Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Nghiên cứu lập kế hoạch quản lý rừng cộng đồng; xây dựng quy ước và quỹ bảo vệ phát triển rừng làm cơ sở cho thôn mường pồn 2 và cò chạy 2, xã mường pồn, huyện điện biên, tỉnh điện biên quản lý rừng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
********

ĐÀO THỊ HOA HỒNG

NGHIÊN CỨU LẬP KẾ HOẠCH QUẢN LÝ RỪNG CỘNG ĐỒNG; XÂY
DỰNG QUY ƯỚC VÀ QUỸ BẢO VỆ PHÁT TRIỂN RỪNG LÀM CƠ SỞ
CHO THÔN MƯỜNG PỒN 2 VÀ CÒ CHẠY 2, XÃ MƯỜNG PỒN, HUYỆN
ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI- 2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
********

ĐÀO THỊ HOA HỒNG

NGHIÊN CỨU LẬP KẾ HOẠCH QUẢN LÝ RỪNG CỘNG ĐỒNG; XÂY
DỰNG QUY ƯỚC VÀ QUỸ BẢO VỆ PHÁT TRIỂN RỪNG LÀM CƠ SỞ
CHO THÔN MƯỜNG PỒN 2 VÀ CÒ CHẠY 2, XÃ MƯỜNG PỒN, HUYỆN


ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG

Chuyên ngành: Lâm hoc
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI- 2009


PHẦN PHỤ LỤC


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, rừng cộng đồng đã tồn tại lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn của
cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng, cùng với việc thực hiện chính sách giao
khốn rừng và đất lâm nghiệp trong một vài năm gần đây cộng đồng dân cư đã thực
sự trở thành người chủ rừng và từ đó đã nâng cao được ý thức bảo vệ rừng để sử
dụng hợp lý nhằm đóng góp cho việc nâng cao đời sống của chính những người dân
nơi đây.
Cộng đồng dân cư thơn được hiểu là tồn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống
trong cùng một thơn, làng, bản, ấp, bn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương. Theo
quyết định số 106/2006/QĐ – BNN về việc ban hành Bản Hướng dẫn quản lý rừng
cộng đồng dân cư thơn thì khái niệm “Rừng cộng đồng” được hiểu là rừng được
Nhà nước giao cho cộng đồng dân cư thôn để sử dụng rừng ổn định, lâu dài vào
mục đích lâm nghiệp.
Hình thức quản lý rừng cộng đồng ở nước ta hiện nay đang là một hình thức
quản lý rừng thu hút sự quan tâm của các cấp từ trung ương đến địa phương. Quản

lý rừng cộng đồng được hiểu là việc quản lý tài nguyên rừng được thực hiện bởi
cộng đồng. Cộng đồng có thể là chủ thể quản lý rừng hoặc cộng đồng tham gia quản
lý rừng và được chia sẻ lợi ích từ rừng. Hay nói cách khác, quản lý rừng cộng đồng
là việc bảo vệ, xây dựng và sử dụng rừng có sự tham gia điều hành bởi cộng đồng,
bất kể rừng đó có thuộc quyền sở hữu của cộng đồng hay không
Theo Luật Đất đai năm 2003, cộng đồng dân cư thôn bản cũng là một đối
tượng được Nhà nước giao đất nông nghiệp nhưng một vấn đề cũng đang được thảo
luận nhiều hiện nay là không phải bất kỳ cộng đồng dân cư thôn bản nào cũng được
giao đất giao rừng, cần phải có những điều kiện nhất định để có thể giao đất giao
rừng cho cộng đồng dân cư thôn bản. Mặt khác, trên thực tế có nhiều địa phương
sau khi cộng đồng được giao đất giao rừng nhiều năm mà vẫn khơng hề có các biện
pháp quản lý bảo vệ hay tác động nào để phát triển rừng hay sử dụng rừng một cách
hợp lý và bền vững. Do đó, nguồn tài nguyên rừng vẫn tiếp tục bị suy giảm và chưa
trở thành nguồn lực đóng góp cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo tại địa phương.


2

Ngun nhân chủ yếu của tình trạng này ngồi lý do nội lực của cộng đồng
cịn hạn chế thì việc thiếu những hướng dẫn quản lý rừng cho cộng đồng sau khi
giao, không giúp họ lập được Kế hoạch quản lý rừng, xây dựng được Quy ước bảo
vệ và phát triển rừng và thiết lập được Quỹ bảo vệ và phát triển tài ngun rừng của
thơn thì cộng đồng dân cư thôn sau khi nhận đất sẽ lúng túng và không thực hiện
được mục tiêu giao rừng cho cộng đồng của Nhà nước đó là: quản lý rừng bền vững
tài nguyên rừng và góp phần cải thiện cuộc sống cho người dân.
Từ thực tiễn cho thấy cộng đồng dân cư thôn hiện nay đã được công nhận là
chủ thể quản lý rừng gắn với đất lâm nghiệp và được giao rừng gắn với đất lâm
nghiệp, đồng thời việc quản lý rừng có sự tham gia của các cộng đồng địa phương
sống gần rừng là hình thức tổ chức quản lý rừng có tính khả thi về mặt kinh tế - xã
hội, bền vững về sinh thái môi trường và tiết kiệm chi phí cho nhà nước. Vì vậy,

muốn quản lý tài nguyên rừng cộng đồng bền vững sau khi đã giao cho thơn bản thì
cần thiết phải trả lời được ba câu hỏi là: Các nội dung quản lý rừng cộng đồng được
hiện ở đâu và thực hiện như thế nào? Trách nhiệm và lợi ích của các thành viên
trong cộng đồng khi tham gia các hoạt động quản lý rừng cộng đồng? Việc sử dụng
và quản lý các nguồn tài chính có liên quan tới các hoạt động quản lý rừng cộng
đồng như thế nào cho hợp lý? Tức là cần thiết phải thực hiện đầy đủ ba nội dung
sau: Lập được Kế hoạch quản lý rừng cộng đồng, xây dựng được Quy ước bảo vệ
và phát triển rừng và Quỹ bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng từ đó làm cơ sở cho
cộng đồng dân cư thơn quản lý tài nguyên rừng bền vững.
Để góp phần xây dựng những tài liệu nhằm hướng dẫn các hoạt động trên tôi
tiến hành thực hiện đề tài: Nghiên cứu lập Kế hoạch quản lý rừng cộng đồng; xây
dựng Quy ước và Quỹ bảo vệ và phát triển rừng, làm cơ sở cho thơn Mường Pồn
2 và Cị Chạy 2, xã Mường Pồn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên quản lý rừng
bền vững . Vấn đề nghiên cứu này được triển khai trên địa bàn rừng cộng đồng của
hai thôn là Mường Pồn 2 và Cò Chạy 2 đã được huyện Điện Biên giao rừng gắn
với đất lâm nghiệp để quản lý.


