Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tản văn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
-------------------

NGUYỄN THỊ THU HÀ

TẢN VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Kiến Thọ

Thái Nguyên, tháng 5/2017


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình ngiên cứu của riêng tôi và được
sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Kiến Thọ. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức
nào trước đây. Các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá
được tác giả thu thập từ các nguồn có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 6 năm 2017
Tác giả


Nguyễn Thị Thu Hà


ii

MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
MỤC LỤC ........................................................................................................ ii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 8
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 9
5. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 10
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 10
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 11
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 12
Chương 1. TẢN VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ TRONG NỀN VĂN
XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ................................................................ 12
1.1. Nguyễn Ngọc Tư - nhà văn của vùng sông nước miền Tây Nam Bộ ...... 12
1.1.1.Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ..................................................... 12
1.1.2. Nguyễn Ngọc Tư với thể loại tản văn ................................................... 14
1.2. Khái niệm tản văn .................................................................................... 15
1.2.1. Đặc trưng thẩm mĩ của thể loại tản văn ................................................ 17
1.2.2. Thể loại tản văn trong hành trình sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ........ 18
1.3. Đặc trưng văn hóa Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư .......... 19
1.3.1. Khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa ..................................................... 19
1.3.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học .................................................. 26

1.3.3. Màu sắc văn hóa Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư .......... 29
Chương 2. BỨC TRANH VĂN HÓA ĐA SẮC MÀU TRONG TẢN
VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ .......................................................................... 37


iii

2.1. Bức tranh thiên nhiên Nam Bộ................................................................. 37
2.1.1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp đặc trưng vùng đồng bằng sông nước ......... 37
2.1.2. Thiên nhiên gắn liền với đời sống người dân lao động ........................ 39
2.2. Văn hóa ứng xử và tình đời, tình người trong cuộc sống ........................ 41
2.2.1. Những con người nghĩa tình, đôn hậu .................................................. 42
2.2.2. Những con người lạc quan, hào sảng, nghĩa hiệp ................................. 45
2.3. Đô thị hóa và những vấn đề đặt ra của đời sống hiện đại ........................ 48
2.3.1. Đô thị hóa và guồng quay cuộc sống hiện đại ...................................... 49
2.3.2. Những mất mát, tổn thương về các giá trị văn hóa - tinh thần ............. 51
Chương 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN VĂN HÓA NAM BỘ TRONG
TẢN VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ ................................................................ 56
3.1. Đặc trưng ngôn ngữ Nam Bộ trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư ................ 56
3.1.1. Phương ngữ Nam Bộ............................................................................. 57
3.1.2. Lối biểu đạt đặc thù của đồng bào miền sông nước, miệt vườn ........... 59
3.2. Những sắc thái giọng điệu trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư .................... 61
3.2.1. Giọng điệu trữ tình, đằm thắm .............................................................. 61
3.2.2. Giọng điệu dân dã, đôn hậu .................................................................. 63
3.2.3. Giọng điệu hóm hỉnh, trẻ trung ............................................................. 64
3.2.4. Giọng điệu hoài niệm, tha thiết ............................................................. 65
3.2.5. Giọng điệu trầm tư, triết lí..................................................................... 67
3.3. Một số biểu tượng văn hóa trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư ................... 68
3.2.1. Sông - Biểu tượng của cảnh đời, kiếp người ........................................ 69
3.2.2. Gió - Biểu tượng của những ám ảnh tâm lí ........................................... 70

3.3.3. Một số biểu tượng văn hóa khác ........................................................... 72
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 84


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có nhiều hướng tiếp cận khác nhau trước một vấn đề văn học, tùy
thuộc vào đối tượng và mục đích nghiên cứu trong từng vấn đề cụ thể. Trong
đó, nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa là một hướng nghiên
cứu khả dĩ và hết sức thú vị, đã được vận dụng ở Việt Nam trong thời gian
qua với những kết quả tích cực. Văn hóa và văn học có những mối quan hệ
biện chứng. Muốn giải quyết một vấn đề văn học, rất cần tiếp cận từ góc độ
văn hóa học. Văn hóa là mẫu số chung, là cái bao trùm lên đời sống con
người và xã hội. Không chỉ những gì ta biết liên quan đến con người đều
thuộc về văn hóa mà ngay cả những cái ta chưa biết, liên quan đến con người
cũng đều thuộc về văn hóa. Văn học bao giờ cũng chịu sự chi phối trực tiếp từ
môi trường văn hóa của một thời đại nhất định, cũng như chịu sự tác động,
chi phối bởi truyền thống văn hóa dân tộc. Đồng thời, mỗi nhà văn lại thường
gắn bó đặc biệt và chịu sự ảnh hưởng của một vùng miền nhất định, tạo thành
không gian văn hóa riêng cho thế giới nghệ thuật của mình. Vì vậy, nghiên
cứu văn học từ góc nhìn văn hóa bên cạnh việc cho phép ta nhận diện bối
cảnh văn hóa của dân tộc và thời đại, thì đặc biệt nó còn cho ta khám phá
những nét riêng biệt, đặc sắc, đặc trưng văn hóa của mỗi vùng miền.
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn nữ xuất sắc và khá tiêu biểu trong nền
văn xuôi Việt Nam đương đại. Được đánh giá cao trong giới chuyên môn,
được nhiều nhà xuất bản săn đón, lọt vào tầm ngắm của không ít nhà đạo diễn

sân khấu điện ảnh, các tác phẩm của nữ văn sĩ này thực sự có được vị trí chắc
chắn trong bức tranh văn học hiện nay. Thành công với thể loại truyện ngắn
và tiểu thuyết với các tác phẩm nổi tiếng như “Cánh đồng bất tận”,
“Sông”.v.v.., Nguyễn Ngọc Tư cũng rất thành công trong thể loại tản văn với
hàng loạt tác phẩm viết về con người, đời sống sinh hoạt của miền Tây Nam
Bộ. Với một tâm hồn cởi mở, phóng khoáng và hết sức nhạy cảm của một


