Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Quy hoạch phát triển tài nguyên lâm sản ngoài gỗ tại vùng đệm khu bảo tồn nhiên nhiên kẻ gõ hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.87 KB, 109 trang )

bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

trường đại học lâm nghiệp

trần hậu thìn

quy hoạch phát triển tài nguyên lâm sản ngoài gỗ
tại vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên kẻ gỗ- hà tĩnh

Luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp

Tài liệu tham khảo

hà tây, năm 2008


1

đặt vấn đề
ở Việt Nam, việc sử dụng LSNG đã gắn liền với sự sinh tồn của các cộng đồng
dân cư sống dựa vào rừng. LSNG đóng một vai trò quan trọng đối với kinh tế của hộ
gia đình, kinh tế địa phương và cả nước. Nhiều sản phẩm LSNG không chỉ được
dùng trong phạm vi thôn bản mà đã trở thành nguồn hàng xuất khẩu, như Quế, Hồi,
cây thuốc, Riêng giá trị sản phẩm mây tre đan xuất khẩu năm 2005 đã lên tới trên
130 triệu đô la Mỹ. Việc phát triển LSNG cũng có ý nghĩa xã hội lớn lao vì nó có
thể tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, nhất là người dân ở vùng sâu,
vùng xa; mang lại công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động và tích cực góp
phần xoá đói giảm nghèo trong phạm vi toàn quốc. LSNG còn góp phần bảo vệ môi
trường và đa dạng sinh học. Bởi vì, LSNG là một thành phần cấu trúc không thể tách


rời của hệ sinh thái rừng, muốn phát triển LSNG một cách bền vững người dân phải
có ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ đa dạng sinh học và phải tích cực trồng rừng để khôi
phục và bảo vệ các loài LSNG quý trong đó.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác,
trước đây sử dụng rừng chủ yếu là khai thác gỗ, ít quan tâm tới bảo tồn và phát triển
bền vững nguồn tài nguyên LSNG. Vì vậy, nguồn tài nguyên quý giá này đang ngày
càng bị cạn kiệt do các hoạt động khai thác và sử dụng không bền vững của con
người. Hiện nay, việc khai thác và buôn bán các loại LSNG không được quản lý,
không chịu sự điều tiết và hướng dẫn cụ thể bởi một cơ quan chức năng nào, các
LSNG bị khai thác tự do và phụ thuộc phần lớn vào thiên nhiên, thị trường buôn bán
tự phát, một lượng lớn được xuất khẩu trái ngạch sang Trung Quốc, các địa phương
rất ít hoặc không quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển nhiều loài có giá trị, hoặc
việc gây trồng phát triển chỉ chú trọng vào một vài loài có thị trường lớn nhưng đòi
hỏi quy trình kỹ thuật và chế biến phức tạp nên thường bị thất bại, tất cả những
vấn đề trên đã làm nguồn tài nguyên LSNG ở nhiều vùng miền núi ngày càng khan
hiếm. Hiện trạng trên đã làm cho mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân địa
phương sống trong các vườn quốc gia và các khu bảo tồn ngày càng tăng lên, tài
nguyên rừng ngày càng cạn kiệt, cơ hội cải thiện đời sống và phát triển kinh tế ở các
vùng miền núi ngày càng hiếm hoi hơn.


2

Trong bối cảnh như vậy, LSNG cần được coi trọng đúng mức. Muốn bảo tồn
và phát triển LSNG phải có một chủ trương dài hạn, nhất quán. Hiện nay rất cần các
chính sách hỗ trợ cho hoạt động bảo tồn, sản xuất, chế biến và kinh doanh LSNG,
đồng thời vấn đề quy hoạch vùng nguyên liệu, kỹ thuật nhân giống, thu hái, bảo
quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm LSNG vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Bộ NN & PTNT đã ban hành "Chiến lược bảo
tồn và phát triển LSNG giai đoạn 2006-2020". Đây được xem là động lực, là kim chỉ

nam cho công cuộc phát triển nguồn tài nguyên LSNG của quốc gia.
Cũng như những vùng miền núi khác, ở Vùng đệm Khu BTTN Kẻ Gỗ, từ lâu
đời nguồn tài nguyên LSNG đã thể hiện một vai trò rất quan trọng đối với đời sống
kinh tế, văn hoá và xã hội của người dân. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi hệ
thống quản lý tập trung vào một số đối tượng là gỗ, những sinh vật quý hiếm, các
sinh vật đặc hữu, các sinh vật đang có nguy cơ bị tuyệt chủng một cách chặt chẽ
hơn, thì LSNG trở thành nguồn tài nguyên chính cho sự khai thác của người dân địa
phương, nó đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu
nhập của họ. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng dân số, sự phát triển của nền kinh tế thị
trường và nhu cầu của người dân ngày một lớn, là sự khai thác LSNG một cách rất
xô bồ, không có sự quy hoạch, thiếu sự quản lý, mạnh ai nấy làm. Bên cạnh đó là
tình trạng người dân vùng đệm ngày càng lâm vào tình huống thiếu thốn vật chất,
bởi nhu cầu của họ không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng mà nguồn tài
nguyên họ thường khai thác trước kia như gỗ hay động vật hoang dã đang ngày càng
khan hiếm dần hoặc đã bị kiểm soát chặt chẽ hơn. Như vậy, áp lực khai thác lại đổ
dồn vào các đối tượng là LSNG, vì thế nguồn tài nguyên này càng nhanh chóng cạn
kiệt hơn, dẫn tới nguồn thu nhập của người dân địa phương ngày càng giảm, ruộng
nương không có hoặc có rất ít, trong khi đó nhu cầu của cuộc sống lại ngày càng
lớn, muốn tồn tại, họ phải tìm mọi cách, kể cả phạm pháp như khai thác gỗ, động
vật hoang dã và tiếp tay cho lâm tặc, và nguy cơ của rừng phòng hộ là rất rõ ràng
và hết sức cấp bách. Nếu chúng ta không có biện pháp nào để giúp họ tìm ra một
nguồn thu nhập bền vững, cải thiện đời sống kinh tế thì việc suy thoái đa dạng sinh
học và tài nguyên rừng là không thể tránh khỏi. Nghèo đói và suy thoái tài nguyên


3

rừng là cái vòng luẩn quẩn đe doạ sự phát triển bền vững của các vùng miền núi tỉnh
Hà Tĩnh nói chung và người dân Vùng đệm Khu BTTN Kẻ Gỗ nói riêng. Để chống
chọi với đói nghèo, người dân vùng đồi núi hiện nay đang buộc phải vay mượn của

tương lai bằng cách làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hậu quả là tốc độ
tàn phá rừng ngày càng tăng mà nghèo đói vẫn tiếp diễn. Nghiên cứu nhằm bảo tồn
và đưa ra các giải pháp phát triển bền vững nguồn tài nguyên LSNG để nâng cao thu
nhập cho cộng đồng và bảo vệ rừng bền vững là một trong những con đường đầy
triển vọng cho giải quyết cái vòng luẩn quẩn nêu trên.
Thực tế, ở khu vực nghiên cứu cũng đã có một số nghiên cứu về LSNG, nhưng
nhìn chung hầu hết các nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở mức chung chung, chỉ mới tập
trung ở giá trị và vai trò của LSNG mà chưa đưa ra được những biện pháp cụ thể nào
để phát triển LSNG. Đặc biệt là nghiên cứu quy hoạch phát triển LSNG, một trong
những giải pháp thiết thực và đầy triển vọng để phát triển bền vững nguồn tài
nguyên LSNG nhằm nâng cao thu nhập cho người dân và bảo vệ rừng một cách bền
vững, cũng chưa được tiến hành.
Xuất phát từ những thực tế đó, tôi thực hiện đề tài:
Quy hoạch phát triển tài nguyên LSNG tại vùng đệm Khu Bảo tồn thiên
nhiên Kẻ Gỗ - Hà Tĩnh
Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc phát triển bền vững
nguồn tài nguyên LSNG của vùng đệm Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, từ đó tạo
thêm việc làm, tạo thêm thu nhập, nâng cao đời sống cho người dân vùng đệm, đồng
thời bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng phòng hộ, bảo vệ đa dạng sinh học, nâng
cao hiệu quả của công trình thuỷ lợi to lớn này.


