Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Đề tài“Vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong việc xây dựng phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Đắk Nông”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.11 KB, 30 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông dân, nông thôn (NN,ND,NT) có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,HĐH), xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH),
bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng. Nông nghiệp,
nông dân và nông thôn được quan tâm đúng mức sẽ tạo ra động lực mới để đưa
kinh tế nông thôn phát triển lên một giai đoạn cao hơn và hướng tới một nền nông
nghiệp bền vững, tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt các vấn đề chính trị - xã hội
của đất nước, đưa nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta tiến lên văn minh
hiện đại. Qua các kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò của
nông nghiệp nông dân, nông thôn. Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng,
Nhà nước về lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chính phủ đã
thể chế hóa thành cơ chế, chính sách và được đưa vào thực tiễn. Các địa phương
cũng đã tích cực triển khai thực hiện, bước đầu đã thu được một số kết quả rất tích
cực. Sau hơn 25 năm đổi mới, nước ta đã có những tiến bộ vượt bậc, người nông
dân đã biết ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, biết sử dụng các loại cây,
con giống phù hợp và sản xuất nhiều mặt hàng nông sản có chất lượng cao, có khả
năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, mục tiêu giữ vững an ninh lương thực quốc gia, xây dựng nông
thôn mới, thu dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Tại tỉnh Đắk Nông trong những năm qua, đã tạo điều kiện thuận lợi để các
địa phương chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sử
dụng các loại cây con giống mới, đưa các biện pháp canh tác mới vào sản xuất
nhằm đầu tư thâm canh theo chiều sâu cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Từ đó đã
xuất hiện nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả cao, góp phần làm cho
nông nghiệp của tỉnh từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá, gắn với thị
trường, giúp cho các địa phương trong tỉnh thực hiện hiệu quả các chính sách về
xóa đói, giảm nghèo thu hút sự tham gia tích cực của người dân. Việc đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn cũng được quan tâm, chú
trọng. Nhờ đó, đời sống các hộ nông dân không ngừng được cải thiện cả về vật


chất lẫn tinh thần.


Tuy nhiên, thực tế ở khu vực nông thôn của tỉnh Đăk nông còn nhiều bất
cập, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống. Theo
Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới được ban hành kèm theo Quyết định
491/2009 của Thủ tướng Chính phủ gồm 5 nhóm nội dung với 19 tiêu chí, thì đến
nay đã có 13/61 xã của tỉnh đạt trên 15 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới, số xã
đạt từ 9 – 15 xã là 37 xã.
Đối với lĩnh vực Nông nghiệp, mặc dù trong thời gian qua tốc độ tăng
trưởng của ngành ở tỉnh Đắk Nông khá cao, nhưng sự tăng trưởng trong trồng
trọt, chăn nuôi và thủy sản chủ yếu theo số lượng về diện tích, sản lượng; hiệu quả
sản xuất vẫn còn thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, kém sức cạnh tranh trên thị
trường. Để khắc phục tình trạng đó tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Đăk Nông lần thứ X,
giai đoạn (2010 – 2015) đã đề ra nhiệm vụ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân,
nông thôn là tích cực phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền
vững gắn với việc xây dựng nông thôn mới, cải thiện đời sống dân cư nông thôn.
Đồng thời chăm lo giải quyết tốt các vấn đề bức xúc về đất sản xuất, đất ở, đời
sống và thu nhập của bộ phận dân cư nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng biên giới.
Xuất phát từ thực tế trên, với vốn kiến thức đã được truyền thụ, tôi chọn đề
tài: “Vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong việc xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đắk Nông” làm Tiểu luận. 2. Mục đích và ý nghĩa
2. Mục đích và ý nghĩa
2.1. Mục đích: Mục đích của đề tài nhằm giá đúng thực trạng về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời gian qua tại tỉnh Đắk Nông. Trên sơ sở đó
tìm ra các giải pháp cụ thể, phù hợp nhằm đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn của tỉnh trên cơ sở phát triển bền vững đến năm 2020.
2.2. Ý nghĩa:
- Hệ thống lại các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về quản lý

và khai thác nền nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở tỉnh Đăk Nông.
- Đánh giá thực trạng nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên trong lĩnh vực nông nghiêp, nông dân, nông thôn.
- Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp về quản lý và sử dụng để đạt hiệu
quả trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông nói chung.


3. Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu
duy vật biên chứng kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, xử lý và so sánh
đối chúng số liệu thông kê.
4. Kết cấu của Tiểu luận: Tiểu luận qồm có 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về nghiệp nghiệp, nông dân, nông thôn.
Chương 2: Thực trạng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đăk Nông.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển nền nông nghiệp, nông dân,
nông thôn bền vững ở tỉnh Đăk Nông.
Kết luận, kiến nghị
Để thực hiện Tiểu luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn tận tình của các giảng viên Khoa Kinh tế chính trị, Học viện Chính
trị khu vực III; Tỉnh ủy Đăk Nông, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hội
nông dân tỉnh Đắk Nông. Trong khi thực hiện Tiểu luận chắc chắn không tránh
khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân
thành của quý thầy cô giáo, độc giả, đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÔNG NGHIỆP
NÔNG DÂN, NÔNG THÔN
1.1. Vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với nền kinh tế

quốc dân
1.1.1. Những vấn đề chung về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Nông nghiệp, là lĩnh vực sản xuất của cải vật chất đầu tiên, là một trong
những hoạt động vật chất quan trọng của xã hội loài người qua các giai đoạn phát
triển khác nhau của lịch sử. Nông nghiệp được hiểu theo cả nghĩa hẹp và nghĩa
rộng. Với nghĩa hẹp, sản xuất nông nghiệp bao gồm ngành trồng trọt và ngành
chăn nuôi. Theo nghĩa rộng, nông nghiệp là một ngành kinh tế sinh học, bao gồm:
nông - lâm - ngư nghiệp, là một bộ phận cơ cấu kinh tế ngành, hợp thành “bộ
xương” của nền kinh tế quốc dân.
Đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp, là năng suất, sản lượng cây
trồng, con vật nuôi phần lớn phụ thuộc vào những điều kiện tự nhiên như: thổ
nhưỡng, thời tiết, khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ mặt trời… Vì vậy, con người
phải biết dựa vào các quy luật tự nhiên, quy luật sinh trưởng của cây trồng, con
vật nuôi để tạo ra nguồn lương thực, thực phẩm nuôi sống bản thân mình và xã
hội.
Nông dân, là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất
nông nghiệp, nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành
nghề mà tư liệu qan xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử,
người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai
cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội.
Nông thôn, theo định nghĩa của Từ điển bách khoa Việt Nam: nông thôn là
phần lãnh thổ của một nước hay một đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị,
có môi trường sống tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế, xã hội, điều kiện sống khác biệt
với thành thị và dân cư chủ yếu làm nghề nông.