2

người viết gắn bó và am hiểu vùng quê miền sông nước, tản văn của Nguyễn
Ngọc Tư trở thành một đặc sản cho những người thưởng thức và yêu mến
những giá trị đặc sắc của văn hóa miệt vườn Cửu Long. Qua các trang viết
của chị, người đọc như được tận mắt chứng kiến và hòa mình vào không gian
của những dòng sông rộng lớn, những con kênh, những cánh đồng, những
miệt vườn trù phú rộng mênh mông. Ở đó, những sinh hoạt hàng ngày, những
hoạt động sản xuất của các cư dân nơi đây gắn với số phận của những người
dân nghèo nhưng đôn hậu, chất phát cứ trở đi trở lại ám ảnh khôn nguôi.
Đến nay đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu, bài viết về
truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư với những cách tiếp cận từ
nhiều phía. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về tản văn Nguyễn Ngọc
Tư lại rất ít, đặc biệt là hiện vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu về tản
văn Nguyễn Ngọc Tư từ cách tiếp cận văn hóa. Đó là lí do chúng tôi chọn lựa
do chúng tôi chọn lựa đề tài: Tản văn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa
cho công trình nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ chỉ mới xuất hiện trên văn đàn
trong thập niên đầu của thế kỉ này, tức là khoảng gần hơn chục năm trở lại
đây. Tuy nhiên, chị đã có khối lượng tác phẩm xuất bản lớn trong một thời

gian ngắn, được trao tặng nhiều giải thưởng văn học có uy tín và nhận được
nhiều sự yêu mến, kì vọng từ độc giả. Bắt đầu từ tập truyện ngắn “Cánh đồng
bất tận” gây được tiếng vang lớn, thu hút sự chú ý của dư luận từ nhiều phía,
với hàng loạt bài viết giới thiệu về tác phẩm và chân dung Nguyễn Ngọc Tư
được công bố từ phía các nhà văn, nhà nghiên cứu và phê bình văn học. Là
một nhà văn được yêu mến không chỉ ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài,
vì thế những bài viết tìm hiểu về các sáng tác của chị thường xuyên được
đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Số lượng bài viết về tác giả này


3

rất dồi dào với những cách đặt vấn đề khác nhau. Trần Hữu Dũng có bài viết
Nguyễn Ngọc Tư - đặc sản miền Nam nhấn mạnh phong cách riêng của nhà
văn trẻ từ vùng sông nước Cà Mau rất đặc trưng của Nam Bộ; Văn Công
Hùng có bài viết Bất tận với Nguyễn Ngọc Tư đã chỉ ra sự vận động trong
ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư từ Ngọn đèn không tắt đến Cánh đồng bất tận;
Huỳnh Công Tín có bài: Nguyễn Ngọc Tư- nhà văn trẻ Nam Bộ… Võ Gia
Trị ở bài viết Tản mạn văn chương năm qua đã có ý kiến đánh giá tích cực
về Nguyễn Ngọc Tư (năm 2008 - năm chị đoạt giải thưởng văn học ASEAN).
Khi tập truyện đầu tay Ngọn đèn không tắt đoạt giải của Hội Liên hiệp
văn học nghệ thuật Việt Nam, cái tên Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu được các nhà
văn lớp trước như Nguyễn Quang Sáng, Chu Lai, Nguyên Ngọc, Dạ Ngân...
chú ý đến. Trong lời tựa tập truyện này, Nguyễn Quang Sáng đã có nhận xét
rất xác đáng khi cho rằng: “Với giọng văn mộc mạc bình dị, với ngôn ngữ
đời thường, Nguyễn Ngọc Tư đã tạo nên một không khí rất tự nhiên về màu
sắc, hương vị của mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc - mũi Cà Mau, của những
con người tứ xứ, về mũi đất của rừng, của sông nước, của biển cả mà cha
ông ta đã dày công khai phá... Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những con
người lam lũ, giản dị, bộc trực ấy chứa đựng bên trong cả một tâm hồn vừa

nhân hậu, vừa tinh tế qua cách đối nhân xử thế” (Lời tựa tập Ngọn đèn không
tắt, Nxb Trẻ, 2000, tr.03). Trong khi đó, Chu Lai không ngần ngại khẳng
định: “Nguyễn Ngọc Tư là cây bút tiêu biểu của miền Tây Nam Bộ, một tài
năng văn học hiếm có hiện nay của văn học Việt Nam”.
Huỳnh Công Tín gọi Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của Nam Bộ và
đánh giá: “Nhân vật trong tác phẩm của chị là những con người Nam Bộ với
những cái tên hết sức bình dị, chân chất kiểu Nam Bộ... Họ mang những tâm
tư, nguyện vọng hết sức đời thường. Đó là những người sinh sống bằng
những ngành cũng gắn liền với quê hương sông nước Nam Bộ. Đặc biệt vùng
đất và con người Nam Bộ trong sáng tác của chị được dựng lại bằng chính


4

chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của chị”. Tác
giả còn chỉ ra truyện của Nguyễn Ngọc Tư chủ yếu đề cập đến số phận buồn
thương của những con người nhỏ bé, chân chất sống cuộc đời bình dị nhưng
nhiều bi kịch, đắng cay (Nguyễn Ngọc Tư: Nhà văn trẻ Nam Bộ, tạp chí Văn
nghệ Đồng bằng sông Cửu Long, 15/04/2006).
Tìm hiểu con đường Nguyễn Ngọc Tư đã đi và đang đi tới, Bùi Công
Thuấn có bài Nguyễn Ngọc Tư và hành trình đã đi, mang đến một cái nhìn
tổng quan về hành trình sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư từ những tác phẩm
trước Cánh đồng bất tận, đến những tập truyện sau đó như Gió lẻ, Khói trời
lộng lẫy… Tác giả bài báo chỉ ra, cầm bút với Nguyễn Ngọc Tư là để nói ra
cái tình người sâu thẳm trong những biểu hiện thật phong phú mà như chị nói
“Có bao nhiêu tình tôi yêu hết”.
Trong các nhà phê bình, Nguyễn Trọng Bình là một trong những người
có nhiều bài viết nghiên cứu về Nguyễn Ngọc Tư, với những bài viết như:
Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ phương diện nghệ thuật
về con người; Giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư;