4

Chương 1
Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Nhận thức chung về quy hoạch
Chúng ta luôn suy nghĩ về sự phát triển và mong muốn đạt được mục tiêu phát
triển, cụ thể là: Tăng trưởng không ngừng đời sống của con người cả về vật chất và
tinh thần: phân phối công bằng những thành quả tăng trưởng trong xã hội, nhằm củng

cố và đảm bảo sự phát triển bền vững về hệ thống giá trị của con người trong xã hội.
Muốn đạt được sự phát triển toàn diện thì trước hết phải có suy nghĩ nghiêm túc,
có trình độ hiểu biết cao, có khả năng bao quát rộng để có thể chuyển những suy nghĩ,
những ý tưởng về sự phát triển thành hành động trong tương lai. Sự suy nghĩ, những ý
tưởng về sự phát triển phải mang tính hợp lý và tính hệ thống, đồng thời phải có nhiều
khả năng để hành động. Biết suy nghĩ, cân nhắc xem khả năng nào là tốt nhất, hữu
hiệu và bền vững nhất so với những khả năng khác. Nghĩa là sự phát triển đó phải
được cả hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, có tác dụng lâu dài, được nhiều người chấp
nhận và không phá huỷ môi trường. Sự chuyển hoá những tư duy, ý tưởng hiện tại
thành hành động tương lai, những tính toán, cân nhắc ấy gọi là quy hoạch.
Quy hoạch là một quá trình lý thuyết về tư tưởng có quan hệ với từng sự vật, sự
việc được hình thành và thể hiện qua một quá trình hành động thực tế. Quá trình này
giúp nhà quy hoạch tính toán và đề xuất những hoạt động cụ thể để đạt được mục tiêu.
Quy hoạch không phải là một lĩnh vực khoa học mới của thời đại. Kể từ khi
con người biết sống định cư đã có quy hoạch, đương nhiên là ở mức độ thấp, đơn
giản hơn, song những nguyên tắc vẫn có giá trị. Chẳng hạn con người tìm cách lập
một trật tự và sử dụng một cách có hiệu quả những tài sản hiện có, xoá đi những trở
ngại và dự kiến về tương lai [25].
1.2. Trên thế giới
1.2.1. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp
ở xã hội phong kiến, quá trình sản xuất lâm nghiệp lúc đầu chưa được phân
chia tỷ mỉ, mà thuộc khu vực sản xuất nông nghiệp. Rồi lâm nghiệp phát triển lên,
vấn đề mua bán gỗ được đặt ra, lúc đó mới cần có điều tra quy hoạch rừng. Như vậy,


5

sự phát sinh của Quy hoạch rừng đã có mầm mống và nó gắn liền với sự phát triển
của kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Nhất là sau cuộc cách mạng công nghiệp, do công
nghiệp và giao thông vận tải phát triển nên ở nhiều nước Châu Âu khối lượng gỗ

yêu cầu ngày càng tăng, sản xuất gỗ đã thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên có tính chất
địa phương của phong kiến mà bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa.
Thực tiễn sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn
thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm bảo đảm thu hoạch lợi
nhuận lâu dài cho chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận Quy hoạch rừng
Tư bản chủ nghĩa đã dần được hình thành trong hoàn cảnh lịch sử như vậy [25].
Đầu thế kỷ 18, Quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc "Khoanh khu
chặt luân chuyển", có nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia
đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển
theo trữ lượng hoặc diện tích. Sau cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu. Vào thế
kỷ 19, phương thức "Khoanh khu chặt luân chuyển" nhường chỗ cho phương thức
"Chia đều" của Hartig. Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng
và trên cơ sở đó, khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816, xuất hiện phương
pháp luân kỳ lợi dụng của H.Cotta. Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi
dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng năm.
Sau đó phương pháp "Bình quân thu hoạch" và phương pháp "Lâm phần kinh
tế" của Judeich ra đời. Hai phương pháp "Bình quân thu hoạch" và "Lâm phần kinh
tế" chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác
nhau. Phương pháp "Bình quân thu hoạch" và sau này là phương pháp "cấp tuổi"
chịu ảnh hưởng của "Lý luận rừng tiêu chuẩn", có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu
chuẩn về tuổi cũng như về diện tích và trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào
diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến
cho các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp "Lâm phần kinh tế"
và hiện nay là phương pháp "Lâm phần" không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc
điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp
kinh doanh, phương thức điều chế rừng. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển
thành "Phương pháp kinh doanh lô" và "Phương pháp kiểm tra"[25].


6


Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và thập kỷ 40 của thế kỷ 20, Quy hoạch ngành giữ
vai trò lấp chỗ trống của Quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946,
Jack.G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên "Phân loại
đất đai cho quy hoạch sử dụng đất". Đây cũng là tài liệu đầu tiên, đề cập đến đánh giá
khả năng của đất cho Quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia trước đây (nay là
Cộng hoà Zimbabwe), Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn Sổ tay hướng dẫn Quy hoạch
sử dụng đất hỗ trợ cho Quy hoạch cơ sở hạ tầng cho công tác trồng rừng. Vào đầu
những năm 60 của thế kỷ 20, Tạp chí "East African Journal for Agriculture and
Forestry" đã xuất bản nhiều bài báo về Quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam Châu Phi. Năm
1966, Hội Đất học của Mỹ và Hội Nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn
điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong Quy hoạch sử dụng đất [13].
1.2.2. Vùng đệm
Tư duy về khái niệm quản lý vùng đệm trên thế giới đã phát triển qua 3 giai
đoạn như sau:
+ Giai đoạn đầu (1950 - 1970): Các vùng đệm chủ yếu được xác định như là
những phương tiện bảo vệ con người và mùa màng của họ để tránh sự tấn công và
phá hoại của động vật sống trong khu bảo tồn và rừng.
+ Giai đoạn kế tiếp (10 20 năm tiếp theo): Các vùng đệm đã được áp dụng
như là những phương cách để bảo vệ các khu bảo tồn tránh khỏi những tác động tiêu
cực của con người.
+ Giai đoạn hiện nay: Vùng đệm thường được áp dụng đồng thời cho việc
giảm thiểu các hoạt động của con người lên các khu bảo tồn thiên nhiên hoặc vườn
quốc gia, hướng tới những nhu cầu và mong muốn về kinh tế xã hội dưới tác động
của dân số (những đối tượng sử dụng tài nguyên của khu bảo tồn thiên nhiên hoặc
vườn quốc gia trước đây) [19].
Hiện nay chưa có một định nghĩa chung về vùng đệm trên phạm vi toàn thế
giới mà chỉ có các định nghĩa và sự mô tả khác nhau về vùng đệm ở cấp quốc gia
hoặc tổ chức quốc tế, chẳng hạn:
Chương trình con người và sinh quyển của Unesco đã đưa ra khái niệm vùng

đệm ở mức độ cấu trúc. Cấu trúc khu bảo tồn của Unesco gồm 3 vùng sau:


