Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương
Nguyễn Thị Huyền Trang
Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên Lý luận Chính trị
Luận văn Thạc sĩ ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: GS,TS Nguyễn Đình Kháng
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của các khu công nghiệp
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn một tỉnh. Đánh giá thực trạng tác
động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương.
Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt mặt tích cực và ngăn ngừa, hạn
chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình phát triển các khu công
nghiệp này.
Keywords: Kinh tế chính trị; Khu công nghiệp; Tăng trưởng kinh tế; Hải dương
Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút vốn đầu tư thúc
đẩy công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ
môi trường sinh thái bảo đảm phát triển bền vững. Ở nước ta, năm 1991, Đảng và Nhà nước
có chủ trương triển khai thí điểm việc thực hiện giải pháp quan trọng này, kết qủa là đã có gần
200 khu công nghiệp với các quy mô, loại hình được phân bổ hầu khắp các tỉnh, thành phố.
Hải Dương là tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997, thuộc một trong 8 tỉnh của vùng kinh tế trọng
điểm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ với hệ thống giao thông thủy, bộ, đường sắt thuận lợi. Trong
xu thế phát triển chung của cả nước, Hải Dương đã có 10 khu công nghiệp với diện tích 2.087
ha. Sự phát triển khu công nghiệp ở Hải Dương trong thời gian qua đã góp phần quan trọng
vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, thu hút vốn và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiến bộ của nhiều
nước trên thế giới. Tuy nhiên sự phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dương đã bộc lộ
những bất cập trong giải quyết vấn đề sinh thái, việc làm, thu nhập của người dân mất đất, sự
quá tải của hệ thống kết cấu, hạ tầng Nhằm góp phần vào giải quyết những bức xúc này, đề
tài “ Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải
Dương” đã được lựa chọn làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Kể từ khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương xây dựng và phát triển các khu công
nghiệp đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu là:
2
- Vũ Huy Hoàng (2007) “Tổng quan về hoạt động của các khu công nghiệp”, kỷ yếu
khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh
- GS,TS Trần Văn Chử (2006), “Tài nguyên thiên nhiên môi trường và phát triển bền
vững ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS Nguyễn Thị Hường (2009), “Chính sách thương mại và công nghiệp nhằm phát
triển bền vững công nghiệp Việt Nam”, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học
cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Một số đề tài dưới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu vấn đề này như:
- Trần Văn Phùng (2009) “Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội các khu công nghiệp
miền Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
- Lê Hồng Yến (2008), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý Nhà nước đối với các khu
công nghiệp ở Việt Nam hiện nay (qua thực tiễn khu công nghiệp các tỉnh phía Bắc)”, Luận án
tiễn sĩ tại trường Đại học Thương Mại.
- Hà Thị Thúy (2010), “ Các khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc
Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung vào những vấn đề chung trên phạm vi tổng
thể cả nước hoặc trên địa bàn một vùng, một tỉnh khác, trong đó chủ yếu nghiên cứu dưới góc
độ quản lý kinh tế, kinh tế phát triển và có một số đề tài nghiên cứu kinh tế chính trị nhưng lại
trên địa bàn tỉnh khác. Đến nay, ở Hải Dương chưa có công trình khoa học nào dưới góc độ
kinh tế chính trị nghiên cứu về tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng với các công trình khoa
học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Luận văn đánh giá tác động của khu công nghiệp (bao gồm các khu công nghiệp, khu
chế xuất và cụm công nghiệp) để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích
cực và ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của các khu công nghiệp với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn một tỉnh.
+ Đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội ở tỉnh Hải Dương.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt mặt tích cực và ngăn ngừa,
hạn chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình phát triển các khu công nghiệp
này.
3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu tác động của các khu công nghiệp (gồm khu công nghiệp,
khu chế xuất và cụm công nghiệp) đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương .
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: địa bàn tỉnh Hải Dương
+ Về thời gian: từ khi triển khai xây dựng và phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải
Dương (từ 1997 đến nay).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam và những lý thuyết
về công nghiệp hoá và đầu tư trong nền kinh tế thị trường.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học trong đó coi
trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê từ tư liệu thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Khái quát cơ sở lý luận về tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 1997 đến nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục ngăn ngừa
những tiêu cực trong quá trình phát triển khu công nghiệp ở Hải Dương.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. KHU CÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Khu công nghiệp
KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục tiêu xác định giữa chủ
đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có môi trường kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng
những quy chế tự do, các chính sách ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng
khác ở nội địa. Chúng là nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại, đầu
4
tư trên cơ sở chính sách ưu đãi về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan, thủ tục
hành chính, chính sách tài chính tiền tệ, môi trường đầu tư… Ở nước ta, theo Nghị định 36/CP
của Chính phủ về khái niệm KCN thì “KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ quyết định thành lập”.
1.1.2. Tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
Hoạt động của các KCN trong thời gian qua đã đóng góp một vai trò hết sức quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên sự phát triển của KCN trong
thời gian qua cũng đang phá vỡ kết cấu xã hội nông thôn truyền thống, bộc lộ những bất cập
trong giải quyết vấn đề môi trường sinh thái, việc làm và thu nhập của người dân mất đất, sự
quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng
1.1.2.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của nước ta hiện nay
Việc phát triển KCN có những tác động tích cực sau:
Một là, KCN là một địa điểm quan trọng để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước
ngoài, tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một khu vực địa lý.
Hai là, tạo việc làm và thu nhập
Ba là, KCN là địa bàn để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và phương pháp
quản lý tiên tiến của các nước phát triển.
Bốn là, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
Năm là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường
sinh thái cho phát triển bền vững.
Sáu là, góp phần tăng cung ứng hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu.
1.1.2.2. Những tác động tiêu cực của các khu công nghiệp
Việc xây dựng và phát triển các KCN, KCX của nước ta trong thời gian qua bên cạnh
những thành tựu đạt được cũng đã bộc lộ những hạn chế, đặt ra những vấn đề bức xúc cần
phải nghiên cứu giải quyết.
Một là, do theo đuổi phong trào xây dựng KCN mà các nhà quản lý và đầu tư thiếu
tính toán việc thu hút các doanh nghiệp sản xuất nhằm “lấp đầy” KCN nên dẫn đến tình trạng
lãng phí các nguồn lực.
Hai là, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng cho các KCN không phù hợp, không
được người dân ủng hộ đã gây ra tình trạng trì trệ trong phát triển KCN.
5
Ba là, việc xây dựng ồ ạt các KCN còn làm gia tăng tình trạng thất nghiệp, ảnh hưởng
xấu đến thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi, gây nguy cơ mất ổn định xã hội.
Bốn là, mặc dù KCN tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý và kiểm soát môi trường
sinh thái nhưng nếu không có chính sách và cơ chế quản lý hiệu quả chặt chẽ sẽ gây tác động
ngược lại, mức độ ô nhiễm môi trường tăng lên rất nhanh.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU CHI PHỐI TÁC ĐỘNG CỦA KHU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. Công tác quy hoạch và tính phù hợp của các khu công nghiệp với các mục
tiêu kinh tế - xã hội
Nội dung của công tác quy hoạch KCN là phải luận chứng rõ ràng mục tiêu phát triển
các KCN, tién độ thời gian thực hiện mục tiêu đó và sự phân bố các KCN theo vùng, lãnh
thổ Nếu việc quy hoạch KCN có chất lượng và ổn định, thì quá trình phát triển sẽ cho phép
tập trung nguồn lực theo hướng ưu tiên, tránh đầu tư dàn trải, tràn lan gây ra tình trạng mất
cân bằng cung cầu và lãng phí nguồn lực.Hơn nữa, quy hoạch theo lãnh thổ tốt sẽ cho phép
đáp ứng được các yêu cầu lâu dài đồng bộ, đồng thời góp phần phân bố hợp lý lực lượng sản
xuất theo lãnh thổ. Công tác quy hoạch là vấn đề vô cùng quan trọng và phức tạp. Để quy
hoạch đáp ứng được các yêu cầu của quá trình phát triển cần phải căn cứ vào rất nhiều yếu tố
mà trước hết là nhu cầu thị trường.
Bên cạnh đó, quy hoạch các KCN phải đảm bảo tính đồng bộ. Quy hoạch xây dựng
các KCN phải gắn liền với quy hoạch xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, cũng như hạ
tầng xã hội, phát triển các khu đô thị nhằm đảm bảo cho người lao động làm việc trong các
KCN.