Đặc trưng ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư; Phong cách truyện
ngắn Nguyễn ngọc Tư nhìn từ phương diện nội dung tự sự; Những dạng
tình huống thường gặp trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư; Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa; Nguyễn Ngọc Tư và hành trình “trở
về”… Qua những bài viết này, tác giả đã cho thấy: Truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư là “bức tranh sống động về cuộc sống của một bộ phận người dân
lao động (nhất là ở thôn quê) vùng đồng bằng sông Cửu Long mà cái nghèo,
cái khổ cứ bám riết lấy họ”.
Phạm Thái Lê với công trình nghiên cứu Hình tượng con người cô
đơn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư rút ra kết luận: “Cô đơn luôn là nỗi
đau, là bi kịch lớn nhất của con người. Nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta
cảm nhận rất rõ nỗi cô đơn mà không thấy sự bi quan tuyệt vọng. Nhân vật


5

của chị tự ý thức về sự cô đơn. Họ chấp nhận bởi họ tìm thấy trong nỗi đau ấy
một lẽ sống. Và từ trong nỗi đau ấy, họ vươn lên làm người. Cô đơn trong
quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động lực của cái Đẹp, cái Thiện”. Ngoài
ra, còn có nhiều bài viết trên các báo, tạp chí, website cũng bàn về nội dung
và hình thức trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư như: Hoàng Đăng Khoa với
Dấu ấn hậu hiện đại trong Cánh đồng bất tận (Vietnamnet.vn), Dạ Ngân
với Nguyễn Ngọc Tư - điềm đạm mà thấu đáo (Văn nghệ trẻ, số 15); Minh
Thi với Nguyễn Ngọc Tư và những bộ mặt tâm trạng (Lao động, ngày
11/4/2004); Thảo Vy với Nỗi đau trong cánh đồng bất tận (Tạp chí văn hóa
Phật giáo, số 11)…
Từ những giới thiệu về tác giả, giới nghiên cứu đã đi sâu hơn về đặc
điểm bút pháp nghệ thuật trong văn Nguyễn Ngọc Tư. Đáng chú ý là các bài
viết: Cánh đồng bất tận - nhìn từ mô hình tự sự và ngôn ngữ nghệ thuật
của Đoàn Ánh Dương; Lời “đề từ” trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư của

Phạm Phú Phong; Chất thơ trong Cánh đồng bất tận của Đào Duy Hiệp; Nỗi
nhớ qua cánh đồng bất tận của Nguyễn Quang Sáng; Một thế giới nghệ
thuật riêng của Nguyễn Khắc Phê; Bài học văn chương từ Cánh đồng bất
tận của Bùi Việt Thắng…
Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều
khóa luận tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Có thể kể tên
một số công trình nghiên cứu như: Những yếu tố ngoài cốt truyện trong
văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư của Trần Thị Ái Như (Đại học khoa học Huế,
2007); Yếu tố phân tâm học trong truyện ngắn của Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Thị Thu Huệ và Nguyễn Ngọc Tư của Nguyễn Thị Quỳnh Hương
(luận văn thạc sĩ, 2008); Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư của Bùi Thị Ngọc Ánh (luận văn thạc sĩ, 2008); Đặc
trưng nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư của Võ Thị Anh Đào (luận
văn thạc sĩ, 2009)…


6

Nhìn chung, mỗi công trình, bài viết đều có những đóng góp nhất định
khi đi sâu nghiên cứu những khía cạnh nghệ thuật, nội dung tư tưởng trong
tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về tản văn của Nguyễn Ngọc Tư
Với thể loại tạp văn, tản văn, Nguyễn Ngọc Tư không viết nhiều như
truyện ngắn, nhưng khi cuốn tạp văn, hay tản văn đầu tiên ra đời cũng đã có
khá nhiều bài viết, bài cảm nhận trên báo, tạp chí và chủ yếu là qua mạng
Internet. Sau đó là một giọng văn trưởng thành hơn mang triết lý sâu sắc và
thâm trầm hơn qua những tạp văn, tản văn sau này như: Ngày mai của
những ngày mai, Biển của mỗi người, Gáy người thì lạnh. Qua thu thập
thông tin khảo sát, chúng tôi nhận thấy phần lớn độc giả đều rất hưởng ứng,
chào đón thể loại mới này. Ví dụ, nếu như bản phát hành đầu tiên với số

lượng 2.000 cuốn vào cuối năm 2005, tới đầu tháng 1/2006, sách đã được tái
bản với số lượng 5.000 cuốn. Nhận xét về tạp văn “đầu tay” của Nguyễn
Ngọc Tư, Thanh Vân trên trang web viet-studies có viết bài Tạp văn Nguyễn
Ngọc Tư như một lời giới thiệu với độc giả về những nội dung mới - khác
hẳn với những truyện ngắn đã được Nguyễn Ngọc Tư viết trước đó.
Năm 2005, nhà văn Sơn Nam từng chia sẻ với VnExpress cảm nhận về
những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư: “Nguyễn Ngọc Tư viết tài, nhưng
muốn sâu và bền hơn thì phải đi nhiều, học nhiều hơn nữa. Văn chương
không chỉ là chuyện tình yêu nam nữ đơn thuần, văn chương phải giúp người
ta gợi nhớ, khắc sâu về con người, cuộc sống…”.
Độc giả Nguyễn Ngọc Tường Vân, ngày 21/07/2011, có bài viết Mộc
mạc và rất trữ tình đăng trên website: Tác giả đã chia sẻ những cảm nhận của mình khi đọc tản
văn Yên người ngóng núi: “Trong cuộc sống bận rộn này, mỗi chúng ta nên
dành một chút thời gian mỗi ngày để đọc Yêu người ngóng núi và chiêm
nghiệm, chỉ cần mỗi ngày một bài tản văn, hẳn là chúng ta sẽ suy nghĩ đẹp


7

hơn và sống tốt hơn. Đây là tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Ngọc Tư mà tôi
đọc, thật thì so với Cánh Đồng Bất Tận, tôi lại thích quyển này hơn bởi nó thể
hiện được cái tình giản dị mà thấm đẫm giữa đời thường. Ngay từ tản văn
đầu tiên, Nguyễn Ngọc Tư bàn về Sài Gòn - nơi tôi sinh sống, bằng một lối
văn nhẹ như dòng nước: "Bằng cách đó, thành phố yêu anh...." còn anh thì
mãi ở núi này trông núi nọ, nhưng thành phố vẫn còn đó, chờ đợi trong yêu
thương, hằng ngày vẫn thở”. Nguyễn Ngọc Tư lúc nào cũng cuốn người đọc
vào một thế giới miên man tình. Không chỉ là tình yêu đơn thuần như những
cây bút trẻ đang tích cực khai thác, tình trong văn Nguyễn Ngọc Tư bảng lảng
giữa những ngã tư, những con phố, quán cà phê chiều, giữa sự đấu tranh của
hoài niệm và tương lai, giữa kỷ niệm và thực tế.