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
NHỮNG NHẬN THỨC VỀ SỞ HỮU CÔNG CỘNG, LÂM NGHIỆP
CỘNG ĐỒNG VÀ QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG
1.1 Trên thế giới
Trên thế giới trải qua một thời gian dài trong việc nỗ lực bảo vệ và phát triển
tài nguyên rừng người ta đã đi tới một nhận định rằng: thành công thường gắn với
những mơ hình nhỏ và độc đáo chứ khơng phải là những mơ hình và cơng thức lớn
lao; với những hành động phân cấp chứ không phải là sự kiểm tra của trung ương;
với những thiết kế thích hợp với từng địa phương chứ khơng phải là những mơ hình
khoa học kỹ thuật phức tạp; với sự tham gia tích cực của người dân chứ không phải

là tài trợ cho họ về tài chính. Việc quốc hữu hóa rừng hoặc tư nhân hóa rừng cơng
cộng có thể cướp đi những diện tích tài nguyên rừng của người dân nghèo địa
phương, nguồn sống và có khi đó chính là nguồn sinh tồn của họ. [21,T3]
Theo FAO, cộng đồng được định nghĩa như là “những người sống tại một
chỗ, trong một tổng thể” hoặc là một nhóm người sinh sống tại cùng một nơi theo
những luật lệ chung” còn lâm nghiệp cộng đồng được định nghĩa là “Là bao gồm
bất kỳ tình huống nào mà người dân địa phương tham gia vào hoạt động lâm
nghiệp”
Hình thức quản lý rừng cộng đồng đã xuất hiện từ rất lâu trong q trình sản
xuất nơng lâm nghiệp của loài người. Tuy nhiên sự thống trị của chế độ thực dân
của người Châu Âu diễn ra trên diện rộng và kéo dài cho tới thế kỷ 20 đã có những
ảnh hưởng tiêu cực đối với hệ thống quản lý cây và rừng cổ truyền ở nhiều địa
phương. Chính sách thực dân đã đập tan các hệ thống quản lý cổ truyền về tài
nguyên ở các địa phương cùng với những nguồn kiến thức bản địa về tài nguyên và
hệ sinh thái nơi đó. Trong thời gian hậu thuộc địa, nhiều nhà quản lý sử dụng rừng
vẫn chịu ảnh hưởng của những lực lượng từ bên ngoài và cũng góp phần khơng nhỏ
trong việc làm suy giảm tài nguyên rừng trên thế giới. [21,T7]


4

Một thực tế mà chúng ta có thể kết luận rằng, khi mà các cộng đồng dân cư
không phải là nhân tố tham gia thực hiện quản lý rừng, họ khơng thấy được trách
nhiệm và quyền hạn của mình trong việc quản lý tài ngun rừng thì ở đó tài
ngun rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Khi chính phủ của các quốc gia giao quyền
quản lý những khu rừng và tạo cơ hội cho người dân, cộng đồng được hưởng lợi từ
rừng , khi đó những vấn đề như đói nghèo, suy thoái tài nguyên dần dần được đẩy
lùi và cộng đồng địa phương sẽ nhận ra trách nhiệm của chính họ trong việc bảo vệ
và quản lý tài nguyên rừng, thúc đẩy cho sự phát triển của các cộng đồng dân cư
sống phụ thuộc vào rừng.

Tính đến thời điểm hiện nay lâm nghiệp cộng đồng đã trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất phần lớn những người bên ngoài cuộc xác định vấn đề và đề ra
quyết định để giải quyết vấn đề đó. Kết quả đạt được đều khơng đáng khích lệ, sự
quan tâm của cộng đồng thường theo thời gian mà lắng xuống. Rất ít các cộng đồng
tiếp tục các hoạt động sau khi những người ngồi cuộc rút lui, và tất nhiên tính bền
vững khơng đạt được. Giai đoạn thứ hai những người ngoài cuộc xác định vấn đề và
đề ra phần lớn quyết định, nhưng họ đã bắt đầu tham khảo ý kiến của những người
trong cộng đồng, thông qua các cuộc phỏng vấn. Kết quả là những người ngoài cuộc
đã bắt đầu nhận thức được rằng những người trong cộng đồng có khá nhiều hiểu
biết và thường có cách giải quyết vấn đề phù hợp và hiệu quả hơn. Giai đoạn thứ ba
những người ngoài cuộc chỉ là những người hỗ trợ và thúc đẩy, còn những người
trong cộng đồng là những những tích cực xác định vấn đề và đề ra các giải pháp.
Cách làm này đã mang lại những kết quả đáng khuyến khích làm cho người dân
trong cộng đồng tự nhận thức được vấn đề và chủ động trong việc đề ra các giải
pháp mà họ có thể thực hiện được.
Thực tế trên thế giới cho thấy đã có rất nhiều các nghiên cứu về các khía
cạnh cải tiến chính sách, thế chế, cách tiếp cận, áp dụng công nghệ trên cơ sở kiến
thức bản địa để phát triển quản lý dựa vào rừng cộng đồng. Đây là những kinh
nghiệm tốt có thể kế thừa và vận dụng vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia.


5

Ở một số nước như Ấn Độ, Thái Lan đã đạt được nhiều thành tựu trong công
tác xây dựng các chương trình đồng quản lý các khu rừng bảo vệ. Các cộng đồng
dân cư có đời sống phụ thuộc vào tài ngun rừng thường rất thành thạo khi đóng
vai trị là người bảo vệ hoặc tham gia quản lý khu bảo tồn. Với những đặc điểm độc
đáo về kinh tế, văn hóa và thể chế truyền thống của cộng đồng người dân địa
phương trong quản lý sử dụng tài nguyên đã mang lại những hiệu quả to lớn trong
việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.

Khái niệm về quản lý rừng bền vững đã được hình thành từ đầu thế kỷ thứ
18. Ban đầu chỉ chú trọng đến khai thác, sử dụng gỗ được lâu dài, liên tục. Cùng với
sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và phát triển kinh tế-xã hội quản lý rừng bền vững
đã chuyển từ quản lý kinh doanh gỗ sang quản lý kinh doanh nhiều mặt tài nguyên
rừng, quản lý hệ thống sinh thái rừng và cuối cùng là quản lý rừng bền vững trên cơ
sở các tiêu chuẩn, tiêu chí được xác lập chặt chẽ, toàn diện về các lĩnh vực kinh tế,
xã hội và môi trường. Quản lý rừng bền vững là việc đóng góp của cơng tác lâm
nghiệp đối với sự phát triển. Sự phát triển đó phải mang lợi ích kinh tế, mơi trường
và xã hội, có thể cân bằng giữa nhu cầu hiện tại với tương lai, và được xem như
tổng hợp của hoạt động sản xuất bao gồm bảo vệ nguồn nước, đất, các khu văn hóa
cũng như việc cung cấp gỗ.
Theo định nghĩa của tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) quản lý rừng bền
vững là quá trình quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều
hơn những mục tiêu quản lý rừng đã đề ra một cách rõ ràng, như đảm bảo sản xuất
liên tục những sản phẩm và dịch vụ mong muốn mà không làm giảm đáng kể những
giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng và không gây ra những tác động
không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội. [4] Theo Tiến trình
Hensinki, quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất rừng theo cách thức và
mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh, sức
sống của rừng và duy trì tiềm năng của rừng trong quá trình hiện tại và trong tương
lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, cấp quốc
gia và tồn cầu và cũng khơng gây ra những tác hại đối với hệ sinh thái khác. [4]


6

Tuy nhiên khái niệm về quản lý rừng bền vững của Uỷ ban Quốc Tế về Môi
Trường và Phát Triển được đưa ra vào năm 1987 được chấp nhận rộng rãi đó là:
“Quản lý bền vững là việc đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không ảnh hướng tới
khả năng tái tạo để đáp ứng nhu cầu tương lai”.