1.2.2. Dự án đầu tƣ vào các khu công nghiệp
Dự án đầu tư vào KCN là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu cho sự phát
triển các KCN bởi vì chính chất lượng các dự án đầu tư có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại của
KCN nói riêng và sự phát triển KT-XH nói chung. Các KCN sử dụng công nghệ chất lượng
cao sẽ hạn chế nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, đảm bảo khả năng trả lương, tạo cơ hội nâng
cao trình độ cho người lao động, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh chung của nền kinh tế.Vì
vậy, các quốc gia đều cố gắng thu hút các dự án với trình độ công nghệ cao đồng thời khuyến
khích việc chuyển giao công nghệ.
1.2.3. Những đảm bảo về phát triển bền vững các khu công nghiệp
1.2.3.1. Bền vững về kinh tế
6
Phát triển bền vững KCN về kinh tế là quá trình phát triển KCN đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục và dài hạn của KCN, đồng thời thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH.
Tăng trưởng cao, liên tục và dài hạn của KCN chỉ có thể thực hiện được khi KCN đạt
được hiệu quả kinh tế và có năng lực cạnh tranh cao. Hiệu quả sản xuất của KCN thể hiện ở
phương thức tăng trưởng phải chủ yếu dựa vào hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực và
được thể hiện qua năng suất tổng hợp các nhân tố TFP (Total Factor Produtivity). Do vậy các
nội dung của phát triển bền vững KCN về kinh tế phải tập trung vào các giải pháp, vừa huy
động được các lợi thế sẵn có của nguồn lực và tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng ngày càng tiến bộ và hiệu quả hơn.
Để phát triển bền vững KCN về kinh tế phải tập trung vào các giải pháp vừa huy động
được các lợi thế sẵn có của nguồn lực và tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
ngày càng tiến bộ và hiệu quả hơn. Cụ thể là: huy động các nguồn lực sẵn có vào phát triển
KCN, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, phát triển KCN phải thực sự thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
1.2.3.2. Bền vững về xã hội
Phát triển bền vững KCN về xã hội là sự phát triển của KCN gắn liền với giải quyết
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người dân, giảm khoảng cách thu nhập và
trình độ phát triển giữa các vùng, miền và không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nông dân
trong quá trình CNH, HĐH.
Với đặc trưng của mô hình sản xuất quy mô lớn, mức độ tập trung và trình độ chuyên
môn hoá cao, KCN hoàn toàn có khả năng đáp ứng được đòi hỏi trên. Tuy nhiên, đi liền với lợi
thế đó, phát triển KCN ở Việt Nam đã và đang lấy đi một diện tích đất canh tác không nhỏ. Thực
trạng trên đã dẫn đến một bộ phận lớn dân cư ở nông thôn rơi vào tình trạng không có việc làm.
Nhờ áp dụng hệ thống máy móc và những tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp làm cho năng suất
lao động tăng lên, thu nhập của người lao động kể cả trong lĩnh vực nông nghiệp cũng ngày càng
cao hơn.
KCN phát triển đồng thời phải không làm tổn thất đến sản xuất nông nghiệp và lợi ích
của người nông dân. Do đó, KCN không thể coi là phát triển bền vững nếu trong quá trình
phát triển KCN không những không tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp, mà còn gây ra những xung đột đối với lĩnh vực này. Đó là thực trạng đang diễn ra ở
Việt Nam trong thời gian qua, hệ thống kết cấu hạ tầng quy mô lớn được đầu tư mạnh mẽ cho
KCN, trong khi hệ thống kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp vừa xuống cấp vừa lỗi thời;
những vùng đất nông nghiệp màu mỡ bị lấy không thương tiếc cho phát triển KCN và những
người nông dân canh tác trên những mảnh ruộng đó được “đền bù” với giá rẻ mạt để rồi sau
7
đó họ làm gì để kiếm sống cũng không ai quan tâm. KCN được xây dựng ra đến đâu, ô nhiễm
lan ra đến đó và tất cả lại là người nông dân phải hứng chịu.
1.2.3.3. Bền vững về môi trường
Phát triển bền vững KCN về môi trường là sự phát triển của KCN vừa đạt được các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm được các yêu cầu bảo vệ môi trường xung
quanh trong quá trình phát triển KCN. Để phát triển bền vững KCN về môi trường cần tập
trung vào những nội dung sau: Một là, khai thác sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên,
đặc biệt là tài nguyên đất; Hai là, sản xuất ở các KCN phải đáp ứng giảm thiểu phát thải và ô
nhiễm môi trường từ các chất thải công nghiệp, kiểm soát được ô nhiễm cũng như đảm bảo
không làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp; Ba là, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý
của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, đồng thời cần duy trì hoạt động kiểm soát ô
nhiễm môi trường, ngăn chặn và phòng ngừa những tác động tiêu cực tới môi trường do phát
triển KCN gây ra.
1.2.4. Cơ chế hoạt động của các khu công nghiệp
Hoạt động của các KCN có hiệu quả hay không phụ thuộc trực tiếp vào bốn yếu tố:
- Năng lực của các công ty phát triển hạ tầng
- Hoàn thiện giá thuê đất trong các KCN
- Hoạt động marketing
- Quy mô hợp lý của các KCN
1.3. KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP TÁC ĐỘNG
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA MỘT SỐ TỈNH
1.3.1. Tỉnh Bình Dƣơng
Bình Dương là tỉnh thuần nông, công nghiệp và dịch vụ nhỏ bé, gần như chưa có hạ tầng công
nghiệp. Do có điểm xuất phát thấp, nên xây dựng và phát triển KCN là được coi là giải pháp và bước
đi cần thiết để CNH, HĐH nền kinh tế trong tỉnh.
Với phương châm trải chiếu hoa để mời gọi các nhà đầu tư đến nay tỉnh Bình Dương tạo được
sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư. Từ cuối năm 2004, Bình Dương thực hiện chính sách đảm
bảo đời sống cho người dân có đất bị thu hồi thông qua việc hỗ trợ gián tiếp, nghĩa là không
cấp tiền trực tiếp cho dân mà chuyển tiền cho các cơ sở dạy nghề để đào tạo miễn phí cho họ
đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp nhận dạy nghề hay nhận người vào làm việc.
Mặc dù nhiều KCN đã kết hợp với doanh nghiệp trong KCN quan tâm chăm lo đời
sống của người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần tuy nhiên, do số lượng lao động lớn nên
Bình Dương cũng chỉ đảm bảo nhà cho 15% số lao động còn lại đại bộ phận người lao động
phải thuê nhà của dân, chủ yếu là nhà tạm với những tiện nghi thấp.
8
1.3.2. Tỉnh Đồng Nai
Do những lợi thế về vị trí địa lý và kết cấu hạ tầng, Đồng Nai là một trong những địa
phương dẫn đầu cả nước về xây dựng KCN và thu hút đầu tư. Đến nay, Đồng Nai đã có 29 KCN
với tổng diện tích là 9.067 ha. Bên cạnh đó, sự phát triển ồ ạt của các KCN đã làm ô nhiễm nặng
nề môi trường sống, điển hình là việc xả trộm chất thải độc hại của công ty VÊ ĐAN trong một
thời gian dài làm ô nhiễm nặng nề dòng sông Thị Vải, phá hại môi trường sinh thái, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống người dân thuộc ba tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và
Thành phố Hồ Chí Minh.
Với những hạn chế của việc phát triển KCN, Tỉnh Đồng Nai đã có những biện pháp
hữu hiệu để giảm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường.
Căn cứ quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường, có hiệu lực từ 01/07/2006, khi lấp
đầy 30% diện tích, các KCN phải đưa hệ thống xử lý nước thải tập trung vào hoạt động, các
nhà máy cũng phải có nhà máy xử lý cục bộ trước khi hoạt động. Từ khi có Luật bảo vệ môi
trường và các văn bản dưới luật của Chính phủ có liên quan đến công tác bảo vệ môi trường
trong các KCN, UBND tỉnh đã ban hành các quy định và các văn bản chỉ đạo liên quan đến công
tác bảo vệ môi trường, quy định an toàn về thu gom, lưu trữ, vận chuyển, xử lý và tiêu hủy chất
thải nguy hiểm trên địa bàn tỉnh, quyết định thành lập Hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác
động môi trường tỉnh Đồng Nai, quy định về phân vùng môi trường nước và không khí áp dụng
tiêu chuẩn Việt Nam 2001 trên địa bàn tỉnh và đưa ra chương trình bảo vệ môi trường.