Trong bài viết Về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư, tác giả Trần Hữu
Dũng đã có những nhận xét khá sâu sắc về điểm nhìn trong tản văn Nguyễn
Ngọc Tư. Trong bài Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, tác giả Thanh Vân lại hướng
sự quan tâm đến giọng điệu trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư. Tản văn của
Nguyễn Ngọc Tư là những sắc thái chân thực và sinh động của cảm xúc và
tâm trạng. Qua tập tản văn Đong tấm lòng, Nguyễn Ngọc Tư đã gửi gắm
những vui buồn, âu lo không chỉ về thân phận người nông dân miền Tây, mà
còn về bản sắc văn hóa, lịch sử, cội nguồn của một vùng đất.
Biển của mỗi người là tập tản văn mới nhất của nhà văn Nguyễn Ngọc
Tư (tính theo thời điểm sáng tác chứ không theo năm tái bản), gồm 21 tản văn
phơi trải những suy tư của Nguyễn Ngọc Tư về cuộc đời, thế sự và về nghiệp
viết. Tác giả chia sẻ một cách chân thành :“Tôi nghĩ nghề viết và người viết
cũng đơn giản vậy, chữa lành, an ủi những vết thương của người đời để làm
dịu vết thương của chinh mình. Như sau tàn tro, là vẻ đẹp lộng lẫy của đá”.
Tản văn Gáy người thì lạnh khẳng định rõ thêm một phong cách Nguyễn
Ngọc Tư. Vẫn với cách viết giàu chất phóng khoáng mà mộc mạc, gần gũi và
dung dị “tập tản văn cứ trôi bình lặng theo những con nước miền Tây. Đọc
mà như thấy cái khung cảnh miền Tây êm đềm hiện ra trước mắt vậy”.


8

Công trình nghiên cứu khá toàn diện và chuyên biệt về tản văn Nguyễn
Ngọc Tư là luận văn thạc sĩ của Lương Thị Thảo, bảo vệ thành công tại Đại
học Đà Nẵng, có tên gọi Đặc sắc của tản văn Nguyễn Ngọc Tư. Tác giả luận
văn đã chỉ ra những sắc thái tình cảm trĩu nặng suy tư và cảm xúc trong của
Nguyễn Ngọc Tư đối với miền sông nước quê hương Nam Bộ của mình:
“cảnh sắc trong trang văn của Nguyễn Ngọc Tư không thuần túy chỉ là cảnh
mà luôn chất chứa cái tình bên trong. Quê hương không chỉ hiện lên trong tác
phẩm của chị với những không gian tuổi thơ gắn với đất vườn mà còn là

những cảnh sắc mang nét đặc trưng của đất mũi Cà Mau. Đó là những mùa
gió chướng và sông nước”.
Tuy nhiên, tác giả luận văn nói trên dường như không mấy quan tâm,
cắt nghĩa và lí giải những dấu ấn văn hóa in đậm trong từng trang văn của
Nguyễn Ngọc Tư, một thứ văn hóa đặt trưng, ăn sâu, bén rễ từ bao đời của
miền sông nước. Chính thái độ trân trọng, xót xa những giá trị văn hóa
truyền thống đang dần mai một tạo nên nét đặc sắc và quyến rũ trong từng
trang văn của Nguyễn Ngọc Tư. Điều này, vô hình chung, đã tạo thành
những khoảng trống. Nghiên cứu của chúng tôi với đề tài Tản văn Nguyễn
Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa là một nỗ lực để có thể hy vọng lấp đầy
những khoảng trống đó.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận văn là
những đặc trưng văn hóa trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn là công trình khảo sát về tản văn của Nguyễn Ngọc Tư từ góc
nhìn văn hoá. Chúng tôi không đặt nhiều tham vọng đưa ra những kiến giải
mới khác với nhận định của các nhà nghiên cứu trước đó mà chỉ vận dụng
những thành tựu đã có để đưa ra những đánh giá có tính chất cụ thể bước đầu


9

theo một hướng mới. Hy vọng kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đem lại
một cái nhìn khái quát, đầy đủ hơn về sáng tác tản văn của Nguyễn Ngọc Tư,
chỉ ra được những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư đối với sự phát triển của
nền văn học Việt Nam đương đại, chỉ ra được đặc trưng tiêu biểu trong tản
văn của Nguyễn Ngọc Tư từ cách tiếp cận văn hóa, đồng thời khẳng định
những giá trị nghệ thuật, những tìm tòi, đổi mới, vận động và phát triển của

văn chương mang đậm bản sắc văn hóa của vùng quê Nam Bộ của Nguyễn
Ngọc Tư.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Đọc và khảo sát các tản văn của Nguyễn Ngọc Tư.
- Nghiên cứu và chỉ ra những dấu ấn văn hóa của tản văn Nguyễn Ngọc
Tư ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Nghiên cứu các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ở các thể loại khác như
truyện ngắn, tiểu thuyết để thấy được phong cách, cá tính của Nguyễn Ngọc
Tư trong sáng tạo nghệ thuật.
- Đối chiếu, so sánh với một số tản văn của các tác giả khác để thấy
được bản sắc riêng trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư.
- Bước đầu đánh giá và xác định được vị trí của tản văn trong sáng tác
văn chương của Nguyễn Ngọc Tư; đóng góp của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
đối với thể loại tản văn nói riêng và trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại
nói chung.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp:
- Phương pháp thống kê phân loại: khảo sát các hiện tượng lặp lại ở
một số các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm và dựa vào tần