1.1.2. Vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với nền kinh tế
quốc dân
Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn
giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống của xã hội. Điều đó được thể hiện

ở một số điểm sau:
Một là; nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nơi cung cấp lương thực,
thực phẩm và hàng hoá tiêu dùng thông thường cho toàn xã hội.
Lương thực, thực phẩm là nguồn thức ăn hàng ngày không thể thiếu được
đối với con người. Trong cuộc sống, con người và xã hội có thể thiếu nhiều sản
phẩm hàng hóa nhưng không thể thiếu được lương thực, thực phẩm. Một khi sản
xuất nông nghiệp bị đình trệ, khan hiếm về lương thực, thực phẩm, nạn đói ăn xảy
ra là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự rối loạn, bất ổn định về
chính trị - xã hội. Do đó, duy trì sự tăng trưởng ổn định, bền vững của sản xuất
nông nghiệp là nhiệm vụ thường xuyên và hàng đầu của mọi quốc gia trên thế
giới.
Cùng với việc đảm bảo cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm cho toàn xã
hội, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, nông thôn còn cung cấp một phần quan
trọng hàng hoá tiêu dùng thiết yếu cho xã hội và tạo ra nguồn hàng hoá xuất khẩu
thu hút ngoại tệ cho đất nước.
Hai là; nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nơi cung cấp nguồn nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn không những đảm bảo việc cung cấp
lương thực, thực phẩm cho toàn bộ các hoạt động phi nông nghiệp mà còn cung
cấp nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở khu vực đô thị, cho
các ngành công nghiệp nhẹ, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản. Quy mô và tốc độ phát triển của các ngành công nghiệp luôn phụ thuộc
vào quy mô và tốc độ tăng trưởng, khả năng cung ứng nguồn nguyên liệu của
ngành nông nghiệp.
Ba là; nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nơi tích luỹ vốn ban đầu cho
công nghiệp hoá và nguồn lao động cho các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Đối với nước ta, nguồn vốn tích luỹ cho CNH,HĐH một phần cũng phải
được tạo ra từ NN,NT. Thông qua việc khai thác các tiềm năng, lợi thế để đẩy
mạnh phát triển toàn diện kinh tế NN,NT , đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu



nông sản hàng hoá, hàng thủ công mỹ nghệ để thu ngoại tệ nhằm tạo ra nguồn
vốn tích luỹ cho CNH,HĐH đất nước.
Cùng với quá trình công nghiệp hoá là việc tiến hành cơ giới hoá và ứng
dụng tiến bộ mới của khoa học - công nghệ vào lĩnh vực sản xuất, không những
tạo ra năng suất lao động cao mà còn giải phóng phần lớn lực lượng lao động
nông nghiệp, nông, dân, nông thôn. Lực lượng lao động đó là điều kiện để tổ chức
lại sản xuất, phân công lại lao động, phát triển thêm các ngành nghề, các loại hình
dịch vụ trên địa bàn nông thôn mà còn bổ sung lực lượng lao động cho các ngành
công nghiệp, dịch vụ và khu vực đô thị.
Bốn là; nông nghiệp, nông dân, nông thôn là thị trường quan trọng của các
ngành công nghiệp và dịch vụ.
Nước ta là một nước dân số đông, có hơn 75% dân số cư trú ở nông thôn,
nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu cho tiêu
dùng cá nhân là rất lớn, đó là thị trường rộng lớn và lý tưởng cho các ngành công
nghiệp và dịch vụ. Kinh tế NN,NT càng phát triển, nhu cầu về tư liệu sản xuất,
các tư liệu sinh hoạt sẽ gia tăng, đó là môi trường, là điều kiện thuận lợi cho sự
tăng trưởng của các ngành công nghiệp, dịch vụ. Khi các nhu cầu được đáp ứng,
sản xuất phát triển, thu nhập và mức sống của cư dân ở nông thôn được nâng cao,
đến lượt nó, kinh tế NN,NT tác động trở lại đối với các ngành công nghiệp và
dịch vụ theo hướng kích cung
Năm là; đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn là điều kiện
góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Vấn đề kinh tế – xã hội rộng lớn và nhạy cảm, liên quan đến ba vấn đề lớn:
nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Nếu giải quyết hài hoà, đồng bộ ba vấn đề
đó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn là cơ sở, là điều kiện
quan trọng để giữ vững sự ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi
quốc gia. Kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và thế giới, đặc biệt là sự khủng
hoảng về lương thực của những tháng đầu năm 2008 vừa qua đã nói lên điều đó.

1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông dân, nông thôn
1.2.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
- Công nghiệp hoá nông nghiệp, là một bộ phận của công nghiệp hoá nông
thôn. Nội dung chủ yếu là cơ giới hoá nông nghiệp, ứng dụng các phương pháp
sản xuất theo kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công


nghiệp vào các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, công nghiệp hoá
nông nghiệp còn bao gồm cả việc tạo ra sự gắn bó, kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất
nông nghiệp với sản xuất công nghiệp trên địa bàn nông thôn nhằm khai thác một
cách có hiệu quả các tiềm năng lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng giá
trị và năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá kể cả thị trường nội địa và thị
trường thế giới.
- Hiện đại hoá nông nghiệp, là quá trình không ngừng nâng cao trình độ
khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp.
Hiện đại hoá trong sản xuất, chế biến phải gắn liền với hiện đại hoá khâu xử lý
chất thải công nghiệp chế biến, hoá chất độc hại, chống ô nhiễm môi trường trong
sản xuất nông nghiệp và nông thôn.
Như vậy, về thực chất, CNH,HĐH NN,NT là quá trình chuyển nền nông
nghiệp truyền thống thành nền nông nghiệp hiện đại và phát triển bền vững. Đó
chính là quá trình hiện đại hoá các biện pháp sản xuất nông nghiệp, công nghệ sản
xuất, quản lý sản xuất kinh doanh và lực lượng lao động ngành nông nghiệp. Với
quá trình đó, góp phần làm thay đổi căn bản tính chất, phương thức sản xuất, cơ
cấu sản xuất, hình thức tổ chức quản lý của nền sản xuất nông nghiệp tự cung, tự
cấp dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên với kỹ thuật thủ công sang một nền nông
nghiệp sản xuất hàng hoá lớn với kỹ thuật, công nghệ tiến tiến, hiện đại.
1.2.2. Nền nông nghiệp bền vững để tiến lên Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
Hiện đại hoá nông thôn là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học - kỹ
thuật - công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn; cải thiện và hoàn thiện tổ

chức sản xuất ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất với trình độ ngày càng cao,
bền vững, cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ. Hiện đại hoá nông thôn không
chỉ công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ và tổ chức sản xuất
vật chất ở nông thôn, mà còn bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống
văn hoá - tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, hệ thống giáo dục,
đào tạo, y tế và các dịch vụ phục vụ sản xuất đời sống khác ở nông thôn.
Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông
thôn. Hiện đại hoá không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong
quá trình phát triển, cũng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ thiết bị, công nghệ
tiên tiến và hiện đại vào nông thôn trong cùng một lúc, mà là trên cơ sở tận dụng,
cải tiến, hoàn thiện, theo hướng kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ


hiện đại, từ đó từng bước nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, tổ
chức, quản lý sản xuất và đời sống ở nông thôn ngang tầm với sản xuất công
nghiệp và văn minh đô thị.
Nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển lại không
trải qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa, khởi đầu quá trình
CNH,HĐH bằng công nghiệp hoá nông thôn là cần thiết, đem lại hiệu quả thiết
thực về kinh tế- xã hội.
1.3. Quan điểm của Đảng đối với nông nghiệp, nông thôn trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Vấn đề kinh tế NN,NT trong quá trình công nghiệp hoá đất nước luôn được
Đảng ta quan tâm đến. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan
khác nhau vào cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX nền kinh tế của
nước ta nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng lâm vào tình trạng sa sút, khủng
hoảng. Đứng trước thực trạng đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nhận định, phân
tích, đánh giá tình hình, từ đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Có thể nói, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, thì nông nghiệp là ngành thực hiện đầu tiên, và cũng là ngành đạt được

những thành tựu to lớn nhất nhờ đổi mới. Mốc đánh dấu đổi mới thật sự đó là
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (khoá VI) tháng 4-1988 về “đổi mới quản lý kinh
tế trong nông nghiệp”. Khoán theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ chính trị là
một bước tiến cao, tạo sự đột phá quan trọng đối với sự phát triển kinh tế NN,NT
nước ta.
Đến Đại hội lần thứ VII, Đảng ta xác định: “Phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp gắn với chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông
thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội”.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, năm 1993, Hội nghị Trung ương lần thứ năm
(khoá VII) ra Nghị quyết về “tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông
thôn”, trong đó khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế
ở NT được pháp luật thừa nhận quyền sử dụng đất dài hạn; quyền vay vốn tín
dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất; quyền tự do lưu
thông tiêu thụ sản phẩm. Đây là những vấn đề cơ bản, mấu chốt cho việc chuyển
nền NN nước ta chuyển sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII nhận định: “nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã


cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” và xác định: “đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn...”. Nhằm thực hiện chủ trương đó, ngày 10 tháng 11 năm 1998, Bộ
chính trị đã ra Nghị quyết số 06-NQ/TW: “Về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và
nông thôn”.
Đại hội lần thứ IX của Đảng, đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần thứ 5
(khoá IX) đã ra nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 18 tháng 3 năm 2002: “Về đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010”.
Nghị quyết đã nêu nội dung tổng quát và nêu năm quan điểm chỉ đạo quá trình
CNH,HĐH NN,NT.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã chủ trương đẩy mạnh CNH,HĐH NN,NT

theo hướng gắn liền với kinh tế tri thức, giải quyết đồng bộ các vấn đề NN,NT và
nông dân.
Về nông nghiệp, Cần chuyển dịch mạnh cơ cấu sản xuất NN và kinh tế NT
theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, trên cơ sở tăng cường các hoạt
động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y, bảo vệ thực vật và
các dịch vụ kỹ thuật khác ở NT. Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học, công
nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất NN; chú trọng khâu giống, kỹ thuật
canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến, gắn với
công nghiệp chế biến và thị trường.
Về nông dân, cần chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước
hết ở các vùng sử dụng đất NN để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao
thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở NT theo hướng giảm nhanh
tỷ trọng lao động làm NN, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ, tạo điều
kiện để lao động NT có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả lao động ở
nước ngoài.
Về nông thôn, Đảng ta chủ trương xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc
sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh dựa trên cơ sở phát huy dân chủ ở
NT, đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ
nạn xã hội, hủ tục, mê tín, dị đoan; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; chú
trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân; đầu tư mạnh hơn cho các
chương trình xoá đói, giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.


- Khuyến khích việc tăng cường liên kết giữa các hộ sản xuất nông-lâmngư-diêm dân với các cơ sở công nghiệp chế biến theo mô hình “4 nhà” (nhà sản
xuất, nhà chế biến, nhà kinh doanh và nhà khoa học); khuyến khích phát triển
mạnh các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nông thôn, dạy nghề cho nông
dân…
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa X) đã ban hành
Nghị quyết số 26-NQ/TW "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn".

Sau khi đánh giá khách quan về thành tựu và hạn chế, yếu kém của nông
nghiệp, nông dân, nông thôn sau hơn 25 năm đổi mới, Nghị quyết nêu rõ những
nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến sự hạn chế, yếu kém, trong đó nhấn
mạnh nguyên nhân chủ quan là chính, từ đó nêu quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát
vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong những năm tới.
Về quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết nhấn mạnh: “nông nghiệp, nông dân,
nông thôn có vị trí quan trọng trong sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ
gắn với quá trình CNH,HĐH đất nước; phát triển nông nghiệp và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng vùng, từng lĩnh vực; giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân và nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội; trước hết phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên
của nông dân”
Về mục tiêu tổng quát, Nghị quyết xác định: “không ngừng nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của cư dân nông thôn; xây dựng một nền nông nghiệp phát
triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững; xây dựng nông thôn mới có kết cấu
hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân-nông dân-trí
thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế-xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.
Từ quan điểm chỉ đạo và mục tiêu tổng quát, Nghị quyết đã nêu bảy nhiệm
vụ và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết tốt và đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn trong những năm tới.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “Khai
thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn


với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản

lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống nông
dân, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia….” (Nxb. CTQG-ST,
H.2011, tr.113-114)
1.4. Sự cần thiết của phát triển bền vững để tiến lên công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là con đường chủ yếu để
đưa NN,NT nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng nông thôn
mới theo hướng văn minh, hiện đại.
Từ một nước nông nghiệp, hơn 70% dân cư sống ở nông thôn, lao động
nông nghiệp chiếm hơn 60% lực lượng lao động xã hội, Đảng ta không những xác
định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, mà còn nhấn mạnh “phải đặc biệt coi trọng CNH,HĐH NN,NT”.
Nhờ có quan điểm, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước, qua hơn 25 năm đổi mới, kinh tế NN,NT nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng và khá toàn diện. Từ chỗ là một nước thiếu lương thực thường
xuyên, không những đã giải quyết cơ bản vấn đề ăn cho xã hội, đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, Việt Nam còn trở thành nước xuất khẩu gạo đứng vị trí nhất
nhì trên thế giới. Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, đa dạng hơn, phần lớn
đất trống đồi núi trọc đã được phủ xanh lại dần, diện tích đất hoang, mặt nước
được đưa vào khai thác sử dụng có hiệu quả; cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, tỷ trọng của nông nghiệp giảm, tỷ trọng của lâm nghiệp, ngư
nghiệp tăng dần trong cơ cấu GDP của sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, kinh tế NN,NT nước ta
còn nhiều hạn chế, yếu kém:
Cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho phát triển KT - XH ở nông thôn tuy
được tăng cường đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo nhưng nhìn chung vẫn
chưa đồng bộ và chưa hiện đại, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của sản xuất, lưu
thông hàng hoá và đời sống của cư dân nông thôn.
Việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ
sinh học vào sản xuất NN tuy đã được chú ý nhưng còn hạn chế. Năng suất, sản