Tuy có nhiều quan điểm khác về vấn đề quản lý rừng bền vững, nhưng tựu
chung đều có ý nghĩa như sau: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý rừng
để đạt được một hay nhiều mục tiêu cụ thể đồng thời xem xét đến việc phát triển sản
xuất dịch vụ và sản phẩm lâm nghiệp, đồng thời không làm giảm giá trị hiện có và
ảnh hưởng đến năng suất sau này, cũng như không gây ra các tác động xấu đến môi
trường tự nhiên và xã hội”. Tức là đảm bảo sự bền vững kinh tế, xã hội và môi
trường.
Bền vững kinh tế: Là đảm bảo kinh doanh rừng lâu dài liên tục với năng suất,
hiệu quả ngày càng cao. Bền vững về mặt xã hội là đảm bảo kinh doanh rừng phải
tuân thủ luật pháp, thực hiện tốt các nghĩa vụ đóng góp xã hội, bảo đảm quyền hạn
và quyền lợi cũng như mối quan hệ tốt với nhân dân, với cộng đồng địa phương.
Bền vững môi trường là đảm bảo kinh doanh rừng duy trì được khả năng phịng hộ
mơi trường và duy trì được tính đa dạng sinh học của rừng, đồng thời không gây tác
hại đối với các hệ sinh thái khác.
1.1.1 Châu Á
Rừng ở châu Á được coi là một trong những tài nguyên công cộng quan
trọng nhất, quản lý rừng tập thể bàn tới mọi phương thức quản lý rừng dựa trên cơ
sở nhóm. Nó gồm bất cứ tình huống nào, trong đó trách nhiệm quản lý đã được giao
cho một nhóm hoặc tập thể đặc biệt như dòng họ, bộ tộc hoặc đẳng cấp (quản lý
thôn xã), một làng bản hoặc cộng đồng… Quản lý rừng tập thể bàn tới cách sắp xếp
theo đó một số nhóm người nhất định sẽ nắm lấy một số quyền về đất và cây rừng
cùng với những sản phẩm của chúng. Trách nhiệm quản lý rừng được giao chung
cho một nhóm địa phương. Như vậy, quản lý rừng tập thể cở sở dựa trên sở hữu
công cộng hoặc quyền lợi được giao cho những tổ chức chung, thường gắn với


7

những nhóm nhỏ như thơn bản hoặc dịng họ[21,T28]. Quản lý rừng cộng đồng ở
Châu Á thường được quan tâm chú ý ở một số nước như:

- Tại Nepan việc quản lý và bảo vệ rừng cộng đồng trong đó có rừng và các
tài sản khác thường gắn với các thơn bản nhỏ và hiu quạnh. Khi tìm hiểu tính chất
của việc quản lý tài nguyên rừng ở cấp thôn bản thì thấy chúng đều có những nét
chung và chúng thường có hiệu lực, đặc biệt là về mặt bảo vệ. Các chỉ tiêu về quy
chế tổ chức, phần nào dựa trên sự thống nhất ý kiến của những người sử dụng là
phần quan trọng nhất của tất cả những hệ thống quản lý rừng bản địa. Và những hệ
thống quản lý rừng bản địa này chỉ mới được xây dựng từ năm 1950. Từ năm đó tới
nay Chính phủ Nepan đã có một thay đổi mạnh mẽ về thái độ đối với rừng vùng
đồi, đây là một sự chuyển biến sâu sắc do nạn tàn phá rừng ngày càng rõ nét và ảnh
hưởng của nó tới đời sống nơng thôn ngày nay. Đầu tiên là việc thi hành luật bảo vệ
phát triển rừng thông qua hệ thống pháp luật của chính phủ, nhưng việc đó đã thất
bại. Sau đó đã có nhiều thay đổi về chính sách, luật lệ chuyển việc quản lý rừng cho
chính những người sử dụng chúng ở thơn bản.
Arnold (1986) [21] đã trình bày những tiến bộ mà chính phủ Nepan đạt được
khi tổ chức lâm nghiệp cộng đồng tại vùng đồi của Nepan thông qua dự án phát
triển lâm nghiệp cộng đồng qua báo cáo “Quản lý tập thể rừng vùng đồi ở Nepan:
Dự án phát triển lâm nghiệp cộng đồng” Mục tiêu của dự án này là tăng thêm nguồn
cung cấp củi, thức ăn gia súc, cỏ và gỗ thông qua việc trao trách nhiệm rộng hơn về
quản lý và bảo vệ rừng cho các cộng đồng địa phương. Tài liệu này có nói tới một
sáng kiến của Nepan đã đưa ra một khn khổ có khả năng vận dụng được để phát
triển các hệ quản lý rừng sản xuất địa phương thích hợp với các nhu cầu hiện nay,
khn khổ đó xây dựng trên các truyền thống và phương thức địa phương để quản
lý rừng cộng đồng. Số liệu điều tra cho thấy rằng rừng được nhiều sự ảnh hưởng tốt
khi có sự quản lý tích cực của người sử dụng địa phương. Rừng được cải thiện rõ
khi có sự kiểm tra thu hoạch của địa phương do các cộng đồng đề ra những quy
định thời gian và các diện tích có hạn chế và các công cụ được phép sử dụng, ngược
lại rừng tiếp tục bị thối hóa khi chỉ có chính phủ đề ra các kiểm tra theo thường lệ


8


như lệ phí mà người sử dụng phải trả và bài cây để chặt hạ. Mặc dù những kinh
nghiệm của chương trình này đến nay vẫn cịn hạn chế nhưng những việc đã làm
được của chương trình này cũng coi là một sự khởi đầu đáng phấn khởi.
Hobley (1987) Lâm nghiệp cộng đồng không nên được định nghĩa bằng quy
mô hoặc sản phẩm cuối cùng mà ở chỗ là quyền đề xuất quyết định nằm ở đâu. Sự
tham gia và kiểm tra của dân trong việc thành lập, duy trì, hưởng lợi và phân phối
các lợi ích là những lợi ích tiên quyết cho một chương trình lâm nghiệp cộng đồng
đúng đắn. Kết quả điều tra cụ thể tại hai thôn bản của Nepan thông qua Dự án lâm
nghiệp song phương giữa Nepan và Australia là dân bản luôn luôn coi rừng là tài
sản sở hữu của cộng đồng, tuy nhiên lâm nghiệp cộng đồng muốn có được những
thành cơng thì cần phải có sự thay đổi sâu sắc về mặt xã hội tại Nepan. [29]
Theo Gilmour, D.A King, G.C và Hobley (1989) [21] đã mô tả hai kiểu động
cơ khác nhau nhưng song song tồn tại bên nhau trong phát triển lâm nghiệp ở
Nepan đó là: “Phát triển lâm nghiệp hướng về trung ương” và “Phát triển lâm
nghiệp hướng về người dân”. Để nâng cao việc quản lý rừng cơng cộng có hiệu quả
một số chương trình của Chính phủ Nepan đã phát triển theo hình mẫu “hướng về
rừng” để khắc phục hiện tượng tàn phá rừng do sự tác động cộng hưởng của chính
sách lâm nghiệp khơng hồn chỉnh, áp lực của dân số và sự ô nhiễm môi trường.
Qua báo cáo của Leuschner, tác giả đã khẳng định rằng việc hợp tác giữa cư dân địa
phương với cán bộ cấp huyện là rất quan trọng để thành công trong các dự án phát
triển lâm nghiệp cộng đồng và nó có thể trở lên dễ dàng bằng cách thu hút các nhóm
người dân đó vào việc lập kế hoạch phát triển địa phương. Tiêu chuẩn chính cho sự
thành cơng của dự án lâm nghiệp cộng đồng đó chính là việc quan tâm đến sự thích
nghi một hệ thống quản lý cộng đồng với các điều kiện và nhu cầu của người dân
địa phương.
- Tại Ấn độ, mặc dầu q trình hiện đại hóa mang lại nhiều lợi ích cho những
thơn bản nằm xung quanh trung tâm chính trị Delhi thì nó cũng đã mang lại một sự
bùng nổ về dân số, làm đảo lộn cân bằng tài nguyên và cũng dẫn tới sự tan rã của