7

+ Vùng lõi: vùng nằm trong cùng, là vùng chính của khu bảo tồn.
+ Vùng đệm sơ cấp: vùng tiếp giáp bao quanh vùng lõi.
+ Vùng đệm thứ cấp: vùng ngoài cùng tiếp giáp và bao quanh vùng sơ cấp.
Năm 1982 ấn Độ đã áp dụng chiến lược vùng đệm vùng lõi vùng sử dụng
đa dạng. Mục đích của chiến lược này là tách rời việc sử dụng đất bất hợp lý, đặc
biệt là trong mối quan hệ với môi trường sống của động vật hoang dã. Theo cách
tiếp cận này thì vùng đệm có thể được đặt dưới sự quản lý của vườn quốc gia; trong
một số trường hợp có thể cho phép kiểm soát sự sử dụng các sản phẩm lâm nghiệp.
Vùng sử dụng đa dạng được đặt ở bên ngoài khu vực vườn quốc gia, nơi được thiết
kế phục vụ cho phát triển nông thôn.
Vấn đề vùng đệm đã được thảo luận nhiều hơn trong hội nghị MAB
Unesco về chương trình hành động cho các khu bảo tồn sinh quyển, được tổ
chức tại Minsk (thuộc Liên Xô cũ, nay là nước Nga) năm 1984. Trên cơ sở đó, có
rất nhiều khái niệm về vùng đệm được đưa ra.
Theo Jeffry Sayer (1991) thì: Vùng đệm là vùng đất nằm xung quanh vườn
quốc gia hay khu bảo tồn mà ở đó việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên có hạn
chế, hay ở đó các biện pháp quản lý đặc biệt về phát triển nằm nâng cao hiệu quả
của công việc bảo vệ.
Michael Brow Barbara Uryckoff Baird (1994) cho rằng: Vùng đệm là vùng
nằm trong hoặc tiếp giáp với khu bảo tồn, tại đó mối quan hệ hài hoà giữa môi
trường tự nhiên và con người được chú trọng, mục tiêu của việc quản lý vùng đệm là
tối ưu hoá giữa những giá trị văn hoá, xã hội, sinh thái và tài nguyên thông qua việc
quản lý tích cực thích ứng, công bằng với tất cả các nhóm và cho phép thay đổi giá
trị đối với thời gian.
Gitz (1996) thì quan niệm rằng: Vùng đệm là vùng chuyển tiếp, là những

vùng đất nằm ngoài hay trong khu bảo tồn. Các vùng này có chức năng tạo thuận lợi
cho khu bảo tồn và cho cuộc sống của dân cư ở đây. Dân cư sinh sống ở đây luôn là
tiềm năng trực tiếp ảnh hưởng đến khu bảo tồn.
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên IUCN định nghĩa vùng đệm như sau: Vùng đệm
là những vùng được xác định ranh giới rõ ràng, có hoặc không có rừng nằm ngoài


8

ranh giới của khu bảo tồn và được quản lý để nâng cao việc bảo tồn của khu bảo tồn
và chính vùng đệm đồng thời mang lại lợi ích cho người dân sống quanh khu bảo
tồn. Điều này có thể thực hiện được bằng cách áp dụng các hoạt động phát triển cụ
thể, đặc biệt góp phần vào việc nâng cao đời sống kinh tế xã hội của các cư dân
sống trong vùng đệm (D.A.Gimour và Nguyễn Văn Sản IUCN Việt Nam 1999).
ở các nước có nền kinh tế phát triển sinh kế của con người không phụ thuộc
nhiều vào khu bảo tồn và người dân có một nhận thức cao về giá trị giải trí, văn hoá
bảo tồn đa dạng sinh học; đồng thời pháp luật được tôn trọng thì vùng đệm được xây
dựng và phát triển một cách bình thường, ít có các tác động tiêu cực của con người
tấn công vào rừng.
Ngược lại, các nước có nền kinh tế chưa phát triển, đời sống kinh tế, văn hoá,
dân trí thấp, sức ép dân số ngày càng gia tăng, coi thường pháp luật, thì vùng đệm
trở nên rất quan trọng. Bởi vì sự tồn tại phát triển hay huỷ diệt đối với khu bảo tồn
hay vườn quốc gia phụ thuộc vào nhân dân sống trong vùng đệm là chủ yếu [19].
1.2.3. Lâm sản ngoài gỗ, quy hoạch LSNG
Theo các tài liệu trong và ngoài nước, có nhiều khái niệm về LSNG (Tiếng
Anh gọi là Non-Timber Forest Products- NTFPs, hoặc Non-Wood Forest ProductsNWFPs) mà chúng ta có thể tham khảo:
"LSNG là tất cả những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật không kể gỗ, cũng như
những dịch vụ có được từ rừng và đất rừng". Dịch vụ trong định nghĩa này như là
những hoạt động từ du lịch sinh thái, làm dây leo, thu gom nhựa và các hoạt động
liên quan đến thu hái và chế biến những sản phẩm này (FAO,1995).

"LSNG bao gồm tất cả những sản phẩm sinh vật (trừ gỗ tròn công nghiệp, gỗ
làm dăm, gỗ làm bột giấy) có thể lấy ra từ hệ sinh thái rừng tự nhiên, rừng trồng,
được sử dụng trong gia đình, mua bán, hoặc có ý nghĩa tôn giáo, văn hoá hoặc xã
hội. Việc sử dụng hệ sinh thái cho mục đích giải trí, bảo tồn thiên nhiên, quản lý
vùng đệm ... thuộc về lĩnh vực dịch vụ của rừng" (Wickens, 1991).
"LSNG bao gồm tất cả các sản phẩm cây rừng ngoại trừ gỗ và nấm được thu
hái chủ yếu từ rừng tự nhiên" [28].


9

Như vậy, hiện nay trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về LSNG và
chúng có thể thay đổi chút ít phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, vào quan điểm
và nhu cầu khác nhau của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức. Tuy nhiên, thông dụng hơn cả
là định nghĩa do Hội đồng Lâm nghiệp Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp quốc (FAO)
thông qua năm 1999:
"LSNG (Non-Timber Forest Products- NTFPs, hoặc

Non-Wood Forest

Products- NWFPs) bao gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác gỗ, được
khai thác từ rừng, đất có rừng và từ cây gỗ ở ngoài rừng" (FAO, 1999), [14].
Cũng cần nhấn mạnh rằng, có sự khác biệt giữa hai thuật ngữ sử dụng trong
tiếng Anh: Non-Timber Forest Products- NTFPs, và Non-Wood Forest ProductsNWFPs. Cả hai thuật ngữ này đều được hiểu bằng tiếng Việt là LSNG, nhưng hiểu
một cách chính xác hơn thì NTFPs nhằm chỉ các lâm sản không phải là gỗ lớn, còn
NWFPs nhằm chỉ các lâm sản nói chung [18].
Trên thế giới, tài nguyên LSNG rất phong phú và đa dạng, có đến 25.000 loài
cây và không ít hơn các loài con. LSNG cung cấp nhiều sản phẩm cần thiết cho đời
sống cộng đồng và phát triển kinh tế. Nhiều cộng đồng đã biết sử dụng LSNG từ xa
xưa, việc buôn bán trao đổi quốc tế cũng diễn ra rất sớm, từ các đảo Tây Indonesia

tới Trung Hoa đầu thế kỷ V; Trung Đông buôn bán với đảo Malaysia từ năm 850;
Châu Âu nhập khẩu từ thế kỷ XV.
Hiện nay, ít nhất có 30 triệu người sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên này,
số người nhận được lợi ích từ đó còn lớn hơn nhiều. Một lượng LSNG trị giá nhiều tỉ
đô la đã được mua bán trao đổi ở Đông Nam á.
Thấy được vai trò của LSNG đối với đời sống người dân và bảo vệ tài nguyên
rừng ở các nước đang phát triển, nhất là các nước vùng nhiệt đới, nhiều tổ chức quốc
tế đã tiến hành nhiều dự án nghiên cứu nhằm làm rõ vai trò LSNG, định chế quản lý,
các chính sách liên quan, thông tin tiếp thị... [10].
Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế đặt tại Indonesia (CIFOR) đã chú
trọng nhiều về nghiên cứu LSNG, đề ra phương pháp phân tích với các lâm sản
thương mại trên thế giới.