lượng, cây trồng, vật nuôi trên một đơn vị diện tích canh tác còn thấp; chi phí sản
xuất cao, chất lượng nông sản hàng hoá thấp; sản xuất chưa gắn kết với công nghiệp
chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghệ lạc hậu dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp, sức


cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế, kể cả thị trường nội địa. Đây là khó khăn, trở
ngại lớn đối với sản xuất nông nghiệp.
Chính vì lẽ đó mà Đảng ta đặt nhiệm vụ CNH,HĐH NN,NT lên hàng đầu
trong những năm trước mắt là vừa hợp với quy luật, vừa hợp với yêu cầu của thực
tiễn nền kinh tế. Thực tế là, nhiều nước đã đạt được trình độ nước phát triển cũng
đều là những nước tiến hành CNH,HĐH khởi đầu từ nông nghiệp. Chính từ
những cải cách trong chính sách ruộng đất, tín dụng, thị trường nông thôn... đã
cho phép những nước đó thúc đẩy việc tập trung ruộng đất, tạo ra một khối lượng
thặng dư nông nghiệp lớn, rút dần lao động ra khỏi nông nghiệp, tạo được sự kích
thích lợi ích đối với nông dân trong phát triển nông nghiệp hàng hóa. Quá trình
chuyển biến này hướng vào việc phát triển một nền NN đa dạng, bền vững.
Chương 2
THỰC TRẠNG CỦANÔNG NGHIỆP, NÔNGN DÂN ,NÔNG THÔN
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐĂK
NÔNG
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đăk Nông
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đắk Nông là tỉnh có vị trí địa lý ở tây nam của vùng Tây Nguyên, có diện
tích tự nhiên 6.515,6 km², độ cao trung bình từ 500 – 700m so với mặt nước biển;
phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Đắk Lăk, phía đông và đông nam giáp tỉnh Lâm
Đông, phía nam giáp tỉnh Bình Phước, phía tây giáp với tỉnh Mondulkiri
(Campuchia) với đường biên giới có chiều dài 125 km. Địa hình núi cao chiếm
35% diện tích tự nhiên, tập trung ở phía Đông nam tỉnh, có núi Tà Đùng cao
1.982m so với mực nước biển. Địa hình cao nguyên thấp từ đông sang tây. Phần
diện tích còn lại là vùng thấp, bao gồm những bình nguyên ở phía Bắc tỉnh.

Với diện tích tự nhiên tương đối rộng, trong đó diện tích đất nông nghiệp
chiếm 47% diện tích; hệ thống ao, hồ, sông, suối đa dạng và rộng lớn như Hồ Tây
ở huyện Đắk Mil, Hồ Đắk Mâm ở huyện Krông Nô.... tổng diện tích mặt nước
trên 30.000 ha, tỉnh Đăk Nông có các điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các
loại cây trồng có giá trị kinh tế và xuất khẩu như: cà phê, cao su, hồ tiêu… cho
năng suất cao và chất lượng tốt, phù hợp cho công nghiệp chế biến, cũng như phát
triển ngành nuôi trồng thuỷ sản quy mô lớn.


Đăk Nông có nhiều mạng giao thông nối liền tỉnh với các tỉnh khác trong
vùng Tây Nguyên và các tỉnh Nam bộ. Chạy xuyên suốt tỉnh theo chiều dài từ Bắc
xuống Nam, đông sang tây... Những mạng giao thông liên vùng đó là điều kiện
thuận lợi cho Đăk Nông mở rộng giao lưu với các tỉnh trong vùng.
Mặt khác, Đăk Nông là địa phương có vị trí chiến lược về KT - XH, an
ninh quốc phòng của khu vực Tây nguyên. Địa hình phức tạp và đa dạng cùng
với sự khác biệt về khí hậu tạo ra ở Đăk Nông có nhiều vùng sinh thái khác nhau,
điều kiện để đa dạng hóa nông nghiệp và lâm nghiệp, song cũng đặt ra nhiều vấn
đề trong khai thác tài nguyên tự nhiên cần chú ý các hiện tượng như xói mòn đất,
rửa trôi...
Về khí hậu cảu tỉnh Đăk Nông vừa mang tính chất khí hậu cao nguyên
nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Khí hậu có hai
mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10,
tập trung 90% lượng mưa hàng năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau,
lượng mưa không đáng kể.
- Nhóm đất đỏ bazan có diện tích 120,9 nghìn ha chiếm 24,5% diện tích tự
nhiên, phân bố tập trung tại các khối bazan ở các huyện Đắk Mil, Đắk Song và rải
rác ở một số huyện.
- Nhóm đất xám có diện tích 225,1 nghìn ha chiếm 21,2% diện tích tự
nhiên, phân bố hầu hết ở các huyện.
- Nhóm đất nâu có diện tích 98.04 ha chiếm 13,7% diện tích tự nhiên.

Ngoài ra còn có các nhóm đất như đất nâu thẫm, đất có tầng sét chặt, đất
xói mòn trơ sỏi đá, đất nứt nẻ.
Về tài nguyên rừng: Thảm thực vật và đa dạng sinh học với nhiều kiểu
rừng, có nhiều loại gỗ, cây dược liệu trong đó có một số loại gỗ quý như Cẩm Lai,
Trắc, Lim, Hương, Cà te...ngoài ra còn nhiều loại lâm thổ sản khác, nhiều loại
động vật quý hiếm được ghi vào sách đỏ của nước ta.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Đăk Nông
2.1.2.1. Đặc điểm chung
Toàn tỉnh Đắk Nông có dân số là 553.200 người. Trong đó, dân số đô thị
chiếm 21,5%, còn lại chủ yếu là dân số nông thôn chiếm 76,5% dân số (Theo số
liệu tổng điều tra dân số ngày 10/9/2013) Cộng đồng dân cư Đắk Nông gồm 45
dân tộc. Trong đó, người Kinh chiếm trên 70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê,
M'nông, Thái, Tày, Nùng... chiếm gần 40% dân số toàn tỉnh. Mật độ dân số trung


bình toàn tỉnh là 127 người/km2, nhưng phân bố không đều trên địa bàn các
huyện, tập trung chủ yếu ở thị xã, thị trấn huyện lỵ, ven các trục quốc lộ 14 chạy
qua …
2.1.2.2. Đặc điểm về kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh luôn đạt ở mức khá, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Về tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong nhiệm kỳ 2008-2013 đạt
12,13%. Trong đó, công nghiệp - xây dựng tăng 17,41%; thương mại - dịch vụ
tăng 17,49%; nông - lâm - ngư nghiệp tăng 7,19%. Quy mô nền kinh tế tăng
mạnh, năm 2013 tổng GDP ước đạt 1.810 tỷ đồng, gấp 1,7 lần so năm 2004; bình
quân thu nhập đầu người tính theo giá hiện hành đạt 17,2 triệu đồng/người, theo
giá so sánh 2004 là 9,7 triệu đồng/người tương đương 925,4 USD.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp,
tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Đến nay, nông - lâm nghiệp

