Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Văn xuôi Linh Nga Niê Kdam (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THANH LOAN

VĂN XUÔI LINH NGA NIÊ KDAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THANH LOAN

VĂN XUÔI LINH NGA NIÊ KDAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ VIỆT TRUNG

THÁI NGUYÊN - 2017


i



LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành Luận
văn Thạc sĩ khoa học với đề tài: Văn xuôi Linh Nga Niê Kdam (H’Linh Niê).
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với PGS.TS.
Trần Thị Việt Trung - người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn
thành Luận văn.
Tôi xin cảm ơn nhà văn Linh Nga Niê Kdam đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
về tư liệu để tôi hoàn thành phần nghiên cứu của mình.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý khoa học, khoa Sau đại
học, khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam - Trường Đại học
khoa học - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô công tác tại Viện Văn học đã
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường THPT Vũ Văn Hiếu, các
đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tôi
hoàn thành tốt khóa học này.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn

Vũ Thanh Loan


ii

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
MỤC LỤC ..................................................................................................................ii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ..................................................................... 8
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 9
6. Cấu trúc của luận văn.......................................................................................... 9
7. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 9
Chương 1. VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI TÂY NGUYÊN THỜI KÌ HIỆN
ĐẠI VÀ NỮ NHÀ VĂN LINH NGA NIÊ KDAM ......................... 10
1.1. Vài nét về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại .......................................... 10
1.1.1. Văn xuôi Tây Nguyên trước Đổi Mới (1986) ........................................ 10
1.1.2. Văn xuôi Tây Nguyên sau Đổi Mới (1986) ........................................... 14
1.2. Nhà văn nữ Linh Nga Niê Kdam ................................................................... 17
1.2.1. Vài nét về tiểu sử .................................................................................... 17
1.2.2. Linh Nga Niê Kdam - người con luôn hướng về nguồn cội .................. 20
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 22
Chương 2. CẢM HỨNG VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN ... 24
2.1. Tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất, con người Tây Nguyên ........................ 24
2.1.1. Một vùng đất hùng vĩ, lãng mạn............................................................. 24
2.1.2. Một cộng đồng dân tộc giàu bản sắc văn hoá ........................................ 34
2.1.3. Những con người dũng cảm, tài hoa và khát khao đổi thay cuộc sống ...... 47
2.2. Nỗi niềm cùng những dự cảm về cuộc sống, con người và bản sắc văn hóa
quê hương .............................................................................................................. 53
2.2.1. Những khó khăn, thách thức của cuộc sống thời kì hiện đại .......................... 53
2.2.2. Sự tha hoá của con người bản địa........................................................... 60


iii
2.2.3. Sự phai nhạt bản sắc văn hoá, sự tổn thương môi trường sinh thái
Tây Nguyên ...................................................................................................... 66
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 73
Chương 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT ........................................ 74

3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất Tây Nguyên ................................................. 74
3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm dấu ấn dân tộc .............................................. 74
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật đậm chất trữ tình .................................................. 84
3.2. Cốt truyện, tình huống truyện giàu kịch tính, mang màu sắc hiện đại .......... 92
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 100
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 104


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tây Nguyên là một vùng địa - văn hóa đặc biệt: vùng cao nguyên đất đỏ
Bazan với những cánh rừng bạt ngàn xanh bất tận, những thác nước vừa dữ dội vừa
rất đỗi nên thơ, những mặt hồ trên cao, những dòng sông, con suối luôn ầm ào cuồn
cuộn chảy… Vùng cao nguyên đó còn có những buôn làng với mái nhà Rông cao
vút và những nhà dài, những dàn cồng chiêng, những hũ rượu cần luôn luôn đầy
ắp…, đặc biệt là những người cư dân khỏe mạnh, dũng cảm, tài hoa; rất ưa nhảy
múa, ưa nghe già làng kể chuyện… Nơi đây, chứa đựng bao huyền thoại, huyền
tích, bao câu chuyện cổ và bao pho sử thi đồ sộ của các dân tộc Tây Nguyên đã có
tự ngàn đời. Nói một cách khác: Tây Nguyên chính là một vùng đất giàu bản sắc
văn hóa và có một kho tàng văn học dân gian phong phú vào loại bậc nhất trong các
dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam. Hai yếu tố này là cội nguồn, là nền tảng vững
chắc cho văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại hình thành và phát triển.
Văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại đã có hơn nửa thế kỷ hình thành và
phát triển, đến nay cũng đã có những thành tựu nhất định đáng được ghi nhận. Trên
mảnh đất cao nguyên rộng lớn ấy, các thế hệ nhà văn Tây Nguyên đã nối tiếp nhau
cầm bút viết về quê hương; về cuộc sống, con người… của một vùng núi non hùng
vĩ, thơ mộng và khắc nghiệt. Nhưng việc nghiên cứu văn học Tây Nguyên và

nghiên cứu từng tác giả là người DTTS viết văn ở nơi đây còn hết sức khiêm tốn. Vì
vậy, mảng văn học Tây Nguyên vẫn rất cần được nhiều người chú ý, tìm hiểu,
nghiên cứu để thấy được những nét đặc sắc, đặc trưng cùng những đóng góp quan
trọng của bộ phận văn học này trong việc làm phong phú hơn, đa sắc màu hơn đối
với văn học DTTS Việt Nam nói riêng và đối với văn học Việt Nam nói chung.
Trong các nhà văn Tây Nguyên thời kì hiện đại, Linh Nga Niê Kdam (tên bút
danh: H’Linh Niê) là một nhà văn có sức viết dồi dào, viết nhiều thể loại (sáng tác,
nghiên cứu sưu tầm, phê bình văn học - nghệ thuật) và thể loại nào chị cũng có
những thành công nhất định. Nổi bật nhất, có nhiều đóng góp nhất là lĩnh vực sáng
tác văn xuôi. Chị đã xuất bản 3 tập truyện ngắn và 5 tập bút ký. Văn xuôi của chị có
màu sắc riêng biệt, mang đậm chất Tây Nguyên và chiếm được nhiều cảm tình của
độc giả. Với những sáng tác văn xuôi của mình, Linh Nga Niê Kdam được đánh giá
là một trong “Bốn cây Knia” văn học - nghệ thuật của vùng đất đỏ Tây Nguyên
giàu bản sắc. Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu một cách hệ thống, thấu đáo
về nữ nhà văn Linh Nga Niê Kdam còn rất hạn chế. Vì vậy, rất cần có một công


2
trình nghiên cứu cụ thể, hệ thống và đầy đủ về trường hợp nhà văn Tây Nguyên tiêu
biểu này. Bởi nghiên cứu về nhà văn Linh Nga Niê Kdam có nghĩa là đã nghiên cứu
một trường hợp nhà văn tiêu biểu của văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại; là chỉ ra
được những thành công (cũng như hạn chế) của văn học khu vực này. Đồng thời
phác họa rõ nét bức chân dung của một cây bút văn xuôi tiêu biểu cùng những đóng
góp của chị đối với văn học Tây Nguyên nói riêng và văn học DTTS Việt Nam hiện
đại nói chung.
Chính vì các lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Văn xuôi Linh Nga Niê
Kdam” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Linh Nga Niê Kdam là một hiện tượng văn xuôi nổi trội của văn học Tây
Nguyên thời kì hiện đại, đặc biệt là những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Chị

đã có một số lượng tác phẩm văn xuôi đáng kể trong đó có những tác phẩm được
đánh giá cao như: Con rắn màu xanh da trời, Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa
gió, Trăng Xí Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh ai ?... Chị từng được nhận
Giải thưởng của Hội Văn học Nghệ thuật Dân tộc thiểu số Việt Nam và Giải thưởng
của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Chị trở thành một trong “Bốn
cây Knia” của đời sống văn học - nghệ thuật Tây Nguyên. Chính vì vậy, những
sáng tác của chị, những cống hiến của chị đã được khá nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình, nhà văn nhắc tới. Theo khảo sát của chúng tôi, đã có hàng chục bài báo, cuốn
sách có viết về chị (hoặc có nhắc đến chị với những nhận xét đánh giá cụ thể). Chị
được coi là một nhà văn Tây Nguyên tiêu biểu, một trí thức, một nhà văn hóa có uy
tín của dải đất cao nguyên rộng lớn này.
Trong các công trình, các tuyển tập nghiên cứu và giới thiệu về văn học
DTTS Việt Nam của các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn, trong đó có nhiều
nhà văn là người DTTS như: Lâm Tiến, Hoàng An, Hoàng Triều Ân, Mai Liễu, Lò
Ngân Sủn, Vương Trung, Phạm Quang Trung, Trần Thị Việt Trung, Phạm Duy
Nghĩa, Nguyễn Đức Hạnh, Đào Thuỷ Nguyên, Cao Thị Hảo… và của Hội Văn học
DTTS Việt Nam hay trong các Tuyển tập, các Kỷ yếu Hội thảo về văn học DTTS,
ta đều thấy xuất hiện tên của nữ nhà văn Linh Nga Niê Kdam. Có thể kể tên một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại (Lâm Tiến), Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc
thiểu số Việt Nam (PGS.TS. Đào Thủy Nguyên (chủ biên) - TS. Dương Thu Hằng),
Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - Truyền thống và hiện đại (PGS.TS Trần Thị
Việt Trung và PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh đồng chủ biên), Văn học dân tộc thiểu