10

Trung tâm quốc tế về nông lâm kết hợp (ICRAF) nghiên cứu làm thế nào sản
xuất, nâng cao sản lượng của các cây rừng có tiềm năng
Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp quốc (FAO) thành lập ra mạng lưới nghiên
cứu LSNG trên thế giới và ra tạp chí Tin tức về lâm sản ngoài gỗ. Tổ chức một số
cuộc hội thảo quốc tế về LSNG (Ví dụ: ở Thái Lan năm 1994, ở Indonesia năm
1995,...). Từ năm 1985, FAO đã có những nghiên cứu về LSNG của từng quốc gia
trong khu vực Châu á -Thái Bình Dương.
Chính phủ Hà Lan tài trợ cho nhiều dự án về LSNG khắp thế giới, hướng tới sử
dụng bền vững LSNG. Các tổ chức phi chính phủ của Đức hỗ trợ cho nhiều dự án
nghiên cứu LSNG ở Châu Phi (Bolivia, Tanzania, Cameroom,...), Châu á (Việt Nam,
Cam Pu Chia,...),... Nhiều trường đại học ở Đức, Hà Lan, Anh, Mỹ quan tâm nghiên
cứu ảnh hưởng của LSNG đến đời sống của các cộng đồng dân cư sống gần rừng [15].
Như vậy, nhiều cộng đồng dân cư trên thế giới đã có truyền thống sử dụng LSNG
từ lâu đời. Ngày nay, chính phủ nhiều nước đã quan tâm quản lý nguồn tài nguyên

LSNG, có chính sách hỗ trợ các cộng đồng quản lý sử dụng hợp lý chúng. Nhiều trung
tâm nghiên cứu khoa học, nhiều chính phủ và các tổ chức phi chính phủ đã chú ý đến
việc nghiên cứu phát triển và sử dụng bền vững lâm sản ngoài gỗ. Nghĩa là, nghiên cứu
LSNG đã trở thành một nhiệm vụ khoa học nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Trước đây ở nhiều nước người dân khai thác tự phát và chủ yếu là xuất khẩu
LSNG thô. Ngày nay chính phủ nhiều nước đã ý thức được vai trò của LSNG, nên
tăng cường các biện pháp quản lý, khai thác bắt đầu có quy hoạch, tăng cường xuất
khẩu các sản phẩm tinh chế nên giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng lên, tạo thêm
nhiều công ăn việc làm, nâng cao mức sống người dân, mà nguồn tài nguyên rừng
và LSNG cũng được quản lý tốt hơn.
Việc đầu tư quy hoạch phát triển nguồn LSNG và hỗ trợ các cộng đồng sử
dụng bền vững chúng là lĩnh vực đang được quan tâm của các nhà khoa học, các tổ
chức, nhiều chính phủ và cộng đồng quốc tế.
- Nhiều nước Châu á: Thái Lan, ấn Độ, Indonesia, Philippins,.... người dân đã
gắn bó với LSNG từ lâu đời, đã và đang có nhiều dự án, chương trình đầu tư quy


11

hoạch phát triển LSNG. Tuy nhiên, còn một số nước như : Lào, Cam Pu Chia... vẫn
đang bỏ ngỏ tài nguyên này.
- Nhiều nước Châu Phi nông dân phụ thuộc rất lớn vào LSNG (cho đời sống và
xuất khẩu). Mặc dầu Chính phủ các nước này đã có sự quan tâm quản lý, song do ý
thức của nhiều cộng đồng còn thấp, nên việc quản lý, quy hoạch sử dụng LSNG của
họ vẫn còn nhiều bất cập. Vùng Đông và Nam Phi đã có những nghiên cứu và dự án
liên quan đến việc quy hoạch, thúc đẩy, khuyến khích sử dụng hợp lý LSNG. Nhưng
các tài liệu khoa học về sử dụng bền vững nguồn tài nguyên này thì vẫn rất thiếu.
- Các nước Châu Mỹ cũng vậy, nằm trong khu vực nhiệt đới, người dân gắn bó
với tài nguyên rừng và LSNG rất mật thiết. Một số cộng đồng đã có kinh nghiệm
quản lý sử dụng LSNG, song hiện nay bị chi phối mạnh mẽ của chính sách và thị

trường, cần nhiều cải cách và hỗ trợ họ quản lý sử dụng tốt LSNG [10].
Nhìn chung, vấn đề quy hoạch phát triển LSNG trên thế giới còn rất nhiều hạn
chế, hầu như chỉ mới quan tâm tới những đối tượng là nguyên liệu công nghiệp, có
nhu cầu về số lượng lớn, tập trung và có giá trị hàng hoá. Trong khi đó có rất nhiều
đối tượng LSNG có giá trị thiết thực đối với cuộc sống của người dân thì chưa thực
sự được quan tâm quy hoạch phát triển. Hy vọng rằng trong thời gian tới sẽ được các
nhà quản lý, các nhà khoa học quan tâm.
1.3. ở Việt Nam
1.3.1. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp
QHLN áp dụng vào nước ta từ thời Pháp thuộc. Như việc xây dựng phương án
điều chế rừng chồi, sản xuất củi, điều chế rừng Thông theo phương pháp hạt đều...
Đến năm 1955 - 1957, tiến hành sơ thám và mô tả để ước lượng tài nguyên
rừng. Năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc. Cho đến năm
1960 - 1964 công tác QHLN mới áp dụng ở miền Bắc. Từ năm 1965 cho đến nay,
lực lượng QHLN ngày càng được tăng cường và mở rộng.
Viện Điều tra Quy hoạch Rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng Điều tra Quy
hoạch của Sở NN & PTNT các tỉnh, không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, QHLN
của các nước cho phù hợp với trình độ và điều kiện tài nguyên rừng của nước ta. Tuy
nhiên, so với lịch sử phát triển của các nước thì QHLN ở nước ta hình thành, và phát


12

triển muộn hơn rất nhiều. Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, và tài
nguyên rừng làm cơ sở cho công tác QHLN chưa được giải quyết triệt để, nên công tác
này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng [6].
Theo Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 - 2020 một
trong những tồn tại mà Bộ NN & PTNT đánh giá là: Công tác quy hoạch nhất là quy
hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ với quy hoạch của các
ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và thiếu tính khả thi. Chưa quy hoạch 3 loại

rừng hợp lý và chưa thiết lập được lâm phần ổn định trên thực địa. Đây cũng là
nhiệm vụ nặng nề và cấp bách đối với ngành lâm nghiệp của nước ta hiện nay.
Các văn bản, chính sách của Nhà nước đề cập đến quy hoạch phát triển lâm
nghiệp thể hiện qua:
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (năm 1992) khẳng
định ''Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật,
đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức,
hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài''.
Luật Đất đai năm 2003 (thay thế Luật Đất đai năm 1993) quy định rõ 3 nhóm
đất với 6 quyền sử dụng, tuỳ theo từng nhóm đất và mục đích sử dụng mà giao cho
các tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng.
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 (thay thế Luật năm 1991) phân định
rõ 3 loại rừng (Đặc dụng, Phòng hộ, Sản xuất) làm cơ sở cho công tác QHLN.
Theo biên bản hội thảo quốc gia về "Quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm
nghiệp'' năm 1997, có nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu tính thống nhất giữa hai
luật: Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng trong quy hoạch và giao đất
nông nghiệp và lâm nghiệp, xác định rõ vai trò của địa phương trong QHLN và giao
đất, giao rừng [13].
Cũng từ hai đạo luật này đã hình thành các chủ thể quản lý rừng khác nhau, và
từ các chủ thể quản lý rừng khác nhau đã hình thành các cấp bậc Quy hoạch lâm
nghiệp khác nhau như: quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ như: quy
hoạch lâm nghiệp toàn quốc, quy hoạch lâm nghiệp cấp tỉnh, quy hoạch lâm nghiệp
cấp huyện, và quy hoạch lâm nghiệp cấp xã; quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp


13

quản lý sản xuất kinh doanh như: quy hoạch tổng công ty lâm nghiệp, quy hoạch
công ty lâm nghiệp, quy hoạch lâm trường,.
Năm 1997, ngành lâm nghiệp thực hiện tổng kiểm kê rừng toàn quốc, theo

