Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Đánh giá tác động xã hội của công tác quản lý rừng tại lâm trường văn chấn, tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 214 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

==============

TRƢƠNG TẤT ĐƠ

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA CÔNG TÁC
QUẢN LÝ RỪNG TẠI LÂM TRƢỜNG VĂN CHẤN
TỈNH YÊN BÁI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, NĂM 2009


B GIO DC V O TO

B NễNG NGHIP V PTNT

TRNG I HC LM NGHIP

==============

TRNG TT

đánh giá tác động xã hội của công tác quản lý rừng
tại lâm tr-ờng văn chấn tỉnh yên bái


Chuyờn ngnh: Lõm hc
Mó s: 60.62.60

LUN VN THC S KHOA HC LM NGHIP

Ngi hng dn khoa hc:
TS. Vừ i Hi

H NI, NM 2009


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại Trường Đại học Lâm nghiệp theo chương
trình đào tạo Cao học Lâm nghiệp khoá 14 (2006 - 2009).
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự quan
tâm, tận tình giúp đỡ của các thầy, cô giáo; các cán bộ công nhân viên Trường Đại
học Lâm nghiệp, nhân dịp này tác giả xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ đó.
Trước hết, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS. Võ Đại Hải người hướng dẫn khoa học, đã dành nhiều thời gian hướng dẫn, tận tình giúp đỡ,
truyền đạt những kiến thức quí báu và dành cho tác giả những tình cảm tốt đẹp
trong suốt thời gian công tác, học tập cũng như trong thời gian thực hiện luận văn.
Tấm gương lao động và các ý tưởng khoa học mới của thầy giáo hướng dẫn là bài
học quí giá đối với bản thân tác giả.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ Khoa Đào tạo Sau đại học, đặc biệt là
PGS.TS. Nguyễn Văn Thiết đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tác giả trong suốt thời
gian học tập và làm luận văn.
Tác giả xin cảm ơn Phòng nghiên cứu kỹ thuật Lâm sinh, các cán bộ nghiên
cứu Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Lâm Trường Văn Chấn tỉnh Yên Bái,
Chương trình Lâm nghiệp Việt Nam – Cộng hoà Liên bang Đức (GTZ), UBND
huyện Văn Chấn, UBND xã và những các hộ gia đình của 4 xã Nậm Búng, Gia Hội,
Sơn Lương và Nậm Lành đã cung cấp thông tin và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho

tác giả triển khai thu thập số liệu ngoại nghiệp phục vụ cho luận văn.
Cuối cùng tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và người
thân trong gia đình đã giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt thời gian học tập và
hoàn thành bản luận văn này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
Tác giả


MỤC LỤC

Trang
Lời cảm ơn …………………………......………………….....………………........ .i
Mục lục………………………………………….....……………......………...........ii
Danh mục các ký hiệu và từ viết tắt……….................................................…........ .v
Danh mục các bảng ………………………………………………………..…........vi
Danh mục các hình ảnh, biểu đồ và sơ đồ ………….………………………..........vii
Đặt vấn đề………………………..…………………......………….………….........1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU…………….…....................3
1.1. Trên thế giới……………………………………………........…………….........3
1.2. Ở Việt Nam………………………………...…………............…………...........8
Chƣơng 2: MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................................18
2.1. Mục tiêu đề tài ………………………............…………………………...........18
2.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.…………………………….....17
2.3. Nội dung nghiên cứu …..................................................................................18
2.4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................20

Chƣơng 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU.......................................................................................... ...27
3.1. Điều kiện tự nhiên.............................................................................................27

3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội…………………………..…………………….........29
3.3. Nhận xét, đánh giá chung về ĐKTN, KT-XH khu vực nghiên cứu...................32
3.3.1. Thuận lợi................................. ....................................................................32
3.3.2. Khó khăn......................................................................................................33
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................34
4.1. Đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh tại Lâm trường Văn Chấn..34
4.1.1. Quá trình hình thành và cơ cấu tổ chức Lâm trường .................................34
4.1.2. Tài nguyên rừng..........................................................................................38


4.1.3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh……..……….…….…….......... .38
4.1.4. Tình hình quản lý bảo vệ rừng…........................................…………...........43
4.2. Tình hình sản xuất và kinh tế hộ gia đình các xã trên địa bàn Lâm trường.......49
4.2.1. Cơ cấu sử dụng đất đai………………......…………………………….............49
4.2.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp các xã trên địa bàn Lâm trường….….. .....50
4.2.3. Tình hình sử dụng tài nguyên rừng..............................................................56
4.2.4. Nguồn vốn đầu tư.........................................................................................59
4.2.5. Phân loại kinh tế hộ gia đình.......................................................................59
4.2.6. Cơ cấu thu nhập và chi tiêu.........................................................................60
4.3. Đánh giá tình hình giao đất lâm nghiệp và giao khoán QLBVR ...........…......69
4.3.1. Đánh giá tình hình giao đất lâm nghiệp trên địa bàn……………................69
4.3.2. Đánh giá tình hình giao khoán QLBVR........................ ………………........70
4.3.3. Đánh giá cơ hội tạo thu nhập của các hộ gia đình sống gần rừng từ các
hoạt động quản lý rừng của Lâm trường Văn Chấn................................................75
4.4. Đánh giá tác động qua lại giữa Lâm trường Văn Chấn và địa phương....…......77
4.4.1. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của Lâm trường đối với địa phương..77
4.4.2. Những hoạt động sản xuất của địa phương đối với Lâm trường……….....83
4.5. Đánh giá mức độ phù hợp của các tiêu chuẩn xã hội trong QLRBV ở Lâm
trường Văn Chấn.......................................................................................................85
4.6. Đề xuất một số giải pháp và các công việc ưu tiên nhằm thúc đẩy tiến

trình QLRBV và bền vững về mặt xã hội ở lâm trường Văn Chấn..........................90
4.6.1. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức về tác động xã
hội của công tác quản lí rừng ở lâm trường Văn Chấn............................................90
4.6.2. Một số dự báo.............................................................................................92
4.6.3. Đề xuất một số giải pháp...........................................................................98
4.6.4. Đề xuất các công việc ưu tiên..................................................................103
Chƣơng 5: KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ…………..........................105
5.1. Kết luận……....................................................................................................105
5.2. Tồn tại ………..…………….…………………………………………..........108


5.3. Khuyến nghị………………...………………………………………….........108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC:
Phụ lục 1: Danh sách một số người chủ yếu đã tham gia phỏng vấn, trao đổi
Phụ lục 2: Danh sách các thôn trên địa bàn Lâm trường sau khi sắp xếp lại thành
Công ty Lâm nghiệp Văn Chấn
Phụ lục 3: Tổng hợp diện tích giao rừng, khoán rừng đến từng thôn xã trên địa bàn
Lâm trường Văn Chấn giai đoạn 2006-2008.
Phụ lục 4: Diện tích trồng chè Shan theo dự án Lâm trường đến 31/12/2008
Phụ lục 5: Diện tích rừng trồng của Lâm trường đến 31/12/2008.