9

các tổ chức cổ truyền như các cộng đồng thôn bản. Ngày càng có sự chuyển mạnh
đất cơng từ sở hữu cộng đồng sang các phương thức sử dụng tư và cả sự chuyển thể
đất công từ đất trồng trọt và chăn nuôi sang các phương thức sử dụng khác. Kết quả
là diện tích đất hoang hóa ngày một gia tăng. Trong thế kỷ 19, có tới 2/3 đất đai Ấn
độ đều đặt dưới sự kiểm tra của cộng đồng nhưng q trình tư nhân hóa và nhà
nước sung cơng đã làm giảm tỷ lệ đó. Nhiều hình thức bản địa và cổ truyền của
phương thức quản lý tài nguyên sở hữu công cộng đã bị suy yếu và tan rã, tuy nhiên
chúng vẫn đóng một vai trị rất quan trọng trong các hệ thống nông nghiệp và trong
đời sống của dân nghèo. Do đó, để tiến tới việc quản lý tài ngun sở hữu cơng
cộng bền vững chính phủ Ấn Độ cần dành ưu tiên cao cho việc sửa đổi chính sách
và các sự yếu kém, sai sót của các luật lệ hiện hành cũng như hạn chế việc khuyến
khích tiếp tục tư nhân hóa.Vào đầu những năm 1970, Chính phủ ban hành nhiều
chính sách nhằm khuyến khích phát triển lâm nghiệp làng bản để giảm sức ép đối
với việc tàn phá rừng. Trong khoảng 15 năm, Chính phủ đã đầu tư khoảng 400 triệu
USD cho chương trình này. Các vườn ươm được thiết lập với sự tham gia của người
dân. [21, T78, T57]
Tại bang Tây Bengal, quản lý rừng cộng đồng đóng một vai trị quan trọng
trong đời sống của những người dân nghèo vùng nông thôn, lâm nghiệp cộng đồng
đã ra đời từ những năm cuối của thập kỷ 90. Trên đất lâm nghiệp, Chính phủ và
cộng đồng địa phương cùng quản lý các nguồn tài nguyên, sau đó các sản phẩm gỗ
sẽ được chia theo một tỷ lệ hợp lý, còn các sản phẩm phụ được giao cho cộng đồng
sử dụng. Vấn đề cốt lõi nhất là các biện pháp thu hút người dân và lợi ích của người
tham gia.
Tại bang Madhya Prades đã trao một phần lớn quyền gia dụng đất của Nhà
nước cho người dân mà khơng tiến hành thu lệ phí. Đất quốc gia được mọi người tự
do chăn thả và không bị giới hạn trừ khi chính phủ hoặc hội đồng địa phương đòi lại
và dành cho một dự án đặc biệt khác. Quyền hưởng thụ truyền thống cho phép

người dân sống tại rừng được xác định là rừng bảo vệ chăn thả và thu hái đặc sản
rừng không giới hạn ngay cả đối với những khu rừng còn được quy định là rừng


10

cấm. Chính phủ dành cho mình quyền được chặt hạ bất cứ loài cây và tre trúc quý
giá nào hiện có trên đất tư. Việc quản lý đất cơng hầu như hoàn toàn dành cho việc
bảo vệ, việc phân chia quyền thu hoạch giữa nhà nước và người dân trên những
miếng đất cơng đó. [21, T63]
Theo lịch sử ở Ấn Độ có nhiều loại rừng lăng miếu và chúng phục vụ nhiều
mục đích tinh thần và tơn giáo. Những rừng này đều được các tổ chức tơn giáo hoặc
nhóm cộng đồng địa phương quản lý, đồng thời người dân địa phương ở Ấn Độ đã
bảo vệ được các đám rừng có diện tích từ 0.5 – 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để
thờ các vị thần của lùm cây.Việt thờ cúng tại những lùm cây thiêng đó hình thành từ
những xã hội chuyên săn bắt và hái lượm và việc lấy bất kỳ một sản phẩm nào ra
đều là cấm kỵ và nó cũng đã góp phần vào việc duy trì và mở rộng tài nguyên rừng.
[21, T65]
Ở đất nước này còn tồn tại khái niệm “Nistar” là quyền hưởng thụ cổ truyền
các lâm sản như củi, gỗ và tre nứa. Vào nửa cuối thế kỷ 19, theo thông tục ở Ấn Độ
mỗi làng được cấp một diện tích đất hoang hóa và đất rừng bằng hai lần diện tích
đất canh tác của thơn bản. Tất cả các diện tích rừng thừa ra đều được chỉ định là
rừng cấm và được quản lý theo Luật Lâm Nghiệp Ấn Độ.
Guha (1989), Rừng núi không yên ổn: Thay đổi sinh thái và sự chống đối của
nông dân tại Himalaya) [27] cách đây trên một trăm năm, tại vùng đồi Himalaya
phong trào quần chúng “ôm giữ lấy cây” (chipko) như là một cố gắng nổi bật của
người dân địa phương để cứu vãn tài nguyên rừng đang bị suy sụp và chống lại
chính sách của Chính phủ đã cho phép những người ngồi cuộc tới chặt hạ cây cối
theo mục đích thương mại của họ.
Theo Basu, N.G (1987) [21] đề nghị chính phủ cần có một chính sách lâm

nghiệp mới cùng với một cách nhìn mới để ngăn chặn quá trình phát triển đồi trọc
và để lôi cuốn nhân dân tham gia vào phong trào tái sinh rừng.
Việc phát triển cơ sở hạ tầng như mạng lưới đường giao thông đã là một cơ
hội mở rộng thị trường tiêu thụ cho một số sản phẩm của các nguồn tài nguyên tự