Chỉ thị 286/TTg ngày 02/5/1997 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm chuẩn bị thực hiện
dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp, nhiều địa phương
đã tiến hành lập dự án quy hoạch lâm nghiệp. Kể từ đó công tác QHLN được các địa
phương hết sức quan tâm.
Song song với việc tiến hành áp dụng công tác QHLN vào thực tiễn sản xuất,
môn học QHLN được đưa vào chương trình giảng dạy ở các trường đại học chuyên
ngành ở nước ta.
1.3.2. Vùng đệm
ở Việt Nam trước năm 1993, vùng đệm được quy định ở bên khu bảo tồn và
bao quanh khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn. Một vườn quốc gia hoặc khu
bảo tồn thiên nhiên có thể có một hoặc nhiều phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, giữa các
phân khu này hoặc bao quanh chúng có thể bố trí các phân khu đệm.
Khái niệm này chưa đề cập đến việc tổ chức, xây dựng và quản lý vùng đệm
như thế nào. Sau năm 1993, vùng đệm được định nghĩa như sau:
Vùng đệm của vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên là vùng rừng hoặc
vùng đất đai có dân cư nằm sát ranh giới các các vườn quốc gia, các khu bảo tồn
thiên nhiên được thành lập nhằm giảm áp lực của dân địa phương đối với khu rừng
phải bảo vệ nghiêm ngặt. Diện tích của vùng đệm không tính vào tổng diện tích của
vườn quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên.
Như vậy, sau năm 1993 vùng đệm được xác định nằm ngoài ranh giới khu bảo
tồn, không thuộc ranh giới khu bảo tồn. Khái niệm cũng chỉ mới đề cập những điều
ngăn cấm trong vùng đệm chứ chưa đưa ra chính sách đầu tư, xây dựng quản lý
vùng đệm như thế nào.
Tại hội thảo quốc gia về sự tham gia của cộng đồng địa phương trong việc
quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí
Minh từ ngày 17 18/12/1997, khái niệm vùng đệm đã được đưa ra thảo luận, một
số khái niệm được đề cập tới trong hội thảo là:


14


"Vùng đệm là vùng đất nằm ngoài khu bảo tồn hay vườn quốc gia. Tại đó, việc
sử dụng đất đai phần nào được hạn chế, nhằm tạo thành một vành đai bảo vệ bổ
sung cho khu bảo tồn, đồng thời giúp cho người dân sinh sống trong vùng được bù
đắp phần nào những thiệt thòi do khu bảo tồn đó gây ra" (Mackimnon, 1981, 1986).
Vùng đệm là vùng tiếp giáp với khu bảo vệ bao quanh toàn bộ hay một phần
của khu bảo vệ, vùng đệm nằm ngoài diện tích khu bảo vệ và không thuộc quyền
quản lý sử dụng của ban quản lý bảo vệ (Quyết định số 1586 LN/KL, ngày
13/7/1993).
Vùng đệm là vùng rừng hoặc đất đai có dân cư sinh sống bao quanh hoặc nằm
sát ranh giới các khu rừng đặc dụng hoặc khu bảo tồn thiên nhiên. Việc thành lập vùng
đệm nhằm làm giảm áp lực của dân địa phương đối với khu vực cần bảo vệ [19].
Gần đây nhất, khái niệm vùng đệm được thể chế hoá trong quyết định số
08/2001/QĐ-TTg của Chính phủ. Một lần nữa vùng đệm được xác định nằm ngoài
khu bảo tồn và không thuộc khu bảo tồn. Trong quyết định này đã đề cập một cách
tương đối toàn diện về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, các hoạt động và sự phối kết hợp
giữa các bên liên quan trong việc phát triển kinh tế xã hội vùng đệm.
Vùng đệm là vùng rừng hoặc vùng đất nằm sát với ranh giới với các vườn
quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên, có tác động ngăn chặn hoặc làm giảm nhẹ sự
xâm phạm khu rừng đặc dụng. Mọi hoạt động trong vùng đệm phải nhằm mục đích
hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý bảo vệ khu rừng đặc dụng, hạn chế di dân bên
ngoài vào vùng đệm, cấm săn bắt các loại động vật và chặt phá các loại thực vật
hoang dã là đối tượng bảo vệ. Diện tích của vùng đệm không tính vào diện tích của
khu rừng đặc dụng. Dự án đầu tư xây dựng và phát triển vùng đệm được phê duyệt
cùng với dự án đầu tư của khu rừng đặc dụng.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề vùng đệm chưa nêu lên như: phạm vi ranh
giới vùng đệm, cơ chế quản lý, chính sách đầu tư cho vùng đệm
Nhiều khái niệm vùng đệm được đưa ra, nhưng khó có thể thống nhất các khái
niệm trên được. Tuy nhiên có thể tìm thấy một số điểm chung cơ bản như sau:
- Vùng đệm là vùng đất nằm bao quanh khu bảo tồn thiên nhiên hoặc vườn

quốc gia nhưng không tính vào diện tích của chúng.


15

- Vùng đệm có cư dân sinh sống và diễn ra các hoạt động kinh tế dân sinh và
chịu sự quản lý của chính quyền địa phương.
- Các hoạt động ở vùng đệm nhằm hỗ trợ cho công tác bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên và phát triển kinh tế xã hội địa phương.
Như vậy, mục đích của việc phải có các vùng đệm là để ngăn chặn những tác
động có hại đối với tài nguyên tại các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia.
1.3.3. Lâm sản ngoài gỗ, quy hoạch LSNG
Do phạm vi rộng về vĩ độ, sự phức tạp về địa hình, với khí hậu nhiệt đới ẩm và
cảnh quan không đồng nhất, nên Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật rất đa
dạng và phong phú [27]. Vì vậy, rừng nước ta có rất nhiều loại LSNG có giá trị, sản
lượng lớn có thể khai thác được từ Bắc chí Nam. Mặc dù rừng đã bị phá huỷ nghiêm
trọng do nhiều nguyên nhân, nhưng thảm thực vật rừng Việt Nam cũng còn rất
phong phú, trong đó có nhiều loài cây LSNG có giá trị cao. Trong số 12.000 loài cây
được thống kê, có:
+ 76 loài cho nhựa thơm.

+ 160 loài cho dầu béo.

+ 600 loài cho ta nanh.

+ 260 loài cho tinh dầu.

+ 93 loài cho chất màu.

+ 1.498 loài cho các dược phẩm.


(Nguồn: Phân tích ngành Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam,7/2000) [2]
LSNG đóng vai trò quan trọng đối với đời sống của các cộng đồng dân cư sống
gần rừng, nó cung cấp: vật liệu xây dựng, lương thực-thực phẩm, thuốc men, các sản
phẩm để bán....[30]. Nhiều cộng đồng cư dân miền núi đã biết quản lý nguồn tài
nguyên này theo cách của họ. Tuy nhiên thời gian qua do tác động của cơ chế thị
trường LSNG đã bị khai thác quá mức, gây suy thoái nghiêm trọng. Nhiều nghiên
cứu hỗ trợ trong quản lý sử dụng LSNG của cộng đồng đã được triển khai, một số
đem lại hiệu quả khả quan. Tuy nhiên, ở Việt Nam các cộng đồng dân tộc thiểu số
có đặc điểm rất khác nhau về các bối cảnh và tập quán địa phương, người ta không
thể cho rằng những gì làm được ở nơi này, sẽ tự động làm được ở nơi khác [28]; vì
vậy, cần có những nghiên cứu cho từng trường hợp cụ thể.
So với các loại cây gỗ lớn, ở nước ta, nghiên cứu về các loài LSNG vẫn giữ vai
trò thứ yếu hơn. Tuy nhiên cũng đã có những tổ chức và cá nhân thực hiện các chủ