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu

TT

Giải thích


1

BVR

Bảo vệ rừng

2

CBCNV

Cán bộ công nhân viên

3

CCR

Chứng chỉ rừng

4

ĐKTN, KT-XH

Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

5

ESIA

Đánh giá tác động môi trường và xã hội


6

FAO

Tổ chức nông lương thực thế giới

7

FSC

Hội đồng quản trị rừng Quốc tế

8

GTZ

9

KHCN

Khoa học công nghệ

10

KHKT

Khoa học kỹ thuật

11


KNTS

Khoanh nuôi tái sinh

12

NN & PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

13

QLR

Quản lý rừng

14

QLBVR

Quản lý bảo vệ rừng

15

QLRBV

Quản lý rừng bền vững

16


PCCCR

Phòng cháy chữa cháy rừng

17

SXKD

Sản xuất kinh doanh

18

UBND

Uỷ ban nhân dân

Chương trình lâm nghiệp VN - Cộng hoà liên bang
Đức


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng

Tên bảng

Trang

3.1


Tình hình dân số 4 xã trên địa bàn Lâm trường Văn Chấn

30

3.2

Tình hình lao động trên dịa bàn 4 xã Lâm trường Văn Chấn

30

3.3

Số lượng học sinh ở 4 xã trên địa bàn Lâm trường Văn Chấn

31

4.1

Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ lâm trường Văn Chấn

36

4.2

Tổng số cán bộ Lâm trường chia theo trình độ chuyên môn

37

4.3


Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh giai đoạn 2004-2008

39

4.4

Kết quả sản xuất kinh doanh giai đoạn 2003-2008

42

4.5

Hoạt động và kinh phí PCCCR của Lâm trường năm 2006-2008

44

4.6

Số vụ cháy rừng của Lâm trường Văn Chấn giai đoạn 2005-2008

46

4.7

Số vụ vi phậm lâm luật trên địa bàn Lâm trường 2004-2008

48

4.8


Cơ cấu sử dụng đất 4 xã trên địa bàn Lâm trường

49

4.9

Diện tích và năng suất một số loài cây trồng chính trên dịa bàn 4 xã

50

4.10

Lịch thời vụ sản xuất nông nghiệp các xã trên địa bàn

52

4.11

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn Lâm trường năm 2008

53

4.12

Diện tích cây công nghiệp và lâm nghiệp

55

4.13


Đánh giá nhu cầu sử dụng gỗ, củi tại chỗ trên địa bàn Lâm trường

57

4.14

Số hộ nghèo trên địa bàn 4 xã Lâm trường Văn Chấn

59

4.15

Diện tích rừng giao khoán bảo vệ ở Lâm trường Văn Chấn

70

4.16

Một số hoạt động hỗ trợ địa phương của Lâm trường Văn Chấn

79

4.17

Kết quả đánh giá mức độ phù hợp các chỉ số xã hội của Lâm trường

86

4.18


Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức tác động xã hội

90

4.19

Dự báo biến động dân số trên địa bàn giai đoạn 2008-2020

92

4.20

Dự báo tỷ lệ tăng dân số đến 2020 theo mục tiêu của các xã

93

4.21

Dự báo biến động số hộ gia đình trên địa bàn giai đoạn 2008-2020

94

4.22

Dự báo nhu cầu sử dụng củi của 4 xã trên địa bàn Lâm trường

95

4.23


Dự báo nhu cầu sử dụng gỗ làm nhà mới tại 4 xã trên địa bàn

96

4.24

Biện pháp hoàn thiện các tiêu chuẩn về mặt xã hội của FSC

98


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu
đ

Tên biểu đồ

Trang


4.1

4.2a

4.2b

4.3a

4.3b


4.4a

4.4b

4.5

4.6

4.7

4.8

4.9

Cơ cấu sử dụng đất các xã trên địa
bàn Lâm trường Văn Chấn
Cơ cấu thu nhập nhóm hộ thu nhập
khá trồng chè
Cơ cấu thu nhập nhóm hộ thu nhập
khá không trồng chè
Cơ cấu thu nhập nhóm hộ thu nhập
trung bình trồng chè
Cơ cấu thu nhập nhóm hộ thu nhập
trung bình không trồng chè
Cơ cấu thu nhập nhóm hộ thu nhập
thấp trồng chè
Cơ cấu thu nhập nhóm hộ thu nhập
thấp không trồng chè
Cơ cấu thu nhập hộ gia đình xã
Nậm Búng

Cơ cấu thu nhập hộ gia đình xã
Gia Hội
Cơ cấu thu nhập hộ gia đình xã
Nậm Lành
Cơ cấu thu nhập hộ gia đình xã
Sơn Lương
Cơ cấu thu nhập hộ gia đình các xã
theo nguồn thu nhập

50

61

61

61

61

61

61

64

64

65

65


65


4.10
4.11
4.12
4.13

4.14

4.15

4.16

4.17

Cơ cấu chi tiêu nhóm hộ khá
Cơ cấu chi tiêu nhóm hộ trung
bình
Cơ cấu chi tiêu nhóm hộ nghèo
Cơ cấu chi tiêu trong hộ gia đình
xã Nậm Búng
Cơ cấu chi tiêu trong hộ gia đình
xã Gia Hội
Cơ cấu chi tiêu trong hộ gia đình
xã Nậm Lành
Cơ cấu chi tiêu trong hộ gia đình
xã Sơn Lương
Cơ cấu phân bổ trong chi tiêu tại

hộ gia đình 4 xã

66
66
66
67

67

68

68

68

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

đ

Tên sơ đồ

Trang


2.1

Phương hướng giải quyết vấn đề

22


2.2

Các bước thực hiện nghiên cứu

25

4.1

Sơ đồ tổ chức bộ máy Lâm trường
Văn Chấn

36


DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
Ảnh

Tên ảnh

Trang

1.