11

nhiên. Cho dù đó là một sự phát triển lành mạnh, nhưng nó cũng đã tạo nên một sự
tăng trưởng quá nhanh về mức độ khai thác tài nguyên. Sự gia tăng dân số đã làm
tăng áp lực đến đất đai hiện có làm cho diện tích đất có rừng giảm sút. Hơn nữa,
việc sử dụng quá mức, khai thác đất một cách lạm dụng cũng đã dẫn tới sự thối
hóa về chất lượng đất. Kết quả là các diện tích rừng cộng đồng bị thu hẹp và khơng
có cơ chế quản lý hợp lý, đất đai bị thối hóa nghiêm trọng ở các vùng đất rừng
cộng đồng nông thôn trong khi đó vai trị của rừng cộng đồng đối với đời sống của
người dân nghèo vùng nông thôn chiếm một vị trí quan trọng.
Khái niệm lâm nghiệp cộng đồng được xuất hiện đầu tiên tại nước này vào
những năm 70 của thế kỷ 20. Các chương trình lâm nghiệp xã hội ở Ấn Độ đã đạt
được một ý nghĩa lớn trong việc phát triển nơng thơn, Chương trình nhằm mục đích
xây dựng nhiều rừng trồng trên “đất hoang hóa” tư nhân, công cộng hoặc nhà nước
ở các vùng nông thôn. Tài nguyên rừng công cộng là tài nguyên rừng được các
thành việc cộng đồng sử dụng chung, không phải trả lệ phí sử dụng, khơng ai có
quyền sở hữu cá nhân hồn tồn về chúng, có vai trị trực tiếp hoặc gián tiếp tới việc
nâng cao và ổn định lợi tức, công ăn việc làm và sự sinh tồn của cộng đồng làng
bản.
Ấn Độ đã coi cộng đồng như một đối tác quản lý những vùng đất rừng của
chính phủ. Chính phủ cho phép các cộng đồng được sử dụng tất cả những sản phẩm
khơng phải là gỗ, cịn việc phân chia quyền lợi cây gỗ thì có sự khác nhau giữa các
bang theo một tỷ lệ hợp lý. Vấn đề cốt lõi nhất là các biện pháp thu hút người dân
và lợi ích của người tham gia.

Mục đích của các chương trình lâm nghiệp xã hội tại Ấn Độ tập trung giải
quyết một số vấn đề như: Giúp đỡ dân nghèo và cố nông được quyền hưởng thụ các
tài sản công cộng của thôn bản và đất đai của cơ quan lâm nghiệp trên đó họ có thể
trồng các lồi cây rừng và các lồi cỏ thích hợp; Tuyển chọn các biện pháp kỹ thuật
có hiệu quả kinh tế cho từng khu sinh thái cụ thể; Tổ chức các cộng đồng địa
phương để tiến hành phát triển có hiệu quả công tác lâm nghiệp xã hội.


12

- Tại Indonesia, người dân ở vùng Kalimanta có tập quán canh tác du canh,
lúc ban đầu du canh được tiến hành tại các khu rừng tự nhiên, sau đó các diện tích
rừng thứ sinh cũng được sử dụng, từng bước các hộ gia đình đã bắt đầu địi hỏi
quyền được sở hữu nương rẫy và đất bỏ hóa. Với áp lực dân số ngày càng gia tăng
những quyền lợi đó được mở rộng cho thế hệ tiếp theo. Những nguồn lâm sản phụ
như song mây, gỗ trầm hương và tổ ong đã có sự cạnh tranh và khơng thỏa hiệp về
lợi ích giữa người dân địa phương và những người bên ngoài. Tại miền Nam và Tây
Sumatra, các thành viên cộng đồng có quyền thu hái lâm sản và mở nương làm
nông nghiệp trên đất rừng của làng, trong đó một số đám rừng được giữ lại và
khơng ai được đụng chạm tới chúng. [21, T68, T76]
Tại Tiamor, Indonesia, tất cả đất đai được công khai xếp vào loại adapt tức là
đều thuộc quyền sở hữu của địa chủ lớn địa phương, mãi cho tới cuối thế kỷ 20
những người nông dân mới được hưởng quyền sử dụng đất. Vào những năm 1940
và 1950, tại huyện Amarasi, người ta đã đề ra nhiều bước để cải tiến việc quản lý
đất đai. Những biện pháp đó đều dựa trên bộ luật Adat và sau đó được luật lệ nhà
nước củng cố để thi hành tại 64 thôn bản của huyện. Chúng gồm có nghĩa vụ trồng
các hàng cây Keo dậu (Leucaena leucocephala) theo các đường đồng mức trên các
lô nương rẫy trước khi bỏ hóa, và một phần sử dụng đất tách rời các khu canh tác
với các khu lâm súc dành cho chăn thả. [21, T83]
Mặc dù, thành công của các hệ quản lý tập thể được đảm bảo tốt nhất với

những nhóm nhỏ, các ví dụ nêu trên cho biết rằng quản lý rừng cộng đồng cũng đã
phát triển tại các cộng đồng lớn hơn. Tuy nhiên, việc đó cũng địi hỏi phải tăng
cường xác định chính xác và thực hiện các thủ tục dành cho việc kiểm tra theo dõi
và thi hành luật lệ đề ra. Năm 1991, chương trình phát triển làng lâm nghiệp được
hình thành và đến năm 1995 được đổi tên thành chương trình phát triển cộng đồng
làng lâm nghiệp do Bộ lâm nghiệp Inđơnêsia quản lý. Trong nội dung của chương
trình này đã u cầu các cơng ty khai thác gỗ phải góp phần phát triển nông thôn và
bảo vệ rừng với ba mục tiêu chính là: Cải thiện điều kiện sống cho người dân sống


13

ở trong và ngoài khu vực canh tác gỗ, nâng cao chất lượng và năng suất của rừng và
bảo vệ rừng và môi trường sinh thái.
- Tại miền núi ở Nam Á thường có một mắt xích chặt chẽ theo cổ truyền giữa
đất nông nghiệp tư và rừng. Rừng cung cấp những vật tư quan trọng cho toàn bộ
việc kinh doanh trang trại như phân xanh, năng lượng củi đun nấu, sưởi ấm và cho
cả việc xây dựng nhà cửa, chuồng trại dưới dạng gỗ xây dựng và nhà cột.
Rừng cũng là đất đai chăn thả và cung cấp thức ăn gia súc cho tồn bộ vật
ni của nơng dân trong đó có trâu, bị, dê, cừu là thành phần quan trọng của hệ
canh tác địa phương. Mối quan hệ khăng khít giữa con người, đất đai, gia súc với
rừng trong đó nội bộ các hệ canh tác sinh tồn đã dẫn tới một loạt tổ chức địa
phương nhằm quản lý rừng công cộng trên phần đất lớn của lục địa này. Các
phương thức quản lý rừng không chỉ hướng về việc thu lượm các sản vật của gỗ mà
còn hướng tới việc kiểm tra thu hái thức ăn gia súc và chăn thả trong rừng. Nhiều
phương thức quản lý như luân canh đồng cỏ, chăn thả gia súc, hoặc chặt cụt ngọn
cành cây để nuôi gia súc tại chuồng thường được vận dụng và bô sung thay thế cho
cách chăn thả tự do suốt đêm ngày.
- Tại Chiang Mai – Thái Lan, tháng 9/2001 đã tổ chức một hội thảo quốc tế
về lâm nghiệp cộng đồng, trong đó đã phản ánh nhu cầu phát triển phương thức

quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Nhìn chung việc phân chia lợi ích hay còn gọi là quyền hưởng lợi giữa
những người dân cộng đồng bản địa với Nhà nước và các tổ chức bên ngoài cộng
đồng ở những nước này vẫn đang là quan hệ mâu thuẫn gay gắt nhất. Phần lớn các
nước này đều đang phải gánh chịu hậu quả của cách can thiệp từ trên xuống trong
việc quản lý tài nguyên mà không quan tâm tới truyền thống địa phương, kinh
nghiệm và khả năng của người dân. Do chưa có những thỏa thuận hợp lý giữa
những thành viên bên ngoài và bên trong cộng đồng trong việc quản lý, bảo vệ tài
nguyên rừng và phân chia các lợi ích từ rừng nên dẫn đến hậu quả là tài nguyên
rừng và đất rừng ngày càng bị suy giảm. Người dân cộng đồng địa phương cũng