1.3.3. Tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, giáp Thủ đô Hà Nội, có
nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển các KCN nói riêng và phát triển KT-XH nói chung. Các
KCN trên địa bàn đã góp phần quan trọng vào xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng
trưởng công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hoàn thành mục tiêu phát triển KT-XH, đưa
Vĩnh Phúc trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015. Tuy vậy, do công tác xây dựng hạ tầng
KCN ở Vĩnh Phúc không theo kịp sự phát triển nên đã có tác động lớn tới môi trường.
Trong thời gian qua, Ban quản lý các KCN và thu hút vốn đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc đã
tập trung chỉ đạo các KCN khẩn trương đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Hiện nay, các KCN
của Vĩnh Phúc cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Trong đó KCN Quang Minh I
với diện tích đất quy hoạch 344 ha đã được lấp đầy các dự án đầu tư; KCN Khai Quang
khoảng 60% diện tích đất công nghiệp và KCN Bình Xuyên giai đoạn I với diện tích 60 ha đã
được lấp đầy.
Với điều kiện phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế và các chính
sách ưu đãi đầu tư của tỉnh, các chính sách về đên bù, giải phóng mặt bằng… Vĩnh Phúc đảm
bảo đáp ứng kịp thời, với các chi phí thấp nhất, giúp các nhà đầu tư dễ dàng trong việc lựa
9
chọn và quyết định đầu tư vào tỉnh. Đặc biệt, với phương châm cởi mở, thông thaóng trong
thu hút, cấp phép đầu tư, Ban quản lý các KCN và thu hút vốn đầu tư đã thực hiện triệt để việc
cải cách thủ tục hành chính với cơ chế “một cửa”, giúp các nhà đầu tư rút ngắn thời gian và
chi phí trong việc phê duyệt các dự án, chủ động phối hợp với các cấp, các ngành để giải
quyết khó khăn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư vào tỉnh.
1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm trong xử lý tác động tiêu cực và tác động tích
cực ở các khu công nghiệp có thể vận dụng vào tỉnh Hải Dƣơng
Một là, thường xuyên nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển
KCN.
Hai là, coi trọng xây dựng quy hoạch, kế hoạch, xác định vị trí, địa điểm xây dựng
KCN tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng phát triển bền
vững, bảo vệ môi trường sinh thái, mỹ quan đô thị, tiết kiệm đất nông nghiệp.
Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng KCN có chất lượng, nhanh chóng hoàn thành đồng bộ
các công trình với chi phí hợp lý nhất, thực hiện chính sách đền bù thoả đáng cho người dân
mất đất.
Bốn là, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH HẢI DƢƠNG
2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH HẢI
DƢƠNG
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và chủ trƣơng phát triển các khu công
nghiệp của tỉnh Hải Dƣơng
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh
Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, ở vị trí có nhiều hướng tác động
mang tính liên vùng, do vậy Hải Dương vừa có cơ hội tạo động lực phát triển vừa phải đối
mặt với các thách thức trong cạnh tranh.
Tỉnh Hải Dương được chia làm hai vùng chính, vùng đồi núi thấp phù hợp xây dựng các
cơ sở công nghiệp, du lịch và trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ. Vùng đồng bằng gồm các huyện
xã có độ cao trung bình 3-4m so với mực nước biển phù hợp trồng cây lương thực, ngắn ngày.
Hệ thống sông dầy đặc thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, phát triển vận tải đường thủy. Dân
10
số chưa phân bố đồng đều giữa thành thị và nông thôn, nguồn lao động dồi dào nhưng phần
lớn là lao động phổ thông, năng suất lao động chưa cao.
Tổng diện tích đất hành chính tỉnh Hải Dương là 165.185 ha, chia ra:
Đất nông nghiệp: 109.316 ha bằng 6,2% tổng diện tích hành chính, và đang giảm dần.
Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 91.915 ha, chiếm 55,6% tổng diện tích. Đất lâm nghiệp
8.859 ha bằng 5,4% tổng diện tích. Đất nuôi trồng thủy sản là 8.542 ha, chiếm 5,2% diện tích.
Đất phi nông nghiệp: 55.084 ha, chiếm 33,3%. Trong đó, đất chuyên dùng 28.278 ha
bằng 17,1% tổng diện tích đất hành chính. Loại đất này đang có xu hướng tăng nhanh do việc
phát triển khu cụm CN, các công trình kết cấu hạ tầng. Đất ở 13.776 ha bằng 8,3% tổng diện
tích đất hành chính, trong đó đất ở đô thị là 1.633 ha, đất ở nông thôn là 12.143 ha.
Đất chưa sử dụng: 785 ha, bằng 0,5% tổng diện tích hành chính. Khả năng quỹ đất dành
cho phát triển công nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng của tỉnh Hải Dương còn nhiều, có thể đáp
ứng cho việc sản xuất công nghiệp.
Nguồn nước mặt ở Hải Dương khá phong phú trong hệ thống sông ngòi lớn nhỏ, đầm và
kênh mương, phân bố khắp trên địa bàn có thể phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt tương đối
tốt. Nguồn nước ngầm với trữ lượng nước khá dồi dào. Lượng nước ngầm tại các giếng khoan
đạt từ 30-50 m
3
/ngày đêm. Nguồn nước này nằm chủ yếu trong tầng chứa lỗ hổng Pleitôxen,
hàm lượng Cl<200mg/l. Vùng có khả năng khai thác nước ngầm phục vụ sinh hoạt chỉ chiếm
25% diện tích. Tầng khai thác chủ yếu nằm ở độ sâu trung bình từ 40-120m, ở phía Bắc tỉnh có
thể khai thác tốt cho nhu cầu nước sinh hoạt. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh cũng đã phát hiện một số
tầng nước ngầm có độ sâu 250-350 m, nhiều nơi trong tỉnh nguồn nước ngầm có chất lượng tốt,
trữ lượng lớn, là tiềm năng cung cấp ổn định cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân [7, tr.32].
Rừng của Hải Dương không chỉ chiếm khoảng 6% diện tích tự nhiên. Tuy nhiên, rừng
bị tàn phá, các loại gỗ quý như lim, xanh, sến, táu có nguy cơ bị diệt chủng. Trong mấy năm
gần đây rừng đang từng bước được khôi phục nhưng còn rất hạn chế. Hải Dương có tiềm
năng về các mỏ khoáng sản phi kim loại làm nguyên liệu xi măng và vật liệu xây dựng, gốm
sứ.
2.1.1.2. Chủ trương phát triển các khu công nghiệp của tỉnh Hải Dương
Trước sự xuất hiện nhiều nhân tố mới cả thuận lợi và thách thức đòi hỏi tỉnh phải cơ cấu lại
ngành công nghiệp, tổng hợp, phân tích tiềm năng của tỉnh Hải Dương trong tương lai. Đến năm
2020 cũng là mốc thời gian để tạo dựng hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, đưa Hải Dương trở thành một
tỉnh có nền công nghiệp và dịch vụ phát triển.
Để thực hiện chủ trương trên, tỉnh Hải Dương đã xây dựng, kế thừa và phát huy những kết
quả của quy hoạch cũ, đề ra dự án “Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải
11
Dương đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020”. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVI đã chỉ rõ: Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch trình Chính phủ thẩm định các KCN: Phả
lại, Cộng Hòa - Chí Linh, Nhị Chiểu - Kinh môn và từng bước xây dựng để đến năm 2010
có 10 KCN. Có cơ chế để huy động vốn đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng các khu, CCN đã
quy hoạch và xây dựng một số cụm CN gắn liền với thị trấn, thị tứ. Không để quy hoạch
treo và hạn chế việc phát triển các khu, CCN bám dọc theo đường giao thông chính. Đối
với các khu, CCN nằm sát Thành phố Hải Dương chỉ thu hút các dự án có công nghệ cao,
ít gây ô nhiễm môi trường.
2.1.2. Quá trình xây dựng và phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng từ
năm 1997 đến nay
Hiện nay, tỉnh Hải Dương đã được Chính phủ cho phép thành lập đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020 là 17 KCN tập trung, với diện tích quy hoạch 3.067 ha, trong đó có 10
KCN đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN với diện tích đất quy hoạch 2.087 ha.
Ngày 22/1/2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chấp thuận bổ sung 10
KCN của Hải Dương vào Danh mục các KCN dự kiến mở rộng và ưu tiên thành lập mới đến
năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Cụ thể là bổ sung 3 KCN: Phúc Điền, Tân Trường và
Việt Hoà - Ken mark vào danh mục các KCN dự kiến mở rộng. 7 KCN được bổ sung vào
Danh mục các KCN dự kiến ưu tiên thành lập mới gồm: KCN Quốc Tuấn - An Bình; KCN
Kim Thành, KCN Luơng Điền - Ngọc Liên, KCN Bình Giang và KCN Thanh Hà ; KCN
Hoàng Diệu và KCN Hưng Đạo.