3
số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm (PGS.TS. Trần Thị Việt Trung PGS.TS. Cao Thị Hảo đồng chủ biên)…
Trong công trình nghiên cứu Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của
các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam (PGS.TS. Đào Thủy Nguyên (chủ biên) TS. Dương Thu Hằng), các tác giả đã chỉ ra khá rõ nét đặc điểm văn chương của nhà
văn Linh Nga Niê Kdam (H’Linh Niê): “Trong các sáng tác H’Linh Niê, người đọc

được sống với không khí âm nhạc của con người và núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ bởi
âm thanh cồng chiêng, bởi những đêm kể Khan truyền thống, bởi lời ca tiếng hát luôn
ngập tràn bất tận trong cuộc sống con người Tây Nguyên” [29, tr.100-101]; ở đó,
“Những ngôi nhà sàn, nhà gác bị bán đổ, bán tháo để theo kịp trào lưu xây nhà
gạch, nhà ngói, nhà tầng hiện đại; những lễ hội truyền thống bị thương mại hóa đến
trở thành nhạt nhẽo, trơ trẽn trước mắt mọi người; sự lấn chiếm ghê gớm của văn
minh đô thị đối với đời sống miền núi vốn yên ả, thanh bình… Những thực tế đau
lòng đó đang là “báo động đỏ” trên những trang văn của các nhà văn DTTS. Đặc
biệt là trong sáng tác của Cao Duy Sơn, Hà Thị Cẩm Anh, Inrasara, H’Linh Niê”
[29, tr.151]. Cũng trong công trình nghiên cứu này, các tác giả nêu bật đặc điểm nội
dung của tập bút ký Trăng Xí Thoại: “Trăng Xí Thoại của H’Linh Niê vừa ca ngợi
sự chuyển mình của những thành phố ở Tây Nguyên như Buôn Ma Thuột, Pleiku,
Kon Tum; sự đổi dời của người Dao Cư Suê, của các dân tộc ở làng Hà Giăng, ở
buôn Yung, ở Pa Sao huyện Chư Pah… vừa trăn trở trước thực trạng Tây Nguyên
trong thời kì mới. Cái xấu, cái lạc hậu chưa gột rửa hết và cái tốt đẹp, cái bản sắc
văn hóa tộc người cũng đang có nguy cơ mất mát, mai một dần” [29, tr.59]. Còn
nhận định về nghệ thuật viết truyện ngắn của chị, các tác giả viết: “Với tinh thần
tìm tòi thể nghiệm, gần đây trên văn đàn đã thấp thoáng xuất hiện một số hình thức
cốt truyện mới lạ mang hơi hướng hậu hiện đại. Đó là kiểu kết truyện huyễn ảo
(đan xen các yếu tố hoang đường với các yếu tố hiện thực) như Nước soi bóng ai,
Dòng sông tóc, Hoa Pơ Lang của H’Linh Niê” [29, tr.183].
Trong công trình nghiên cứu Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì
hiện đại - Một số đặc điểm (PGS.TS Trần Thị Việt Trung và PGS.TS Cao Thị Hảo
đồng chủ biên), các tác giả đã có những nhìn nhận, đánh giá thấu đáo về những nét
đặc sắc trong văn xuôi của nữ nhà văn DTTS Linh Nga Niê Kdam như: “H’Linh
Niê đã biết kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa chất huyền thoại và sử thi khi viết về con
người, cuộc sống ở Tây Nguyên. Tác giả giới thiệu kho tàng folklore độc đáo với
những ngôi nhà Rông, những hình hoa văn, chim thú được lưu giữ trên nóc các nhà
mồ, về nghệ thuật ẩm thực xứ Tây Nguyên…, miêu tả sắc nét lễ hội đâm trâu, lễ hội



4
cồng chiêng, những nét hoa văn thổ cẩm Tây Nguyên phối hợp hài hòa giữa các
gam: xanh, vàng, đỏ để làm nổi bật hai màu chủ đạo: đen và trắng (Về đâu hỡi thổ
cẩm Tây Nguyên, Trăng Xí Thoại). Tác giả ngợi ca cuộc sống mới đang chuyển
mình của dân tộc Tây Nguyên trong thời đại mới. Một bộ phận người dân đã vươn
lên trong làm kinh tế, thoát khỏi cuộc sống thiếu thốn nghèo khổ, được hưởng thụ
cuộc sống mới, văn minh, có điện, có tiện nghi (Du xuân Tây Nguyên, Làng mặt
trời, Bình Minh người Dao Cư Suê, Buôn Yung mùa hoa trắng…). Người con
của núi rừng Tây Nguyên này không chỉ trăn trở trước những luật tục lạc hậu vẫn
tồn tại mà còn đau đớn, xót xa trước những di sản văn hóa đang bị mai một dần”
[52, tr.63]. Các tác giả cũng đưa ra những nhận xét rất sâu sắc và tinh tế về nghệ
thuật văn xuôi của nhà văn Tây Nguyên này: “Văn xuôi H’Linh Niê lại mang màu
sắc sử thi Tây Nguyên với chất huyền thoại khi đậm đặc lúc mờ nhạt, đan cài nhuần
nhuyễn trong hình tượng nhân vật, cốt truyện hay các chi tiết sự kiện thực mà như
ảo. Đặc biệt ngôn ngữ giàu hình ảnh, giầu nhịp điệu, phép so sánh và phóng đại
được sử dụng có hiệu quả rất rõ rệt, đó là chất lãng mạn và sự bay bổng của lời
văn, câu văn. Điều này cho thấy, nguồn cội văn hóa dân gian trực tiếp tác động
sâu sắc tới tác giả chính là: kho tàng sử thi đồ sộ của các dân tộc Êđê, Bana”
[52, tr.125]. Không chỉ đánh giá về mặt nghệ thuật trong sáng tác của chị, các tác
giả còn cho chúng ta thấy thêm cả vẻ đẹp nội dung ẩn sâu trong từng sáng tác đó:
“Trong Dòng sông tóc, tác giả đã miêu tả đồng hiện đan cài giữa câu chuyện thần
thoại của con trai thần sông Srêpôk và hai người con gái của Đất và Rừng là Rinh
và Rao - trong một câu chuyện có thực về mối tình không lời của một cô gái thời
hiện đại. Qua tác phẩm này, thông điệp mà tác giả muốn gửi tới người đọc là: Tình
yêu ở thời nào cũng vậy - nó có một sức mạnh diệu kì - làm cho người con trai và
người con gái đẹp rực rỡ trong mắt nhau; vì thế nếu không còn tình yêu nữa con
người sẽ trở nên khô cằn và đầy thù hận. Chính tình yêu đã nuôi dưỡng những trái
tim nhân hậu, làm sống lại những tâm hồn sỏi đá” [52, tr.84-85].
Qua các công trình nghiên cứu đó, ta đều thấy cái tên Linh Nga Niê Kdam

được nhắc đến như một nhà văn nữ Tây Nguyên tiêu biểu; nội dung và nghệ thuật
văn xuôi của chị luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn tính truyền thống và hiện đại.
Chị là một nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học Tây Nguyên nói riêng và văn
học DTTS Việt Nam thời kì hiện đại nói chung.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu kể trên, còn có một số bài báo, bài giới
thiệu, nhận xét, đánh giá, bình luận của một số nhà phê bình, nhà văn viết trực tiếp
về Linh Nga Niê Kdam và các sáng tác của chị. Có thể kể đến bài bút ký Thư ngỏ


5
gửi nữ nhà văn H’Linh Niê (in trong cuốn Trăng Xí Thoại xuất bản năm 1999),
tác giả Y Hoan Drai Êban viết: “Trăng Xí Thoại không giống trăng trung thu,
không phải trăng rằm vằng vặc. Càng không phải thứ trăng suông nhạt nhẽo. Nó là
bức họa nhân tình của người viết, ánh lên ý tưởng của văn, của người” [7, tr.252];
“Đọc Trăng Xí Thoại càng quý thứ văn không mời gọi bạn đọc theo mình. Bằng những
hình ảnh, hình tượng ở những khách thể quanh mình, dường như tác giả chỉ cốt ghi lại
cho chính mình. Song người đọc lại tìm ra ý tưởng văn chương - nhiệm vụ văn học - ý
tưởng của người cầm bút luôn hướng tới việc của quê hương” [7, tr.252]. Cũng nhận
xét về tập bút ký Trăng Xí Thoại nhưng trong bài Số phận của Folklore Tây
Nguyên và cái tâm của một nhà văn nữ Êđê (in trong cuốn Tiểu luận - Phê bình
văn chương Hồn cây sắc núi, NXB Hội Nhà văn 2010), tác giả Phạm Quang Trung
lại nhìn thấy: dù có rất nhiều vấn đề ngổn ngang đang đặt ra ở Tây Nguyên nhưng
H’Linh Niê chọn riêng vấn đề folklore để viết vì nó phù hợp với sở trường của chị
và nó thể hiện được sự hiểu biết, niềm tin cũng như tiếng gọi thiết tha của chị về
việc bảo tồn văn hóa Tây Nguyên. Ông viết: “H’Linh Niê đã thực sự nhập vào văn
hóa các tộc người Tây Nguyên để mỗi lời chị thốt ra như lôi kéo, như mời gọi bạn
đọc, khó mà cưỡng lại nổi sức lôi cuốn của những lời như vậy! Xem ra, không ai có
đủ thẩm quyền như H’Linh Niê - đứa con ruột rà của núi rừng Cao nguyên - khi
làm cái công việc rất khó khăn mà cũng thật ý nghĩa là giới thiệu nền văn hóa dân
gian Tây Nguyên lạ lẫm và độc đáo để thế giới tinh thần của cả cộng đồng các dân