14

như là các tổ chức bên ngoài cộng đồng của các nước trên hầu hết đều có những
biện pháp cố gắng duy trì nguồn tài ngun đã bị suy thối những chưa đạt được
hiệu quả. Do đó hầu hết các nước này đều đang phải thử nghiệm thực hiện một số
các chương trình, hoặc cải thiện chính sách nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa mong
muốn của người dân bản địa với cùng với lợi ích của quốc gia như là sự phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
1.1.2 Châu Mỹ La Tinh
Châu Mỹ La Tinh là vùng còn nhiều rừng che phủ nhất trong các nước đang
phát triển, với 996 triệu ha rừng và độ che phủ lên tới 48%. Hơn một nửa rừng nhiệt
đới trên thế giới hiện còn nằm ở khu vực này. [21, T194]
Rừng rõ ràng là có tầm quan trọng về kinh tế, sinh thái và xã hội trong việc
phát triển đất nước. Thế nhưng ở các nước Châu Mỹ La Tinh, người ta đã lơi là các
hoạt động lâm nghiệp và những hoạt động dựa vào tài nguyên rừng trong các kế
hoạch phát triển của họ.Với tốc độ tàn phá rừng rất nhanh tại Châu Mỹ La Tinh diện
tích rừng đã giảm xuống nhanh chóng kéo theo hàng loạt những vấn đề khó khăn
như: xói mịn đất, nguồn nước cạn kiệt, sự tuyệt chủng và biến mất của một số loài

động thực vật. Cùng với đó là hiện tượng trái đất nóng lên và việc thất thiệt tài
nguyên di truyền. Để ngăn chặn và giải quyết hậu quả của nạn phá rừng, các quốc
gia ở Châu Mỹ La Tinh đã thực hiện theo hai hướng: một là nhà nước nắm lấy
quyền quản lý rừng, hai là trao trách nhiệm quản lý vào tay những người sử dụng,
theo tập thể và theo cá nhân và kết quả là việc gắn các nhóm cộng đồng vào các
chương trình tự quản để tự họ tạo nên khả năng sử dụng rừng lâu dài và góp phần
vào việc chấn chỉnh lại những tổn thất về môi trường và xã hội mà việc khai thác
rừng hàng loạt đã gây ra đã đạt được những hiệu quả đáng kể.
Đối với các nhóm bản địa và tộc người Mestizo ở Châu Mỹ La Tinh, rừng
theo cổ truyền xa xưa là nơi người dân có thể đi săn bắt động vật và cơn trùng đồng
thời thu hái các lồi cây và nhiều sản phẩm vô cơ khác. Cây rừng được sử dụng làm
vật liệu xây dựng, cung cấp dược liệu, lương thực thực phẩm, hương liệu, các chất


15

nhuộm, gôm và nhựa. Côn trùng được săn bắt như là nguồn chất đạm (protein) và
cũng được dùng để khống chế các nạn dịch côn trùng. Quyền được hưởng thụ các
tài nguyên rừng cho phép người dân bản địa phát triển nhiều phương pháp tạo ra
được nguồn lợi tức, làm giảm sự lệ thuộc của họ vào các chương trình hỗ trợ của
nhà nước. [21, T199]
Hecht, S.B và Cockburn,A (1989, the fate of forest, số phận của rừng) đã
chỉ rõ ra rằng, phần lớn rừng Amazon là sản phẩm do các hoạt động của con người,
con người tác động vào các mơi trường rừng để phục vụ cho mục đích của mình.
Các khu rừng trên thực tế đã được quản lý và chúng ta có thể hiểu được các cơ chế
quản lý đó qua cơ sở sinh thái và nhân văn của nhân dân bản địa và những người
Mestizo. [21,T237]
- Tại Châu Mỹ hiện có nhiều điển hình về quản lý rừng và nông lâm kết hợp
do các cộng đồng địa phương thực hiện. Đó là phương thức làm nương bỏ hóa tại
vùng Amazon của dân bản địa và phương thức nông lâm kết hợp Huastec tại

Mexico của người Mestizo.
Ở phương thức làm nương bỏ hỏa của hai bộ lạc Amuesha và Bora đều sử
dụng hệ thống nông nghiệp mà trên thực tế là một sự chuyển hóa của một hệ canh
tác hoa màu ngắn ngày sang một hệ nông lâm kết hợp dài ngày. Mặc dù phần lớn
việc quản lý đều do các gia đình đơn lẻ thực hiện nhưng trang trại thì khơng có ranh
giới vĩnh cửu, các đám nương do một gia đình canh tác thường nằm rải rác ở nhiều
nơi khác nhau trên mảnh đất thuộc quyền quản lý của cộng đồng. [21, T201]
Hệ sinh thái nông lâm nghiệp của người Huastec thường bền vững và tạo
điều kiện cho rừng tái sinh và đảm bảo được các tài nguyên tự nhiên để sử dụng sau
này. Người Huastec tạo nên các đám rừng thứ sinh và nguyên sinh kết hợp với việc
gây trồng cây nhập nội như cà phê, một số luân canh theo kiểu gắn việc sản xuất
ngô với rừng thứ sinh đang diễn thế. [21, T225]
- Tại Bolivia, mơ hình phát triển quản lý tài nguyên rừng đều tập trung vào
việc tổ chức các hợp tác xã lâm nghiệp, người ta đã tiến hành xây dựng thêm các


16

xưởng cưa để tạo thêm lợi tức, kết hợp với việc quản lý rừng nhằm đạt được tính
sản xuất bền vững. Mặc dầu cây rừng được tập thể quản lý, người ta vẫn cần có giấy
phép khai thác do các nhà đương cục của chính phủ Bolivia cấp phát hàng năm.
Cộng đồng dành lại những loài cây nhập nội và có giá trị cao đề xây dựng một quỹ
tiết kiệm chỉ được dùng tới khi rất cần thiết. [21, T210]
- Tại Peru, Chương trình quản lý tài nguyên Selva Trung ương, năm 1980
được phát triển, chương trình này nhằm vào việc quản lý tài nguyên rừng đặc biệt là
rừng đầu nguồn với mục tiêu là tạo ra nguồn công ăn việc làm và lợi tức bằng tiền
cho các thành viên cộng đồng đồng thời bảo tồn các rừng tự nhiên của cộng đồng
được quản lý. [21, T211]
- Tại Braxin, việc nghiên cứu nhóm người Indieng Kapor tại miền đơng
Amazon, Braxin đã chứng minh rằng các nhóm bản địa đã xử lý hệ động thực vật và

cuối cùng đã làm tăng được tính đa dạng sinh học. Điều đó góp phần vào việc duy
trì và nâng cao khả năng cung ứng của rừng cho con người trong thời gian dài. [21,
T226]
- Tại Mexico sự tham gia của nông dân vào việc quản lý, bảo vệ và nâng cao
tài nguyên rừng được thực hiện của một chính sách có tên là “Kinh tế lâm nghiệp
thôn xã” đã cho thấy sự tham gia trực tiếp của người dân địa phương đã là chìa khóa
cho sự thành cơng của các chương trình mong muốn phát triển tài nguyên rừng cộng
đồng. [21, T238]
Nhìn chung tại châu lục này đã và đang song song tồn tại hai hệ thống quản
lý rừng đó là hệ thống quản lý rừng địa phương, được tồn tại và duy trì do sự tích
lũy kiến thức bản địa của người dân trong việc xây dựng các thành phần trong hệ
thống đó và hệ thống quản lý rừng gắn với bên ngoài, hệ thống này thường gắn liền
với sự hỗ trợ về khoa học và tài chính từ bên ngồi cộng đồng với mục tiêu cuối
cùng là nhằm vào các hệ sinh thái và thúc đẩy người dân trong cộng đồng tham gia
vào các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng. Sự cạnh tranh về mặt hưởng những lợi
ích từ rừng của những người dân trong cộng đồng với Nhà nước và các tổ chức bên