Chăn nuôi Trâu thả rông

53

2.

Dùng ngựa để chở hàng hoá


54

3.

4.

Quế mang lại nguồn thu đáng
kể
Lấy củi làm hoạt động thường
ngày

56

58

5.

Khai thác gỗ làm nhà mới

58

6.

Nhà ở của người dân nghèo

60

7.


8.

Chè là một nguồn thu lớn cho
một số hộ gia đình
Phỏng vấn các cán bộ địa
phương

63

83

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người, điều đó được khẳng
định trong nhiều Công ước quốc tế mà chính phủ Việt Nam đã ký kết như CITES -


1973, RAMSA - 1998, UNCED - 1992, CBD - 1994, UNFCCC - 1994, UNCCD 1998. Tuy nhiên, tài nguyên rừng đang ngày càng bị suy giảm. Theo FAO, trong mấy
chục năm qua trên thế giới đã mất đi trên 200 triệu ha rừng tự nhiên, trong khi đó phần
lớn diện tích rừng còn lại bị thoái hoá nghiêm trọng cả về đa dạng sinh học và chức
năng sinh thái. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác quản lý, sử dụng tài nguyên rừng
không hợp lý, không đảm bảo phát triển bền vững, đặc biệt là về mặt xã hội và môi
trường.
Trong giai đoạn hiện nay quản lý rừng bền vững (QLRBV) được đặt ra như
là một yêu cầu cấp thiết đối với mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế. Đầu thập kỷ 90
của thế kỷ XX, nhờ sáng kiến của những người sử dụng và kinh doanh gỗ về việc
chỉ buôn bán và sử dụng gỗ có nguồn gốc từ các khu rừng đã được quản lý bền
vững, từ đó một loạt các tổ chức QLRBV đã ra đời và có phạm vi hoạt động khác
nhau trên thế giới như Montreal, ITTO, Pan - European, Africal Timber
Organization Initiative, CIFOR và FSC, trong đó chứng chỉ FSC là có uy tín và có
phạm vi áp dụng rộng rãi nhất.

Hợp tác lâm nghiệp trong khối ASEAN cũng chủ yếu xoay quanh chủ đề
QLRBV với 2 lý do: một là xu hướng mất rừng của các nước đang phát triển do áp
lực của dân số, lương thực, khai thác trái phép, cháy rừng,... hai là bị thị trường thế
giới từ chối dần việc nhập khẩu nếu đồ gỗ không có chứng chỉ QLRBV. Chứng chỉ
rừng thực chất là chứng chỉ ISO 9000 và 14000 về công nghệ và môi trường cho
chủ doanh nghiệp lâm nghiệp, vì lợi ích của chính mình và lợi ích, uy tín của quốc
gia mình, các chủ rừng tự nguyện tham gia vào quá trình QLRBV và nhận được
chứng chỉ rừng.
Ở Việt Nam, từ năm 1945 đến 1990 diện tích rừng liên tục giảm từ 14,3 xuống
9,2 triệu ha, độ che phủ còn 27,2% mà lý do chính là do quản lý và sử dụng rừng
không bền vững. Từ sau năm 1992 thông qua các chương trình lớn như dự án 327 và
661,… gần 3 triệu ha rừng đã được phục hồi, góp phần thúc đẩy ngành lâm nghiệp
phát triển và cân bằng môi trường cho đất nước. Theo kết quả kiểm kê rừng công bố
ngày 17/7/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT thì đến hết 31/12/2007 diện tích rừng


nước ta đã tăng lên 12.837.333 triệu ha với độ che phủ là 38,2%. Để giữ được diện
tích rừng hiện có và phát triển thêm vốn rừng thì QLRBV là một yêu cầu rất cần thiết
ở nước ta.
Trong Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006 - 2020 ghi rõ: Thiết
lập, quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững 3 loại rừng; đẩy mạnh xây dựng thương
hiệu và cấp chứng chỉ rừng cho các mặt hàng xuất khẩu; Nâng cấp năng lực quản lý
cho chủ rừng, xây dựng các tiêu chuẩn và cấp chứng chỉ rừng, mục tiêu đến năm
2020 ít nhất 30% diện tích rừng sản xuất được cấp chứng chỉ rừng. Chương trình
Quản lý và phát triển bền vững – là một trong 5 chương trình trọng điểm quốc gia về
lâm nghiệp, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc lần đầu tiên xác định cho đất
nước một lâm phận ổn định 15,6 triệu ha, với 7,8 triệu ha rừng sản xuất, có 30%
được cấp chứng chỉ QLRBV, cung cấp 22,2 triệu m3 gỗ/năm đạt kim ngạch xuất
khẩu 7,8 tỷ USD vào năm 2020.
QLRBV đòi hỏi phải phải đáp ứng bền vững trên cả 3 khía cạnh: kinh tế, xã

hội và môi trường, trong đó hiện nay ở Việt Nam yếu tố xã hội được đặc biệt quan
tâm vì nó gắn liền với đời sống hàng chục triệu người dân miền núi, gắn với chủ
trương xóa đói giảm nghèo và chính sách đầu tư của Chính phủ. Điều này có ý
nghĩa hơn trong bối cảnh Nhà nước đang có những thay đổi lớn về chính sách quản
lý rừng và tổ chức ngành lâm nghiệp; việc sắp xếp, đổi mới các lâm trường quốc
doanh thành các công ty lâm nghiệp tự hạch toán kinh doanh độc lập trên phạm vi
toàn quốc, vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp lâm nghiệp
trong việc hướng tới QLRBV.
Lâm trường Văn Chấn là doanh nghiệp Nhà nước được thành lập từ năm
1964, sau nhiều lần thay đổi tên, trụ sở và chức năng nhiệm vụ, năm 2007 Lâm
trường Văn Chấn đang trong quá trình chuyển đổi thành Công ty Lâm nghiệp.
Trước năm 2006 hoạt động của lâm trường chủ yếu thực hiện nhiệm vụ của dự án
661, khi chuyển sang cơ chế mới Lâm trường đang đứng trước những cơ hội và
thách thức mới. Hiện nay lâm trường đang được Chương trình Lâm nghiệp Việt
Nam - Cộng hòa Liên Bang Đức (GTZ) hỗ trợ xây dựng phương án QLRBV, trong


