Tải bản đầy đủ (.ppt) (24 trang)

Lịch sử phát triẻn của kính thiên văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 24 trang )

Nhóm 4:
1.Phùng Đức Mạnh
2.Đỗ Tiến Toàn
3.Phùng Văn Quân
4.Kiều Thị Lý
5.Nguyễn Thanh Hoài
6.Nguyễn Hữu Thái
7.Nguyễn Thị Hồng Ngân
8.Nguyễn Thu Phương
9.Đỗ Thị Nhung b
10.Trịnh Thị Linh
11.Nguyễn Danh Phúc


- Kính thiên văn là một dụng cụ
quang học giúp quan sát các vật thể
nằm ở khoảng cách xa so với kích
thước của con người.
- Kính viễn vọng được ứng dụng
trong quan sát thiên văn học, hay
trong công tác hoa tiêu của ngành
hàng hải, hàng không hay công nghệ
vũ trụ, cũng như trong quan sát và
dò thám quân sự.


Mở đầu về lịch sử phát triển
kính thiên văn
Hans Lippershey là một nhà chế tạo
nhiều thấu
lần thử


- Từ cuối thế -kỉSau
16 đầu
kính người Hà Lan.
nghiệm cuốiÔng
cùng
Hans
được
công nhận là người tạo ra và
thế kỉ 17 khi Hans
biến ra
thiết
kế cho kính thiên văn
Lippershey
đã cho
đời
Lippershey một
người phổ
dụng
đầu
tiên.
kính
mới
lấy
thợ sửa và chếmột
tạoloại
kínhốngthực
kính thiên văn thô và kính
“ ỐngCác
maloại
thuật

của
trong một lầntên
tìnhlàcờ
thiên văn nhỏ có thể đã đưuọc tạo ra
đã phátBản
hiệnphác
ra
khithảo
đặt sơsớm
Lyppershey”.
kìnhưng
đồVào
chế
tạo ống
kính
hơnthời
nhiều
người ta tin
hai kínhLippershey
đồngđó
trục
sẽđược

chiếc
kính
thiên
văn
chính
Lippershey
tìm

thấy
thánglà8người
năm đầu tiên nộp
thể quan
sát các
đơn
xin khoảng
cấp bằng sáng chế cho thiết kế
nàyvật
có ởsố bội
giác
1609
của mình và chế tạo chúng để sử dụng
xa hơn bình thường.
từ 3-5.
rỗng rãi năm 1608. Tuy nhiên, ông đã
không được cấp bằng sáng chế nhưng
cũng đã nhận được phần thưởng hậu
hĩnh từ chính phủ Hà Lan.


Sau đó vài tháng nhà khoa học, vật
lý học người Ý Galieo qua mô tả về
ống kính Lippershey đã cải tiến và
chế tạo thành công kính thiên văn
có số phóng đại vào khoảng 30 khi
ông sử dụng một ống hình trụ có
chiều dài khoảng 130cm bên trong
có sử dụng 2 thấu kính hội tụ có
tiêu cự lần lượt khoảng 120cm và

4-5cm. Phát minh mới của Galieo
đã mở ra một trang mới cho lịch sử
kính thiên văn và ngành khoa học
vật lý thiên văn. Nhờ chiếc kính
thiên văn mới chế tạo này Galieo
đã lần đầu tiên quan sát thấy sự lồi
lõm trên Mặt Trăng, sao Mộc có 4
vệ tinh xung quanh ...


Galileo Galilei (1564-1642) là
một nhà thiên văn học, vật lý
học, toán học và triết học người
Ý, người đóng vai trò quan trọng
trong cuộc cách mạng khoa học.
Các thành tựu của ông gồm
những cải tiến cho kính thiên văn
và các quan sát thiên văn sau đó,
và ủng hộ Chủ nghĩa Copernicus.
Galileo đã được gọi là "cha đẻ
của việc quan sát thiên văn học
hiện đại","cha đẻ của vật lý hiện
đại", "cha đẻ của khoa học", và
"cha đẻ của Khoa học hiện đại."