tộc Việt Nam giàu có thêm lên” [48, tr.158-159]. Trên Báo điện tử Toquoc.vn năm
2010, tác giả Phạm Duy Nghĩa trong bài Văn xuôi về dân tộc và miền núi từ 1986
đến nay, đã nhận xét riêng về ký của H’Linh Niê: “Ký của H’Linh Niê sắc sảo, tâm
huyết, đào sâu vào các mặt đời sống của các dân tộc Tây Nguyên làm rạng lên
những nét riêng độc đáo trong lễ hội, nhà cửa, folklore, thổ cẩm ... đậm bản sắc;
chỉ ra cái xấu chưa lụi tàn, cái tốt đang khởi sắc và cả cái đẹp đang mai một. Nhiều
bài kí của nữ nhà văn - nhạc sĩ này là những thông điệp SOS trước hiện tượng mất
mát từng ngày của văn hoá truyền thống ở Tây Nguyên” [26]. Khái quát hơn, nhà lý
luận phê bình văn học DTTS Lâm Tiến trong bài Gian nan về với cội nguồn (in
trên báo Văn nghệ năm 2011) đã chỉ ra những nét riêng đặc sắc của cả hai thể loại
văn xuôi: truyện và ký Linh Nga Niê Kdam như: “Đọc truyện, ký của H'Linh Niê,
người đọc như được ngắm một bức tranh toàn cảnh về văn hóa, con người, cuộc
sống Tây Nguyên từ xa xưa cho tới nay, từ cái chung cho tới cái riêng độc đáo, cụ
thể, hấp dẫn. Sức hấp dẫn của các truyện ký H'Linh Niê không phải chỉ ở nội dung,
con người, cuộc sống thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng, nguyên sơ của nó mà còn ở


6
cách viết. Một cách viết vừa giống vừa khác với các nhà văn dân tộc thiểu số miền
Bắc. Cái khác của H'Linh Niê là bắt đầu từ nguồn gốc của dân tộc mình, từ văn hóa
Êđê. Đó là chất huyền thoại sử thi mà các nhà văn miền Bắc không thể nào có
được” [46]. Tác giả Vương Tâm trong bài báo Có một người Hà Nội ở Ban Mê (in
trên báo Người Hà Nội năm 2013), đã chỉ ra một phong cách riêng của nhà văn Tây
Nguyên này: “Với một phong cách lịch lãm và lãng mạn, đậm chất Hà Nội, Linh
Nga sáng tác ca khúc hay viết truyện ngắn, với bút danh H’Linh Niê, đều chất chứa
cảm xúc da diết trong một cấu trúc hiện đại. Với những tập truyện ngắn như Gió đỏ
hay Con rắn màu xanh da trời hoặc hàng chục bài hát về cao nguyên, người đọc
có thể nhận biết ở Linh Nga, chính là một cô gái Hà Nội say đắm với quê hương
của mình đến như thế nào” [40]. Trong bài viết Hiểu đúng mới bảo tồn được văn
hóa Tây Nguyên (in trên báo Lao động năm 2013), tác giả Đặng Bá Tiến vừa đánh

giá về Linh Nga Niê Kdam vừa bày tỏ sự yêu thích với một số đặc điểm văn chương
của chị: “Tôi đã sống ở Tây Nguyên 20 năm, nên biết khá nhiều về chị. Đó là một
người đàn bà đa cảm, đa tài: Đã tốt nghiệp Đại học Thanh nhạc & Đại học Sáng
tác âm nhạc, từng là giọng đơn ca chính của Đoàn Ca múa Tây Nguyên, nhưng sau
đó "nhảy" cả vào văn chương, báo chí và nghiên cứu... Đọc văn chị, tôi rất thích lối
viết dân dã, bộc trực, đầy hình ảnh kiểu như thế này “Rượu chưa uống, bụng kiến
đã bò. Rượu chưa thử, ruột lửa đã cháy” (Gió vẫn thổi từ rừng) và thích sự mượt
mà, tinh tế, đầy ắp cảm xúc: “Đêm choàng nhanh chiếc áo đen lên vạn vật, nhưng
trăng mười sáu vẫn trong trẻo xanh giữa trời... Có phải trăng là nhân chứng duy
nhất hàng ngàn đời nay đồng hành cùng mọi lễ, hội Tây Nguyên? Ôi, nếu không
còn những đêm như thế này, những câu hát tuyệt vời thế kia còn không, nhịp chiêng
náo nức ấy còn không, và bàn tay dịu mềm của em, của chị, của bao người phụ nữ
Tây Nguyên có còn được bay lên như cánh chim Ch’rao...?” (Trăng Xí Thoại). Có thể
gọi, chị là “người đàn bà không bao giờ chịu ngồi yên, không bao giờ chịu rảnh rang”
[45] ... Còn nhà thơ, nhà nghiên cứu Lò Ngân Sủn trong bài Có phải H’Linh Niê là
tình yêu (in lại trong cuốn Phái đẹp, cuộc đời và cây bút, NXB Hội Nhà Văn Việt
Nam 2015) lại có những phát hiện rất thú vị sau khi đọc xong Tập truyện ngắn Con
Rắn màu xanh da trời của H’Linh Niê: “H’Linh Niê không những tả tình rất giỏi,
các đoạn tả tình của chị rất cụ thể, chi li mà không bị sa vào phàm tục, gian dâm …
mà còn tả người đẹp, cảnh đẹp cũng hay, cũng hấp dẫn” [39, tr.374-376]. Tác giả
Lò Ngân Sủn còn phát hiện ra cái hay trong truyện của chị: “Tác giả đã khắc họa
được các nhân vật, cốt truyện có hình hài, đường nét, được thể hiện trong một cấu
tứ, bố cục hợp lý, ngôn ngữ uyển chuyển, hài hòa, tỏa hương. Đặc biệt, tác giả hòa


7
lẫn, pha trộn được cái chất cổ tích, dân ca, tục ngữ, thành ngữ cũng như phong tục
tập quán Tây Nguyên trong nội dung, cốt truyện hiện đại” [39, tr.377].
Nhà văn Linh Nga Niê Kdam không chỉ được các tác giả nhắc đến trong các
bài viết, chị còn được giới thiệu trên Đài tiếng nói Việt Nam. Khi giới thiệu về chị

(trên Đài tiếng nói Việt Nam năm 2012), trong bài Niềm hạnh phúc đáng trân trọng,
tác giả Võ Thị Hà viết: “Linh Nga Niê Kdam luôn đau đáu về sự mất mát theo tháng,
theo ngày những vẻ đẹp tinh khiết, nguyên sơ, hoang dã mà riêng biệt của không gian
văn hóa Tây Nguyên. Linh Nga Niê Kdăm đã dành trọn cuộc đời mình cho những
hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên biệt về Tây Nguyên. Những gì mà Linh Nga Niê
Kdam đã sáng tạo, gìn giữ, quảng bá cho văn hóa Tây Nguyên thực sự là những cống
hiến hết sức thầm lặng và có ý nghĩa to lớn” [15].
Một số Luận án, Luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ Ngữ văn, Khóa luận tốt nghiệp Đại
học nghiên cứu về văn xuôi DTTS cũng có nhắc đến cây bút Linh Nga Niê Kdam.
Trong Luận án Tiến sĩ: Văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ
thuật 1945 - 2000 (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh), tác giả Đặng Văn Vũ nhắc tới Linh Nga Niê Kdam như một đại diện tiêu biểu
của văn xuôi Tây Nguyên giai đoạn này. Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Truyện ngắn
H’Linh Niê của Chu Thị Dạ Thảo (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Thành phố Hồ Chí Minh) đã nghiên cứu trực tiếp về truyện ngắn của nhà văn Linh
Nga Niê Kdam và đưa ra những nhận xét khá xác đáng như: “Được khơi nguồn cảm
hứng từ tình yêu tha thiết đối với mảnh đất và con người Tây Nguyên, truyện ngắn
của H’Linh Niê tập trung thể hiện những đề tài chính như : tình yêu đôi lứa, tình cảm
gia đình, cộng đồng của những con người trong buôn làng. Ở mỗi mảng đề tài, tác
giả lại đi vào khám phá những khía cạnh tinh tế nhất, đặc sắc nhất, từ đó khái quát
nên tính nhân văn cao cả hoặc rút ra bài học kinh nghiệm quý báu” [41] …
Không chỉ có các nhà phê bình, các nhà văn, các tác giả Luận án, Luận văn
Tiến sĩ, Thạc sĩ Ngữ văn, Khóa luận tốt nghiệp Đại học tìm hiểu về văn xuôi DTTS
nhắc đến cây bút Linh Nga Niê Kdam hoặc nghiên cứu trực tiếp về văn xuôi của chị
mà ngay cả những sinh viên Đại học cũng đã tìm đến và rất yêu thích văn xuôi
H’Linh Niê. Trong bài Đọc truyện ngắn Gió trên đỉnh Ngok Linh, YDu La Niê
(sinh viên Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh năm
2012) đã có nhận xét khá tinh tế: “Ngôn ngữ truyện giản dị, trong sáng, mang dáng
dấp ngôn ngữ vùng Tây Nguyên. Ở câu chữ thể hiện một cái gì đó chất phác, đơn
giản. Câu chữ không đặt nặng vấn đề biểu trưng nhiều. Phù hợp với phong cách