đó đánh giá tác động xã hội là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu cần
phải thực hiện.
Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài “Đánh giá tác động xã hội của công tác quản
lí rừng tại Lâm trường Văn Chấn tỉnh Yên Bái” đặt ra là hết sức cần thiết nhằm giúp
Lâm trường Văn Chấn nói riêng và các lâm trường có điều kiện tương tự, nhìn nhận
và đánh giá được những tác động xã hội trong QLR, mối quan hệ qua lại giữa địa
phương và lâm trường để tiếp cận và dần đáp ứng được các tiêu chí của Bộ Tiêu
chuẩn quốc gia về QLRBV mà trước hết là các tiêu chí xã hội trong điều kiện và bối
cảnh mới.

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU



1.1 Trên thế giới
1.1.1. Đánh giá tác động xã hội của các hoạt động sản xuất lâm nghiệp
Trước những năm 1990, thuật ngữ “đánh giá dự án” mới chỉ giới hạn ở đánh
giá hiệu quả bao gồm hiệu lực thực thi (efficiency) và hiệu quả (effectiveness). Từ
sau năm 1990 các hoạt động đánh giá được thực hiện đã bao gồm cả đánh giá tác
động (impact assessment), tức là xem xét các hoạt động của dự án đó có bền vững
sau khi dự án kết thúc không (John et al, 2000). Hiện nay, việc đánh giá tác động
được coi như bắt buộc đối với tất cả các hoạt động đánh giá, bao gồm tất cả các thay
đổi về sinh thái, văn hoá - xã hội, kinh tế, kỹ thuật, thể chế và chính sách đem lại
bởi các hoạt động của một chương trình, dự án.
Đánh giá tác động môi trường và xã hội (ESIA) đang ngày càng được tăng
cường và áp dụng ở nhiều ngành với mục tiêu nhằm đảm bảo cho các vấn đề môi
trường và xã hội được quan tâm thoả đáng trước khi đưa ra những lựa chọn đầu tư
quan trọng, là phương tiện phù hợp để hỗ trợ quá trình ra quyết định [5].
ở rất nhiều quốc gia ESIA được thiết lập như một qui trình lập kế hoạch/phê
duyệt chủ yếu chỉ áp dụng cho thiết kế khả thi các dự án phát triển qui mô lớn với
vùng tác động hạn chế. ESIA không có mối liên kết cụ thể với bất kỳ một cơ chế
phê duyệt hay cấp phép nào, điều đó có nghĩa rằng những kết quả của qui trình
ESIA không thể có hiệu lực và khó kiểm soát [52].
Đánh giá và giám sát tác động nhằm để trả lời câu hỏi: những thay đổi được
mong đợi có thực sự xảy ra không? và có hay không những tác động không được
mong đợi nhằm điều chỉnh việc quản lý chương trình, dự án; cung cấp thông tin cần
thiết cho quá trình ra quyết định từ cấp dự án tới cấp ra chính sách nhằm xác định
mức độ bền vững của các hoạt động cũng như khâu thiết kế dự án; Giải trình cho
các thành viên dự án về các mục tiêu đã được đề ra và vấn đề sử dụng các nguồn tài
nguyên đã được cung cấp [5].
Năm 1996 trong báo cáo đánh giá của Winconsin Woodland, Micheal
Luedeke và Jeff Martin đã khuyến nghị rằng hoạt động đánh giá tài chính đơn thuần
chỉ nên sử dụng cho các công ty kinh doanh mà lợi nhuận kinh tế là yếu tố hàng



đầu, còn đối với các dự án đầu tư mang nhiều yếu tố xã hội thì nên cân nhắc việc
đánh giá hiệu quả xã hội và môi trường.
Để không bỏ qua trong quá trình thực hiện đánh giá tác động dự án, tổ chức
nghiên cứu cao cấp về phát triển quốc tế Nhật bản (2003) đã đề xuất việc đánh giá
tác động không chỉ tập trung so sánh kết quả đầu ra với đầu vào của dự án mà còn
phải xem xét những ảnh hưởng tiêu cực và tích cực, hiện tại và tương lai, thậm chí
là những ảnh hưởng gián tiếp phát sinh từ những ảnh hưởng trực tiếp. Vì vậy, trong
quá trình đánh giá dự án, việc thiết kế phương pháp và câu hỏi nên chia thành 2
nhóm vấn đề là chính sách, thể chế - quản lý, kỹ thuật, môi trường, văn hoá - xã hội
và kinh tế - tài chính; những tác động được phân loại thành 4 nhóm: tích cực/tiêu
cực và mong đợi/không mong đợi.
Theo Renard R. [72] việc đánh giá hiệu quả kinh tế (áp dụng giá bóng - tính
đến lạm phát, chi phí cơ hội) nên đồng thời là các đánh giá hiệu quả xã hội, hiệu quả
môi trường trong đánh giá các chương trình, dự án lâm nghiệp.
FAO [74], [75] nhấn mạnh việc đánh giá hiệu quả xã hội và môi trường khi
đưa ra các báo cáo tham luận về lâm nghiệp xã hội, lâm nghiệp cộng đồng. Cũng theo
FAO [68], một dự án trong lâm nghiệp dù có đạt được hiệu quả tài chính cao (NPV,
IRR, B/C...) nhưng chưa đạt được hiệu quả xã hội (tạo việc làm, tăng thu nhập cho
cộng đồng,...) và hiệu quả môi trường thì không được coi là một dự án bền vững.
Nghị định thư Kyoto ra đời và việc thành lập Quĩ môi trường toàn cầu (GEF)
càng đề cao vai trò của việc đánh giá hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
Đứng về phương diện các phương thức canh tác, hay sử dụng các phương án
sử dụng đất khác nhau, Walfredo [73] đã cho rằng: Phương thức canh tác sẽ có
những tác động tới kinh tế, sinh thái và xã hội từ đó sẽ có ảnh hưởng tới tăng trưởng
kinh tế, cân bằng sinh thái và phát triển xã hội. Tất cả các mối quan hệ ảnh hưởng
này sẽ tác động toàn diện về kinh tế - xã hội - bảo vệ môi trường sinh thái.
1.1.2 Nghiên cứu về quản lý rừng bền vững
Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà khoa học trên thế giới có sự quan tâm đặc biệt

về vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững. Sự khác biệt về điều kiện tự


nhiên, kinh tế - xã hội và các nhu cầu của con người ở các quốc gia, vùng lãnh thổ
khác nhau dẫn đến sự đa dạng, phức tạp và những quan điểm khác nhau của công
tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, điểm
giống nhau cơ bản khi nói đến quản lý sử dụng đất đai tài nguyên rừng bền vững
đều được thể hiện ở ba vấn đề: kinh tế, xã hội và môi trường. Cuối cùng người ta
cũng đã cố gắng đưa ra một định nghĩa về QLRBV nhằm diễn đạt bản chất của nó,
đồng thời để từ đó xây dựng nên những nguyên tắc cơ bản trong công tác QLRBV.
Khái niệm về QLRBV hình thành từ đầu thế kỷ 18. Ban đầu chỉ chú trọng đến
khai thác, sử dụng gỗ được lâu dài, liên tục. Cùng với sự tiến bộ của khoa học, kỹ
thuật và phát triển kinh tế - xã hội, QLRBV đã chuyển từ quản lý kinh doanh gỗ sang
quản lý kinh doanh nhiều mặt tài nguyên rừng, quản lý hệ thống sinh thái rừng và
cuối cùng là QLRBV trên cơ sở các tiêu chuẩn, tiêu chí được xác lập chặt chẽ, toàn
diện về các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. QLRBV là việc đóng góp của
công tác lâm nghiệp đối với sự phát triển, sự phát triển đó phải mang lại lợi ích kinh
tế, môi trường và xã hội, có thể cân bằng giữa nhu cầu hiện tại và tương lai [29].
Vào đầu thế kỷ 18, các Nhà lâm học Đức như Hartig, GL [77], Heyer, F
[78]… đã đề xuất ra nguyên tắc sử dụng lâu bền đối với rừng thuần loài đều tuổi.
Vào thời điểm này các nhà khoa học người Pháp (Gournand, 1922) và người Thụy
Sỹ (H. Biolley) cũng đã đề ra phương pháp kiểm tra, điều chỉnh sản lượng đối với
rừng đồng tuổi khai thác chọn [72].
Hiện nay đã có nhiều tổ chức đưa ra khái niệm QLRBV như Tổ chức Gỗ
nhiệt đới (ITTO), Hiệp ước Helsinki [19] ủy ban Quốc tế về môi trường và phát
triển [29],... Các định nghĩa trên có cách diễn đạt khác nhau nhưng bao gồm hai vấn
đề chính là quản lý rừng ổn định bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu
đề ra và đảm bảo sự bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường [37].
Vấn đề đặt ra với QLRBV là như thế nào?, đó là công tác quản lý sử dụng
đất đai, tài nguyên rừng nhằm ngăn chặn tình trạng mất rừng do khai thác sử dụng

quá mức mà trong đó việc khai thác lợi dụng tài nguyên rừng không mâu thuẫn với
việc đảm bảo vốn rừng, đảm bảo chức năng tái sản xuất của rừng, đồng thời phát
huy được vai trò chức năng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái bền vững của
rừng đối với con người và thiên nhiên.


Trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, hệ thống quản lý rừng đã tập trung ở nhiều
quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển. Vai trò sự tham gia của cộng
đồng trong quản lý rừng không được chú ý. Mặc dù trong các quy định pháp luật thì
rừng là tài sản của toàn dân nhưng trên thực tế người dân không hề được hưởng lợi từ
rừng, vì vậy họ chỉ biết khai thác rừng để lấy lâm sản và lấy đất canh tác phục vụ cho
nhu cầu sống của chính họ mà cũng không hề quan tâm đến vấn đề xây dựng và bảo
vệ vốn rừng. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp, nhu cầu lâm
sản ngày càng tăng nên trong giai đoạn này tình trạng khai thác quá mức trở thành
nguyên nhân quan trọng của suy thoái nghiêm trọng tài nguyên rừng [49].
Từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc gia đã bị giảm
sút nghiêm trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng bào miền núi bị đe doạ
thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích hợp nữa. Người ta
đã tìm mọi cách cứu vãn tình trạng suy thoái rừng thông qua việc ban bố một số
chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng tài
nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất
hiện đầu tiên ở ấn Độ và dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác nhau như
lâm nghiệp trang trại, lâm nghiệp xã hội (Nêpan, Thái Lan, Philippin,...) [44].
Do diện tích rừng bị suy thoái và canh tác nông nghiệp không bền vững,
FAO (1967 - 1969) đã quan tâm đến phát triển nông lâm kết hợp (NLKH) và trong
các nghiên cứu của mình đã đi đến thống nhất: áp dụng biện pháp NLKH là phương
thức tốt nhất để sử dụng đất rừng nhiệt đới một cách hợp lí, tổng hợp và nhằm giải
quyết vấn đề lương thực, thực phẩm và sử dụng lao động dư thừa đồng thời thiết lập
cân bằng sinh thái [68]. Ngày nay, NLKH đã trở thành một phương thức kinh doanh
phổ biến – gọi là “phương thức sản xuất kinh doanh NLKH”.