Kính thiên văn của Galileo chế tạo


Với phát hiện của mình Galileo đã
trao đổi và chia sẻ các kết quả

khám phá với Kepple (sau này nổi
tiếng với 3 định luật về về chuyển
động của các hành tinh trong hệ
mặt trời). Do mắt kém Kepple
không thể quan sát rõ nét những
hình ảnh qua kính thiên văn của
Galileo. Là một nhà toán học sau
khi tìm hiểu nguyên lí của kính
thiên văn ông đã cải tiến kính thiên
văn của Galieo để mở rộng vòng
Kính thiên văn Kepple thời kì đầu
quan sát ảnh, từ đó kính thiên văn
Kepple ra đời.

Kính thiên văn Kepple ngày nay


Các giai đoạn lịch sử phát triển
tiếp theo của Kính Thiên Văn


Năm 1655 nhà
vật lý người Hà
lan Christiaan
Huygen (16291695)

Năm 1665
Giovanni
Cassini (16251712)


6 giai đoạn
lịch sử phát
triển tiếp
theo

Năm 1845, Ai
len William
Parsons (18001867)

Năm 1778,
Frederick
William
Herschel (17381832)

Năm 1673, nhà
thiên văn người
Đức Johanes
Hevelius (16111687)

Năm 1722, John
Hadley (16821744)


Năm 1655 nhà vật lý người
Hà lan Christiaan Huygen
(1629-1695) đã tìm ra Titan,
vệ tinh lớn nhất của sao Thổ
qua kính Kepler dài 12feet
(khoảng 3.7m) do chính ông
cùng người em trai là

Constantine chế tạo. Ông
còn ghi nhận được chỏm
băng tại cực sao Hỏa và sao
Mộc không có dạng đĩa tròn
mà lại phình ra ở xích đạo.


Năm 1665 Giovanni
Cassini (16251712) nhà thiên văn Ý
Giám đốc Đài Thiên
văn Paris Pháp, đã phát
hiện Đốm đỏ lớn
(Great Red Spot) trên
sao Mộc. Năm 1672,
ông tìm ra Rhea, vệ
tinh sao Thổ qua kính
thiên văn dài 35ft
(10.7m).


Năm 1673, nhà thiên văn người
Đức Johanes Hevelius (16111687) đã lần lượt chế tạo 2 kính
dài đến 60ft(18,5m) và 150ft
(46m), có vật kính đường kính
đến 20cm, Các kính này không
thực sự hoạt động hiệu quả vì
rất khó sử dụng, ống kính quá
dài bị võng xuống, chỉ một cơn
gió nhẹ cũng bị rung động.
Thân ống kính 150ft được chế

tạo dưới dạng khung hở để
giảm trọng lượng và rung động
nhưng lại dễ bị nhiễu loạn hình
ảnh khi có gió.


Số bội giác của kính thiên văn phụ thuộc vào
thương số f1/f2 tuy nhiên hình ảnh thu được
qua kính thiên văn đồng trục càng dài thì càng
khó quan sát (do hiện tượng quang sai, sắc
sai ...). Cuộc đua tăng chiều dài ống kính thiên
văn trong lịch sử kính thiên văn đã dừng lại sau
thất bại của J.Hevelius.

Kính thiên văn dài 150ft (46m) của J.Hevelius.


Cũng trong khoảng thời gian đó Năm 1668
ở một đất nước khác sau nhiều lần thử
nghiệm Newton đã chế tạo thành công
kính thiên văn phản xạ mở đầu cho lịch sử
ra đời của kính thiên văn hiện đại ngày
nay.
Nguyên tắc hoạt động kính thiên
văn phản xạ


Chỉ vài năm sau Newton, một loại kính phản xạ khác đã ra đời: kính
Cassegrain, dường như do Laurent Cassegrain (1629-1693) một linh mục
và là giáo viên người Pháp thiết kế. Khác với kính thiên văn phản xạ của

Newton sử dụng gương cầu lõm cassegrain đã sử dụng gương cầu lồi.
Do thời kì đó chưa có phương pháp kiểm tra gương cầu nên thiết kế của
Cassegrain bị lãng quên gần 200 năm.


Năm 1722, John Hadley (16821744) chế tạo một kính kiểu Newton lớn
hơn và trưng bày tại Hội Hoàng gia Anh
quốc. Kính này có gương đồng bạch
đường kính 15cm, tiêu cự 159cm và
ghép cố định với 1 thị kính cho số bội
giác lên tới 230. J.Hadley đã tìm ra
phương pháp kiểm tra dạng bề mặt
gương và công nghệ mài tạo dạng bề
mặt chính xác cho gương cầu. Thành
công và kinh nghiệm của Hadley đã
khuyến khích và giúp nhiều người khác
tham gia chế tạo kính thiên văn phản xạ
trong đó có cả những nhà thiên văn, nhà
vật lý, nhà sản xuất kính như James
Short, Molyneux ...và cả những "tay
mơ" yêu thích thiên văn. Sau thành công
của John Hadley lịch sử kính thiên văn
lại bước sang một trang mới của những
chiếc kính thiên văn phản xạ.