vùng miền. Một phong cách miêu tả riêng với sự so sánh đặc biệt… Xét trên góc độ


8
văn học, có thể thấy tác phẩm được tác giả miêu tả một cách chân thực. Tình tiết
được xây dựng một cách xuyên suốt, không có sự trùng lặp; mang lại cho độc giả
một cái nhìn mới cho nội dung tác phẩm” [60]…
Qua khảo sát bước đầu những bài nghiên cứu, bài viết, những nhận xét về tác
giả Linh Nga Niê Kdam cùng những sáng tác của chị, chúng tôi nhận thấy: Tuy là
một nhà văn nữ Tây Nguyên tiêu biểu nhưng việc nghiên cứu về tác giả nói chung
cũng như nghiên cứu về văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam nói riêng hiện vẫn còn ở
mức độ khiêm tốn, chưa xứng với tầm vóc và những đóng góp của chị. Vì vậy, rất
cần thiết phải có một công trình nghiên cứu hệ thống, tương đối đầy đủ về những
sáng tác của cây bút văn xuôi Tây Nguyên này. Thứ nhất là: để góp phần phác hoạ
bức chân dung nhà văn nữ Linh Nga Niê Kdam; thứ hai là: chỉ ra những đặc điểm
nổi bật trong văn xuôi của nhà văn để thấy được những nét riêng, những sáng tạo
cũng như thấy được những đóng góp đáng ghi nhận của chị trong đời sống văn học
Tây Nguyên nói riêng, văn học các DTTS Việt Nam hiện đại nói chung.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: những tác phẩm văn xuôi của nhà
văn Tây Nguyên Linh Nga Niê Kdam, bao gồm: 03 tập truyện ngắn (Con rắn màu
xanh da trời, Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa gió) và 05 tập bút ký (Trăng Xí
Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh ai ?, Chân dung văn nghệ sĩ Tây Nguyên,
Tại gió mà nhớ)
- Bên cạnh đó, chúng tôi khảo sát một số tác phẩm văn xuôi của một số cây
bút DTTS Tây Nguyên khác để có cái nhìn tổng thể về văn học Tây Nguyên và để
so sánh đối chiếu với văn xuôi của tác giả Linh Nga Niê Kdam (ví dụ như các sáng
của các nhà văn: Y Điêng, Kim Nhất, Niê Thanh Mai …)
3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn cố gắng làm rõ những đặc điểm cơ bản về nội dung, nghệ thuật
trong sáng tác văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam và chỉ ra những đóng góp của nhà
văn với văn học Tây Nguyên nói riêng, văn học DTTS Việt Nam nói chung.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đề tài Luận văn, chúng tôi xác định những nhiệm vụ cần phải
giải quyết là:
- Nêu những đặc điểm khái quát về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại
(làm cơ sở thực tiễn để giới thiệu cây bút văn xuôi Linh Nga Niê Kdam).


9
- Nêu những đặc điểm cơ bản trong văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam và làm
sáng tỏ các đặc điểm đó ở cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật (cả thành tựu
và hạn chế - nếu có).
- Chỉ ra những nét đặc sắc, những đóng góp đáng trân trọng của nữ nhà văn
Tây Nguyên này đối với văn học Tây Nguyên nói riêng và đối với văn học DTTS
Việt Nam hiện đại nói chung.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm (theo đặc trưng thể loại).
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn học với Văn hoá học, Lịch sử và
Dân tộc học).
- Vận dụng Lý thuyết Phê bình sinh thái.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong
các tác phẩm văn xuôi của Linh Nga Niê Kdam, cụ thể là trong 8 cuốn văn xuôi (3

tập truyện ngắn và 5 tập bút ký đã đề cập ở trên).
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại và nữ nhà văn
Linh Nga Niê Kdam.
Chương 2: Cảm hứng về cuộc sống và con người Tây Nguyên.
Chương 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật.
7. Đóng góp mới của luận văn
- Phác hoạ chân dung về nhà văn nữ Tây Nguyên Linh Nga Niê Kdam.
- Chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác văn
xuôi của Linh Nga Niê Kdam.
- Khẳng định những giá trị và đóng góp đáng trân trọng của nữ nhà văn Tây
Nguyên này đối với văn học các DTTS Việt Nam thời kì hiện đại.


10
Chương 1
VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI TÂY NGUYÊN THỜI KÌ HIỆN ĐẠI
VÀ NỮ NHÀ VĂN LINH NGA NIÊ KDAM
1.1. Vài nét về văn xuôi Tây Nguyên thời kì hiện đại
1.1.1. Văn xuôi Tây Nguyên trước Đổi Mới (1986)
Mảnh đất Tây Nguyên là một bình nguyên trên cao rộng lớn, tươi đẹp. Nói
như nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, nhà văn Linh Nga Niê Kdam thì: Từ cực Bắc
là cụm núi Atouat với đỉnh Ngok Linh cao 2598m của người Sê Đăng giỏi rèn giáo
mác đến cực Nam là dãy Chư Yang Sin cao 2402m (đỉnh cao nguyên Lang Biang)
đậm chất văn hóa K’ho, qua xứ sở của điệu chinh arap Jrai đắm đuối nhịp vòng
xoang, qua quê hương Đăm San lắng nghe điệu arei Êđê rạo rực, qua những cánh
đồng rập rờn xanh sóng cỏ của đất Mnông, qua cả chân núi Hà Giăng của người
Chăm Hroaih đấu trống… đâu đâu ta cũng thấy dấu ấn của một bản sắc văn hóa đậm
đà tính dân tộc. Để có những buôn, bon, kon, plei trầm bổng tiếng ching chiêng, Tây

Nguyên đã phải trải qua nhiều cuộc xung đột và di cư của nhiều bộ tộc. Đời sống
kinh tế của con người trên mảnh đất này trước đây phụ thuộc vào nương rẫy nên họ
vừa gần gũi vừa lệ thuộc vào thiên nhiên và rất coi trọng mối quan hệ cộng đồng. Do
cuộc sống khó khăn, trình độ khoa học kĩ thuật chưa phát triển nên đời sống văn hóa
tín ngưỡng của họ phong phú và duy trì được nhiều dấu ấn văn hóa cổ. Bên cạnh đó,
người Tây Nguyên còn có năng khiếu nghệ thuật, ưa thích ca hát nhảy múa, họ lại gìn
giữ được khối lượng truyện cổ và thần thoại rất độc đáo. Tất cả những yếu tố trên là
mạch nguồn góp phần hình thành và nuôi dưỡng những nhà văn Tây Nguyên thời kì
hiện đại cùng các tác phẩm đậm bản sắc văn hoá bản địa.
Như chúng ta đã biết, văn học dân gian Tây Nguyên có một thành tựu vô
cùng rực rỡ. Nhà văn Linh Nga Niê Kdam cũng từng khẳng định: Văn học dân gian
Tây Nguyên, đặc biệt là sử thi “phong phú về giai điệu, giàu có về nội dung, đồ sộ
về khối lượng, độc đáo về hình thức trình diễn”, từng đạt đến đỉnh cao không kém
bất cứ một dân tộc nào thậm chí ngang bằng văn học cổ phương Tây. Từ những
năm 20 của thế kỉ XX, khi Sabatier (một công sứ người Pháp) lần đầu tiên công bố
sử thi Đăm San bằng tiếng Pháp, đến nay chúng ta đã tìm ra và công bố thêm nhiều
tác phẩm sử thi khác. Theo kết quả điều tra sưu tầm của Dự án Điều tra, sưu tầm,
bảo quản, biên dịch và xuất bản Kho tàng sử thi Tây Nguyên (2001 - 2007), một