16

đề nghiên cứu về LSNG. Tổ chức đứng đầu về lĩnh vực này là Trung tâm Nghiên
cứu Lâm Đặc sản. Điển hình nhất là Dự án Sử dụng Bền vững LSNG do Trung Tâm
này thực hiện với sự phối hợp của Trung Tâm Nghiên cứu tài nguyên và Môi trường
(CRES) của Đại học quốc gia Hà Nội và Viện Kinh tế sinh thái (ECO-ECO). Dự án
do chính phủ Hà Lan tài trợ về tài chính và Tổ chức bảo tồn thiên nhiên Quốc tế
(IUCN) hỗ trợ kỹ thuật. Các hoạt động nghiên cứu của dự án bao gồm các vấn đề:
Phát triển và thử nghiệm các hệ thống quản lý rừng và LSNG có sự tham gia;
Nghiên cứu hệ thống sở hữu LSNG ở Việt Nam; Nghiên cứu thử nghiệm gây trồng
một số loại LSNG có giá trị dựa theo nhu cầu của người dân địa phương như gây
trồng một số loại tre và cây thuốc nam; v.v.
Ngoài ra cũng có nhiều cá nhân nghiên cứu các chủ đề liên quan đến LSNG,
nhưng hầu hết các nghiên cứu này tập trung vào các loại tre trúc như: Thử nghiệm

nhân giống Luồng của trường Đại học Lâm nghiệp, nghiên cứu nhân giống và gây
trồng các loài tre lấy măng của phân Viện Khoa học Lâm nghiệp miền Nam; Nghiên
cứu nhân giống tre Lồ Ô và Luồng của Khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông Lâm
Huế; Một số tác giả khác đã nghiên cứu về cây thuốc nam. Ngoài ra có một số đề tài
nghiên cứu về khai thác và sử dụng cũng như chế biến các loại LSNG của một số
cộng đồng dân tộc thiểu số của sinh viên Khoa Lâm nghiệp các trường Đại học Lâm
nghiệp, Đại học Huế và Đại học Tây Nguyên.
Có nhiều tài liệu đã đúc rút viết thành quy trình khá sâu về kỹ thuật cho từng
loài hoặc nhóm loài như "Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam - Đỗ Tất Lợi", "Cây cảnh
hoa Việt Nam - Trần Hợp".
Các dự án, các tổ chức trong nước và quốc tế cũng đã chú ý đến LSNG. Nhiều
chương trình đã mang lại hiệu quả; tạo cơ sở, tiền đề và đưa ra những chỉ dẫn thiết
thực cho các nghiên cứu LSNG tiếp theo. Nhiều hội thảo về LSNG chỉ ra rằng trong
thời gian tới, việc chia sẻ thông tin, phối hợp nghiên cứu và sử dụng tổng hợp các
phương pháp tiếp cận là một xu thế tất yếu trong nghiên cứu LSNG.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào việc định
loại, mô tả và thiên về quản lý, sử dụng LSNG. Những công trình nghiên cứu khác
về quy hoạch phát triển LSNG còn rất ít và chỉ mới ở giai đoạn đầu trong khi hướng


17

nghiên cứu này rất có ý nghĩa cả về thực tiễn lẫn lý luận trong công cuộc bảo vệ,
phát triển rừng và nâng cao cuộc sống cho người dân.
Về khía cạnh quản lí Nhà nước cũng vậy, trước đây LSNG thường được coi
như nguồn lâm sản thứ yếu, phụ của rừng, nó được xem gần như là loại tài sản mở.
Hiện nay, vai trò của LSNG đã được Chính phủ và ngành Lâm nghiệp đánh giá cao.
Nguồn lâm sản này hiện đang được quản lý dưới nhiều hình thức khác nhau như:
quản lý nhà nước, quản lý cộng đồng và quản lý ở cấp hộ gia đình, cá nhân với
nhiều mục đích khác nhau (kinh doanh, sử dụng cho mục đích tự cung tự cấp,

nghiên cứu, v.v.). Trong đó, việc lập kế hoạch, quy hoạch phát triển bền vững LSNG
nhằm phát huy hết những tiềm năng to lớn của nguồn tài nguyên này ở từng địa
phương là một trong những vấn đề đang được quan tâm và nó đang ngày càng thể
hiện rõ vai trò tích cực trong phát triển nguồn tài nguyên LSNG.
Theo "Chiến lược bảo tồn và phát triển LSNG 2006-2020", từ năm 1990 đến
nay diện tích rừng tự nhiên có khả năng khai thác, thu hái v diện tích trồng cây
LSNG trong phạm vi ton quốc có xu hớng tăng lên. Theo số liệu cha đầy đủ, tính
đến năm 2004, có khoảng 30/64 tỉnh có gây trồng, thu hái LSNG với diện tích
1.630.896 ha, chiếm 13% diện tích đất có rừng trong phạm vi ton quốc; trong đó
diện tích LSNG có khả năng khai thác từ rừng tự nhiên: 1.161.109ha; diện tích
LSNG đợc trồng: 469.794ha.
Các loi cây LSNG chủ yếu l Tre, Nứa, Trúc 769.411ha (chiếm 47%); Song,
Mây 381.936 ( 22,4%), Thông nhựa 255.718ha (15,6%), Quế 80.991ha (4,9%); các
cây LSNG khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Một số tỉnh có diện tích LSNG lớn
với sản phẩm đặc trưng. Tuy nhiên chỉ có 6/30 tỉnh có diện tích LSNG trên 100.000
ha (Thanh Hoá, H Tĩnh, Kon Tum, Lâm Đồng, Phú Yên, Bình Thuận). Có 5 vùng
sinh thái tập trung nhiều LSNG nhất l: Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Trung Bộ v
Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ [5].
Trong thập niên gần đây, do để đáp ứng nhu cầu của thị trờng nên cây trồng
trong nhân dân phong phú, đa dạng hơn; nhập nội, thuần hoá LSNG đã đợc đẩy
mạnh, trong đó thnh công rõ rệt nhất l với những cây dợc liệu. Tuy nhiên, việc gây


18

trồng LSNG còn mang tính phân tán, chỉ một số loi đợc trồng trên qui mô lớn khi
có nhu cầu của thị trờng, thiếu thông tin về kỹ thuật tạo giống, gây trồng LSNG.
Chính vì vậy, trong các giải pháp chủ yếu của Chiến lược phát triển LSNG giai
đoạn 2006 - 2020 của Bộ NN & PTNT, giải pháp về quy hoạch đã nêu rõ:
(1) Tập trung bảo tồn LSNG trong các khu rừng đặc dụng

(2) Tập trung phát triển LSNG ở những khu rừng sản xuất là rừng tự nhiên và
một phần khu rừng tự nhiên phòng hộ. Mặt khác, trồng cây LSNG tập trung ở ngoài
môi trường rừng:
a) Dự kiến đến năm 2020, diện tích trồng bổ sung bằng cây LSNG, gây trồng
LSNG dưới tán rừng tương đối tập trung đạt 2,2-2,5 triệu ha.
b) Tăng tỷ trọng diện tích trồng rừng sản xuất bằng Tre, Nứa, Vầu để cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp giấy, ván nhân tạo. Dự kiến đến năm 2020 có thể đạt
khoảng 300-500 ngàn ha Tre, Nứa, Vầu. Ngoài ra, có thể phát triển diện tích cây
LSNG tuỳ thuộc vào lợi thế của từng địa phương.
(3) Hình thành các vùng nguyên liệu LSNG mang tính sản xuất hàng hoá gắn
liền với các cơ sở chế biến LSNG trên cơ sở xác định cây LSNG chủ lực có lợi thế
trên thị trường:
- Vùng Tây Bắc: Tập trung phát triển các cây LSNG như Tre, Song mây, Thảo
quả, Thông nhựa, Trám quả, cây dược liệu. Bảo tồn hệ sinh thái rừng, trong đó có
LSNG tại các khu rừng bảo tồn thiên nhiên như: Mường Nhé (Điện Biên), Xuân Nha
(Sơn La),
- Vùng Đông Bắc: Tập trung phát triển các cây LSNG đặc trưng như Tre, Nứa
phục vụ cho nhà máy chế biến giấy; Thông lấy nhựa, Quế, Hồi, Trẩu, Sở, Trúc, Song
mây, Thảo quả; các loài dược liệu: Tam thất, Đỗ trọng, ý dĩ, Cam thảo nam, Thục
địa, Ba kích, Củng cố, mở rộng hoặc xây dựng cơ sở chế biến dầu nhựa, khôi phục
và phát triển các làng nghề truyền thống.
- Vùng Đồng bằng Bắc Bộ: Tập trung phát triển các làng nghề truyền thống sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng nguyên liệu LSNG (Mây, Tre đan,). Hiện
đại hoá một số cơ sở chế biến LSNG hiện có phục vụ xuất khẩu. Bảo tồn hệ sinh thái
rừng, trong đó có LSNG tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên như Vườn