2.2. ĐÁNH GIÁ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH HẢI DƢƠNG TRONG THỜI
GIAN QUA
Trong thời gian qua, số lượng và quy mô của các KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương
được tăng lên, sự vận hành các KCN và sự hoạt động của các doanh nghiệp trong nội khu đã
có những tác động nhất định đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.2.1. Những tác động tích cực
Một là, việc thu hút đầu tư vào các KCN đã góp phần quan trọng làm tăng nguồn vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Hải Dương là một trong 10 địa phương dẫn đầu cả
nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đến nay, 10 KCN ở Hải Dương đã có chủ đầu tư
nước ngoài vào xây dựng kinh doanh hạ tầng kỹ thuật với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt
6.233 tỷ đồng. Trong năm 2008, vốn đầu tư xây dựng hạ tầng các KCN của tỉnh đạt 1.251,7 tỷ
đồng, luỹ kế vốn thực hiện xây dựng hạ tầng là 2.429 tỷ đồng, đạt 38,96%.
12
Hai là, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Đến nay, các KCN trên địa
bàn tỉnh đã thu hút được 34.500 lao động trực tiếp vào làm việc, trong đó tuyển dụng mới
15.300 người.
Nhằm tạo thật nhiều công ăn việc làm cho người lao động và đáp ứng nhu cầu cung
cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các dự án trong KCN, năm 2009 Trung tâm giới
thiệu việc làm của Ban quản lý các KCN đã đào tạo, dạy nghề may công nghiệp và cung ứng
330 lao động cho các KCN, đồng thời đã giới thiệu cho các doanh nghiệp tuyển dụng 880
người vào làm việc. Theo kế hoạch năm 2010, Trung tâm giới thiệu việc làm sẽ đào tạo nghề
cho khoảng 500 - 600 người, tư vấn giới thiệu việc làm cho 9000-10.000 người với két quả dự
kiến đạt khoảng 1.000 người. Bên cạnh đó, UBND tỉnh cũng thực hiện chính sách ưu đãi
thông qua việc hỗ trợ phí đào tạo nghề lao động cho địa phương 50% (tức là không quá 1 triệu
đồng/1 đợt).
Thu nhập của người lao động ở các KCN đạt mức khá với mức lương bình quân của
công nhân khoảng 1.200.000 đồng/tháng. Tuy so với mặt bằng tiền công chung trong xã hội
còn thấp, nhưng với mức thu nhập như vậy, người lao động đã có điều kiện tốt hơn cho việc
cải thiện nhu cầu tiêu dùng và sinh họat của gia đình.
Ba là, tác động đến vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Một trong những mục tiêu quan
trọng của việc xây dựng và phát triển các KCN là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý môi
trường. Khi công nghiệp phát triển, tốc độ khai thác tài nguyên lớn, chất thải đổ vào môi trường
ngày càng nhiều. Nếu không có giải pháp tích cực để quản lý môi trường sinh thái sẽ dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng khó có thể khắc phục được. Cho nên việc xây dựng các KCN tập trung sẽ là
giải pháp để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Với định hướng xây dựng các KCN sạch, thân thiện với môi trường nên công tác quản lý về
môi trường trong KCN được chú trọng và chỉ đạo có trọng tam, trọng điểm. Hiện các KCN trong
tỉnh đã có 2 nhà máy xử lý nước thải đi vào hoạt động chính thức, 1 nhà máy chuẩn bị hoạt động.
Đến nay đã có 41/117 doanh nghiệp thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo
vệ môi trường theo quy định khi tham gia đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCN.
Bốn là, tác động tới việc thực hiện các mục tiêu KT-XH của tỉnh. Các KCN đã góp
phần quan trọng trong việc thực hiện những mục tiêu cơ bản mà tỉnh đề ra. Giá trị sản xuất
công nghiệp trong KCN năm 2009 (theo giá cố định 1994) ước khoảng 2.650 tỷ đồng, chiếm
14,7% trên tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh.
Các KCN đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ: tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ tăng nhanh từ 37,2% - 28% lên 43,2% - 29,6%, tỷ trọng nông nghiệp, lâm nghiệp
giảm từ 34,8% xuống còn 27,2%. Cơ cấu lao động trong khu vực nông, lâm, thủy sản - công
nghiệp xây dựng - dịch vụ chuyển từ 82,4% - 10% - 7,6% năm 2000 thành 70% - 16,4% -
13,6%[10, tr.15].
13
Các KCN trên góp phần to lớn vào việc thực hiện các mục tiêu khác như: nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, nâng cao trình độ
quản lý của Nhà nước về kinh tế, đặc biệt góp phần quan trọng vào việc xóa đói giảm nghèo
Năm là, tác động đến đời sống và thu nhập của dân cư. Sự hình thành và phát triển của
các KCN có ảnh hưởng lớn đến đời sống dân cư trong khu vực như tác động đến số dân cư bị
thu hồi đất để dành cho KCN, tác động đến việc làm và việc kinh doanh của dân cư trên địa
bàn, tác động đến an ninh trật tự trong khu vực Các KCN được hình thành làm cho giá đất
trong khu vực tăng lên, người dân giàu lên do việc bán đất thuộc quyền sử dụng của họ. Cơ
hội kinh doanh của dân cư quanh KCN tăng lên nhờ các dich vụ cho thuê nhà, kinh doanh các
dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí Hơn nữa, các KCN còn cung cấp nhiều loại hàng công
cộng không phải trả tiền cho những hộ dân xung quanh khu vực như đường xá, điện chiếu
sáng góp phần thay đổi bộ mặt cũng như thói quen sinh hoạt và sản xuất của dân cư trong
khu vực. Trong tương lai, hàng loạt các khu đô thị được hình thành quanh các KCN, các
ngành nghề sản xuất kinh doanh trở nên đa dạng, góp phần cải thiện mức sống của khu dân
cư.
Sáu là, tác động của KCN đến việc tăng quy mô xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Một trong
những tác động quan trọng của KCN ở tỉnh Hải Dương đối với sự phát triển KT-XH là tăng
xuất khẩu hàng hóa. Thời gian qua, lượng hàng hóa xuất khẩu ngày càng có xu hướng tăng lên,
mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng, cơ cấu xuất khẩu có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng các sản phẩm. Điều đó có sự đóng góp to lớn của các KCN
2.2.2. Tác động tiêu cực trong hoạt động của các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Hải Dƣơng và nguyên nhân
2.2.2.1. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, cơ cấu nguồn vốn đầu tư vào các KCN còn bất hợp lý, công nghệ lạc hậu. Thời
gian vừa qua, để thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư vào các KCN, ngoài các ưu đãi của Chính
phủ, UBND tỉnh Hải Dương đã có rất nhiều chính sách ưu đãi đầu tư như: Ưu đãi về giá thuế
và miễn giảm tiền thuê đất (Miễn tiền thuê đất trong 10 năm và giảm 50% tiền thuê đất trong
thời gian 5 năm). Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp bằng cách hỗ trợ từ ngân sách tỉnh
100% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp 2 năm đầu và 50% cho năm tiếp theo. Ưu đãi
về vốn đầu tư, lãi suất về vốn, phí cung cấp các dịch vụ ngân hàng và các tổ chức tín dụng
như giảm 10% lãi suất khi vay tại các ngân hàng thương mại quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hải
Dương. Ưu đãi về thông tin quảng cáo và khuyến khích vận động đầu tư vào KCN. Thủ tục
hành chính theo cơ chế một cửa, một đầu mối. Thẩm định và chấp nhận dự án giấy phép đầu
tư không quá 5 ngày.