11
số lượng lớn tác phẩm sử thi Tây Nguyên đã được sưu tầm và giới thiệu: Đăm Di,
Kinh Dú, Đăm Droăn, Mơ Hiêng, Y Prao, Chi Gri, Mrong Đăm, Hdung Y Thu,
Đăm Thía, Đăm San, Hơbia Mơtao Grăn Mđrông (dân tộc Êđê); Đăm Noi, Giông
nghèo tám vợ, Tre vắt nghen nghét Giông, Sử thi Bana Kriêm, Grăn Hơlăn xấu bụng
(dân tộc Ba Na); Đăm Duông bị bắt làm tôi tớ/ Đăm Duông cứu nàng Bar Ma, Dăm
Duông hóa cọp, Dăm Duông trong lốt ông già (dân tộc Xơ Đăng); Udai Ujàc, Amã
Chisa, Ama Cuvau Vong Cơi, Sa Ea, Awơi Nãi Tilơr (dân tộc Ra Glai); Đêva Mưnô,
Intra Patra, Pram Dit - Pram Lak, Ưm Mưrup (dân tộc Chăm); Chi Bri - Chibrit, Tiếng
cồng của ông bà Hbia Lơ Đă (dân tộc Chăm Hơroi); H’Điêu, Xinh Nhã, Chi Lơ

Khôngk (dân tộc Gia Rai); Cướp chiêng cổ Bon Tiăng, Lêng nghịch đá thần của Yang,
Bắt con lươn ở suối Dak Husch, Thuốc cá ở hồ Bầu Trời - Mặt Trăng (dân tộc
M’Nông) [53, tr.288] … Tên những tác phẩm đã công bố trên còn ít hơn nhiều so với
số lượng sưu tầm được và ít hơn nhiều so với thực tế. Trong cuốn Giáo trình Văn học
dân gian (GS.TS. Vũ Anh Tuấn chủ biên), các tác giả khẳng định: “Đặc biệt chúng ta
còn phát hiện ra ba bộ sử thi liên hoàn đồ sộ là Ót ndrông của người M’Nông, Đăm
Giông của người Ba Na và Dông của người Xê Đăng; mỗi bộ trên dưới một trăm tác
phẩm. Điều này khiến cho các bộ sử thi nói trên đứng vào loại các bộ sử thi có độ dài
nhất thế giới như Ramayana của Ấn Độ, Cách Tát Nhĩ của Tây Tạng, Giang Cách Nhĩ
của Nội Mông…” [53, tr.287]. Như vậy, Sử thi Tây Nguyên đã minh chứng được đầy
đủ sức sáng tạo của con người Tây Nguyên, sức sống của một “vùng thể loại sử thi” và
sự phát triển vượt bậc của văn học DTTS Việt Nam ở miền đất Bazan nóng bỏng.
Nghiên cứu về văn hóa dân gian Tây Nguyên, nhà văn Linh Nga Niê Kdam cũng từng
nói: Đã một thời, trường ca Tây Nguyên khiến “hàng ngàn người vui, buồn, hồi hộp
cùng người hát - kể lể về tâm trạng yêu thương, hờn dỗi, căm giận… của hàng
trăm nhân vật là dũng sĩ, người đẹp, thần linh, kẻ ác hay quái thú”; “Người nghe
càng chăm chú, người kể càng thăng hoa, dẫn dắt không chỉ nhân vật của mình, mà cả
khán thính giả, bay lượn khắp ba tầng trời, đất và dưới đất, dưới nước” [25].
Có thể khẳng định: Văn học dân gian Tây Nguyên được coi là giàu có, phong
phú, đồ sộ và hấp dẫn nhất trong văn học dân gian DTTS Việt Nam. Bộ sử thi
Trường ca Tây Nguyên đã được công nhận là: Di sản văn hóa Quốc gia.
Mặc dù văn học dân gian Tây Nguyên phát triển phong phú như vậy nhưng
văn học hiện đại ở Tây Nguyên đến trước năm 1986 lại chưa phát triển mạnh, chưa
tương xứng với nền văn học truyền thống. Giai đoạn này, văn học Tây Nguyên


12
thiếu vắng những tên tuổi và những sáng tác của các nhà văn - dù họ là chủ nhân
của kho tàng văn học dân gian đồ sộ này. Văn học các DTTS ở Tây Nguyên dường
như còn “chậm chân” hơn so với những dân tộc khác ở miền núi phía Bắc nước ta.

Vì sao lại như vậy? Trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Trường Sơn - Tây
Nguyên 1975 - 2010, tác giả Linh Nga Niê Kdam và một số tác giả khác cho rằng:
có 6 nguyên nhân lí giải cho điều đó:
Thứ nhất, trong thời Pháp thuộc, thanh thiếu niên Tây Nguyên theo học tại các
trường Tiểu học (Pháp - Êđê, Pháp - Jrai, Pháp - K’Ho…) mở tại Buôn Ma Thuột,
Plei Ku, Đà Lạt … chỉ được học tiếng Pháp và tiếng dân tộc chứ không được học tiếng
Việt. Trước năm 1975, hệ thống các trường Phổ thông ở Tây Nguyên rất ít, cả thị xã
Buôn Ma Thuột thời chính quyền cũ chỉ có một trường Phổ thông Trung học và một
trường Sư phạm tương đương Trung cấp đào tạo giáo viên ra dạy cấp Tiểu học.
Thứ hai, sau năm 1975, môi trường diễn xướng các loại hình văn học truyền
miệng độc đáo như trường ca, sử thi ở ngay tại các bản làng trên khắp Trường Sơn Tây Nguyên có một thời gian khá dài bị đứt gãy do bị đánh đồng cùng các lễ nghi,
lễ hội truyền thống dân gian, với phong trào bài trừ mê tín dị đoan. Điều này khiến
cho sự tiếp nối truyền thống bị gián đoạn, đồng nghĩa với sự phát triển năng khiếu
sáng tạo văn vần và nghệ thuật diễn xướng cũng bị chặn đứt.
Thứ ba, việc tôn trọng và giáo dục văn học truyền thống bản địa của vùng
DTTS không được các cơ quan chức năng thật sự coi trọng. Lượng tri thức thanh
thiếu niên các DTTS, đặc biệt ở Tây Nguyên tiếp thu trong suốt 12 năm học ở
trường Phổ thông thiếu hẳn một “phần mềm” cần thiết, nên càng dẫn tâm hồn, năng
khiếu lớp người này xa rời với kho tàng văn học truyền thống phong phú và đậm đà
bản sắc vốn có của mình; chỉ để tiếp thu gần như hoàn toàn văn hóa miền xuôi,
thậm chí là văn học nước ngoài.
Thứ tư, sự giao lưu văn hóa với các vùng miền được mở rộng một cách tự phát
theo những đợt sóng di dân và xây dựng vùng kinh tế mới; cùng với sự xâm nhập ồ ạt,
khó kiểm soát của các tín ngưỡng thờ phụng mới, thay thế cho tín ngưỡng đa thần cổ
truyền, khiến cho một bộ phận không nhỏ, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên, một
cách vô thức, quay lưng lại với sinh hoạt văn hóa truyền thống của tộc người.
Thứ năm, nhiều thập niên trước đây, các Hội Văn học Nghệ thuật chuyên
ngành ở Trung ương lẫn Hội Văn nghệ địa phương chưa quan tâm tích cực đến việc
bồi dưỡng đào tạo đội ngũ tác giả người DTTS. Những tác giả đã và đang cầm bút



13
từ những năm 1985 trở về trước, hầu hết đều khởi đầu tự phát rồi mới được đón
nhận và tập hợp lại. Việc bồi dưỡng lực lượng sáng tác người DTTS chỉ mới thực
sự được quan tâm từ sau khi Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam ra đời.
Thứ sáu, đời sống kinh tế các vùng đồng bào dân tộc còn nhiều thiếu thốn,
khiến ngay cả những trí thức, học sinh, sinh viên người dân tộc rất có năng khiếu
cũng không muốn chọn sự gắn bó với văn chương làm con đường chính đi suốt
cuộc đời mình.
Như vậy, theo cách lí giải của tác giả Linh Nga Niê Kdam và một số tác giả
như trên, chúng ta có thể hiểu hơn lý do vì sao đội ngũ sáng tạo văn học khu vực
các DTTS bản địa Tây Nguyên lại phát triển chậm và ít như vậy.
Văn học Tây Nguyên nói chung trước năm 1975 gần như không có gì nhiều.
Đội ngũ sáng tác viết về đề tài DTTS Tây Nguyên chỉ có vài ba tác giả. Hầu hết các
tác giả viết trực tiếp về Tây Nguyên đều là người miền xuôi như: nhà văn Nguyên
Ngọc với tác phẩm Đất nước đứng lên, nhà thơ Thu Bồn với trường ca Bài ca chim
Chrao, nhà văn Vũ Hạnh với tiểu thuyết Lửa rừng, nhà văn Phạm Kim Anh với
Lãng đãng mây ngàn và một số tác phẩm khác. Người đầu tiên viết về đồng tộc
mình lúc bấy giờ chỉ có Y Điêng Kpă Hô Dí (dân tộc Êđê) với truyện ngắn có dấu
ấn là Em chờ bộ đội Wa Hồ. Tiếp đến là Mlô Y Choi (cũng là người dân tộc Êđê,
tên bút danh là Mlô Y Cla Vi) với bài thơ Cô gái vót chông (đã được nhạc sĩ Hoàng
Hiệp phổ nhạc trở thành một ca khúc xanh mãi với thời gian). Cuối cùng là cây bút
làm thơ nghiệp dư Kpă Y Lăng (La Mai Chửng) vốn là một nhạc sĩ người dân tộc
Bahnar Chăm với bài thơ đậm nét dân ca Jrai Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên
(được nhạc sĩ Lê Lôi phổ nhạc thành ca khúc cùng tên).
Văn xuôi Tây Nguyên đặt trong sự phát triển chung của văn học Tây Nguyên
như đã nói trên cũng có thể khẳng định là chưa có nhiều thành tựu. Người viết văn
xuôi dân tộc đầu tiên ở Tây Nguyên là Y Điêng Kpă Hô Dí (sinh năm 1928 tại buôn
Thung, xã Đức Bình Đông, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên). Bản thân Y Điêng là
người sớm tham gia cách mạng và cống hiến trọn đời cho cách mạng. Năm 1962,