chiếm 47%, công nghiệp - xây dựng 17,3%, dịch vụ 35,7%.
Nền nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tập trung chuyên canh, quy mô
lớn. Tốc độ tăng trưởng bình quân 6,1%/năm, hầu hết sản phẩm nông nghiệp
mang tính hàng hóa có giá trị kinh tế cao góp phần CNH,HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa phát triển, cơ cấu cây trồng, vật
nuôi chuyển đổi đa dạng thích ứng với nhu cầu của thị trường. Diện tích, năng
suất và sản lượng cây trồng tăng nhanh, giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích
đạt khoảng 24,1 triệu đồng/ha. Chăn nuôi phát triển khá, giá trị tăng bình quân 5
năm vừa qua là 22,6%.
Từng bước xã hội hóa nghề rừng và cùng với việc đổi mới cơ chế khoán,
giao đất, giao rừng, phát triển lâm nghiệp cộng đồng, tăng mức hỗ trợ trong lâm
nghiệp đã thu hút các nguồn vốn cho phát triển rừng - nhất là phát triển trồng rừng
và kinh doanh nông - lâm - dịch vụ kết hợp. Trong 5 năm qua đã trồng được
11.100 ha rừng tập trung và hơn 1,5 triệu cây phân tán, góp phần nâng độ che phủ
rừng lên 60%, tăng 4,9% so với năm 2004.


Việc quản lý tài nguyên và môi trường có chất lượng và hiệu quả: Khai
thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên rừng ngày càng
hiệu quả hơn. Các vấn đề về môi trường và phát triển bền vững được các cấp ủy,
chính quyền và nhân dân nhận thức đúng đắn hơn. Quản lý và bảo vệ môi trường
đã có chuyển biến tích cực, bước đầu hạn chế ô nhiễm, phục hồi và cải thiện môi
trường.
Kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư, đến nay đã cơ bản nhựa hóa mặt
đường và cầu vĩnh cửu các tuyến quốc lộ, các đoạn đường qua thị trấn được mở
rộng. Nâng cấp, nhựa hóa đường tỉnh lộ được 65,4%, đường huyện 57%, đường
xã 28%. Về lưới điện, đến nay đã hoàn thành giai đoạn một cấp điện cho 120/127
thôn, buôn và kéo điện sinh hoạt cho 7.870 hộ đồng bào dân tộc thiểu số, 94% số
hộ được dùng điện, 100% số xã có lưới điện quốc gia. Thủy lợi đã đảm bảo tưới
cho 70% diện tích cây trồng có nhu cầu tưới vào mùa khô.

2.1.2.3. Đặc điểm về văn hóa – xã hội
Công tác giáo dục – đào tạo có nhiều chuyển biến, ngày càng thực chất
hơn. Tỷ lệ trẻ em đi mẫu giáo, học sinh tiểu học, học sinh dân tộc thiểu số tăng
khá, các huyện, thị xã, đều có trường dân tộc nội trú, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn là
97,32%. Tỉnh đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở;
trường lớp được xây dựng khang trang; đào tạo nghề tăng nhanh về số lượng,
nâng cao về chất lượng, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 26,7% năm 2004
lên 38% năm 2013. Xã hội hóa đào tạo nghề được đẩy mạnh, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương. Nghiên cứu và ứng dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được chú trọng, nâng cao chất lượng
và giá trị sản phẩm hàng hóa, việc ứng dụng tiến bộ về khoa học - kỹ thuật để
nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi bước đầu triển khai có hiệu
quả; công nghệ sản xuất phục vụ chế biến nông - lâm sản phát triển khá; ứng dụng
công nghệ thông tin trong quản lý của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các ngành
đã góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Mạng lưới y tế từ
tỉnh đến cơ sở được quan tâm củng cố. Các chương trình y tế quốc gia, chính sách
y tế cho người nghèo được thực hiện đạt kết quả tốt.


Về văn hóa - thể thao có những bước phát triển mới. Cuộc vận động toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, cơ quan, đơn vị đạt kết quả
khá, đã có 72% số hộ, 46% thôn buôn, tổ dân phố, 57% cơ quan đạt tiêu chuẩn
văn hóa. Mức hưởng thụ văn hóa ở cơ sở ngày càng được nâng lên. Hoạt động
văn hóa, nghệ thuật không ngừng được củng cố, nâng cao chất lượng về nội dung
và hình thức, đặc biệt là việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, không
gian văn hóa cồng chiêng...
Về lao động, việc làm, chính sách dân tộc và một số vấn đề về xã hội có
nhiều chuyển biến tích cực. Bằng các biện pháp phát triển sản xuất, cho vay vốn,
đưa lao động làm việc ngoài tỉnh và xuất khẩu đạt kết quả khá. Trong 5 năm đã giải

quyết việc làm cho hơn 7,4 vạn lao động; tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn
xuống còn 7,5% (NQ 8%); tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn 2,9%; tỷ lệ hộ nghèo
còn 10%. Các chính sách về kinh tế - xã hội đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số
được thực hiện đồng bộ và phát huy hiệu quả, đặc biệt đã hoàn thành Chương trình
132, 134. Phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” tạo được sự
quan tâm và hưởng ứng của toàn xã hội.
Nhận xét chung về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đăk Nông:
Thuận lợi: Là một trong năm tỉnh Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan
trọng trong phát triển KT - XH, quốc phòng, an ninh không chỉ đối với Tây
Nguyên mà còn đối với cả nước; có hành lang tự nhiên với Đông Bắc Campuchia
và hệ thống giao thông kết nối với các tỉnh Đông Nam Bộ; các cửa khẩu quốc tế
trên tuyến hành lang Đông - Tây như Đắk Per (Đắk Mil), Bup’rang (Tuy Đức),
tạo điều kiện thuận lợi để Đăk Nông phát triển KT - XH.
Về cơ sở hạ tầng: Đăk nông có hệ thống giao thông thuận lợi về đường bộ
nối với các tỉnh thành khác trong cả nước. Hệ thống giao thông liên tỉnh đều được
nhựa hóa, có dịch vụ vận tải đến tận các buôn làng; Hệ thống điện, nước, đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt của người dân và sản xuất của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, với
nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú như bôxit, đá quý ô ban, sét cao lanh, sét
gạch, vàng, than bùn, đá ốp lát, cát xây dựng đã góp phần thu hút các nhà đầu tư
trong và ngoài nước.