19

quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Ba Vì (Hà Tây), Cát Bà (Hải Phòng),

- Vùng Bắc Trung Bộ: Tập trung phát triển các cây trồng đặc trưng như: Thông
lấy nhựa, Tre, Sở, Luồng,; xây dựng các cơ sở chế biến dầu nhựa và khôi phục các
làng nghề truyền thống sử dụng nguyên liệu LSNG.
- Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ: Tập trung trồng cây đặc sản xuất khẩu như:
Song, Mây, Tre, Lồ ô,; xây dựng các cơ sở chế biến dầu nhựa và khôi phục các
làng nghề truyền thống sử dụng nguyên liệu LSNG.
- Vùng Tây Nguyên: Tập trung phát triển các cây đặc trưng cho sản phẩm như
Thông lấy nhựa, tinh dầu, chai cục, măng, mật ong, cây thuốc,; củng cố các làng
nghề truyền thống có sử dụng nguyên liệu LSNG. Bảo tồn hệ sinh thái rừng, trong
đó có LSNG tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên như Yok Đon, Chư Yang
Sin (Đắc Lắc), Kon Chư Răng (Gia Lai),
- Vùng Đông Nam Bộ: Quy hoạch xây dựng các cơ sở chế biến LSNG (chế
biến dầu nhựa); khôi phục hàng thủ công mỹ nghệ có sử dụng nguyên liệu LSNG
(thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương,); bảo tồn hệ sinh thái rừng,
trong đó có LSNG tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên như: Vườn quốc
gia Côn Đảo, Cát Tiên,
- Vùng Đồng Bằng sông Cửu Long: Khuyến khích nuôi trồng và phát triển các cây
cho sản phẩm mật ong, các loài bò sát có giá trị xuất khẩu, tràm để sản xuất tinh dầu,...
(4) Quy hoạch phát triển các cơ sở gây nuôi sinh sản và trồng cấy nhân tạo các
loài động, thực vật hoang dã gắn với bảo tồn các loài động, thực vật đang có nguy cơ
đe dọa tuyệt chủng [5].
Đây là một tín hiệu đáng mừng cho công cuộc phát triển nguồn tài nguyên
LSNG ở nước ta nhằm tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập từ đó nâng cao
chất lượng cuộc sống, xoá đói giảm nghèo cho người dân ở vùng rừng núi.


20

Chương 2
Mục tiêu, giới hạn, nội dung và phương pháp nghiên cứu

2.1. Mục tiêu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Phát triển nguồn tài nguyên lâm sản ngoài gỗ một cách bền vững, góp phần
nâng cao đời sống cho cộng đồng dân cư sống trong Vùng đệm Khu bảo tồn thiên
nhiên Kẻ Gỗ Hà Tĩnh nhằm làm giảm áp lực tác động của người dân vào rừng của
khu bảo tồn.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
1. Đánh giá tiềm năng LSNG trong Vùng đệm Khu bảo tồn
2. Phân tích tác động của các yếu tố kinh tế xã hội và thị trường đến bảo vệ
và phát triển LSNG Vùng đệm Khu bảo tồn.
2. Xây dựng quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển LSNG Vùng đệm Khu
bảo tồn.
4. Quy hoạch các biện pháp kinh doanh phát triển một số loài LSNG chủ yếu
của Vùng đệm Khu bảo tồn.
2.2. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
1. Về quy hoạch phát triển LSNG: Đề tài chỉ tiến hành trên diện tích đất lâm
nghiệp của các hộ gia đình và cộng đồng dân cư quản lí thuộc các xã Vùng đệm
Khu bảo tồn mà đề tài tiến hành nghiên cứu, ngoại trừ đất vườn nhà, vườn đồi.
2. Về đối tượng quy hoạch: Do thời gian có hạn, đề tài chỉ mới bước đầu tiến
hành quy hoạch phát triển cho một số loài LSNG chính, có triển vọng nhất ở vùng
đệm khu bảo tồn như Thông nhựa, Trầm hương, Sa nhân,...
2.3. Nội dung nghiên cứu
1. Nghiên cứu phân tích đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của
Vùng đệm Khu BTTN Kẻ Gỗ ảnh hưởng đến bảo tồn và phát triển LSNG.
2. Phân tích tiềm năng phát triển LSNG ở Vùng đệm Khu BTTN Kẻ Gỗ.
2.1. Tiềm năng bên trong


21


- Hiện trạng tài nguyên rừng
- Hiện trạng tài nguyên LSNG
- Hiện trạng quản lí, gây trồng, thu hái, sử dụng, tiêu thụ LSNG
- Con người và kiến thức bản địa
2.2. Tiềm năng bên ngoài
- Chính sách của Nhà nước có liên quan
- Các Chương trình dự án hỗ trợ phát triển
- Thị trường tiêu thụ LSNG
3. Nghiên cứu quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển LSNG ở Vùng đệm
Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ.
4. Quy hoạch phát triển LSNG
4.1. Quy hoạch sử dụng đất
4.2. Quy hoạch các biện pháp phát triển LSNG
4.3. Dự trù nhu cầu vốn đầu tư và hiệu quả đầu tư
4.4. Đề xuất một số giải pháp thực hiện
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm, phương pháp luận
Quan điểm:
- LSNG là một bộ phận chức năng quan trọng của hệ sinh thái rừng. Nếu xem
hệ sinh thái rừng nhiệt đới là một đơn vị của tự nhiên, một thể thống nhất biện
chứng của các loài cây gỗ lớn, cây bụi, thảm tươi, thực vật ký sinh, phụ sinh, dây
leo, các động vật, vi sinh vật, các chất hữu cơ, vô cơ trong điều kiện khí hậu mưa
ẩm nhiệt đới thì tập đoàn các cây cho sản phẩm LSNG là một bộ phận hợp thành của
đơn vị tự nhiên đó, rất phong phú cả về loài cây, tuổi cây và dạng sống. Đây là điều
kiện quan trọng để phối hợp chúng với tỷ lệ cao trong tổ thành rừng ở mọi tầng thứ
khác nhau, tạo nên hệ sinh thái có năng suất cao và bền vững.
- Việc phát triển LSNG thực chất là làm tăng giá trị kinh tế của rừng cũng như
để kinh doanh tổng hợp tài nguyên rừng. Trên thực tế, để tăng giá trị kinh tế của
rừng có thể có nhiều con đường khác nhau, nhưng lựa chọn con đường phát triển
LSNG sẽ là một hướng đi đúng đắn trên con đường hướng tới một nền nông nghiệp