Sau thành công của John Hadley lịch sử kính thiên văn lại bước sang
một trang mới của những chiếc kính thiên văn phản xạ.

Kính thiên văn phản xạ cấu tạo theo kiểu

Cassegrain đường kính 16in (40cm) tại đài
thiên văn ĐHSP Hà Nội.


Frederick William Herschel
(1738-1832) là một nhạc sĩ tài
năng thích toán học và thiên văn
học. Năm 1778, sau gần 5 năm
học hỏi, nghiên cứu, thử nghiệm
ông đã chế tạo thành công chiếc
kính phản xạ đầu tiên của mình .
Kính có gương đồng bạch
đường kính 16cm, tiêu cự
210cm tức là xấp xỉ kính của
Hadley 50 năm trước. Kính có
chất lượng rất tốt, qua kính này,
ngày 13 tháng 3 năm 1781, ông
đã phát hiện ra hành tinh Thiên
vương, Uranus, hành tinh thứ 6
trong hệ Mặt trời.


Sau W.Herschel, chiếc kính
thiên văn phản xạ lớn nhất có
gương bằng đồng bạch do nhà
thiên văn Ai len William
Parsons (1800-1867), bá tước
đời thứ 3 xứ Rosse (thường
được gọi là Lord Rosse) chế
tạo và đặt tại Parsonstown, Ai

len vào năm 1845. Gương có
đường kính khoảng 1,8m, tiêu
cự 17m. Phôi gương khi đúc
dày gần 15cm và nặng hơn 4
tấn !


Kính thiên văn phản xạ khổng lồ của nhà thiên
văn Ai len William Parsons


Với kính này, ông đã nghiên cứu về các tinh vân, đặc
biệt là phát hiện dạng xoắn ốc của một số thiên hà

Bản vẽ tay của Lord Rosse thiên hà
Whirlpool (M51A) không khác nhiều ảnh
chụp của Kính thiên văn Hubble!


Tổng kết
Cuối thế kỷ 16 đầu
thế kỷ 17, Hans
Lippershey 

Sau đó vài tháng
nhà khoa học, vật
lý học người Ý
Galieo

Năm 1655 nhà vật

lý người Hà lan
Christiaan Huygen
(1629-1695)

Năm 1722, John
Hadley (1682-1744)

Năm 1673, nhà thiên
văn người Đức
Johanes Hevelius
(1611-1687)

Năm 1665 Giovanni
Cassini (1625-1712)

Năm 1778,
Frederick William
Herschel (17381832)

Năm 1845, Ai len
William Parsons
(1800-1867)


Những khám phá vĩ đại từ kính thiên văn
Chất khí giữa các
sao đang tập trung
lại thành những
ngôi sao mới sinh
trong những cột tối

này, bề mặt của
chúng đang phát
sáng do bị chiếu xạ
bức xạ tử ngoại.

Ảnh chụp năm
1996
là 1994
tầm nhìn
Ảnh chụp
năm
cho
sâu
xa nhất
thấy nơi
Mảnh
vỡ Gcủa
của
chúng
ta vào lúc
sao chổi
Shoemaker–
Levy 9ấy,
đâm
sầm
vàonhững
cho
thấy
Mộc tinh,
làmhàtoác

ra từ 1
thiên
ở xa
một đám
bụi vỡ
tỉ đến
12để
tỉ lại
năm
một vệt tối lớn hơn cả
ánh sáng, và do đó
Trái đất trên bề mặt của
baokhổng
quát lồ
phần
hành tinh
trên.lớn
lịch sử của vũ trụ


Một vài bức ảnh đẹp được chụp từ kính
thiên văn

Tinh vân Bong bóng, định hình bởi chất
Siêu
sao
khổng
lồ sángphương
gấp
40.000

lầnTrái
mặtđất
trời
Saokhí
chổi
Hyakutake
vọt
qua
gần
Cực
quang
Bắc
đặc




×