sau khi đi học lớp Viết văn khóa I tại Quảng Bá, ông mới bắt đầu sự nghiệp văn học
với tác phẩm Em chờ bộ đội Wa Hồ. Mặc dù ngay sau khi ra đời, truyện ngắn này
đã được trao Giải ba Cuộc thi Truyện ngắn do báo Thống Nhất tổ chức nhưng thành
tựu của nó cũng chưa thể thúc đẩy sức sáng tạo dồi dào của Y Điêng cũng như của
các nhà văn DTTS khác ở Tây Nguyên. Hai năm sau (năm 1964), ông cho ra đời tác
phẩm Ông già Krao. Mười năm sau (1974), ông mới cho ra đời thêm tác phẩm Như


14
cánh chim Kway. Nhìn chung, sáng tác văn chương của Y Điêng đến năm 1975 vẫn
còn thưa thớt.
Năm 1972, văn xuôi Tây Nguyên xuất hiện thêm một gương mặt mới, đó là
Nay Nô. Nay Nô (tên khai sinh là Rchom Dray, dân tộc Jrai, sinh năm 1948, quê ở
xã Ia Tun, A Yun Pa, Gia Lai) nguyên là Phóng viên chiến trường Quân khu 5 thời
kháng chiến chống Mĩ, sau đó công tác tại Ty Văn hóa - Thông tin Gia Lai, Sở Giáo
dục và Đào tạo Gia Lai. Giai đoạn đến năm 1975, Nay Nô cũng cho ra đời ba tác
phẩm: một phóng sự Dưới chân núi Ngọc Tụ (1972) và hai bút ký: Ta-man Rơh
(1973), Mùa xuân sôi động (1975).
Có thể thấy, văn xuôi Tây Nguyên giai đoạn này, vì nhiều lý do, các tác giả
đều ít sáng tác và ít công bố tác phẩm.
Giai đoạn sau 1975 đến trước năm 1986, Y Điêng nhận thấy: “Nhà văn
người DTTS ít lắm, trong khi đó vốn văn hóa buôn làng sẽ dần mất đi nếu không kịp
viết lại, nhiều chuyện còn trong bụng của người già phải chép lại cho bà con bằng
cả tiếng Việt lẫn tiếng Êđê” nên ông đã tích cực viết và cho ra đời hai tác phẩm
được bạn đọc quan tâm, chú ý: tập truyện dài H’Giang (1978 - viết bằng hai thứ
tiếng Việt và Êđê được Ủy ban Dân tộc Trung ương và Hội nhà văn Việt Nam tặng
Giải thưởng) và tập bút ký Drai Hlinh đi về phía sáng (1985). Còn Nay Nô, giai
đoạn này, ông hoàn toàn im lặng, không công bố tác phẩm.
Tóm lại, giai đoạn từ 1975 đến trước Đổi Mới, văn xuôi Tây Nguyên tuy đã
có một số tác phẩm xuất hiện nhưng thực sự chưa để lại dấu ấn đáng kể. Đúng như

cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Trường Sơn - Tây Nguyên 1975 - 2010 khẳng
định: “Bức tranh văn học khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên giai đoạn này mới chỉ
là những đường nét phác họa mảnh mai và thật sự chưa có gì nổi bật”.
1.1.2. Văn xuôi Tây Nguyên sau Đổi Mới (1986)
Từ năm 1986, được sự quan tâm tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước, Hội
Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam được thành lập. Đặc biệt, năm 1990 Hội
Văn học Nghệ thuật Đăk Lăk ra đời, văn học Tây Nguyên mới từng bước được khởi
sắc, số lượng tác giả và tác phẩm tăng lên nhanh chóng. Mở đầu cho sự sôi động
của văn học Tây Nguyên giai đoạn này là sự xuất hiện của nhà văn Kim Nhất. Nhà
văn Kim Nhất (sinh năm 1945) nguyên là một nữ diễn viên, người dân tộc Bahnar
(xã Bok Tới, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định). Sau khi theo chồng về sống tại Buôn
Ma Thuột, bà sáng tác truyện ngắn đầu tay: Mụ Xoặi (1994). Từ khi tác phẩm Mụ
Xoặi xuất hiện, đời sống văn học dân tộc ở Tây Nguyên như được tăng thêm nhuệ khí
để phát triển. Cụ thể: nhà văn Y Điêng sau một thời gian im lặng đã tiếp tục cầm bút,


15
Kpă Y Lăng (dân tộc Bahnar Chăm) quay lại làm thơ, Ka Sô Liễng (dân tộc Chăm
Hroaih) ngoài đạo diễn sân khấu đã bắt đầu quan tâm đến sáng tác, Mlô Y Cla Vi
(dân tộc Êđê) âm thầm lặng lẽ sáng tạo, H’Linh Niê (dân tộc Êđê) xuất hiện; tiếp đó là
sự ra đời và tích cực, hồ hởi sáng tác của các tác giả: Đinh Xăng Hiền, Nga Ri Vê (dân
tộc Hrê), Hồ Chư (dân tộc Vân Kiều), Niê Thanh Mai (dân tộc Êđê), Hoàng Thanh
Hương (dân tộc Mường sống ở Tây Nguyên).
Từ năm 2000 trở đi, văn học Tây Nguyên “nở rộ”. Bên cạnh các tác giả thực
sự đã định hình, văn đàn Tây Nguyên có thêm nhiều gương mặt mới: K’Ra Zan Plin
(dân tộc K’Ho), H’Trem Knul (dân tộc Êđê), Đinh Su Giang (dân tộc Ka Dong),
Ksor Bi Tô (dân tộc Jrai), Hoàng Nhật Rlayang (dân tộc M’nông), Y Việt Sa (dân
tộc Bahnar Rngao), H’Lứt Mlô (dân tộc Êđê), H’Siêu Buôn Yă (dân tộc Êđê),
H’Xíu H’Mok (dân tộc Êđê), Y Du La Niê (dân tộc Êđê)… Trong số các tác giả
mới đó, Tây Nguyên tự hào đón nhận hai cô gái Êđê: H’Phi La Niê và H’Wê Ra là

hai nhà văn DTTS Tây Nguyên được đào tạo chuyên nghiệp. Nhìn lại các thế hệ
nhà văn Tây Nguyên, ta thấy hầu như họ đều là các trí thức. Đội ngũ những người
viết văn DTTS vùng Tây Nguyên ngày càng được bổ sung đông đảo. Dù họ có thể
còn chưa thực sự được độc giả cả nước biết đến nhưng họ đều đã chính thức gia
nhập vào làng văn Tây Nguyên, góp phần làm nên diện mạo văn học một vùng quê
hương luôn vang tiếng suối reo, gió hát và thấm đẫm âm hưởng cồng chiêng.
Nằm trong không khí sôi động của sự phát triển văn chương ở Tây Nguyên, văn
xuôi Tây Nguyên cũng bắt đầu trở nên phong phú kể từ khi Tạp chí Cư Yang Sin của
Hội Văn học Nghệ thuật Đăk Lăk ra số đầu tiên năm 1986 (số có in truyện ngắn
Mụ Xoặi của Kim Nhất). Từ đó, Kim Nhất liên tục gây bất ngờ với văn xuôi Tây
Nguyên bằng hàng loạt các tác phẩm liên tiếp ra đời. Có thể kể đến những tác phẩm
là Truyện ngắn: Ly hôn (1998), Động rừng (1999), Hồn ma núi (2003), Huyền
thoại Bok Kron (2005); Tiểu thuyết: Chuyện lạ (2007), Luật của rừng (2009), Hoa
đại ngàn (2010), Truyện cổ và Truyện viết cho thiếu nhi: Truyện cổ Bahnar
(1991), Truyện cổ Bahnar 2 (2000), Y Sanh và Y Rá (2002), Chúa sơn lâm mắc
bẫy (2003), Người chăn dê (2005), Tôi được gặp Bác Hồ (2008) và các bài Bút ký
khác, tiêu biểu nhất là Bút ký Về với Ban Mê (1996). Dù sáng tác của Kim Nhất có
người nhận xét là: “Phần lớn chủ yếu ghi chép lại người thật, việc thật; ít chú ý đến
nghệ thuật thể hiện” nhưng cũng có người nhận xét: “Truyện viết về buôn làng và
truyện kì quái của Kim Nhất là hay nhất” và Kim Nhất cũng đã khẳng định được sự
có mặt của mình trong đời sống văn học Tây Nguyên với lối viết đậm chất dân tộc
từ nội dung tác phẩm đến các yếu tố nghệ thuật.