1.1.3. Các chính sách thu hút người dân tham gia vào công tác quản lí rừng
Nghiên cứu của Ianuskơ K. (1996) cho thấy để duy trì được hiệu quả, tính ổn
định và bền vững của rừng cần phải giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm
cho các khu rừng trồng kinh tế, trong đó cần có kế hoạch xây dựng và phát triển các
nhà máy chế biến lâm sản với các quy mô khác nhau trên cơ sở áp dụng các công cụ
chính sách đòn bẩy để thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển rừng,


phương thức canh tác phải gần với kiến thức bản địa và được người dân áp dụng.
Theo Thom R Waggener (2000) để phát triển trồng rừng theo hướng sản xuất
hàng hoá với hiệu quả kinh tế cao không chỉ đòi hỏi phải có sự đầu tư tập trung về
kinh tế và kỹ thuật mà còn phải nghiên cứu làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề có liên
quan đến chính sách và thị trường. Chính vì vậy ở các nước phát triển như Mỹ,
Nhật, Canada,... nghiên cứu về kinh tế lâm nghiệp ở cấp quốc gia hiện nay được tập
trung vào 2 vấn đề lớn là thị trường và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Liu Jinlong (2004) [70] dựa trên việc phân tích và đánh giá thực tế đã đưa ra
một số công cụ chủ đạo khuyến khích tư nhân phát triển trồng rừng ở Trung Quốc là:
i) Rừng và đất rừng cần được tư nhân hoá;
ii) Ký hợp đồng hoặc cho tư nhân thuê đất lâm nghiệp của Nhà nước;
iii) Giảm thuế đánh vào các lâm sản;
iv) Đầu tư tài chính cho tư nhân trồng rừng.
v) Phát triển hợp tác giữa các công ty với người dân để phát triển trồng rừng.
Những công cụ mà tác giả đề xuất tương đối toàn diện từ quan điểm chung
về quản lý lâm nghiệp, vấn đề đất đai, thuế,… cho tới mối quan hệ giữa các doanh
nghiệp và người dân. Đây là những đòn bẩy thúc đẩy tư nhân tham gia trồng rừng ở
Trung Quốc và là những định hướng cho các nước khác, trong đó có Việt Nam.
Các hình thức khuyến khích trồng rừng cũng được nhiều tác giả trên thế giới
quan tâm nghiên cứu như Narong Mahannop (2004) [71] ở Thái Lan, Ashadi and
Nina Mindawati (2004) [69] ở Indonesia,... Cho thấy hiện nay ở các nước Đông Nam
Á, 3 vấn đề được xem là quan trọng, khuyến khích người dân tham gia trồng rừng là:

i) Quy định rõ ràng về quyền sử dụng đất.
ii) Quy định rõ đối tượng hưởng lợi rừng trồng.
iii) Nâng cao hiểu biết và nắm bắt kỹ thuật của người dân.
Đây là những vấn đề mà các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam đã
và đang giải quyết để thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào trồng rừng.


1.2.4. Các giải pháp tăng cường quản lý rừng bền vững
Theo thống kê của FAO (2003), trong giai đoạn 1990 - 1995 ở các nước
đang phát triển đã có hơn 65 triệu ha rừng bị mất. Tính đến năm 2000, diện tích
rừng của toàn thế giới, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng chỉ còn 3.869,455 triệu ha,
tỷ lệ che phủ chỉ chiếm 29,6% lãnh thổ [18].
Đối phó với tình trạng trên, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ chức, đề
xuất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng như: Chiến lược bảo tồn
quốc tế (1980, 1991); Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO năm 1983); Chương trình
hành động của tổ chức Nông lương thực (FAO,1985); Hội nghị của Liên hợp quốc
về môi trường và phát triển (UNCED, Rio de Janeiro, 1992); Công ước về buôn bán
động thực vật quý hiếm (CITES); Công ước về đa dạng sinh học (CBD, 1992);
Công ước về thay đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994); Công ước về chống sa mạc
hóa (CCD, 1996); Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTA, 1997) [18].
Hiện nay, trên thế giới nhiều nước đã có các bộ tiêu chuẩn QLRBV cấp quốc
gia (Canada, Thụy Điển, Malaysia, Indonesia,...) và cấp quốc tế như tiến trình
Helsinki, tiến trình Montreal. Hội đồng quản trị rừng (FSC) và Tổ chức gỗ nhiệt đới
với bộ tiêu chuẩn QLR của (C&I) được vận dụng ở nhiều nước trên thế giới [19].
Hội nghị lần thứ 18 tháng 9/1998 tại Hà Nội, Các nước trong khu vực Đông
Nam Á đã thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số vùng
ASEAN về QLRBV (viết tắt là C&I ASEAN). Thực chất C&I ASEAN cũng giống
như C&I của ITTO, bao gồm 7 tiêu chí và cũng chia làm 2 cấp quản lý là cấp quốc
gia và cấp đơn vị quản [17]. Theo FSC Newsletter số 4 ngày 04/6/2007, đã có 818
chứng chỉ QLRBV được cấp cho 81 quốc gia với tổng diện tích 90.784.799 ha và

5.646 chứng chỉ chuỗi hành trình (CoC) cấp cho các doanh nghiệp chế biến gỗ tại
78 nước [37], trong đó những cánh rừng đầu tiên ở Đông Dương được nhận chứng
chỉ FSC vào ngày 29/02/2006 là hai khu rừng tự nhiên ở Trung Lào [1].
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Đánh giá tác động xã hội của các hoạt động sản xuất lâm nghiệp
QLRBV chỉ đạt được khi dung hoà được 3 yếu tố: kinh tế, môi trường và xã
hội. Trong một chừng mực nào đó, yếu tố xã hội chính là yếu tố quyết định, tác