14
Thứ hai, người lao động trong các KCN còn phải đối mặt với tình trạng cuộc sống
thiếu ổn định. Do thiếu đồng bộ, không khoa học trong quy hoạch xây dựng KCN nên tình
trạng thiếu nhà ở, trường học, chợ, trung tâm giải trí, cơ sở y tế cho người lao động còn phổ
biến tại các KCN. Riêng về nhà ở cho công nhân trong các KCN, theo dự báo đến năm 2020,
gần 378.000 công nhân ở KCN trên địa bàn tỉnh Hải Dương có nhu cầu nhà ở với tổng diện
tích hơn 4,5 triệu m
2
. Mặc dù lao động nhập cư đến làm việc tại 10 KCN và 33 cọm CN trên
địa bàn tỉnh Hải Dương đang tăng nhanh về số lượng nhưng tiến độ xây dựng nhà ở cho công
nhân tại các KCN này vẫn rất chậm và chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù các KCN của
tỉnh đều có quy hoạch phần đất để xây dựng nhà ở cho công nhân của từng KCN nhưng do cơ
chế quản lý, phương thức huy động nguồn vốn, cơ chế chính sách ưu đãi đối với việc xây
dựng nhà ở cho công nhân chưa cụ thể nên đến nay các dự án chưa phát huy hiệu quả. Cụ thể
là Dự án “Đầu tư xây dựng khu dân cư Đại An”, tại phường Tứ Minh (thành phố Hải Dương)
mặc dù đã xây dựng xong cách đây hai năm nhưng đến nay vẫn chưa có người đến ở. Lý giải
về điều này, các công nhân ở đây cho biết: Giá “ký túc xá” KCN cao hơn so với giá bên ngoài
trong khi mức lương của công nhân chỉ khoảng 1,5 triệu đồng/tháng.
Thứ ba, môi trường sinh thái còn nhiều vấn đề phải quan tâm. Hải Dương là tỉnh có
tốc độ phát triển kinh tế cao, có nhiều KCN và cụm CN tập trung. Tuy nhiên, tình trạng ô
nhiễm môi trường sinh thái là vấn đề hết sức nan giải. Hiện nay các KCN trên địa bàn tỉnh
hầu như đều không có hệ thống nước thải theo đúng quy định mặc dù UBND tỉnh đã có Quyết
định số 1002/QĐ-UBND nêu rõ: Phải hoàn thành toàn bộ các hệ thống xử lý môi trường trong
năm 2008. Hiệu quả xử lý phải được cơ quan chuyên môn đánh giá và cơ quan quản lý xác
nhận đảm bảo tiêu chuẩn cho phép.
Ô nhiễm môi trường xảy ra tại các KCN ngày càng có xu hướng gia tăng bởi vì doanh
nghiệp không mặn mà với việc đảm bảo môi trường mà chỉ quan tâm đến lợi nhuận. Thậm chí
doanh nghiệp còn có thái độ bất hợp tác với chính quyền trong việc thực hiện nghiêm chỉnh
các quy định về môi trường tại KCN.
Thứ tư, việc làm, đời sống và thu nhập của người có đất bị thu hồi cho phát triển các
KCN còn nan giải. Việc thu hồi đất cả đất ruộng lẫn đất ở của nông dân tất yếu dẫn đến việc
chuyển đổi nhà ở và việc làm của họ. Công tác đền bù để giải phóng mặt bằng còn diễn ra
chậm chạp và không thỏa đáng, không công bằng dẫn đến những phản ứng mạnh mẽ của
người dân mất đất, có rất nhiều trường hợp buộc các cấp chính quyền phải dùng biện pháp
cưỡng chế. Tuy UBND tỉnh đã thực hiện nhiều phương án như: đền bù bằng tiền mặt, chính
sách ràng buộc các KCN sử dụng đất nông nghiệp phải tuyển dụng nông dân vào làm việc
trong các nhà máy, chính sách hỗ trợ tiền học nghề nhưng còn quá nhiều bất cập. Giá tiền
đền bù nói chung là thấp khó để người dân có thể tái tạo cho mình một công việc mới.
15
2.2.2.2. Nguyên nhân của những tác động tiêu cực
Những tác động tiêu cực trên trong thực tiễn hoạt động của các KCN ở tỉnh Hải
Dương chịu tác động bởi nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan. Dưới đây là những
nguyên nhân chủ yếu.
- Nguyên nhân khách quan
+ Trình độ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh còn thấp, phần lớn người dân sản xuất
nông nghiệp nên trình độ chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế.
+ Cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp chuyển dịch chậm
và chưa gắn với thị trường.
+ Khả năng khai thác, sử dụng tiềm năng như cơ sở vật chất, kỹ thuật, vốn, đất đai, lao
động, trí tuệ còn chưa thật hiệu quả làm hạn chế tăng trưởng và chất lượng phát triển.
- Nguyên nhân chủ quan
+ Chiến lược phát triển KCN chưa được các cấp chính quyền xây dựng một cách cụ
thể, công tác quy hoạch còn đơn giản, chưa đồng đều giữa các vùng, miền và các ngành, lĩnh
vực của tỉnh.
+ Môi trường đầu tư chưa thực sự thuận lợi, thủ tục hành chính còn rườm rà, chi phí
đầu tư cao, làm giảm lợi nhuận thu được của các nhà đầu tư vào KCN.
+ Công tác đào tạo nghề còn hạn chế, chưa đào tạo theo nhu cầu xã hội nên người lao
động chưa đủ năng lực đáp ứng yêu cầu của công việc.
+ Công tác quản lý các KCN còn bất hợp lý, chưa đồng bộ, trình độ cán bộ còn thiếu
kinh nghiệm quản lý thực tiễn.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA KHU
CÔNG NGHIỆP Ở VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở TỈNH HẢI DƢƠNG
3.1. PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH
HẢI DƢƠNG
3.1.1. Dự báo phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng đến năm 2020
Từ năm 2005, tỉnh Hải Dương đã xây dựng và ban hành “Quy hoạch tổng thể phát
triển KT-XH của tỉnh Hải Dương giai đoạn 2006-2020” chỉ rõ mục tiêu tổng quát là phát huy
những thành tựu đã đạt được trong hơn 25 năm đổi mới, nâng cao rõ rệt đời sống văn hóa tinh
thần của nhân dân trong tỉnh, xây dựng cơ sở vật chất KT-XH. Xây dựng Hải Dương trở
16
thành tỉnh có kinh tế phát triển mạnh, đóng vai trò động lực trong vùng đồng bằng sông Hồng.
Đến năm 2020, Hải Dương trở thành một tỉnh có nền kinh tế phát triển, trong đó công nghiệp
và dịch vụ có tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, có nền văn hóa tiên tiến.
Bảng : Dự báo tốc độ tăng trƣởng GDP và cơ cấu khu vực kinh tế
Tốc độ tăng trƣởng GDP (%)
2011- 2015
2016 - 2020
Tổng sản phẩm (GDP)
12
13
1. Nông, lâm ngư nghiệp
3,0
3,3
2. Công nghiệp - Xây dựng
14,5
15
+ Trong đó, công nghiệp
15,5
14,5 - 15
3. Dịch vụ
12
13
Cơ cấu kinh tế (%) (giá hiện hành)
Tổng sản phẩm (GDP)
100
100
1. Nông, lâm ngư nghiệp
15
14
2. Công nghiệp - xây dựng
49
49
+ Trong đó, công nghiệp
39
40
3. Dịch vụ
36
37
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Hải Dương giai đoạn 2011-2020.
3.1.2. Phƣơng hƣớng phát triển các khu công nghiệp đảm bảo sự phát triển kinh
tế - xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng
Để phát huy vai trò của các KCN với sự phát triển KT - XH của địa phương, đồng thời
hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra cần thống nhất những quan điểm chỉ đạo sau:
Một là, phát triển KCN phải đặt trong chiến lược phát triển KT - XH của tỉnh và vùng
lãnh thổ, trên cơ sở “Bố trí hợp lý công nghiệp trên các vùng; phát huy hiệu quả các khu, cụm
công nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm,
tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao; đẩy mạnh xây dựng các khu công
nghệ cao” [11, tr.195]
Hai là, nâng cao hiệu quả sử dụng hạ tầng kỹ thuật KCN gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trên địa bàn theo hướng tiến bộ và phát triển bền vững.
Ba là, phát triển KCN phải trên cơ sở ổn định sản xuất kinh doanh tạo việc làm và thu
nhập cho người lao động, giải quyết hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người dân bị
thu hồi đất để xây dựng KCN.
3.2. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
TIÊU CỰC CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI Ở TỈNH HẢI DƢƠNG
17
3.2.1. Hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển các khu công nghiệp
Công tác quy hoạch là vấn đề vô cùng quan trọng. Để hoàn thiện công tác này cần phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là, đảm bảo tính khoa học. Quy hoạch là dự báo cho một tương lai tương đối dài
nên phải sử dụng các phương pháp khoa học, đặc biệt là phương pháp mô hình hóa, phương
pháp điều tra khảo sát thế mạnh của từng vùng, nhu cầu đầu tư để khai thác các thế mạnh đó.
Hai là, quy hoạch phải đảm bảo tính mềm dẻo linh hoạt bởi quy hoạch chỉ là dự báo
cho tương lai nên có thể có nhiều nhân tố làm cho thực tế không diễn ra đúng như dự báo. Do
vậy, phải chuẩn bị các phương án điều chỉnh khi cần thiết và không nên coi dự báo là một
mục tiêu bất di bất dịch nhất thiết phải đạt tới.