17

ngồi ở Châu lục này đã ít gay gắt hơn và bắt đầu bước sang giai đoạn hợp tác cùng
phát triển. Các chương trình thường chú trọng việc tham khảo và sử dụng những ý
kiến người dân ở tại cộng đồng trong việc bảo vệ và phát triển rừng
1.2. Ở Việt Nam
Hoạt động giao đất giao rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư thôn bản để bảo
vệ, phát triển nhằm sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên rừng tại nước ta được
thực hiện trong một số năm gần đây. Xét về nguồn gốc hình thành thì rừng và đất
rừng cộng đồng ở Việt Nam được hình thành từ ba loại chính sau đây:
1. Rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý theo truyền thống
từ nhiều đời nay: Đây là các loại rừng quản lý theo truyền thống được coi là một

trong các yếu tố quan trọng nhất để hình thành nên phương thức quản lý rừng cộng
đồng của các đồng bào dân tộc thiểu số. Về mặt pháp lý, quyền sở hữu và sử dụng
rừng chưa được xác lập, nhưng trên thực tế nó đã được điều tiết một cách khơng
chính thức bởi các luật tục truyền thống. Hiệu lực của các luật tục được thực hiện
thông qua sự hợp lực gắn bó với nhau giữa xã hội và tâm linh.
2. Rừng và đất sử dụng vào mục đích lâm nghiệp được chính quyền địa
phương giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu dài. Đối với những diện
tích rừng và đất rừng giao cho cộng đồng, các thành viên của cộng đồng cùng đầu
tư, quản lý và hưởng lợi, hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện và cùng có
hưởng lợi giữa các thành viên của cộng đồng.
3. Rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp do cộng đồng nhận
khốn bảo vệ, khoanh ni tái sinh và trồng mới rừng của các tổ chức nhà nước.
Đây là hình thức cộng đồng nhận khốn theo quy định tại Nghị định 01/CP (1995)
của Chính phủ, các tổ chức giao khoán cho cộng đồng chủ yếu là lâm trường quốc
doanh, ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; ban quản lý các dự án 327, 661
và các dự án khác. Nhìn chung loại hình nhận khốn rừng này, về thực chất, cộng
đồng chỉ là người làm thuê cho chủ rừng, ngồi những cơng việc thực hiện theo
thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng nhận khoán cộng đồng khơng có nghĩa vụ


18

và quyền lợi gì khác. Khoản tiền cộng đồng được nhận hàng năm là khá thấp chưa
đủ để cải thiện đời sống của người dân do vậy chưa tạo được tính hấp dẫn và nguy
cơ rừng bị tàn phá vẫn có thể xảy ra.
Ngồi ra, hiện nay cịn có một hình thức hình thành rừng và đất rừng cộng
đồng ở Việt Nam khác nữa đó là các hộ gia đình trong một thơn tự nguyện góp rừng
và đất lâm nghiệp đã được giao của hộ gia đình trở thành rừng và đất rừng dưới
hình thức quản lý của cộng đồng nhằm thực hiện các dự án do chính phủ hoặc nước
ngồi hỗ trợ. Hình thức này ban đầu hiện nay cũng được coi là hình thức quản lý

rừng cộng đồng nhưng cộng đồng ở đây bao gồm những thành viên có rừng và đất
rừng tham gia đóng góp tự nguyện.
1.2.1 Cơ sở pháp lý tác động đến quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam
- Luật Dân sự được quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành năm 2005,
quy định: Cộng đồng dân cư thơn có quyền sở hữu đối với tài sản được hình thành
theo tập quán, tài sản do các thành viên trong cộng đồng đóng góp nhằm mục đích
thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng. Các thành viên của cộng đồng
cùng quản lý, sử dụng theo thỏa thuận vì lợi ích của cộng đồng [16].
- Luật Đất đai được quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành tháng
11năm 2003 (Gọi tắt là Luật Đất đai 2003).
Hiện nay hình thức quản lý rừng cộng đồng được coi là một cách thức quản
lý và bảo vệ tài ngun rừng có hiệu quả hơn các hình thức khác nếu như sau khi
giao rừng và đất rừng cho cộng đồng có hướng dẫn người dân lập kế hoạch và xây
dựng quy ước bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Một nhân tố mới trong quá trình
quản lý bảo vệ và phát triển rừng đó chính là cộng đồng dân cư thôn được Luật Đất
đai năm 2003 công nhận là một đối tượng được giao, công nhận quyền sử dụng đất
lâm nghiệp và chính cộng đồng dân cư thơn là một nhân tố tích cực, quan trọng
trong hệ thống quản lý rừng.Tuy nhiên Nhà nước cũng chỉ giao rừng cho cộng đồng
quản lý và họ cũng chỉ có vai trị của người chủ rừng hạn chế trong quản lý rừng có
nghĩa là cộng đồng dân cư thơn không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,


19

tặng cho quyền sử dụng đất; không được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử
dụng đất mà chỉ được bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng được giao [17].
Các điều luật cụ thể trong Luật đất đai 2003 quy định có liên quan đến quản
lý rừng cộng đồng như sau: trong điều 9 khoản 2 của luật đất đai có ghi: “Cộng
đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn,
làng, ấp, bản, bn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập

quán hoặc có chung dòng họ được Nhà nước giao đất, hoặc được Nhà nước công
nhận quyền sử dụng đất”, Điều 33 khoản 7 có quy định “Cộng đồng dân cư sử dụng
đất nơng nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất”, Điều 66
khoản 2 “Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng được sử dụng đất ổn định
lâu dài”, Điều 71 khoản 4 “Đất nông nghiệp do Nhà nước giao cho cộng đồng dân
cư sử dụng để bảo tồn bản sắc dân tộc gắn với phong tục, tập quán của các dân tộc
thiểu số; Các cộng đồng dân cư được giao đất nơng nghiệp có trách nhiệm bảo vệ
diện tích đất được giao, được sử dụng kết hợp với mục đích sản xuất nơng nghiệp
và ni trồng thủy sản, không được chuyển sang sử dụng vào mục đích khác” và
theo Điều 117 khoản 2 “cộng đồng dân cư sử dụng đất không được chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng đất; không được thế chấp, bảo
lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất”… [17], tuy vậy những hướng dẫn cụ thể về
việc lập quy hoạch kế hoạch quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn chưa được đề cập
đến trong luật này.
- Luật Bảo vệ và phát triển rừng được quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban
hành tháng 12 năm 2004 (Gọi tắt là Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004)quy định:
Nhà nước giao rừng phịng hộ, rừng sản xuất khơng thu tiền sử dụng đất cho
cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu dài với tư cách là chủ rừng. Việc cộng đồng
dân cư thôn được công nhận là một chủ thể pháp lý hợp pháp trong việc quản lý
rừng và đất rừng đã tạo ra một hành lang pháp lý đảm bảo cho hoạt động quản lý và
bảo vệ rừng.