22

sinh thái bền vững. Phát triển LSNG là tận dụng ưu thế đa dạng sinh học của hệ sinh
thái rừng, sự đa dạng về sản phẩm lại tạo ra sự cân bằng trên cơ sở bảo tồn có khai thác.
Hoạt động phát triển LSNG còn bị chi phối bởi yếu tố xã hội và nhân văn như việc hoạch
định các chính sách, việc bố trí phân công lao động cũng như các chế độ hưởng lợi trong
công tác phát triển rừng.
Phương pháp luận:
LSNG chỉ có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện duy trì được hoàn
cảnh rừng. Sự tồn tại và phát triển của LSNG lại có tác dụng bổ trợ ngược lại với các
thành phần khác trong hệ sinh thái rừng. Người dân sinh sống trong vùng, khai thác
và sử dụng LSNG như là một trong những kế sinh nhai tất yếu về quyền cũng như
nhu cầu được hưởng lợi từ rừng. Vì vậy, muốn phát triển tài nguyên rừng được bền
vững, phải giải quyết được hài hoà các mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế, yếu tố
xã hội và yếu tố sinh thái.
2.4.2. Phương pháp cụ thể
1, Phương pháp kế thừa tài liệu
- Số liệu thống kê về điều kiện cơ bản vùng đệm: đặc điểm tự nhiên, tài nguyên
rừng, điều kiện kinh tế - xã hội tại khu vực nghiên cứu.
- Các chính sách, quyết định có liên quan đến bảo tồn và phát triển LSNG.
- Các loại bản đồ, cơ sở dữ liệu có liên quan đến LSNG tại khu vực nghiên cứu.
- Các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay về LSNG tại khu vực nghiên cứu.
Các số liệu kế thừa này phải đảm bảo là những tài liệu mới nhất, chính thống
và đủ số lượng, chất lượng cũng như độ tin cậy theo yêu cầu của chủ đề nghiên cứu.
2, Phương pháp điều tra hiện trường
Kết hợp giữa điều tra diện và điều tra điểm. Điều tra diện để phát hiện các quy
luật phân bố LSNG, điều tra điểm để định lượng cho các quy luật phân bố LSNG đã
phát hiện.

* Rừng tự nhiên: Khảo sát theo tuyến đại diện và lập các ô tiêu chuẩn điển hình
để thống kê các chỉ tiêu.
- Tuyến đại diện: đi qua các trạng thái rừng khác nhau, độ cao khác nhau.


23

- Ô tiêu chuẩn điển hình: diện tích 1000m2 (25 x 40m) trên các trạng thái rừng
khác nhau, độ cao khác nhau. Trên ô tiêu chuẩn tiến hành:
+ Điều tra tầng cây gỗ (cây có D1,3 >=0,8cm): đo đếm D1.3, Hvn, Hdc Dt
+ Cây Trầm hương: xác định số cây, đo đếm D1.3, Hvn, Hdc Dt
+ Cây Sa nhân: đếm số cây, ước lượng trữ lượng, khả năng khai thác
+ Cây LSNG dạng bụi: lập 4 ô dạng bản ở bốn góc và 1 ô dạng bản ở chính
giữa của ô tiêu chuẩn 1000m2, diện tích dạng bản 5 x 5m: thống kê loài, ngoài ra bổ
sung thêm từ tuyến điều tra các loài điều tra được.
- Khối lượng điều tra: thực hiện trên 6 ô tiêu chuẩn cho 2 trạng thái rừng đặc trưng
ở khu vực nghiên cứu là: IIB và IC, với 3 ô tiêu chuẩn cho một trạng thái rừng.
* Rừng trồng:
- Rừng trồng Thông nhựa:
Lập 6 ô tiêu chuẩn điển hình, diện tích 250m2 cho 3 cấp tuổi (III, IV, V) hiện
có với mỗi cấp tuổi 2 ô tiêu chuẩn. Trên mỗi ô tiêu chuẩn tiến hành:
+ Điều tra tầng cây gỗ: đo đếm D1.3, Hvn, Dt, Hdc
+ Cây LSNG dạng bụi: lập 4 ô dạng bản ở bốn góc và 1 ô dạng bản ở chính
giữa của ô tiêu chuẩn 250m2, diện tích dạng bản 5 x 5m: thống kê loài, trữ lượng...
- Rừng trồng Bạch đàn+Keo:
Lập 2 ô tiêu chuẩn điển hình, diện tích 250m2 (20 x 25m), trên địa hình khác
nhau, độ cao khác nhau. Trên mỗi ô tiêu chuẩn tiến hành:
+ Điều tra tầng cây gỗ: đo đếm D1.3, Hvn, Dt, Hdc
+ Cây LSNG dạng bụi: lập 4 ô dạng bản ở bốn góc và 1 ô dạng bản ở chính
giữa của ô tiêu chuẩn 250m2, diện tích dạng bản 5 x 5m: thống kê loài, trữ lượng...

Các chỉ tiêu đo đếm, điều tra được ghi vào các biểu điều tra (phụ biểu 03).
3, Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc
a) Phỏng vấn các hộ gia đình
- Số lượng 30 hộ, được bố trí trên một thôn đại diện.
- Tiêu chí của thôn đại diện:
+ Điển hình về điều kiện tự nhiên: khí hậu, đất đai, tài nguyên rừng, và điều
kiện kinh tế xã hội: lao động, văn hoá, thu nhập, của khu vực nghiên cứu.


24

+ Cuộc sống của người dân có sự phụ thuộc nhiều vào tài nguyên đất lâm nghiệp,
đặt biệt tài nguyên LSNG. Có truyền thống thu hái, sử dụng, chế biến và tiêu thụ LSNG,
thu nhập chủ yếu dựa vào các hoạt động sản xuất lâm nghiệp trong đó có LSNG.
+ Nhìn chung cuộc sống của người dân còn khó khăn, nghèo, thu nhập thất
thường, thiếu việc làm, đời sống không ổn định.
+ Có đầy đủ các thành phần khá, trung bình, nghèo.
+ Có hoạt động sản xuất kinh doanh LSNG tương đối phong phú, mang đặc
trưng cho cả khu vực nghiên cứu.
- Các hộ được phỏng vấn được lựa chọn theo phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên:
10 hộ khá, 10 hộ trung bình, 10 hộ nghèo. Nội dung phỏng vấn tập trung vào các vấn đề
như: Tình hình kinh tế chung hộ gia đình, những loại LSNG nào được người dân khai
thác, trữ lượng hiện có, sản lượng khai thác bình quân hàng năm,... Tình trạng tồn tại
của những loài cây LSNG trong rừng của người dân, mức độ quan trọng của từng loại
LSNG đối với đời sống của từng hộ cũng như ảnh hưởng tới thu nhập gia đình. Các hình
thức khai thác, chế biến và sử dụng và tình hình gieo trồng LSNG tại địa phương. Khả
năng tiêu thụ và thị trường tiêu thu trên địa bàn. Trên cơ sở đó tìm hiểu những nguyên
nhân tác động tích cực hay tiêu cực đến phát triển nguồn LSNG trước đây và hiện nay.
- Tất cả các thông tin phỏng vấn được ghi vào phiếu phỏng vấn chuẩn bị trước.
Mẫu phiếu phỏng vấn xin xem ở phần phụ lục.

b) Tham vấn các đối tượng liên quan
+ Tham vấn Ban quản lý xã, thôn để tìm hiểu về tình hình kinh tế xã hội của
thôn: dân số, mức thu nhập, dân trí, các loại đất, tình hình khai thác sử dụng tài
nguyên rừng và tài nguyên LSNG.
+ Tham vấn cán bộ UBND huyện Cẩm Xuyên, Ban quản lý lâm trường Cẩm
Xuyên, Ban quản lý khu BTTN Kẻ Gỗ nhằm tìm hiểu những dự án đã và đang triển
khai về công tác quản lý bảo vệ rừng, về định hướng phát triển lâm nghiệp nói
chung và LSNG trên địa bàn nói riêng.
+ Tham vấn các thương buôn thu mua nguồn tài nguyên LSNG trên địa bàn
để nắm bắt được giá cả từng loài thông qua đó cũng có thể đánh giá được giá trị của
sản phẩm, những mặt hàng nào đang trong thời điểm khan hiếm.


×