Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Cau thể chế nhà nước và nhà nước pháp quyền XHCN việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.47 KB, 3 trang )

Thể chế nhà nước và phương hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Trong đời sống xã hội đương đại, thuật ngữ Thể chế được dùng khá phổ biến - nhất là trong các khoa học xã hội & nhân văn (đặc biệt là
trong Các khoa học chênh trị - nhất là Chính trị học và Chính trị học so sánh).
+ Thể chế là những quy định, luật lệ, chuẩn mực có chức năng điều chỉnh, chế ước các quan hệ xã hội, các hành vi của các cấp độ chủ thể
trong cấu trúc xã hội xác định.Tương ứng với các loại hình xã hội, các lĩnh vực cấu thành xã hội nhất định …sẽ có các loại hình thể chế nhất
định.Trong xã hội có giai cấp, các loại hình thể chế cơ bản có thể kể đến là: Thể chế xã hội, Thể chế chính trị, Thể chế kinh tế …Là một bộ phận
của Thể chế xã hội, Thể chế chính trị là một hiện tượng chính trị - xã hội đặc thù của một xã hội được phân chia thành giai cấp và tổ chức thành
nhà nước. Thể chế chính trị là hệ thống các định chế, các giá trị chuẩn mực hợp thành những nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của
một chế độ chính trị; là hình thức thể hiện các thành tố của hệ thống chính trị; là cơ sở chính trị - xã hội quy định tính chất, nội dung của chế độ
xã hội nhằm bảo vệ quyền lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền.Xét về mặt cấu trúc tổ chức thì TCCT bao gồm: Thể chế các đảng phái chính
trị, Thể chế Nhà nước, Thể chế các tổ chức chính trị - xã hội ( Thể chế các nhóm lợi ích chính trị). Thể chế nhà nước là những nguyên tắc,
chuẩn mực, quy phạm do các cơ quan nhà nước ban hành quy định về những vấn đề chung nhất về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước.Trong Thể chế chính trị thì Thể chế nhà nước có vai trò quan trọng nhất - đó là cơ sở nền tảng mà tất cả các loại thể chế khác phải tuân
theo; nó có ý nghĩa quy định tính chất, trạng thái của một chế độ chính trị - xã hội của một quốc gia. Do vậy người ta thường căn cứ vào hình
thức biểu hiện của Thể chế nhà nước để phân loại các Thể chế chính trị và thông thường tên gọi hình thức Thể chế nhà nước cũng là tên gọi của
Thể chế chính trị.
Trong học Chính trị học - nhất là trong Chính trị học so sánh - khi nghiên cứu Thể chế chính trị người ta đặc biệt quan tâm đến việc phân
biệt ưu điểm, khuyết điểm của mỗi loại hình Thể chế nhà nước.
+ Trong lịch sử thường tồn tại 2 nguyên tắc tổ chức nhà nước khác nhau đó là nguyên tắc Phân quyền và Tập quyền.
-Nguyên tắc Phân quyền:Tư tưởng tổ chức QLNN theo nguyên tắc Phân quyền từ thời Cổ đại Hilạp do Arixtot (384 - 322 TCN) đề
xướng. Đến thời kỳ Cận đại tư tưởng Phân quyền gắn liền với tên tuổi của nhà triết học Anh là J.Locke (1632-1704) và nhà tư tưởng vĩ đại người
Pháp S.Montesquieu (1689-1775). Nội dung cơ bản của nó là: Tư tưởng về Tự do chính trị gắn bó chặt chẽ với sự Tự do của công dân và sự Tự
do của công dân chỉ có được khi Pháp luật được tuân thủ nghiêm ngặt. Để đạt được mục tiêu đó theo các ông phải có sự phân quyền. Quyền Lập
pháp, quyền Hành pháp, quyền Tư pháp. Ba quyền này hạn chế lẫn nhau, đối trọng lẫn nhau và thuộc về các cơ quan khác nhau: Quyền Lập
pháp hoàn toàn thuộc về Nghị viện (cơ quan đại diện của nhân dân được lập ra qua phổ thông đấu phiếu). Quyền Hành pháp thuộc về Chính phủ
(cũng có thể thuộc về Vua trong chính thể Quân chủ lập hiến). Quyền Tư pháp thuộc về Toà án (có sự tham gia của đại biểu nhân dân).