10

số xuất hiện của các yếu tố đó để khái quát và hệ thống thành những đặc điểm
riêng, nổi bật dưới góc nhìn văn hóa trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
- Phương pháp phân tích,tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để
tìm hiểu nội dung các tác phẩm, phân tích những đặc điểm được thể hiện
trong các tản văn của Nguyễn Ngọc Tư và từ đó rút ra những luận điểm

chính của đề tài.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Để chỉ ra những đặc điểm giống
nhau cũng như những nét riêng, tiêu biểu về văn hoá Nam Bộ được thể hiện
trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh,
đối chiếu sáng tác của chị với một số nhà văn lớp trước và đương thời, từ đó,
khẳng định đóng góp của chị với nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp đồng bộ phương pháp
nghiên cứu lịch sử, địa lí, văn hóa để tìm hiểu, phân tích, lí giải những dấu ấn
văn hóa Nam Bộ trong tác phẩm.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Khai thác những vẻ đẹp và đặc
trưng của văn hóa Nam Bộ được thể hiện trong tác phẩm.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tản văn của Nguyễn Ngọc Tư, bao gồm:
- Sống chậm thời @ (in chung với Lê Thiếu Nhơn), Nxb Thanh Niên, 2006
- Ngày mai của những ngày mai, Nxb Phụ nữ, 2009
- Gáy người thì lạnh, Nxb Trẻ, 2012
- Đong tấm lòng, Nxb Trẻ, 2015
- Yêu người ngóng núi, Nxb Trẻ, 2016
- Biển của mỗi người, Nxb Kim Đồng, 2016
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được triển khai làm ba chương:
Chương 1: Tản văn Nguyễn Ngọc Tư trong nền văn xuôi Việt Nam
đương đại.


11

Chương 2: Bức tranh văn hóa đa sắc màu trong tản văn Nguyễn
Ngọc Tư.

Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện văn hóa Nam Bộ trong tản văn
Nguyễn Ngọc Tư.
7. Đóng góp của luận văn
Nếu đề tài được thực hiện thành công, chúng tôi hy vọng có những
đóng góp sau:
- Có được cái nhìn tổng thể, toàn diện về tản văn Nguyễn Ngọc Tư từ
góc nhìn văn hóa.
- Thấy được những yếu tố văn hóa kết tinh trong sáng tác (tản văn) của
Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời chỉ ra những đóng góp của nhà văn trong việc
phát hiện, tôn vinh và góp phần kiến tạo những giá trị văn hóa đặc sắc của
vùng sông nước miền Tây Nam Bộ.
- Là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về thể
loại tản văn, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng như nghiên cứu văn học từ góc
nhìn văn hóa.


12

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TẢN VĂN NGUYỄN NGỌC TƯ
TRONG NỀN VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Nguyễn Ngọc Tư - nhà văn của vùng sông nước miền Tây Nam Bộ
1.1.1.Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
Tác giả Nguyễn Ngọc Tư tên thật là Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm 1976,
quê quán ở xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Cuộc sống của chị
khá vất vả, không được suôn sẻ và đầy đủ điều kiện như nhiều người. Lên 4
tuổi, gia đình chị chuyển về Cà Mau nhưng chị không được sống với ba mẹ
như các anh chị mà ở với ngoại. Vốn là học sinh giỏi văn của trường Phan
Ngọc Hiển, nhưng từ nhỏ chị chưa bao giờ nghĩ mình sẽ là nhà văn. Ngay khi

đám bạn cùng lớp bắt đầu tập viết truyện, làm thơ thì chị vẫn “im hơi lặng
tiếng”. Chị đã tự nhận rằng: “Trước khi viết truyện ngắn đầu tiên, mình đơn
thuần là một cô gái nông dân, bỏ dở học hành, ở nhà nấu cơm nuôi ông ngoại,
chăm sóc vườn rau, chiều chiều cắt rau cho má đi bán chợ đêm”[38]. Sinh ra
và lớn lên ở miền quê này, cũng từng chịu cảnh khó khăn, phải bỏ học nửa
chừng, hơn ai hết, nhà văn thấu hiểu, thông cảm và đau đớn cùng con người ở
vùng đất còn xa lạ với cuộc sống công nghiệp hiện đại, không thấy bóng dáng
văn minh đô thị, thiếu ánh sáng văn hóa, cuộc sống còn đầy hoang sơ và bản
năng. Cuộc sống của những người lao động xung quanh đã thấm đẫm vào văn
của chị, nó là không khí, là không gian quen thuộc khi chị sáng tác. Từ sáng
đến tối, tiếng ơi ới của người mua bán trên chợ trước nhà, tiếng còi tàu giục
gióng giả từng hồi phía sau, rồi tiếng gò, mài, xi mạ nữ trang của chồng cùng
hai người thợ làm công ở gian trước, đã trở thành một thứ âm thanh quen
thuộc khi chị ngồi vào bàn viết. Dường như chính những điều đó phần nào đã
khu biệt thế giới nhân vật của nhà văn. Đó là thế giới của những người nông
dân lam lũ, đói nghèo, những người nghệ sỹ đường phố với số phận long


13

đong, vất vả. Chị viết về họ như để trả nghĩa quê hương đã sinh ra mình, trả
nghĩa cái tình của bà con chòm xóm xung quanh, trả ơn cha mẹ, người thân đã
nuôi dưỡng, cho chị nguồn sống và cả nguồn sáng tác văn chương chưa khi
nào vơi cạn: “Chưa có bao giờ má dạy tôi viết văn, nhưng những gì tôi viết ra
đều mang hơi thở cuộc sống mà má trao tặng”[72, tr.158]. Những con người
đó chưa bao giờ xa lạ với chị và những trang viết của chị về họ cũng không xa
lạ gì với chính họ: “Tôi tự tin vào sự hiểu biết về nông thôn quê hương
tôi”[88]. Đối với chị, quê hương quả thưc đã là nguồn mạch tình yêu, là nơi
tiếp sức, điểm tựa cho đời văn của chị.
Những năm tháng sống cùng với ông ngoại, sớm lao vào công cuộc