động trực tiếp lên các yếu tố khác, đặc biệt ở nước ta khi cơ chế, chính sách về
QLRBV vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện.
Trên thực tế rất nhiều lâm trường hoạt động yếu kém đối với các vấn đề xã
hội, không giải quyết triệt để những bất đồng giữa lợi ích đơn vị với lợi ích cộng
đồng. Người dân sống tại khu vực rừng phải chịu ảnh hưởng bởi những tác động
tiêu cực trong khi các hoạt động quản lý rừng không thể mang lại lợi ích và đảm
bảo những nhu cầu tối thiểu của họ. Do vậy, việc tiến hành đánh giá tác động xã hội
nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra của hoạt động quản lý rừng là vấn đề cấp thiết
trong giai đoạn hiện nay đối với mỗi lâm trường [23].
Ở Việt Nam, “đánh giá tác động” được quan tâm chú ý nhiều từ khi đổi mới,
đặc biệt trong các dự án phát triển; đánh giá dự án không chỉ được đánh giá qua các
tiêu chí phân tích tài chính mà nó còn bao gồm cả những tiêu chí đánh giá về hiệu
quả xã hội và môi trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh chuyển đổi sang kinh tế thị
trường, đánh giá hiệu quả kinh tế thường được chú trọng hơn. Mặc dù vậy, môi
trường và xã hội cũng tác động không nhỏ đến quá trình sản xuất kinh doanh nhất là
trong kinh doanh lâm nghiệp, vì vậy giai đoạn hiện nay để QLRBV người ta tiến
hành đánh giá cả tác động về kinh tế, môi trường và xã hội.
Phạm Xuân Thịnh [53], Đàm Đình Hùng [28] đã đề cập đến một số tác động
của dự án về mặt kinh tế, xã hội và môi trường, đúc kết các kinh nghiệm, rút ra
những mặt làm được và những mặt còn tồn tại làm cơ sở định hướng phát triển ở
giai đoạn hậu dự án và cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy

nhiên, các báo cáo mới chỉ mô tả các hoạt động của dự án, còn đánh giá tác động
của dự án mang nhiều tính chất định tính cảm quan hơn là các số liệu định lượng.
Lại Thị Nhu (2004) khi nghiên cứu “Đánh giá tác động của dự án trồng
rừng nguyên liệu ván dăm giai đoạn 1999 - 2003 của Công ty Lâm nghiệp Thái
Nguyên”[43] đã đánh giá về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường, quá trình đánh
giá có sử dụng các chỉ tiêu chỉ báo, có sự so sánh các lĩnh vực trước và sau dự án.
Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại ở những tác động tích cực mà chưa đi sâu phân
tích những tác động tiêu cực của dự án.


Nguyễn Minh Hằng, Vũ Nam (2006) [23] trong công trình đánh giá tác động
xã hội tại lâm trường Trường Sơn, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình đã xác định
được các nhóm liên quan đến hoạt động quản lý rừng, các hoạt động sử dụng rừng
chủ yếu của người dân bản địa và nhu cầu của các nhóm liên quan trong phạm vi
lâm trường. Tuy nhiên, nghiên cứu không chỉ ra những chỉ số, chỉ tiêu và tiêu chuẩn
cụ thể về mặt xã hội nào đã phù hợp và chưa phù hợp với bộ tiêu chuẩn QLRBV
của Hội đồng quản trị rừng quốc tế FSC làm cơ sở để đề xuất một số giải pháp
nhằm QLRBV và tiến tới cấp chứng chỉ rừng cho đơn vị.
Nguyễn Văn sản, Lê Khắc Côi (2007) [46] đã thực hiện việc đánh giá tác
động kinh tế - xã hội tại công ty lâm sản xuất khẩu (Forexco) tỉnh Quảng Nam và
chỉ ra sự phù hợp và chưa phù hợp của từng tiêu chí, chỉ số và tiêu chuẩn trong bộ
tiêu chuẩn QLRBV của Hội đồng quản trị rừng quốc tế FSC từ đó đề xuất hệ thống
các giải pháp nhằm hoàn chỉnh các tiêu chí tiến tới QLRBV và cấp chứng chỉ rừng.
Tuy nhiên, những đánh giá tác động chỉ dựa theo các chỉ số của bộ tiêu chuẩn,
những giải pháp đề xuất chỉ đặt trong tình huống cụ thể ở hiện tại mà chưa có
những dự báo, phân tích xu hướng thay đổi các yếu tố xã hội nhằm đề xuất các giải
pháp và những công việc ưu tiên trong tiến trình QLRBV và cấp chứng chỉ rừng.
Chương trình lâm nghiệp Việt Nam - Cộng hoà liên bang Đức (2007) đã tiến
hành hỗ trợ đánh giá tác động xã hội tại lâm trường Ninh Sơn - Ninh Thuận, Lâm
trường M’Drắk - Đăklăk, lâm trường Đăktô - Kontum và Lâm trường Văn Chấn –

Yên Bái [11], [12], [13], [14]. Bước đầu đã chỉ ra được những tồn tại cơ bản, sự phù
hợp của các chỉ số, chỉ tiêu và tiêu chuẩn trong quản lý rừng của các lâm trường từ
đó đề xuất những giải pháp nhằm QLRBV theo tiêu chuẩn FSC Việt Nam.
2.2.2. Nghiên cứu về quản lý rừng bền vững
Công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng ở Việt Nam từ trước tới nay được
chia thành 3 thời kỳ theo quá trình phát triển của lịch sử cũng như quá trình phát
triển kinh tế xã hội của đất nước như sau [36]:
- Thời kỳ trước năm 1945: Toàn bộ rừng nước ta là rừng tự nhiên đã được
chia theo các chức năng để quản lý sử dụng:


 Rừng chưa quản lý: Là những diện tích rừng ở những vùng núi hiểm trở, dân
cư thưa thớt. Nhà nước thực dân chưa có khả năng quản lý, người dân được
tự do sử dụng lâm sản, đốt nương làm rẫy. Việc khai thác lâm sản đang ở
mức tự cung tự cấp, lâm sản chưa trở thành hàng hóa.
 Rừng mở để kinh doanh: Là những diện tích rừng ở vùng có dân cư và đường
giao thông thuận lợi cho vận chuyển lâm sản. Những diện tích này được chia
thành các đơn vị như khu, sau khu là các lô khai thác, việc khai thác được tiến
hành theo chu kỳ sản lượng.
 Rừng cấm: Là những diện tích rừng sau khai thác, cần được bảo vệ để tái
sinh trong cả chu kỳ theo vòng quay điều chế.
Nhìn chung, trong thời kỳ trước 1945 tài nguyên rừng Việt Nam còn phong
phú, nhu cầu lâm sản nói chung của con người còn thấp, rừng bị khai thác lợi dụng
tự do. Mức độ tác động của con người vào rừng còn ít, tài nguyên rừng còn khá
phong phú, vấn đề QLRBV chưa được đặt ra [37].
- Thời kỳ từ năm 1946 - 1990: với sự ra đời của ngành Lâm nghiệp các hoạt
động của ngành đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Ngay sau hoà bình lập lại,
toàn bộ diện tích rừng và đất rừng ở miền Bắc được quy hoạch vào các lâm trường
quốc doanh. Nhiệm vụ chủ yếu là khai thác lâm sản để phục vụ cho nhu cầu phát
triển của các ngành kinh tế. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển vốn rừng tuy có đặt ra