Về thương mại, sản phẩm xuất khẩu: Đắk Nông có thuận lợi cho việc giao
lưu hàng hoá. Bên cạnh các sản phẩm chủ lực như Cà phê, cao su, điều, hồ tiêu …
Với diện tích rừng và trữ lượng gỗ lớn, với nhiều loại động thực vật phong
phú, đa dạng. Đặc biệt là nơi bảo vệ các loài động vật quý hiếm ở nước ta, Đắk
Nông còn có những cảnh đẹp và di tích văn hóa, lịch sử lâu đời mà những địa
phương khác không thể có được như: thác Đray sáp, Thác Trinh nữ….
Hiện nay, có 43 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn tỉnh như Kinh, Êđê,
M’nông, Nùng, tày, thái… đã làm nên nét đặc trưng, tạo tiềm năng lớn về phát

triển kinh tế du lịch tại Đắk Nông.
Việc triển khai thành công các dự án, chương trình, kế hoạch an sinh xã hội
trong những năm qua đã giúp cho đời sống của người dân ngày càng khởi sắc; lực
lượng lao động ngày càng trẻ hóa, có trình độ cao ngày càng nhiều. Đây có thể coi
là một điều kiện vô cùng thuận lợi để Đắk Nông thực hiện thành công mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khó khăn: Đắk Nông là địa bàn mà các thế lực thù địch và bọn phản động
tập trung chống phá quyết liệt với các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”,
triệt để lợi dụng các vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo để chống phá, mà một
trong những đối tượng chính để lôi kéo, thu hút là thanh thiếu nhi và đồng bào
dân tộc thiểu số tại các buôn vùng xa của tỉnh.
Diện tích tự nhiên rộng, khí hậu, thời tiết trong những năm gần đây luôn
biến đổi, diễn biến không thuận lợi, KT-XH của nhiều địa phương vẫn còn khó
khăn, đã ảnh hưởng không nhỏ đến triển khai, thực hiện các dự án phát triển.
Những thuận lợi và khó khăn trên đòi hỏi Đắk Nông phải có một chiến lược
với những giải pháp cụ thể nhằm phát huy những thế mạnh và khắc phục những khó
khăn, hạn chế đã và đang làm ảnh hưởng đến sự phát triển KT - XH.
2.2. Thực trạng của Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong việc phát
triển kinh tế - xã hội một cách bền vững để tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Đăk nông trong những năm tới
2.2.1. Những thành quả đã đạt được
2.2.1.1. Kết quả thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nông nghiệp


Qua 5 năm qua, nền kinh tế của tỉnh có những bước chuyển biến tích cực.
Thực hiện các chương trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp và thủy sản tập trung vào việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Năm 2013, tổng sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn (theo giá so
sánh 2008) đạt 3.302 tỷ đồng, năm 2008 đạt 3.756 tỷ đồng đến năm 2013 đạt

5.045 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2008 – 2013 đạt 5,1%. Giá trị sản
xuất ngành lâm nghiệp từ 40 tỷ đồng (năm 2008), 54 tỷ đồng (2013) lên 59 tỷ
đồng (2013), tăng bình quân 2,34%.
Qua đó cho thấy nông nghiệp vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong cơ cấu sản
xuất của ngành nông nghiệp tỉnh Đăk Nông.
2.2.1.2. Kết quả thực hiện mục tiêu phát triển trồng trọt
Những năm gần đây ngành nông nghiệp của tỉnh nói chung, ngành trồng
trọt nói riêng gặp nhiều biến động, do ảnh hưởng bất lợi của khí hậu, thời tiết, giá
thị trường nông sản xuống thấp, ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất
của nông dân. Tuy vậy, giá trị sản xuất ngành trồng trọt (theo giá hiện hành) từ
10.048 tỷ đồng (năm 2013), trong cơ cấu sản xuất của ngành trồng trọt cây công
nghiệp vẫn chiếm vai trò chủ đạo, cây lương thực đã có sự chuyển biến tích cực
trong cơ cấu ngành trồng trọt.
2.2.1.3. Kết quả thực hiện mục tiêu phát triển chăn nuôi.
Mặc dù có lợi thế về điều kiện tự nhiên và nguồn nguyên liệu chế biến thức
ăn gia súc, nhưng những năm qua quá trình chuyển đổi cơ cấu của ngành chăn
nuôi còn rất chậm, chưa có sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu của ngành. Giá trị
ngành chăn nuôi năm 2008 đạt 965 tỷ đồng, đến năm 2013 tăng lên 1.005 tỷ đồng,
ước thực hiện 2015 đạt 2.093 tỷ đồng, tăng bình quân 25,82%.
2.2.1.4. Kết quả thực hiện mục tiêu phát triển thủy sản.


Nuôi trồng thủy sản đang được khuyến khích phát triển, tuy giá trị thủy
sản trong sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng không lớn, tuy nhiên giá trị thủy
sản tăng khá từ 75 tỷ đồng (2008), 100 tỷ đồng vào năm 2013, tăng bình quân
10,12%. Điều này chứng tỏ sản xuất nuôi trồng thủy sản đang từng bước phát
triển mạnh.
Diện tích nuôi trồng thủy sản: Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng
đều qua các năm, năm 2008 (3.010ha), đến năm 2013 ước đạt 5.000ha. Diện tích
nuôi cá là chủ yếu nhưng đã đầu tư cho sản xuất, lựa chọn đối tượng nuôi chứ không

nuôi thả tự nhiên như trước. Diện tích nuôi ở ao hồ thủy lợi khá nhiều, một số cơ sở
đã mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất. Nhìn chung nuôi trồng thủy sản ở Đăk Nông
đã mang tính sản xuất hàng hoá.
2.2.1.5. Kết quả thực hiện mục tiêu phát triển lâm nghiệp
Sản phẩm lâm nghiệp chiếm một tỷ trọng không lớn trong GDP của tỉnh.
Nhưng giá trị của khâu trồng và chăm sóc rừng từng bước đã được nâng lên. Điều
này chứng tỏ, chính quyền các cấp của tỉnh cũng như các thành phần kinh tế trong
ngành lâm nghiệp đã chú ý đến việc tạo rừng, dần dần chủ động nguyên liệu cho
ngành chế biến lâm sản, giảm dần sự phụ thuộc vào các sản phẩm của rừng tự
nhiên.
2.2.1.6. Thực hiện mục tiêu phát triển nông thôn mới
Đến nay đã có 61/61 xã đã phê duyệt đề án xây dựng nông thôn mới, 100%
xã đạt tiêu chí quy hoạch và thực hiện quy hoạch, 32/61 xã đạt tiêu chí về thu
nhập; 12/61 xã đạt tiêu chí về hộ nghèo; 46/61 xã đạt tiêu chí về tỷ lệ lao động có
việc làm thường xuyên; 4/61 xã đạt tiêu chí giao thông; 21/61 xã đạt tiêu chí về
điện; 26/61 xã đạt tiêu chí về văn hóa; 25/61 xã đạt tiêu chí về hệ thống chính trị
xã hội; 44/61 đạt tiêu chí về an ninh xã hội,... Riêng xã Đức Minh, huyện Đăk
Mil. tỉnh nhận hỗ trợ, đỡ đầu xây dựng nông thôn mới đã tích cực phối hợp chặt
chẽ với các ban ngành đoàn thể trong tỉnh và chính quyền địa phương, các chức
sắc Thiên Chúa giáo xây dựng được 14 tiêu chí nông thôn mới và tập trung phấn
đấu hoàn thành 19 tiêu chí trước thời hạn.
2.2.1.7. Kết quả thực hiện mục tiêu nâng cao năng lực quản lý ngành
nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Công tác cải cách hành chính trong thời gian qua đã được tăng cường chỉ đạo
nên đạt được những kết quả tích cực; trước hết là trong việc thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước, tham mưu xử lý điều hành, ban hành chính sách nhằm tháo gỡ