mưu sinh (làm văn thư cho tạp chí Bán đảo Cà Mau) có lẽ là một trong những
duyên cớ khiến Nguyễn Ngọc Tư bước chânvào lĩnh vực viết văn. “Đổi thay”
là truyện ngắn đầu tay của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, được đăng trên tạp chí
Văn nghệ Cà Mau. Nhưng chị chỉ thật sự được độc giả cả nước biết đến với
tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” (2000). Cũng từ đó nhiều tập truyện
của chị liên tục được độc giả trong và ngoài nước ủng hộ và đón nhận như:
Nước chảy mây trôi (2004), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (2005), Giao
thừa. Đến tập truyện “Cánh đồng bất tận” (2005) thì có thể nói NguyễnNgọc
Tư đã thật sự khẳng định được tên tuổi và tài năng của mình trên văn đàn của
Việt Nam.
Hiện chị sống và làm việc tại T.P Cà Mau. Nguyễn Ngọc Tư cũng là
hội viên trẻ tuổi nhất của Hội Nhà Văn Việt Nam hiện nay. Chị từng đạt giải
Nhất cuộc thi "Văn học tuổi 20”, lần thứ 2, năm 2000, do Nhà xuất bản Trẻ,
Hội nhà văn T.P Hồ Chí Minh, báo Tuổi trẻ phối hợp tổ chức với tập truyện
"Ngọn đèn không tắt" và Giải thưởng Văn học của Hội nhà văn Việt Nam
năm 2001 cũng với tập truyện này. Cuốn sách này đã được chọn in lại trong
"Tủ sách Vàng" của NXB Kim Đồng năm 2003. Nguyễn Ngọc Tư cũng đạt
Giải Ba cuộc thi sáng tác truyện ngắn 2003 - 2004 của báo Văn nghệ với


14

truyện ngắn "Đau gì như thể...". Những năm gần đây, chị tiếp tục gây ngạc
nhiên và đem lại nhiều thiện cảm cho bạn đọc bằng giọng văn bề ngoài như
dửng dưng nhưng ẩn sâu bên trong lại rất tình cảm và cuốn hút của mình. Chị
cũng là tác giả trẻ nhất có tên trong tuyển tập truyện ngắn Việt Nam được
dịch và in ở Mỹ, năm 2005. Hiện tại nhiều truyện ngắn của chị được dịch ra
tiếng Nhật, tiếng Anh để giới thiệu với độc giả ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tư cũng rất xuất sắc trong mảng tạp văn
khi ngay sau tập truyện “Cánh đồng bất tận” đã cho ra đời một cuốn tạp văn

“nặng ký” đầu tiên có tên là “Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư” (2005), tập hợp
những bài viết của chị đã đăng trên tạp chí “Thời báo kinh tế Sài Gòn”. Năm
2007, chị lại cho ra đời một tập tạp văn mới “Ngày mai của những ngày
mai”, được độc giả và giới phê bình đánh giá tốt.
Có thể nói, chị là một trong những nhà văn trẻ viết khỏe và viết đều khi
chỉ trong vòng ba năm đã cho ra đời bốn tập truyện ngắn (không kể tạp văn).
Điều đó chứng tỏ chị là một nhà văn miệt mài lao động, miệt mài sống và tích
lũy vốn sống để nuôi dưỡng cảm hứng và năng lực sáng tác, chứ không chỉ
nhờ vào năng khiếu thiên bẩm. Qua chặng đường cầm bút, tung hoành trên cả
hai thể loại truyện ngắn và tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đã phần nào khẳng định
được vị trí của mình trong đội ngũ những người sáng tác trẻ của cả nước, đã
xác lập được một phong cách sáng tác riêng biệt mang dấu ấn “Nguyễn Ngọc
Tư” - một văn phong rặt chất Nam Bộ hiền hòa, hào sảng vang bóng một thời
nhưng vẫn hồn hậu nồng nàn đến tận ngày nay.
1.1.2. Nguyễn Ngọc Tư với thể loại tản văn
Nếu truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là những câu chuyện về những
con người, số phận, cảnh đời luôn khiến ta khắc khoải, đau đáu vì thương và
vì bất lực thì tản văn của chị lại là những mảnh ghép nhỏ hơn của cảm xúc,
đôi khi chỉ thoáng qua song nó để lại trong ta một sự xúc động rất sâu và dai
dẳng. Chính Nguyễn Ngọc Tư đã thừa nhận “Mỗi tháng em viết vài tạp văn.


15

Em thích viết tạp văn, vừa nhẹ nhàng, vừa tiện đăng báo để kiếm tiền”, nhưng
có thể đó chỉ là lời nói đùa. Dường như Nguyễn Ngọc Tư hợp với tản văn hơn
bởi nó nhẹ nhàng, tự do và bình dân. Với Nguyễn Ngọc Tư viết hết thảy mọi
chuyện xảy ra quanh chị và trong đời chị, từ việc con cái, ruộng vườn đến
kinh tế, đến nhà nước và cả ở hải ngoại. Có thể nói là chuyện “thiên tào” trên
trời dưới đất đều có trong tản văn của chị. Song, nếu đã đọc một lần là chắc

chắn không quên. Bởi chị luôn biết cách đưa vào những chi tiết làm động lòng
người đọc, chị viết tản văn thì nhẹ nhàng nhưng người đọc lại không nhẹ
nhàng chút nào, ngược lại bao giờ cũng thấy sống mũi cay cay. Trong bài giới
thiệu cho tập Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, Thanh Vân đã có lời nhận xét rất ý vị
về cách chị viết tản văn: “Thủng thẳng, nhỏ nhẹ như người con gái quê đang
vừa hái rau muống vừa kể chuyện, những câu chuyện lúc thì da diết lúc lại
hóm hỉnh, tưng tửng, vui vui, tạp văn Nguyễn Ngọc Tư có sự kết hợp rõ nét
giữa văn và báo”. Sự so sánh đó rất chính xác, ta có thể hình dung dáng vẻ
của Nguyễn Ngọc Tư trong tản văn như vậy, không cố làm dáng, không tạo
hình cầu kỳ nhưng vẫn cuốn hút, vẫn để lại dấu ấn rất sâu trong bất kỳ ai một
lần ngắm qua.
Đề tài trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư khá đa dạng. Đọc tản văn
Nguyễn Ngọc Tư, ấn tượng bao quát trong cảm nhận của người đọc là một thế
giới cuộc sống ngồn ngộn, đầy ắp hình ảnh sinh động; ngôn từ đậm chất Nam
Bộ, đặc biệt là giọng trữ tình thế sự sâu mà không đanh. Đó là sức hút trong
tản văn Nguyễn Ngọc Tư thể hiện xuyên suốt trong nhiều tác phẩm.
1.2. Khái niệm tản văn
Cho đến nay thật sự vẫn chưa có một khái niệm chính xác và thống
nhất dành cho tản văn. Việc phân biệt tản văn - tạp văn - tạp bút vẫn còn
những vấn đề chưa được khu biệt rõ ràng. Hầu hết, trong cách sử dụng từ ngữ
chuyên ngành trên báo chí đều đồng nhất ba thể loại trên. Người ta thường
nêu tên cả ba cùng lúc để chỉ ra nhiều cách gọi khác nhau của cùng một thể
loại, hoặc chỉ dùng một tên phổ biến nhất là tản văn để gọi tên tất cả.