Ba là, quy hoạch phải đảm bảo tính đồng bộ, gắn quy hoạch phát triển các KCN với quy
hoạch phát triển các khu đô thị, quy hoạch phát triển các công trình hạ tầng ngoài hàng rào.
3.2.2. Chủ động kêu gọi dự án đầu tƣ vào các khu công nghiệp, nâng cao chất
lƣợng đánh giá và thẩm định các dự án khu công nghiệp
- Chủ động kêu gọi dự án đầu tư
+ Thực hiện thống nhất và chủ động công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN với
sự tham gia của các Sở, ban, ngành, chính quyền địa phương.
+ Đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp vận động xúc tiến đầu tư.
+ Giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang
sản xuất kinh doanh.
+ Tỉnh ủy, UBND tỉnh cần dành kinh phí thỏa đáng từ ngân sách tỉnh cho công tác
vận động, xúc tiến đầu tư.
+ Tăng cường tiếp thị, quảng bá các KCN của tỉnh để thu hút vốn đầu tư.
+ Thực hiện các chính sách nhất quán, điều kiện và môi trường đầu tư ổn định, thị
trường tài chính lành mạnh.
- Nâng cao chất lượng đánh giá, thẩm định các dự án KCN
+ Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm dự án, nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt
động phân tích và thẩm định dự án thông qua việc thành lập các cơ quan tư vấn có uy tín thực
hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của dự án nói riêng và chất lượng của
dự án nói chung.
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu, thường xuyên cập nhật dễ dàng, tiếp cận và có độ chính
xác cao phục vụ cho việc lập dự án.
+ Nhanh chóng xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, nâng cao trách nhiệm thực sự của các chủ
đầu tư bằng những rằng buộc cả về vật chất và tinh thần.
18
3.2.3. Giải quyết tốt vấn đề việc làm, thu nhập và đời sống của ngƣời có đất bị thu
hồi để phát triển khu công nghiệp
Xây dựng và phát triển các KCN có ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân có đất
bị thu hồi. Tại Hải Dương, trong những năm qua mặc dù đã có nhiều cố gắng song việc đền
bù giải phóng mặt bằng các KCN và các công trình trọng điểm khác có nhiều hạn chế làm
chậm tiến độ thực hiện các công trình xây dựng, gây ra những bức xúc từ phía người dân.
Việc bồi thường thiệt hại cho người có đất bị thu hồi không thỏa đáng, một số người được lợi
quá lớn trong khi rất nhiều người rơi vào tình cảnh khó khăn thua thiệt.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do Nhà nước quy định giá đền bù quá thấp so với
giá thị trường (giá đền bù phổ biến thấp hơn 2-3 lần giá thị trường). Hơn nữa, quá trình đền bù
không mang tính công khai minh bạch, thiếu sự giải thích cặn kẽ cho người dân nên không
tranh thủ được sự ủng hộ của họ. Mặt khác, quá trình đền bù thực hiện dây dưa, kéo dài,
không dứt điểm dẫn đến giá đất tăng lên buộc phải điều chỉnh giá đền bù gây ra thắc mắc
khiếu kiện của dân. Bên cạnh đó, do không có cơ chế phân phối lại lợi ích làm cho nhiều
người được lợi lớn nhưng cũng có nhiều người bị thiệt hại từ hoạt động này.
Để đảm bảo vấn đề việc làm, thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi để
phát triển công nghiệp cần phải có sự thay đổi về mặt tư duy cũng như phải có cách làm đồng
bộ mới có thể khắc phục những khiếm khuyết của công tác đền bù giải phóng mặt bằng.
Trước hết cần phải tôn trọng lợi ích của dân, bảo đảm hài hòa các loại lợi ích. Sau đó,
cần chú ý rằng mọi hoạt động đầu tư phải mang lại lợi ích xã hội lớn hơn tổng chi phí mà xã
hội bỏ ra và không gây thiệt hại cho bất cứ chủ thể nào trong cộng đồng dù đó chỉ là một
người dân bình thường. Mức cải thiện phúc lợi phải phân bổ rộng rãi đến mọi tầng lớp dân cư,
không để cho một nhóm người nào được hưởng lợi quá lớn.
3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các khu công nghiệp
Để tổ chức hoạt động đào tạo lao động nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của
các nhà đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN phải có những giải pháp sau:
Nâng cao nhận thức và thực hiện tốt việc đào tạo nghề cho người lao động để đáp ứng
nhu cầu sản xuất hiện đại trong các KCN
Nhanh chóng xây dựng và phát triển các trường dạy nghề dưới nhiều hình thức như
đào tạo ngắn hạn, đào tạo dài hạn. Khuyến khích và tạo điều kiện để các chủ đầu tư trong và
ngoài tỉnh, doanh nghiệp nước ngoài tổ chức đào tạo lại tại các doanh nghiệp, các trung tâm.
Đầu tư đúng mức cho công tác đào tạo nghề. Cần phát triển mô hình liên kết đào tạo
giữa nhà trường, trung tâm dạy nghề, cơ sở dạy nghề với cơ sở sản xuất để đào tạo theo đơn
đặt hàng, làm cho quá trình đào tạo gắn với yêu cầu của các doanh nghiệp.
19
Có chính sách khuyến khích đào tạo và xây dựng các trường dạy nghề, trung tâm dạy
nghề, cơ sở dạy nghề, khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức các trung tâm dạy nghề. Điều
đó sẽ có lợi cho cả người lao động và doanh nghiệp. Người lao động được học nghề tại chỗ,
và thường được đảm bảo về việc làm sau khi học xong, chi phí về việc học hành cũng được
giảm đến mức tối thiểu vì quá trình học nghề cũng là quá trình tạo ra sản phẩm nên sẽ được
trả lương trong quá trình học nghề. Doanh nghiệp có thể chủ động được nguồn tuyển dụng.
Để nâng cao hiệu quả đào tạo, bổ sung chất lượng nguồn nhân lực, các trường, các trung tâm
và các cơ sở dạy nghề cần có sự liên kết với các cơ sở sản xuất để có sự phối hợp trong công
tác đào tạo và sử dụng lao động khi họ ra trường.
Ban quản lý dự án các KCN phải có trách nhiệm cấp sổ lao động cho người lao động
Việt Nam làm việc trong các KCN, đăng ký kế hoạch đưa người lao động đi thực tập ở nước
ngoài để học tập kinh nghiệm trong khoảng thời gian nhất định, cần tăng cường khuyến khích
việc đào tạo nghề cho người lao động ở nước ngoài, đa dạng hoá hình thức hỗ trợ người đi
học như cho vay vốn ưu đãi với thời gian, điều kiện, phương thức trả nợ thích hợp hoặc hỗ trợ
một phần kinh phí đào tạo.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức tuyên truyền rộng
lớn để thay đổi nhận thức về nghề nghiệp đối với học sinh và cha mẹ của học sinh để từ đó
định hướng học nghề cho họ.
Cần quy hoạch các KCN hợp lý, tránh tình trạng tập trung quá nhiều KCN trên một
địa bàn dẫn đến việc tập trung quá nhiều người lao động cả trong và ngoài tỉnh trên địa bàn đó
gây khó khăn cho việc tuyển dụng lao động và gây áp lức lớn đối với cơ sở hạ tầng xã hội.
Nâng cao về kiến thức pháp luật cần thiết cho người lao động đặc biệt là Luật Lao
động để họ hiểu được quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với doanh nghiệp và đối với xã
hội.
Tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể nhất là công đoàn để bảo vệ quyền lợi
của người lao động. Cần có kế hoạch vận động thành lập công đoàn ở tất cả các doanh nghiệp.
Xây dựng tổ chức công đoàn thật sự trở thành người bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người
lao động. Công đoàn thực hiện quyền kiểm tra, giám sát chủ đầu tư thực hiện chính sách pháp
luật của Nhà nước và phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra việc thực hiện chế độ
chính sách đối với người lao động cũng như các quy định của pháp luật về Lao động, Luật
Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội…
Tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Tái sản
xuất sức lao động là điều quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Chính quyền
nơi có KCN hoạt động phải tạo điều kiện nâng cao đời sống cho người lao động thông qua
việc quy hoạch các khu định cư, nâng cấp và xây dựng mới hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào
(bệnh viện, trường học, khu thương mại, khu giải trí…). Khi xây dựng KCN đặc biệt đối với
20
vùng trọng điểm có nhiều KCN cần gắn với việc quy hoạch xây dựng khu dân cư, khu nhà ở
cho công nhân, từng bước thực hiện để đáp ứng nhu cầu thực tế. Quy hoạch KCN cần gắn với
việc xây dựng các đô thị công nghiệp.