16
Nhà văn Y Điêng sau một thời gian im lặng, ông liên tục hoàn thành các bản
thảo truyện - ký ghi lại những câu chuyện từ thời kháng chiến chống Mĩ và những
câu chuyện về người anh hùng Mnông. Ông cho ra đời hàng loạt Tiểu thuyết,
Truyện ký: Chuyện bên bờ sông Hinh (1994), Sông Hinh, con sông quê hương
(1995), N’Trang Lơng (2004), Lửa trong tay chúng tôi (2005), Trung đội người

Bahnar (2010). Khi sáng tác, ông ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với quê
hương Tây Nguyên: “Chuyện của dân tộc mình phải chính mình viết. Mình không
viết, không nói là mình mắc nợ với quê hương, với người thân”. Cuối cùng, với
những lao động nghệ thuật bền bỉ, ông đã đem lại cho văn xuôi Tây Nguyên một
dòng mạch riêng, đầy ắp hình ảnh quê hương, cuộc sống con người trên mỗi bản
làng bằng một giọng văn dung dị. Ông xứng đáng là Cây Xà nu lớn trong làng văn
xuôi Tây Nguyên.
Sau Kim Nhất và Y Điêng phải kể đến nhà văn hoá, nhà văn Tây Nguyên đa
tài H’Linh Niê. Với tác phẩm đầu tay Gió vẫn thổi từ rừng (1994), và Tập truyện ngắn
Con rắn màu xanh da trời (1996), H’Linh Niê chính thức bước vào làng văn Tây
Nguyên. Từ đấy, H’Linh Niê không ngừng sáng tạo, chị liên tiếp cho ra đời nhiều tác
phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau. Sau thành công của Con rắn màu xanh da trời
(đạt Giải B Hội Văn học Nghệ thuật DTTS Việt Nam 1998), H’Linh Niê tiếp tục khẳng
định mình bằng 2 tập truyện ngắn: Gió đỏ (2004), Pơ Thi mênh mang mùa gió (2009)
và 5 tập bút ký Trăng Xí Thoại (1999), Đi tìm hồn chiêng (2003), Chân dung văn nghệ
sĩ Tây Nguyên (2005), Nhân danh ai ? (2008), Tại gió mà nhớ (2015) cùng một loạt tác
phẩm sưu tầm, chỉnh lý văn học: Sử thi Êđê Đam San thời thơ ấu (1998), Trường ca
Bahnar Nàng Bia Lúi (2000), Truyền thuyết Mnông Núi Nâm Nung (2001), Thành
ngữ dân gian Mnông (2010), Luật tục K’Ho (2011)... Bằng những sáng tạo của mình,
H’Linh Niê giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về đời sống người dân ở các buôn làng
Tây Nguyên thời kì hiện đại với tất cả những khó khăn, thuận lợi cũng như những cuộc
đấu tranh vật vã để chống lại hủ tục, tư tưởng cũ; chống lại những tiêu cực, tệ nạn xã
hội… để thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, lạc hậu; vươn lên no ấm, làm giàu và giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại mới.
Sau lớp nhà văn trên là một thế hệ nhà văn mới, rất trẻ, đại diện cho tiếng nói
văn xuôi Tây Nguyên đương đại. Đó là các cây bút: Niê Thanh Mai, H’ Phi La Niê,
H’Siêu Buôn Yă … Trong đó, nổi bật là nhà văn nữ: Niê Thanh Mai. Là một người
con dân tộc Êđê trưởng thành từ cao nguyên phố thị lại là một giáo viên giảng dạy
Ngữ văn tại trường Trung học Phổ thông Dân tộc Nội trú N’Trang Lơng nên Niê
Thanh Mai thấu hiểu tâm tư tình cảm và sự đổi thay trong lối sống, cách nghĩ của



17
lớp thanh niên dân tộc đương đại. Vì thế, chị có điều kiện phản ánh tất cả những
điều đó trong các tác phẩm văn xuôi của mình. Với 3 tập truyện ngắn Suối của
rừng (2005), Về bên kia núi (2007), Ngày mai sáng rỡ (2010), Niê Thanh Mai đã
hình thành một lối viết riêng, một tiếng nói mới cho văn xuôi Tây Nguyên.
Nhìn chung, văn xuôi Tây Nguyên sau 1986 trở đi thực sự có một diện mạo
riêng với một đội ngũ các nhà văn đầy nhiệt huyết, đam mê, sung sức và đầy trách
nhiệm với tiếng nói văn chương của dân tộc. Văn xuôi của họ đã bắt đầu có dấu ấn và
mang đặc trưng của văn học DTTS vùng cao nguyên, có khả năng thu hút bạn đọc bởi
sự phong phú đa dạng và màu sắc riêng biệt vừa quen vừa lạ. Đó là những áng văn
xuôi mang hơi thở của văn học dân gian Tây Nguyên với những trường ca, sử thi vĩ
đại; thể hiện bản lĩnh, khí phách, tâm hồn phóng khoáng của con người và chất chứa
bản sắc dân tộc độc đáo trong phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ và cả tình yêu rất
riêng, rất mãnh liệt cùng những lo lắng trở trăn trong đời sống còn nhiều khó khăn
thách thức của con người Tây Nguyên trên dải đất xanh tươi, hùng vĩ này. Có thể nói,
văn xuôi Tây Nguyên nói riêng, văn học DTTS Tây Nguyên nói chung đã góp phần
làm nên diện mạo của một nền văn học DTTS Việt Nam giàu bản sắc thời kì hiện đại.
1.2. Nhà văn nữ Linh Nga Niê Kdam
1.2.1. Vài nét về tiểu sử
Linh Nga Niê Kdam sinh ngày 08 tháng 08 năm 1948, tên bút danh là H’Linh Niê,
hiện đang sống tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Chị xuất thân trong
một gia đình trí thức, quê ở thị trấn Ea Pok, huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắc Lắc. Mặc dù
là một người con dân tộc Êđê nhưng chị được sinh ra và lớn lên tại Miền Bắc (cha
chị là một trí thức Tây Nguyên tập kết, công tác tại Miền Bắc).
Con chim hoạ mi Tây Nguyên Linh Nga Niê Kdam tham gia vào lĩnh vực
Văn hóa Nghệ thuật từ rất sớm. Sau khi tốt nghiệp Phổ thông Trung học (1966), chị
đã theo Đoàn Ca Múa Tây Nguyên đi biểu diễn khắp miền Bắc và phục vụ chiến
trường Đường 9 - Nam Lào (1971). Tốt nghiệp Đại học Thanh nhạc (1979), chị về

công tác tại Buôn Ma Thuột và đã từng giữ nhiều cương vị trong lĩnh vực văn hoá, xã
hội, nghệ thuật dân tộc như: Phó trưởng Đoàn Ca múa Đăk Lăk; Hiệu trưởng Trường
Văn hoá nghệ thuật Đăk Lăk; Phó Giám đốc Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt
Nam tại Tây Nguyên; Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhạc sỹ Việt Nam khóa VI, VII;
Phó Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật DTTS Việt Nam khoá II, III; Chủ tịch Hội
Văn học Nghệ thuật tỉnh Đăk Lăk khóa III; Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ dân
gian Việt Nam khoá II, III, IV, V, VI, VIII; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên
Hội Nhà báo Việt Nam ...


18
Là một nghệ sĩ, một nhà hoạt động văn hoá, văn nghệ ở Tây Nguyên được đào
tạo bài bản, Linh Nga Niê Kdam có hiểu biết sâu rộng về nghệ thuật, văn hóa, văn học
Tây Nguyên. Chị đã được Nhà nước trao tặng nhiều huy chương: Huy chương Vì sự
nghiệp Văn hoá Việt Nam (1990), Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật
Việt Nam (1999), Huy chương Vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian Việt Nam (2001), Huy
chương Vì sự nghiệp Âm Nhạc Việt Nam (2002), Huân chương lao động hạng Ba
(2013)… cùng nhiều bằng khen của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk, Liên hiệp các
Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam & Đài Tiếng nói Việt Nam cùng các Giải thưởng
chuyên môn uy tín của ngành Báo chí, Nghiên cứu văn hóa. Trong lĩnh vực bút ký
báo chí, chị từng đạt các giải thưởng: Giải C bút ký Mất còn Folklore Tây Nguyên
(Đài Tiếng nói Việt Nam - 1993), Giải B bút ký Về quê chồng mùa nước nổi (Báo
Nông nghiệp - 1996), Giải C bút ký Chuyện lạ ở Mường Hoong (Hội Nhà báo Việt
Nam - 2000), Giải B tập bút ký Đi tìm hồn chiêng (Liên hiệp Văn học Nghệ thuật 2004), Giải A bút ký Nhân danh ai? (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - 2005), Giải B
bút ký Nhân danh ai? (Hội Nhà báo Việt Nam - 2005), Giải A bút ký Tôi đã được
Bác Hồ dạy dỗ (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - 2007), Giải Tôn vinh Cư Yang Sin
(Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk lần thứ I - 2009), Giải A Cư Yang Sin bút ký Tại
gió mà nhớ (Ủy ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk lần II - 2015)… Trong lĩnh vực sưu
tầm, nghiên cứu, chị cũng từng đạt các giải thưởng: Giải C Hội Văn nghệ Dân gian
Việt Nam tập Nghiên cứu văn hoá Tây Nguyên (2006), Giải C Hội Nhạc sỹ Việt