16

Theo Từ điển văn học (bộ mới) của nhà xuất bản Thế giới thì không có
khái niệm của tản văn, chỉ có khái niệm của tạp văn “Tạp văn là một thể loại
thuộc tản văn trong văn học Trung Quốc, thiên về nghị luận nhưng cũng giàu ý

nghĩa văn học. Từ tạp văn vốn xuất hiện trong sách Văn tâm điêu long của Lưu
Hiệp, song trong công trình đó từ này còn dùng để chỉ chung các thể loại văn
chương. Tạp văn với tư cách là một thể văn chỉ chính thức ra đời vào khoảng
Cách mạng Ngũ Tứ (1917 - 1924), là một bài luận văn ngắn, giàu tính luận
chiến, thường xoay quanh một số vấn đề về xã hội, lịch sử, văn hóa, chính trị…
Đặc điểm chung của tạp văn là ngắn gọn, linh hoạt, đa dạng; phản ánh một
cách nhanh nhạy, kịp thời trước những vấn đề bức xúc của xã hội với những ý
kiến đánh giá rõ ràng, sắc sảo” [trích Từ điển văn học (bộ mới),III, tr 1601].
Trong khi đó, Từ điển Thuật ngữ Văn học đưa ra khái niệm: “Tản văn
là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả
phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính
chất chấm phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn
chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu
là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc
lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa mang đậm bản sắc cá tính của tác giả”[tr.293].
Dù không phải là một nhưng tạp văn là một thể loại nhỏ hơn tản văn,
được phân hóa ra từ tản văn bởi có cùng đặc điểm nghệ thuật, nhưng xét về
phạm vi đề tài thì tạp văn chuyên viết về những đề tài mang tính chính luận,
tính luận bàn những vấn đề chung của xã hội, còn tản văn và tạp bút thì vẫn
chưa ngã ngũ. Đến nay vẫn chưa có tài liệu nào khẳng định rõ chúng là một
nhưng cũng chưa có sự phân biệt nào đủ rõ để nói rằng chúng độc lập nhau.
Cả hai đều là những thể loại thuộc ký và không có ràng buộc nhiều trong quy
tắc sáng tác.
Tóm lại, vì có quá nhiều tương đồng nên trong đời sống văn học hiện
nay người ta không còn quan trọng việc phân biệt các thể loại trên. Chỉ cần


17

người sáng tác hiểu rõ họ đang viết tác phẩm với mục đích gì, tác phẩm có

thật sự mang giá trị văn chương hay không, chứ không cần quá câu nệ nó phải
chính xác là tản văn, tạp văn hay tạp bút. Giáo sư Trần Đình Sử trong bài
“Tản văn Việt Nam hiện đại - một thể loại bị lãng quên” giới thiệu cho tập
sách Tuyển tập tản văn Việt Nam, chỉ ra rằng: “dung lượng ngắn, cách viết đa
dạng, có thể tự sự, trữ tình, bình luận, hoặc pha xen các cách viết khác nhau,
tản văn nói được bao nhiêu điều suy nghĩ, nung nấu, cảm xúc trong lòng về
con người, thế sự, đạo lí, về thiên nhiên, môi trường, chính trị, văn nghệ...
Tản văn có thể có nhiều phong cách: nghiêm túc, cười cợt, trữ tình, chính
luận, triết lí... Tản văn là thể loại có vẻ dễ viết nhưng khó hay bởi nó cũng cần
có cấu tứ, có tổ chức một cách nghệ thuật”. Quan niệm này có thể áp dụng
vào tất cả những bài viết của Nguyễn Ngọc Tư đã được chọn khảo sát trong
luận văn này, bởi suy cho cùng điều cốt yếu nhất vẫn là ý nghĩa từ tác phẩm,
còn tên gọi cũng chỉ là một cách quy ước, nếu quy ước thống nhất thì hiển
nhiên mọi người sẽ chấp nhận.
1.2.1. Đặc trưng thẩm mĩ của thể loại tản văn
Qua những khảo sát về khái niệm trên đây, chúng tôi lựa chọn cho
mình cách hiểu về thể văn này. Có thể nói rằng, tản văn là loại văn tự do, dài
ngắn tùy ý, cách thể hiện đa dạng, đặc biệt là thể hiện nổi bật chính kiến của
tác giả, có tính truyền thống lâu đời và sức sống mạnh mẽ. Từ những hiểu biết
và trải nghiệm đời sống, nhiều nhà văn đã chọn cách giải bày bằng tản văn.
Và thể loại vừa hiện thực, sắc sảo vừa trữ tình, cảm xúc này đã mang lại thành
công cho họ. Từ “tản văn” được dung theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo
nghĩa rộng, tản văn chỉ tất cả những thể loại ngoài thơ ca, bao gồm tác phẩm
văn học và luận văn khoa học, văn bản hành chính công vụ. Theo nghĩa hẹp,
tản văn được dùng với ý nghĩa văn học thuần túy là một thể loại văn học bên
cạnh thơ ca, tiểu thuyết, kịch, thường gọi là “tản văn văn học” hoặc “tản văn
nghệ thuật”. Loại tản văn này là thể loại văn học chú trọng việc ghi lại những