các khó khăn, ách tắc trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, huy động các nguồn lực
cho phát triển nông nghiệp. Công tác cải cách hành chính được triển khai đồng bộ và

có kết quả bước đầu khá tốt trên cả 4 lĩnh vực: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ
máy, phát triển nguồn nhân lực và cải cách tài chính công. Trong đó, một số nội dung
được triển khai tích cực và thường xuyên như: mô hình "một cửa" lĩnh vực lâm
nghiệp, đang triển khai tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001-2008 trong công tác hành
chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý điều hành của Sở.
2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở
tỉnh Đăk Nông
2.2.2.1. Một số tồn tại
- Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm. Sản xuất các
cây ăn quả còn phân tán, mang nhiều yếu tố tự phát. Chăn nuôi tuy có phát triển
nhưng chậm, lâm nghiệp chưa đóng góp tương xứng vào sự phát triển kinh tế của
vùng; công nghiệp chế biến nông, lâm sản, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn
chưa tạo ra sự chuyển biến mạnh để tạo việc làm và thu nhập cho nông dân.
Kinh tế nông thôn vẫn còn nặng về nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ chưa
đủ sức thu hút tạo việc làm để thúc đẩy chuyển dịch ở nông thôn, trong nông
nghiệp vẫn nặng về trồng trọt (76%), chăn nuôi mới chỉ chiếm 17% còn dịch vụ
trong nông nghiệp mới chỉ chiếm 3%.
- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi
cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; nhiều nơi còn yếu kém. Phát
triển cơ sở hạ tầng ở nhiều vùng nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống của người dân, nhất là ở các xã nghèo, vùng
đặc biệt khó khăn. Thuỷ lợi được đầu tư lớn, nhưng hiệu quả sử dụng thấp. Mới
phát huy được khoảng 70 – 75% công suất thiết kế của các công trình hiện có.
- Lĩnh vực nông thôn chưa có chuyển biến rõ nét, thu nhập thấp, đời sống
một bộ phận nông dân chậm cải thiện, nhất là ở sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn, chênh. Tuy đời sống của tuyệt đại bộ phận dân cư nông thôn được nâng cao,
vẫn còn một bộ phận nhỏ nông dân còn khó khăn. Chênh lệch về thu nhập và mức
sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng tuy đã được rút ngắn nhưng vẫn
còn lớn.
2.2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại

- Nguyên nhân khách quan: do xuất phát điểm kinh tế ở nông thôn của tỉnh
thấp, trong khi nguồn lực của Nhà nước và nhân dân còn rất hạn hẹp. Quá trình


chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn được thực hiện trong
hoàn cảnh xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp, nhất là khu vực nông thôn. Nông
nghiệp vừa phải lo sản xuất hàng hóa, vừa lo giải quyết vấn đề xã hội, nhiều hộ nông
dân chủ yếu sản xuất cho tiêu dùng của gia đình. Mặt khác, chuyển đổi cơ cấu sản xuất
nông nghiệp phải tuân theo các quy luật sinh học, nhất là các cây lâu năm, đại gia súc
lớn cần phải có thời gian sinh trưởng mới đem lại kết quả.
Do phải hứng chịu nhiều đợt thiên tai bão lũ, hạn hán, sâu bệnh, dịch bệnh
cũng ảnh hưởng không nhỏ đối với sản xuất nông, lâm nghiệp; trong khi đó khả
năng và nguồn lực cho phòng chống khắc phục còn hạn chế.
- Nguyên nhân chủ quan:
Quá trình thực tiễn sản xuất trước yêu cầu cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị
trường và tính đặc thù đối với ngành đối tượng là sinh học, nhưng thiếu nghiên
cứu bổ sung chính sách mới tạo động lực thúc đẩy sản xuất, như chính sách tín
dụng cho vay đầu tư vùng nguyên liệu, nhà máy công nghiệp chế biến, chính sách
hội nhập và xuất khẩu, hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong
nông thôn, nhất là doanh nghiệp vừa, nhỏ.... Mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến công ở cơ sở còn yếu và thiếu cán bộ kỹ thuật để làm tốt công tác chuyển
giao khoa học công nghệ phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất NN, kinh tế NT.
Cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo phục vụ đắc lực cho sản
xuất nông nghiệp hàng hóa và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, nhất là giao thông
và thủy lợi.
Năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ còn nhiều yếu kém trước đòi hỏi
cao của cơ chế kinh tế thị trường ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế.

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN,

NÔNG THÔN BỀN VỮNG Ở TỈNH ĐĂK NÔNG
3.1. Mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đăk Nông
giai đoạn 2015 – 2020
3.1.1. Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020
- Tăng trưởng ngành nông - lâm - ngư nghiệp 5-6%; công nghiệp - xây
dựng 22-23%; Tỷ trọng cơ cấu kinh tế các ngành là, nông - lâm - ngư nghiệp 3235%.


- Thu nhập bình quân đầu người đạt 1.550 - 1.650 USD, khoảng 30 - 33
triệu đồng (giá hiện hành).
Nhà ở: Diện tích nhà ở bình quân đầu người đối với khu vực nông thôn đạt
16 m2 sàn/người, khu vực thành thị đạt 20 m2 sàn/người; giải quyết 55% số sinh
viên, học sinh có nhu cầu được thuê nhà ở tại các dự án nhà ở trên địa bàn tỉnh.
- Nâng độ che phủ của rừng đạt trên 50% diện tích tự nhiên.
- Giải quyết việc làm cho 7 vạn lao động ở nông thôn; nâng tỷ lệ lao động
qua đào tạo lên 50%, đào tạo nghề 40%; giảm tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông
thôn xuống còn 5%; giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới BQ 3%/năm.
- Văn hóa, thể thao. Trên 80% hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa các cấp;
80% xã, phường, thị trấn; 65% thôn buôn, tổ dân phố; 100% cơ quan đạt tiêu
chuẩn văn hóa; 100% thôn buôn, tổ dân phố được quy hoạch đất để xây dựng hội
trường, điểm sinh hoạt văn hóa thể thao.
- Số xã đạt chuẩn quốc gia về nông thôn mới là 35%.
- Quốc phòng - an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh. Tập trung xây dựng
100% xã, phường, thị trấn có tổ dân quân thường trực làm nhiệm vụ sẵn sàn chiến
đấu.
3.1.2. Phương hướng
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đăk Nông lần thứ X, nhiệm kỳ 2010 – 2015 đã xác
định phương hướng về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2015 như sau:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh

đại đoàn kết các dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Tiếp tục đẩy
mạnh toàn diện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ gắn với sản xuất nông nghiệp chất lượng cao,
quy mô lớn và bền vững, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Kết hợp chặt chẽ phát
triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường sinh thái; thực hiện tốt chính sách an
sinh xã hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh, giữ vững trật tự - an toàn xã hội. Xây
dựng Đăk Nông trở thành tỉnh có thu nhập khá và đóng vai trò quan trọng trong
việc phát KT – XH, QP – AN ở Tây Nguyên”.
Thực hiện tốt Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05 tháng 8 năm 2008 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X, về nông nghiệp, nông dân và nông
thôn; Thực hiện Quyết định số 673/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, giao cho
Hội Nông dân tỉnh phối hợp với Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tham


mưu cho UBND tỉnh cụ thể hóa kế hoạch trên để ban hành Kế hoạch số 130/KHUBND, ngày 28/6/2011 về thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội nông thôn, giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 673/QĐ-TTg,
ngày 10/5/2011, về việc Hội Nông dân Việt Nam trực tiếp thực hiện và phối hợp
thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông thôn,
giai đoạn 2011-2020. Cụ thể hóa kết luận 61-KL/TW của Ban chấp hành Trung
ương đảng về các nội dung nêu trên.
3.1.3. Nhiệm vụ chủ yếu
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ gắn
với sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, quy mô lớn, coi nông nghiệp là cơ sở để
phát triển công nghiệp, dịch vụ; Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực;
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có trọng tâm, đồng bộ và theo
quy hoạch. Ưu tiên đầu tư xây dựng nông thôn mới.
Phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, nâng
cao trình độ dân trí. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, cách mạng
và văn hoá đặc trưng của các dân tộc. Quan tâm chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.

Tập trung giảm tỷ lệ hộ nghèo, tạo việc làm và đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt là
vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh, trật tự an
toàn xã hội; tiếp tục xây dựng tỉnh trở thành khu vực phòng thủ vững chắc; tăng
cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây
dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc - nhất là thế trận lòng dân để giữ vững
sự ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển.
Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị - tư tưởng - tổ chức, gắn
với xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện; tiếp tục thực hiện có hiệu
quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức trong
sáng, có kiến thức và năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ.
3.1.4. Mục tiêu và phương hướng của ngành nông nghiệp, nông dân,
nông thôn tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2015 – 2020.
Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X đã xác định,
ngành nông nghiệp,nông dân, nông thôn tỉnh Đăk Nông trong những năm tới cần:
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông dân và nông thôn.


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ gắn
với sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, quy mô lớn, coi nông nghiệp là cơ sở để
phát triển công nghiệp, dịch vụ; chú trọng ứng dụng công nghệ sinh học, đồng
thời đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tích cực. Huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội có trọng tâm, đồng bộ và theo quy hoạch. Ưu tiên đầu tư xây dựng
nông thôn mới”.
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh nông nghiệp, dân, nông nông thôn ở
tỉnh Đăk Nông
3.2.1. Về giải pháp quy hoạch phát triển
Làm tốt công tác quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, lĩnh

vực bảo đảm cho định hướng phát triển lâu dài. Quy hoạch phải mang tính chiến
lược, khoa học, công khai, minh bạch; tranh thủ ý kiến đóng góp rộng rãi của
nhân dân. Coi trọng công tác quản lý và thực hiện quy hoạch; kịp thời điều chỉnh,
bổ sung quy hoạch khi phát triển chưa hợp lý, thiếu khoa học. Phân cấp mạnh hơn
trong công tác lập và quản lý quy hoạch cho cấp dưới.
3.2.2. Đầu tư xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong
sản xuất nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Xã hội hóa quản lý việc xây dựng và khai thác công trình, tránh tình trạng
đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí. Đánh giá kết quả phương thức huy động vốn
đầu tư trong thời gian qua ở các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện, trường học, từ
đó hoàn chỉnh cơ chế huy động phù hợp với thu nhập của người dân và trách
nhiệm đối với cộng đồng.
Mở rộng lưới điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Phấn đấu tất
cả các khu, cụm công nghiệp, đơn vị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp,
dịch vụ có điện.
Quy hoạch và đầu tư xây dựng khu văn hóa thể thao ở các xã, phấn đấu đến
năm 2020 100% xã có điểm sinh hoạt văn hóa thể thao. Tăng cường quản lý, khai
thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Tăng
cường quản lý Nhà nước các nguồn tài nguyên đất, nước, khoáng sản, đa dạng
sinh học, môi trường.
3.2.3. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật, công nghệ


Áp dụng, ứng dụng nhanh những thành tựu của kinh tế tri thức, khoa học
công nghệ hiện đại. Có chính sách thu hút và phát huy trí tuệ của đội ngũ tri thức,
các nhà khoa học có nhiều kinh nghiệm trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng
thời, xây dựng chính sách hỗ trợ đào tạo và sử dụng nhân tài, chính sách đãi ngộ
đối với các nhà khoa học có công trình khoa học có giá trị cao, cán bộ khoa học –
kỹ thuật về công tác ở vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt chú ý khuyến khích việc

nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiến bộ sinh học vào sản xuất, đời sống tăng
cường đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông lâm ngư nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng cây trồng, vật nuôi, chế biến nông, lâm sản.
3.2.4. Nhóm giải pháp về các chính sách
3.2.4.1. Chính sách về đất đai
Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nông dân sử dụng đất đai có hiệu quả;
chuyển các vùng trồng cà phê năng xuất thấp, kém hiệu quả sang trồng các loại
cây khác có giá trị cao hơn; phân vùng nguyên liệu tạo thuận lợi cho cơ sở chế
biến đầu tư, ổn định nguồn nguyên liệu cho sản xuất.
Đẩy mạnh giao đất, giao rừng, khẩn trương xã hội hóa nghề rừng làm cho
rừng phải thực sự có chủ. Phát triển mô hình kinh tế hộ và trang trại lâm nghiệp,
lâm – nông kết hợp để khai thác nguồn tài nguyên hợp lý và tạo việc làm có thu
nhập ổn định cho nhân dân miền núi. Quy hoạch và khai thác hiệu quả diện tích
đồi, dốc thấp của tỉnh.
3.2.4.2. Chính sách về đầu tư
Xây dựng chính sách ưu đãi riêng của tỉnh để khuyến khích tạo điều kiện
thuận lợi cho các thành phần kinh tế nhất là kinh tế tư nhân trong tỉnh, trong nước
và ngoài nước đầu tư vào kinh tế nông thôn.
Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn theo yêu cầu chuyển dịch
có cấu kinh tế và xây dựng nông thôn mới.
3.2.5.3. Chính sách phát triển các thành phần kinh tế
Phát triển kinh tế Nhà nước: Đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới hoạt động
doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, làm tốt vai trò
nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực then chốt như: Tài chính, Ngân hàng, Bưu
chính viễ thông, điện nước. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển trong môi
trường vừa liên kết, vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác. Bên cạnh
nhiệm vụ làm kinh tế, doanh nghiệp có nhiệm vụ về xã hội và an ninh quốc phòng
trên địa bàn đứng chân, làm tốt vai trò động lực thúc đẩy kinh tế phát triển và giúp



×