Nam tuyển Những bài báo giới thiệu nhạc cụ các dân tộc Tây Nguyên (2006),
Giải A Hội Văn học Nghệ thuật Đăk Lăk tập Trường ca trong môi trường văn hoá
Tây Nguyên (2006). Giải C Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam Già làng Tây
Nguyên (2008), Giải tôn vinh các đóng góp về Văn hoá Nghệ thuật - Giải Cư Yang
Sin - Đăk Lăk (2009), Giải B Hội Nhạc sĩ Việt Nam Bàn về âm nhạc Tây Nguyên
(2014)…. Bằng những cống hiến của mình trong các lĩnh vực, chị đã trở thành động
lực, là người tạo điều kiện và trực tiếp góp phần đào tạo, xây dựng đội ngũ nhà văn
kế tiếp như: Niê Thanh Mai, H’ Phi La Niê, H’Siêu Buôn Yă … và góp phần không
nhỏ vào sự phát triển của văn học Tây Nguyên thời kì hiện đại.
Linh Nga Niê Kdam sinh ra trong một gia đình trí thức, cha là bác sĩ Y
Ngông Niê Kdam - một người trí thức DTTS lớn, một nhà hoạt động chính trị có uy
tín của quốc gia, người duy nhất ở Việt Nam là đại biểu Quốc hội 9 khóa liên tục.
Ông luôn có ý thức sâu sắc trong việc giáo dục Linh Nga Niê Kdam về lòng yêu
nước, về truyền thống dân tộc, về ý thức bảo tồn bản sắc văn hóa cũng như ngôn


19
ngữ, tiếng nói của quê hương. Ngay từ khi học lớp 3, chị đã được cha dẫn theo tham
gia lễ hội ở các “chi” trong Trường Dân tộc tại Gia Thượng (Gia Lâm), nghe các
nghệ nhân kể k’han cho cán bộ sưu tầm văn học ghi chép. Vì vậy, dù chưa một lần
về Buôn Ma Thuột nhưng chị đã biết và yêu từng ngọn núi, con sông cùng những
câu chuyện huyền thoại về quê hương tươi đẹp. Lên lớp 5, chị được cha cho theo
học lớp dạy chữ Êđê. Tình yêu dân tộc, niềm tự hào về quê hương của chị bắt nguồn
từ đó. Sau này, đã có lần chị tâm sự: “Không sinh ra ở Đăk Lăk, nhưng hạt mầm
của tình yêu và niềm tự hào dân tộc ba gieo lớn dần tâm hồn tôi theo tháng năm”.
Rõ ràng, tình yêu, niềm tự hào dân tộc lớn dần lên trong chị là sự tiếp nối và phát
triển của một tình yêu, niềm tự hào dân tộc đã khắc sâu trong tâm khảm của cha chị
- một người con Tây Nguyên xa quê nhưng luôn hướng về quê hương với tất cả tấm
lòng và trái tim yêu thương sâu sắc.
Trong suốt cuộc đời mình, Linh Nga Niê Kdam không ngừng tìm tòi, nghiên

cứu, sáng tạo. Chị gửi vào các sáng tác của mình tình yêu thiết tha với quê hương Tây
Nguyên hùng vĩ. Ở lĩnh vực sáng tác văn chương, chị đến khá muộn màng nhưng lại
rất chắc chắn và sớm ghi được dấu ấn trong đời sống văn học Tây Nguyên. Chỉ trong
vòng hơn 20 năm, chị đã có một sự nghiệp văn chương đáng nể trọng với hàng chục
tác phẩm đã xuất bản được nhiều người biết đến, trong đó có 3 tập truyện ngắn: Con
rắn màu xanh da trời, Gió đỏ, Pơ Thi mênh mang mùa gió và 5 tập bút ký: Trăng
Xí Thoại, Đi tìm hồn chiêng, Nhân danh ai?, Chân dung văn nghệ sĩ Tây Nguyên,
Tại gió mà nhớ cùng hàng loạt tác phẩm sưu tầm, chỉnh lý văn học, nghiên cứu văn
hóa dân gian Tây Nguyên: Sử thi Êđê Đam San thời thơ ấu, Trường ca Bahnar
Nàng Bia Lúi, Truyền thuyết Mnông Núi Nâm Nung, Thành ngữ dân gian
Mnông, Văn hóa dân gian các dân tộc K’Ho, Ê Đê - Bih, Rmam và nhiều tác phẩm
thuộc các thể loại khác mới in như: Tiểu luận Văn học dân tộc thiểu số Trường Sơn
- Tây Nguyên 1975 - 2010, Tản văn Bến nước ơi, Chân dung bè bạn Chân dung văn
nghệ sỹ Tây Nguyên. Riêng về truyện ngắn và bút ký, chị cũng đã có những tác
phẩm được trao Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, của Ủy ban toàn quốc các
Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, của Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam.
Tác phẩm văn chương của chị luôn thấm đẫm chất Tây Nguyên từ đề tài, chủ
đề, thế giới nhân vật đến không gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật... Đọc văn
chương của chị ta hiểu hơn về con người, cuộc sống, thiên nhiên núi rừng Tây
Nguyên; thấy được những nét đẹp văn hóa của các tộc người cùng những chuyển
biến về kinh tế và những đổi thay chóng mặt của thời cuộc với bao thuận lợi cũng


20
như bao khó khăn, thách thức mà con người Tây Nguyên cần phải đối mặt và phải
vượt qua.
Tất cả những yếu tố đã nói trên: không khí sôi động của sự phát trển văn
chương Tây Nguyên từ sau năm 1986, nguồn cội gia đình, tài năng nghệ thuật, niềm
say mê sáng tạo nghệ thuật, những hiểu biết sâu rộng về văn hóa truyền thống dân
tộc, đặc biệt là tình yêu quê hương, niềm tự hào về quê hương chính là tiền đề làm

nên một cá tính sáng tạo, một lối viết riêng của nhà văn Linh Nga Niê Kdam. Việc
gia nhập vào làng văn Tây Nguyên, đem tiếng nói người Tây Nguyên hòa vào tiếng
nói chung của văn xuôi các dân tộc Việt Nam, Linh Nga Niê Kdam đã khẳng định
được tài năng của mình đồng thời góp phần khẳng định được sức sống, phát huy
được truyền thống văn chương đã có từ lâu đời trên mảnh đất Tây Nguyên tươi đẹp.
Linh Nga Niê Kdam thực sự trở thành một cây bút văn xuôi tiêu biểu của Tây
Nguyên sau Đổi Mới.
1.2.2. Linh Nga Niê Kdam - người con luôn hướng về nguồn cội
Nhà văn Linh Nga Niê Kdam (H’Linh Niê) là người con đích thực của Tây
Nguyên (cho dù chị không sinh ra tại Tây Nguyên do điều kiện công tác của cha mẹ
chị). Vì vậy, dòng máu Êđê luôn cuộn chảy trong con người chị và luôn thôi thúc chị
trở về, gắn bó với vùng đất thiêng - quê hương, nguồn cội của chị. Chị đã dồn tâm
huyết, trí tuệ, tình cảm và tài năng của mình để viết về quê hương, nghiên cứu về bản
sắc văn hoá Tây Nguyên; sưu tầm, khai thác vốn văn hoá, nghệ thuật truyền thống của
Tây Nguyên.
Riêng trong các tác phẩm văn xuôi của chị, hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống,
con người Tây Nguyên với những phong tục tập quán, những nếp nghĩ, lối sống,
những sinh hoạt của cộng đồng, của các gia đình, các cá nhân trong buôn làng cũng
như những đổi thay của vùng đất, con người nơi đây trong cuộc sống thời kì hiện
đại… đều được chị phản ánh một cách chân thực, sinh động vào trang văn của
mình. Có thể dễ nhận thấy một điều: cảm hứng bao trùm trong các sáng tác của
Linh Nga Niê Kdam chính là cuộc sống, con người Tây Nguyên với những nét bản
sắc riêng biệt của các DTTS trên mảnh đất cao nguyên lộng gió.
Quê hương Tây Nguyên hiện lên qua những trang văn của H’Linh Niê trước
hết là hình ảnh của thiên nhiên, núi rừng rộng lớn vừa hùng vĩ vừa tràn đầy chất thơ.
Một thiên nhiên bao giờ cũng đẹp đẽ và thấm đượm tình người. Nhưng đồng thời
hình ảnh thiên nhiên trong văn xuôi của chị cũng hết sức đa dạng, nhiều màu sắc
khác nhau. Có lúc, thiên nhiên được nhìn nhận như một đối tượng khách quan mang
đậm dấu ấn miền núi, có lúc lại được nhìn nhận như một sinh thể sống có tâm tư



×