20

Tại điều 29 quy định: Cộng đồng được giao rừng là cộng đồng dân cư thơn
có truyền thống gắn bó với rừng trong sản xuất, đời sống, văn hóa, tín ngưỡng; có
khả năng quản lý rừng, có nhu cầu và đơn xin giao rừng và việc giao rừng cho cộng
đồng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ phát triển rừng đã được phê duyệt;
phù hợp với khả năng quỹ rừng của địa phương.

Khu rừng giao cho cộng đồng dân cư là những khu rừng hiện cộng đồng dân
cư đang quản lý, sử dụng có hiệu quả; những khu rừng giữ nguồn nước phục vụ trực
tiếp cho cộng đồng, phục vụ lợi ích chung khác của cộng đồng mà khơng thể giao
cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mà cần giao cho cộng đồng để phục vụ lợi ích của
cộng đồng [15].
Điều 30 quy định: Cộng đồng dân cư thơn được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giao rừng được công nhận quyền công nhận quyền sử dụng rừng ổn định, lâu
dài phù hợp với thời hạn giao rừng; được khai thác sử dụng lâm sản và các lợi ích
khác của rừng vào mục đích cơng cộng và gia dụng cho các thành viên trong cộng
đồng; được sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp kết hợp theo quy định; được hưởng
thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích rừng được giao; được hướng dẫn
về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn và được bồi thường thành quả lao động, kết quả đầu tư
khi Nhà nước có quyết định thu hồi [15].
- Các quyết định, nghị định và thơng tư của Chính phủ có liên quan:
+ Nghị định số 29/CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ đã quy định: Thôn là
nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp nhằm giải quyết các công việc nội bộ trong
cộng đồng.
+ Quyết định số 13/2002/QĐ – BNV ngày 06/12/2002 của Bộ Nội vụ ban
hành về quy chế tổ chức và hoạt động của cộng đồng.
- Các Quyết định, Nghị định và thông tư của Bộ NN&PTNT:
+ Quyết định số 106/2006/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn về việc ban hành bản hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn.


21

Trong đó có hướng dẫn cụ thể về các căn cứ, điều kiện và trình tự thủ tục giao rừng
cho cộng đồng(chương II), quyền lợi và nghĩa vụ của cộng đồng được Nhà nước
giao rừng (chương V), việc lập kế hoạch quản lý rừng cộng đồng, xây dựng quy ước
bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng, xây dựng quỹ bảo vệ và phát triển rừng cộng

đồng, tổ chức quản lý và giám sát đánh giá việc thực hiện(Chương III,IV,VI,VII).
+ Thông tư số 38/2007/ TT – BNN ngày 24/5/2007 của Bộ trưởng Bộ nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê
rừng, thu hồi rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn.
Cụ thể là ở mục II phần 5 có hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng cho cộng đồng
dân cư thôn. Cộng đồng dân cư thôn tiến hành họp thôn để thông qua và thống nhất
đơn đề nghị Nhà nước giao rừng cho cộng đồng, thông qua kế hoạch quản lý khu
rừng sau khi được Nhà nước giao rừng. Cộng đồng dân cư thôn nộp hồ sơ tại Ủy
ban nhân dân xã, Ủy ban nhân dân xã sau khi nhận được hồ sơ của cộng đồng dân
cư thơn có trách nhiệm thẩm tra điều kiện giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn,
kiểm tra thực địa khu rừng dự kiện giao, xác nhận đơn của cộng đồng dân cư thôn
và chuyển lên cơ quan chức năng cấp huyện. Cơ quan cấp huyện sau khi nhận được
hồ sơ từ xã chuyển lên có trách nhiệm xác định đặc điểm khu rừng, lập tờ trình trình
Ủy ban nhân dân huyện về việc giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. Ủy ban nhân
dân cấp huyện xem xét và quyết định giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. Ủy ban
nhân dân cấp xã và cộng đồng dân cư thơn có trách nhiệm thực hiện quyết định giao
rừng .
+ Công văn số 2324/ BNN – LN ngày 21/8/2007 của Cục Lâm nghiệp về
hướng dẫn các chỉ tiêu kỹ thuật và thủ tục khai thác rừng cộng đồng.
+ Quyết định số 434/QĐ –QLR ngày 11/4/2007 của Cục trưởng Cục Lâm
nghiệp ban hành bản hướng dẫn xây dựng quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp
xã và Hướng dẫn giao rừng gắn với giao đất lâm nghiệp cho cộng đồng dân cư thơn.
Trong đó nêu rõ nguyên tắc giao rừng cho cộng đồng; căn cứ và điều kiện giao


22

rừng cho cộng đồng; khu rừng và loại rừng giao cho cộng đồng, trình tự và thủ tục
giao rừng cho cộng đồng.
Nhìn chung các cơ sở pháp lý trên đây đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước

đối với việc quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam. Các cơ sở pháp lý trên đã góp
phần rất tích cực trong việc hỗ trợ và tạo ra một hành lang pháp lý đảm bảo cho các
hoạt động quản lý rừng cộng đồng.
1.2.2 Những chương trình, dự án về quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam
- Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) năm 1998
đã cho biên dịch tài liệu về Lâm nghiệp cộng đồng và Sổ tay cẩm nang của Lâm
nghiệp cộng đồng do tổ chức nông lương liên hiệp quốc (FAO-UNDP) xuất bản về
các vấn đề cơ bản có liên quan đến Lâm nghiệp cộng đồng, như : “Khái niệm,
phương pháp, công cụ phục vụ luận chứng, kiểm tra, đánh giá có sự tham gia của
người dân trong LNCĐ “; “Thẩm định nhanh quyền hưởng dụng đất và cây rừng
cuẩ cộng đồng“ … rất hữu ích cho việc nghiên cứu phát triển LNCĐ ở Việt Nam
trong giai đoạn tiền phát triển. Theo các tài liệu này thì Lâm nghiệp cộng đồng là
mọi hoạt động lâm nghiệp được những cá nhân trong cộng đồng thực hiện nhằm
tăng các lợi ích mà họ cho là có giá trị.
Trong hoạt động lâm nghiệp cộng đồng, người trong cuộc được hiểu là
những người cùng được xác định và nằm trong cộng đồng và có mối quan hệ phụ
thuộc vào cộng đồng; người ngoài cuộc là những người có thể tham gia vào một
cộng đồng trong một thời gian, nhưng không được xác định với cộng đồng hoặc
được cộng đồng xác nhận là thành viên của họ. Sự tham dự tích cực của những
người trong cuộc và người ngồi cuộc vào tất cả các quyết định có liên quan tới
mục tiêu và hoạt động được gọi là sự tham gia. Mục đích cơ bản của sự tham gia là
khuyến khích cộng đồng tự quyết, từ đó ni dưỡng và phát triển bền vững tài
nguyên rừng. Thông qua các chương trình, dự án người trong cuộc hoặc cả người
trong cuộc và người ngồi cuộc cùng nhau góp sức để đạt được mục đích đã đề ra.


×