Như vậy, việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển các KCN từ đó
phục vụ cho việc phát triển KT - XH phải được giải quyết trên cơ sở hoàn thiện và nâng cấp
hệ thống đào tạo, sự thay đổi nhận thức của người dân, người lao động cũng như từ phía
người sử dụng lao động. Những giải pháp trên phải được thực hiện một cách đồng bộ tạo môi
trường thuận lợi cho các nhà đầu tư để thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh.
3.2.5. Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm vừa khuyến khích đầu tƣ, vừa đảm
bảo an sinh xã hội ở các khu công nghiệp
Cơ chế thông thoáng, chính sách đúng đắn sẽ tạo động lực cho việc đầu tư phát triển
KCN. Để làm được điều đó cần chú ý:
Trước hết, phải cải cách thủ tục hành chính đối với hoạt động đầu tư vào KCN. Thủ
tục hành chính nhanh chóng, đơn giản là điều tất cả các nhà đầu tư đều mong muốn. Nếu thủ
tục hành chính rườm rà sẽ mất nhiều thời gian và làm mất đi cơ hội kinh doanh của các nhà
đầu tư, trở thành rào cản đối với việc thu hút đầu tư. Do vậy, cần thực hiện cơ chế “một cửa,
tại chỗ” để các thủ tục hành chính được đơn giản hoá đến mức tối thiểu đặc biệt là thủ tục cấp
phép đầu tư.
Giao cho Ban quản lý dự án KCN làm đầu mối giúp UBND tỉnh chủ trì tổ chức thực
hiện và quản lý nhà nước về quy hoạch hệ thống KCN đã được phê duyệt trên địa bàn thành
phố về quỹ đất, về tổ chức triển khai các KCN, về xây dựng hạ tầng đồng bộ ngoài KCN…
Hoàn thiện bộ máy hành chính để loại bỏ sự chồng chéo. Cụ thể hoá chức năng nhiệm
vụ và quyền hạn của từng đơn vị, cơ quan. Phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác chuyên môn, xây dựng cơ sủ dữ liệu chuyên ngành, nghiên cứu thực hiện các dịch vụ
“hành chính công”.
Hai là, hoàn thiện khung pháp lý. Cần rà soát các văn bản pháp lý có liên quan đến
KCN. Kiểm tra lại toàn bộ chính sách liên quan đến thu hút đầu tư sản xuất kinh doanh nhằm
tìm ra những nội dung không còn phù hợp để đề xuất Chính phủ xem xét, bãi bỏ hoặc sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp. Do vậy, phải có sự kết hợp trong việc xây dựng và ban hành các quy
định đối với sự hoạt động của các KCN. Cần xây dựng một quy trình rõ ràng về sự phối hợp
giữa việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào.
Ba là, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, hấp dẫn thông qua việc tạo sân chơi
bình đẳng đối với các doanh nghiệp, không thiên vị một doanh nghiệp nào. Hỗ trợ kịp thời với
những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp coi khó khăn của nhà đầu tư, dù là nhà đầu tư
nước ngoài như khó khăn của chính mình. Xử lý nghiêm khắc những vi phạm trong sản xuất,
21
kinh doanh như vấn đề lừa đảo, vi phạm các cam kết, vấn đề môi trường… để tạo dựng lòng
tin cho các nhà đầu tư.
Bốn là, cần có những quy định hợp lý nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các ngân hàng trong
việc cho các doanh nghiệp thuộc diện di dời được vay vốn. Chẳng hạn như có thể cho các
doanh nghiệp di dời vào KCN sử dụng nhà xưởng mới xây dựng (chưa có giấy chứng nhận
hoàn công) trong KCN đem thế chấp để vay vốn ngân hàng, vì hiện nay muốn sử dụng tài sản
này thế chấp để vay vốn thì doanh nghiệp phải làm xong thủ tục hoàn công mới được giải
ngân, mà thời gian để tiến hành thủ tục hoàn công diễn ra khá lâu.
Năm là, các khu vực có KCN cần được hưởng chính sách: có tỷ lệ để lại nguồn thu từ
KCN cho địa phương để giải quyết hạ tầng ngoài KCN và những vấn đề xã hội phát sinh từ
KCN như về đào tạo nhân lực, về y tế, về lao động nhập cư… Đối với việc vay vốn nước
ngoài thì Ngân hàng Nhà nước tỉnh cần phối hợp với Sở Kế hoạch và đầu tư trình Chính phủ
xem xét xác định tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp căn cứ vào vốn pháp định và hạn mức
vay trung dài hạn nước ngoài theo chỉ tiêu doanh số cho vay, nhằm tạo sự chủ động cho
doanh nghiệp trong việc vay và trả nợ vay nước ngoài phục vụ cho các nhu cầu vốn mà không
phải điều chỉnh giấy phép đầu tư, đặc biệt là ưu tiên cho những trường hợp cần thiết, khấu hao
trả nợ nhanh, trước hạn để đổi mới công nghệ. Đối với việc vay vốn trong nước, Ngân hàng
nhà nước tỉnh cần phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý KCN hướng dẫn cho các công ty xây
dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng vay vốn xây dựng nhà xưởng theo nhu cầu của doanh
nghiệp di dời, theo phương thức cho thuê, mua trả chậm.
3.2.6. Tăng cƣờng hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền với vấn đề môi
trƣờng trong các khu công nghiệp
Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, UBND tỉnh cần quy định rõ quyền hạn
của Ban quản lý KCN về quản lý và xử lý các vi phạm về môi trường trong KCN để làm giảm
bớt sự quá tải về công việc của Sở Tài nguyên và Môi trường.
Tăng cường đầu tư và trợ giúp cho chủ đầu tư trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng
KCN và những công trình xử lý chất thải của nhà máy, xí nghiệp thuộc KCN bởi việc xây
dựng các cơ sở xử lý chất thải hết sức tốn kém và không thuộc mong muốn của các nhà đầu
tư. Cần có chính sách ưu đãi cho hoạt động môi trường để trang bị những thiết bị chuyên
dùng giám sát môi trường nhằm nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với việc xử
lý môi trường cục bộ tại các xí nghiệp và thực hiện chủ trương “ai gây ô nhiễm, người đó phải
chi trả”. Kiểm soát chặt chẽ việc phát triển các KCN theo đúng quy hoạch, ngăn chặn triệt để
ngay từ đầu không để khu dân cư nằm xen lẫn với các nhà máy công nghiệp, cần chọn lọc và
kiên quyết từ chối đầu tư đối với các dự án sản xuất gây ô nhiễm môi trường. Tăng cường
22
công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý môi trường để đảm bảo năng lực thực
thi nhiệm vụ. Đồng thời chú trọng việc xây dựng hệ thống quan chắc chất lượng môi trường.
Chú ý công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường đối
với người lao động trong các KCN.
Các cơ quan chức năng đặc biệt là Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh cần khẩn trương
đánh giá tác động về môi trường của từng đơn vị sản xuất cụ thể. Lập “danh sách đen” các
doanh nghiệp có mức độ ô nhiễm vượt tiêu chuẩn môi trường nghiêm trọng, cần có chế tài cụ
thể và nghiêm khắc thậm chí quyết định đình chỉ sản xuất.
KẾT LUẬN
KCN là mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp tuy được hình thành sau những năm 50
của thế kỷ XX nhưng đã được nhiều nước trên thế giới xây dựng. Ở Việt Nam, mô hình KCN
được chính thức xây dựng từ năm 1991 trở lại đây.