18


gì đã trải qua, đã nghe thấy, cảm thấy, thể nghiệm liên tưởng của cái tôi hoặc
ghi lại những câu chuyện, những trạng thái cảnh vật hoặc trữ tình hoài niệm,
là loại tác phẩm văn học giàu tính trữ tình, rộng rãi về đề tài, tinh túy về nội
dung, khuôn khổ tương đối nhỏ, ngôn ngữ tự nhiên mới mẻ, thủ pháp biểu
hiện linh hoạt, văn phong sáng sủa.
Trong đời sống hiện nay, tản văn trở thành một thể loại khá phổ biến,
dễ tiếp cận và có sự thâm nhập vào đời sống con người một cách dễ dàng.
Viết tản văn trở thành một xu hướng trong sáng tác văn chương từ người
không chuyên cho đến các nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp. Diện mạo tản văn
ngày càng phong phú về đề tài, giọng vẻ và sự tồn tại của thể loại này cũng
càng có ý nghĩa trong cuộc sống với nhịp điệu gấp rãi như hiện nay. Mảnh đất
tản văn chính là nơi lưu giữ, “bảo tồn” những giá trị tinh thần quý báu để nuôi
dưỡng tâm hồn, xúc cảm của con người trước sự bào mòn của môi trường đô
thị hóa, hội nhập, tăng cường khoa học kĩ thuật vào đời sống.
1.2.2. Thể loại tản văn trong hành trình sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư không “thử” với tản văn mà “cày xới” trên mảnh đất
này một cách nghiêm túc. Kết quả lao động nghệ thuật của chị là rất nhiều tản
văn ra đời, chúng được đăng trên nhiều báo, đăng trên mạng và tập hợp lại
trong các đầu sách như: Sống chậm thời @, Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, Yêu
người ngóng núi, Ngày mai của những ngày mai, Biển của mỗi người, Gáy
người thì lạnh... (ngoài ra vẫn còn nhiều tản văn rời khác nữa). Nhìn chung
trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư cho đến thời điểm này, bằng số
lượng và chất lượng, tản văn đã là một phần không thể thiếu góp phần làm
nên cái nhìn toàn diện hơn về nhà văn.
Sự chân chất, giản dị, màu sắc Nam Bộ đậm đặc, sự nhân ái, hồn hậu,
... văn như đời, đời đi vào văn tự nhiên như hơi thở. Đó là nét nổi bật trong
tản văn của Nguyễn Ngọc Tư rất dễ nhận ra nếu liên hệ, đối chiếu giữa đời
sống và văn chương của chị. Công bằng mà nói, không phải tản văn nào của



19

Nguyễn Ngọc Tư cũng hay nhưng không thể phủ nhận được những đóng góp
lớn của chị cho thể loại tản văn trong văn học nước nhà đầu thế kỉ XXI.
1.3. Đặc trưng văn hóa Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
1.3.1. Khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa
- Khái niệm “Văn hóa”:
Văn hoá là một khái niệm đã có từ lâu đời và có nội hàm rất rộng. Theo
A.L.Kroeber và C.L. Kluckhohn trong cuốn Văn hóa: cái nhìn phân tích về
khái niệm và định nghĩa có khoảng hơn 200 định nghĩa về văn hóa. Sở dĩ số
lượng định nghĩa văn hóa phong phú như vậy vì một phần văn hóa là một
phạm trù hết sức rộng. Phần khác, mỗi nhà nghiên cứu xuất phát từ mục đích
và phương pháp nghiên cứu của mình đều có quyền đưa ra một định nghĩa
thích hợp. Sau đây, chúng tôi xin điểm qua một số định nghĩa về văn hóa tiêu
biểu. Cụ thể như: Theo Từ điển tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê (chủ biên)
định nghĩa Văn hoá là:
1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. (Kho tàng văn hoá dân tộc. Văn hoá
Phương Đông. Nền văn hoá cổ).
2. Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu của đời
sống tinh thần (Phát triển văn hoá. Công tác văn hoá…)
3. Tri thức, kiến thức khoa học (Học văn hoá. Trình độ văn hoá…).
4. Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh (Sống có
văn hoá. Ăn nói thiếu văn hoá…).
5. Nền văn hoá của một thời kì lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở
một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau (Văn
hoá rìu hai vai. Văn hoá gốm màu. Văn hoá Đông Sơn…).
Trong Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB TP Hồ Chí
Minh, 1997, Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa: “Văn hoá là một hệ

thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích


20

luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. (Dẫn theo Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia, nguồn:hptt://vi.wikipedia.org). Theo Đỗ Lai Thuý trong Văn hoá
Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hoá, (NXB Văn hoá Thông tin, trang 15) thì
theo nghĩa rộng: “Văn hoá là tất cả những gì phi tự nhiên”. Tác giả cũng cho
rằng, đây là định nghĩa khái quát nhất, rộng lớn nhất.
Định nghĩa về văn hóa có tính chất cấu trúc luận, tác giả Phan Ngọc
cho rằng: “Văn hoá là quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và
thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một
tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét
khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những
nền văn hoá khác nhau là độ khúc xạ”.
UNESCO - Tổ chức khoa học và giáo dục Liên hợp quốc đã đưa ra
định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể
những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính
cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng”.
Các quan điểm chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hoá đã
khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hoá mà chúng ta
xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hoá Việt
Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam; xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; Văn hoá là một mặt trận;

Xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi
phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng”.


21

Như vậy, dù có nhiều khái niệm khác nhau về văn hoá, nhưng tựu trung
lại, văn hoá có những đặc điểm cơ bản sau: Văn hoá là một hoạt động sáng
tạo, mang tính lịch sử chỉ riêng con người mới có. Hoạt động sáng tạo đó bao
trùm mọi ứng xử của con người với nhau và của con người với tự nhiên xã hội, thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống: đời sống vật chất, đời sống
xã hội, đời sống tinh thần. Những hoạt động sáng tạo đó đã đạt được thành
tựu của các giá trị văn hoá, được bảo tồn và khai thác phát huy từ thế hệ này
sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục (hiểu theo nghĩa rộng). Văn hoá là
thể hiện của mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực tại, tạo ra
một kiểu lựa chọn riêng của tộc người, một cá nhân so với một tộc người
khác, một cá nhân khác, tạo thành những nhân cách văn hoá (cá nhân), những
nền văn hoá khác nhau (cộng đồng). Dù hiểu theo cách nào thì văn hoá cũng
đều là thành quả, là sản phẩm độc đáo của quá trình lịch sử do cá nhân và
cộng đồng người tạo nên. Trong phạm vi vấn đề được đề cập trong luận văn
này, chúng tôi nghiêng về cách hiểu văn hoá gắn liền với bản sắc văn hoá
theo định nghĩa của Phan Ngọc và của UNESCO.
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch
sử của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho
con người trở thành người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến
con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi
là văn hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần,
là sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực
sản xuất tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực
cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ
có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ

là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần
không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường
được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị


×