác định.
6.2. Nhóm phương pháp thu thập tư liệu
- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Trước khi tiến hành nghiên cứu thực tế các địa
điểm thờ tự tín ngưỡng ở ba làng Thanh Khê, Mỹ Khê và Nam Thọ, nghiên cứu


22

sinh đã tiến hành tìm kiếm, sưu tập tài liệu, công trình đã công bố, rồi thu thập
thông tin, chọn lọc, phân loại, phân tích các kết quả của tài liệu nghiên cứu. Khối tài
liệu này bao gồm các sách chuyên khảo, các đề tài khoa học, dự án, luận án, các bài
viết đăng trên tạp chí khoa học, các tài liệu thống kê và các báo cáo của các cơ quan
từ Trung ương đến địa phương có liên quan đến đề tài. Từ đó, nghiên cứu sinh đã
khảo cứu các tài liệu liên quan đến đề tài để tìm kiếm các nội dung cần thiết cho đề
tài, tìm ra khoảng trống cần nghiên cứu sâu cho đề tài, cũng như kế thừa một số
phát hiện nghiên cứu trước đó.
- Phương pháp quan sát tham dự: Là một trong những phương pháp quan
trọng nhất trong quá trình nghiên cứu đề tài. Việc sử dụng phương pháp quan sát
tham dự sẽ giúp luận án có được hệ thống tư liệu đầy đủ, xác thực nhất, là cơ sở để
kiểm chứng cácnguồn tư liệu khác, là tiền đề cho việc nghiên cứu, hoàn thành đề tài
đảm bảo tính khoa học.Bằng cách hiện diện tại nơi nghiên cứu và tham dự tích cực
vào những sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống địa phương, nghiên cứu sinh có sự
nhìn nhận trực quan hơn, thu thập được nhiều thông tin có giá trị về chiều sâu trong
sự biến đổi của tín ngưỡng, cũng như quan điểm, ý kiến của người dân đối với
những biến đổi đó.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Việc nghiên cứu tín ngưỡng và biến đổi tín
ngưỡng của cư dân ven biển thành phố Đà Nẵng không chỉ được thực hiện trên cơ
sở hệ thống tư liệu có được từ việc phương pháp điền dã mà cần phải xuất phát từ
thực tế phát triển của địa phương. Cho nên, sử dụng phương pháp điều tra xã hội
học là phương pháp tốt nhất cho phép luận án tiếp cận các vấn đề về biến đổi tín
ngưỡng ở cư dân ven biển thành phố Đà Nẵng thông qua phỏng vấn bảng hỏi,
phỏng vấn sâu từ đó có cái nhìn toàn diện và chính xác.
Về phỏng vấn bảng hỏi, cơ cấu mẫu của nghiên cứu này bao gồm 360 phiếu
hỏi (mỗi làng 120 phiếu hỏi chia theo cơ cấu giới tính, lứa tuổi và thành phần nghề
nghiệp) và được xử lý bằng phần mềm SPSS 18.0. Tuy nhiên, có những vấn đề mà
bảng hỏi định lượng không thể giải quyết được một cách triệt để hoặc sâu sắc, do đó
nghiên cứu sinh kết hợp tiến hành với việc phỏng vấn sâu. Trong quá trình quan sát



23
tham dự, nghiên cứu sinh gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn người dân, những người trong
Ban quản lý di tích, những người làm công tác quản lý văn hóa ở phường, những
người thực hành nghi lễ. Nội dung phỏng vấn được chuẩn bị trước với những câu
hỏi được xây dựng theo nguyên tắc gợi ý, để người trả lời có nhiều lựa chọn khi đưa
ra quan điểm, ý kiến của mình.
6.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
- Phương pháp thống kê, mô tả: Những tài liệu thu thập được qua phiếu hỏi sẽ
được xử lý, tổng hợp lại thành bảng biểu; ngoài ra còn có những số liệu thống kê về
dân số, thu nhập bình quân đầu người của thành phố Đà Nẵng, số lượng cơ sở thờ
tự, đối tượng thờ tự, hệ thống nghi lễ trong năm... Đồng thời, dựa vào những thông
tin thu thập từ nghiên cứu điền dã, kết quả xử lý các phiếu điều tra xã hội học,
những tài liệu gỡ băng phỏng vấn sâu, đề tài sẽ mô tả các cơ sở thờ tự, đối tượng
thờ tự, lễ vật thờ cúng của cư dân ven biển Đà Nẵng, môt tả những thực hành tín
ngưỡng diễn ra tại đây. Qua đó, cho người đọc có cái nhìn rõ ràng về diện mạo tín
ngưỡng truyền thống của cư dân ven biển Đà Nẵng cũng như những đổi thay của tín
ngưỡng khi thành phố Đà Nẵng đẩy mạnh đô thị hóa, hiện đại hóa.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này phân chia đối tượng
nghiên cứu thành từng bộ phận, yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, phát
hiện ra từng thuộc tính, bản chất của yếu tố đó; tức là thông qua cái riêng để hiểu và
tìm ra cái chung, thông qua hiện tượng để tìm ra được bản chất. Từ kết quả nghiên
cứu từng mặt, tổng hợp lại để có nhận thức đúng đắn về cái chung, tìm ra bản chất
của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Vận dụng phương pháp đối chiếu, so sánh
vào luận án để rút ra được những thay đổi của tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng
trong hơn 10 năm trở lại đây so với thời gian trước đó; đồng thời tìm ra nét tương
đồng và dị biệt giữa tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng với tín ngưỡng cư dân
ven biển ở các địa phương ven biển khác trên đất nước Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Thứ nhất, luận án có thể được coi là chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ


×