Đối với Hải Dương, xây dựng và phát triển KCN là một tất yếu khách quan. Các KCN
trên địa bàn tỉnh đã có vai trò to lớn trong việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước, giải quyết
được một số lượng lớn việc làm cho người lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng cường
xuất khẩu hàng hóa của địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và tiến
bộ. Tuy vậy, quá trình phát triển KCN cũng bộc lộ rất nhiều hạn chế và bất cập. Việc quy
hoạch các KCN thiếu tính đồng bộ, không khoa học, nóng vội dẫn đến một diện tích lớn đất
nông nghiệp bị mất đi để xây dựng KCN. Phát triển các KCN còn mang nặng tính tự phát,
chạy theo phong trào. Bộ máy tổ chức, quản lý còn chậm đổi mới, kém hiệu lực. Việc giải tỏa
và đền bù đất thu hồi không minh bạch dẫn đến tình trạng khiếu kiện của người dân mất đất
ngày càng có chiều hướng gia tăng, lòng tin của người dân vào chủ trương và chính sách của
Đảng và Nhà nước giảm sút. Môi trường ô nhiễm làm ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động
trong các KCN và người dân sống xung quanh.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực trong quá
trình xây dựng và phát triển các KCN ở Hải Dương với sự phát triển KT-XH, luận văn đề xuất
những phương hướng nhằm phát huy tính tích cực, hạn chế những tiêu cực xảy ra của các KCN:
phát triển các KCN phải đặt trong chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh; nâng cao hiệu quả sử
dụng hạ tầng kỹ thuật KCN gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn theo hướng tiến bộ
nhằm ổn định sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, giải
quyết hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người dân bị thu hồi đất để xây dựng KCN.
Theo những phương hướng nói trên luận văn đề xuất các giải pháp sau: Một là, hoàn thiện
công tác quy hoạch phát triển các KCN. Hai là, chủ động kêu gọi dự án đầu tư vào các khu công
nghiệp, nâng cao chất lượng đánh giá và thẩm định các dự án KCN. Ba là, giải quyết tốt vấn đề
việc làm, thu nhập và đời sống của người có đất bị thu hồi để phát triển KCN. Bốn là, phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các KCN. Năm là, hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm vừa
23
khuyến khích đầu tư, vừa đảm bảo an sinh xã hội ở các KCN. Sáu là, tăng cường hiệu quả quản lý
của các cấp chính quyền với vấn đề môi trường trong các khu công nghiệp.
Mặc dù đã có những cố gắng nhất định, song luận văn vẫn còn có những sai sót và
nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Vì vậy tác giả luận văn rất mong nhận được nhiều ý
kiến đóng góp của các nhà khoa học và những ai quan tâm tới đề tài này, để luận văn được
hoàn thiện hơn.
References
1. Ban Quản lý dự án Hải Dương (2008), Báo cáo tổng hợp đầu tư các khu công nghiệp
2008.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo tổng hợp đề án điều chỉnh quy hoạch phát triển
các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam thời kỳ 2005 - 2020, Tài liệu nội bộ.
3. Chính phủ (1997), Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao (ban
hành theo nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của chính phủ)
4. Cục thống kê tỉnh Hải Dương (2008), Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
5. Trần Thị Dung (2004), “Về việc phát triển các khu công nghiệp tại các khu vực Bắc
bộ”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
6. Nguyễn Thành Dũng (2002), “Vai trò khu chế xuất, khu thương mại tự do, đặc khu kinh
tế trước thực trạng toàn cầu hoá kinh tế ngày nay”, Tạp chí phát triển kinh tế, tr.6.
7. Nguyễn Ngọc Dũng (2005), “Một số vấn đề xã hội trong xây dựng và phát triển các
KCN ở Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu - trao đổi.
8. Lê Tuấn Dũng (2004), “Hướng đi cho phát triển KCN tại một số tỉnh miền núi Bắc bộ”,
Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
9. Đảng bộ tỉnh Hải Dương (2000), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ
XIII, Tỉnh uỷ Hải Dương.
10. Đảng bộ tỉnh Hải Dương (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ
XIV, Tỉnh uỷ Hải Dương.
11. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. GS, TS Đặng Đình Đào (2006), Một số vấn đề phát triển KCN trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội nghị - Hội thảo khoa học quốc gia 15
năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam,
Long An.
24
13. Huy Đào (2005), “Cần có cơ chế ưu đãi cho các doanh nghiệp công nghệ cao”, Thông
tin khu công nghiệp Việt Nam.
14. Ngô Văn Điển (6/2000), Các khu công nghiệp và khu chế xuất tại Việt Nam; Thực trạng
và các giải pháp đang áp dụng, Ban Quản lý các khu công nghiệp.
15. Đặng Quang Điều (2004), “Xung quanh vấn đề nhà ở cho người lao động tại các khu
công nghiệp”, Tạp chí lao động và xã hội.
16. Phạm Xuân Đức (2005), Cung cầu về nhà ở cho công nhân các KCN hiện nay, Luận văn
thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
17. Thanh Giang (2002), “Mô hình nào cho cơ quan quản lí KCN địa phương?”, Thông tin
khu công nghiệp Việt Nam.
18. Hoàng Hải (2004), “Đầu tư phát triển các KCN ở Việt Nam trong giai đoạn chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
19. Trần Ngọc Hiên (2005), “Cơ sở lý luận phát triển mô hình KCN trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta”, Tạp chí thông tin khoa học xã hội,
20. Hoàng Ngọc Hoà (2004), “Khu công nghiệp, khu chế xuất đối với phát triển bền vững ở
Việt Nam - thực trạng và giải pháp”, Tạp chí kinh tế phát và phát triển.
21. Hoàng Xuân Hoà (2005), “Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động ở
khu công nghiệp, khu chế xuất”, Tạp chí Lao động và Công đoàn.
22. Vũ Huy Hoàng (2002), Tổng quan về hoạt động của các KCN, Kỷ yếu: khu công
nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Lê Văn Học (2005), “Các KCN, KCX của Việt Nam, thành tựu và vai trò trong kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2004”, Thông tin khu công nghiệp Việt
Nam.
24. Lê Văn Học (2005), “Định hướng phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2010”,
Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
25. Ngô Mạnh Hợp (2002), Cơ chế quản lý một cửa, tại chỗ - nhân tố có ý nghĩa quyết định
cho sự thành công của các KCX và KCN, Kỷ yếu: Khu công nghiệp, khu chế
xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
26. Trần Hùng (2004), “Một số ý kiến về vấn đề “tam nông” trong quá trình phát triển các
khu công nghiệp ở nước ta”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
27. Trần Ngọc Hùng (2004), “Thống nhất về khuyến khích và đảm bảo đầu tư giữa đầu từ
nước ngoài và đầu tư trong nước”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
28. Trần Ngọc Hưng (2002), “Một số vấn đề hoàn chỉnh quy hoạch phát triển KCN thời kỳ
2001 - 2005”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
29. Trần Ngọc Hưng (2005), “Thực trạng về lao động trong các KCN ở Việt Nam”, Thông
tin khu công nghiệp Việt Nam,
25
30. Trần Ngọc Hưng (2005), “Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển
các KCN Việt Nam”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
31. Phạm Văn Sơn Khanh (2003), “Một số ý kiến về giải pháp quản lý các khu công nghiệp
tỉnh Bình Dương”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
32. Võ Thành Lập (2006), “Khu công nghiệp Đồng Nai trong quá trình tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh” Kỷ yếu: 15 năm xây dựng và phát triển
các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, Nxb Long An.
33. Vũ Chí Lộc, Lê Thị Ngọc Lan (2004), “Kinh nghiệm phát triển các KCN sản xuất hàng
hoá xuất khẩu tại Hàn Quốc và Thái Lan”, Thông tin khu công nghiệp Việt
Nam.
34. Nguyễn Công Lộc (2006), Vai trò của các khu công nghiệp đối với quá trình tăng
trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc, Kỷ yếu: 15 năm xây
dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, Nxb Long
An.
35. Nguyễn Văn Minh (2004), “Các chính sách ưu đãi của các KCN, KCX và hiệp định của
WTO về trợ cấp và biện pháp đối kháng”, Thông tin khu công nghiệp Việt
Nam.
36. Võ Văn Một (2006), Phát triển các khu công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH tại Đồng
Nai, Kỷ yếu: 15 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở
Việt Nam, Nxb Long An.
37. Minh Ngọc (2005), “Về việc ban hành chính sách ưu đãi đầu tư của địa phương đối với
KCN”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
38. Trần Văn Phòng (2007), Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của các khu công nghiệp
Việt Nam, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
39. Nguyễn Minh Sang (2004), “Mô hình và kinh nghiệm tổ chức quản lý KCN, KCX ở
một số nước và vùng lãnh thổ”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam.
40. Trương Thị Minh Sâm (2004), Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường ở các KCN, KCX, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
41. Lê Tùng Sơn (2005), “Xu hướng đa dạng hóa các loại hình phát triển KCN trong thời kỳ
2005 - 2010”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam , (1) tr 22-24.
42. Lê Thị Băng Tâm (2004), “Các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển KCN -
KCX ở Việt Nam”, Thông tin khu công nghiệp Việt Nam, (12) tr 6-8.
43. Trần Văn Thọ (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam trong thời đại Châu Á
Thái Bình Dương, Nxb Thế giới, Hà Nội.