nhưng chưa được các đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp quan tâm đúng mức.
 Giai đoạn từ 1946 - 1960 công tác bảo vệ rừng chủ yếu là khoanh nuôi bảo
vệ, hướng dẫn nông dân miền núi sản xuất trên nương rẫy, ổn định công tác
định canh định cư, khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
 Giai đoạn 1961 - 1975 QLBVR được đẩy mạnh, khoanh nuôi tái sinh rừng gắn
với công tác định canh định cư. Khai thác rừng đã chú ý đến thực hiện theo quy
trình, quy phạm, đảm bảo xúc tiến tái sinh tự nhiên.
 Giai đoạn 1976 - 1989 bảo vệ rừng gắn liền với việc tu bổ, khoanh nuôi,
trồng rừng, gắn chặt công tác quản lý bảo vệ với việc đầu tư nghiên cứu ứng
dụng KHCN vào việc xây dựng hệ thống rừng đặc dụng, rừng phòng hộ,
rừng sản xuất [7].


- Thời kỳ từ năm 1991 đến nay: ngành lâm nghiệp nước ta chuyển đổi cơ
chế quản lí lâm nghiệp Nhà nước sang lâm nghiệp xã hội, gắn với định hướng phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Hệ thống và tính chất quản lý
ngành cũng đã có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu quản lý TNR tổng hợp, đa
ngành, đa mục tiêu; Hàng loạt các chủ trương, chính sách mới được ban hành, tạo
điều kiện thúc đẩy sự phát triển của ngành Lâm nghiệp và quản lý TNR bền vững.
Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 12/1998 hội thảo Quốc gia về QLRBV do Bộ
Nông nghiệp & PTNT, WWF Đông Dương, Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan tại Hà
Nội và Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC) đồng tài trợ đã được tổ chức tại thành phố
Hồ Chí Minh. Có nhiều báo cáo, thảo luận về khái niệm QLRBV, đánh giá hiện trạng
về rừng và quản lý sản xuất lâm nghiệp tại Việt Nam,... Kết quả hội thảo đã thống nhất
thành lập Tổ công tác quốc gia về QLRBV và CCR (NWG) và đề xuất chương trình
hoạt động trong 5 năm đầu tiên [4]. Nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động
QLRBV và cấp chứng chỉ rừng ở nước ta, tháng 6/2006 Viện Quản lý rừng bền vững
và chứng chỉ rừng (trực thuộc Hội KHKT lâm nghiệp Việt Nam) được thành lập.
Vũ Nhâm (2001 - 2004) [38] đã thực hiện đề tài nghiên cứu và xây dựng được
“Hướng dẫn tổ chức đánh giá rừng theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững quốc gia”

nhằm hỗ trợ cho 10 lâm trường thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT ký cam kết thực hiện
phương án QLRBV.
Hướng tới mục tiêu thực hiện QLRBV, Viện quản lý rừng bền vững và chứng
chỉ rừng cùng với các chuyên gia hàng đầu trong và ngoài nước đã nhóm họp nhằm
xây dựng Bộ tiêu chuẩn QLRBV cho Việt Nam, đến nay đã hoàn thành phiên bản 9C.
Những tiêu chuẩn, tiêu chí này dựa trên cơ sở điều chỉnh, bổ sung những tiêu chuẩn,
tiêu chí của FSC quốc tế, có sử dụng nhiều ý kiến đóng góp của các nhà quản lý và
các nhà khoa học lâm nghiệp trong nước và quốc tế để đảm bảo những tiêu chuẩn
quốc tế vừa phù hợp với điều kiện Việt Nam và được ban giám đốc FSC quốc tế phê
duyệt [67]. Do những tiêu chuẩn và tiêu chí áp dụng chung trong toàn quốc, đồng
thời phải phù hợp với tiêu chuẩn tiêu chí quốc tế nên việc áp dụng không thể phù hợp
với mọi trường hợp và mọi điều kiện của từng địa phương. Vì vậy, khi áp dụng các


tiêu chuẩn, tiêu chí cần có sự mềm dẻo trong một phạm vi nhất định nào đó, vừa được
các tổ chức chứng chỉ rừng quốc tế FSC và FSC quốc gia chấp nhận.
2.1.3. Các chính sách thu hút người dân tham gia vào công tác quản lí rừng
Từ sau khi đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp Nhà nước đã ban hành
hàng loạt chính sách về đất đai, đầu tư, tín dụng,… đã có tác động mạnh tới phát
triển sản xuất lâm nghiệp ở Việt Nam.
- Nghị định 01/CP; 02/CP; 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về giao đất,
cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng ổn
định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp [10].
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi (2004).
- Luật khuyến khích đầu tƣ trong nƣớc, nghị định 43/1999/NĐ - CP,
nghị định 50/1999/NĐ-CP,...
- Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 bổ sung Luật Đất đai năm (1998, 2001).
- Nghị định số 139/2004-NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2004 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng
và quản lý lâm sản [6].

- Nghị định 48/2002/NĐ-CP [5] của Chính phủ sửa đổi, bổ sung danh
mục thực vật, động vật hoang dã quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số
18/HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ) quy định
danh mục thực vật, động vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ.
- Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 01 năm 2001 về việc ban
hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất là rừng
tự nhiên [8].
Song song với việc ban hành các văn bản pháp quy trên, ngành lâm nghiệp
nước ta cũng tham gia nhiều hoạt động hướng tới QLRBV như:
- Hưởng ứng phong trào Quốc tế “Rừng vì con người”, tháng 6/1997 Bộ
NN&PTNT đã ký cam kết bảo tồn ít nhất 10% diện tích rừng gồm các hệ sinh thái
rừng hiện có và cùng cộng động đồng Quốc tế, Việt Nam sẽ tham gia thị trường lâm
sản bằng các sản phẩm được dán nhãn là khai thác hợp pháp trong các khu rừng đã
được cấp chứng chỉ trong khối AFTA và WTO [5].


×