Lý luận này phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ chuẩn bị cho cách mạng tư sản. Nó phản ánh nhu cầu của giai cấp Tư sản muốn giảm dần
quyền lực của các thế lực Phong kiến đương thời, để dần dần thâu tóm quyền lực về tay mình. Trên quan điểm khách quan, quan điểm phát triển,
quan điểm lịch sử - cụ thể ... nguyên tắc Phân quyền là một bước tiến bộ của lịch sử so với chế độ phong kiến chuyên chế, nhờ đó mà thiết chế
dân chủ tư sản được hình thành.
-Nguyên tắcTập quyền: Lý luận này gắn với tên tuổi của nhà tư tưởng Pháp J.J.Rousseau (1712- 1778). Ông cho rằng quyền Lập pháp,


Hành pháp, Tư pháp chỉ là sự biểu hiện quyền lực tối thượng của nhân dân. Cơ quan đại diện cho quyền lực đặc biệt quyền lực Đại Hội Đồng.
Mọi công dân đều tham gia quản lý nhà nước; kiểm soát hoạt động của đại biểu và hội đồng bằng một “ khế ước chung” và họ có quyền hủy bỏ
“khế ước chung” đó nếu hợp đồng bị vi phạm. Nhìn chung nguyên tắc này gắn với tư tưởng cho rằng QLNN gắn bó với chủ thể không thể phân
chia đó là Nhân dân. Quyền lực nhân dân được thể hiện và thực hiện tập trung thống nhất vào một cơ quan QLNN cao nhất do nhân dân bầu ra
và chịu trách nhiệm trước nhân dân đó là Nghị viện, mọi cơ quan QLNN khác đều do cơ quan QLNN này thành lập, giao nhiệm vụ và chịu sự
giám sát của nó.
+ Vấn đề Phân quyền và Tập quyền trong thế giới đương đại:
- Hiện nay các học giả Tư sản thường tuyên truyền nhà nước tư sản hiện đại là Nhà nước pháp quyền và lý luận Phân quyền là cơ sở của
quan niệm về Nhà nước pháp quyền. Họ cho rằng đó là cách thức tổ chức nhà nước dân chủ, hợp lý, hiệu quả nhất và thường áp đặt giá trị đó
cho các quốc gia dân tộc khác!? Tuy nhiên, trên thực tế hiện tượng “Phân quyền” ở các nước tư bản hiện nay không mang ý nghĩa phân chia
quyền lực cho các giai cấp như thời S.Montesquieu nghiên cứu, mà chỉ mang ý nghĩa kỹ thuật pháp lý (như là sự phân định chức năng, thẩm
quyền nhằm tạo cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước). Hiện nay cho dù các các học giả tư sản có tuyên bố “Phân
quyền” thì đó cũng là cơ chế để thực hiện QLCT duy nhất của giai cấp Tư sản; dù đó là “Nhà nước pháp quyền” thì Pháp luật trước hết vẫn phản
ánh ý chí và lợi ích của giai cấp Tư sản độc quyền.
- Giới lý luận Mác-xít cho rằng: Nếu hiểu bản chất của vấn đề “QLNN là QLCT của giai cấp cấm quyền” thì không có sự phân chia nào cả (vì tất cả
quyền lực đều hướng đến mục đích duy trì thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền). Nếu hiểu từ giác độ “phân công lao động theo chuyên môn trong cơ chế
nhà nước” (ĂNGGHEN), thì nội dung thực chất của nó là sự phân định chức năng, thẩm quyền của các tổ chức cơ bản trong bộ máy nhà nước. QLNN là
thống nhất (thuộc về nhân dân); đồng thời có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư
pháp
- Do vậy Phân quyền hay Tập quyền không phải là tiêu chí của Dân chủ hay tiêu chí của nhà nước pháp quyền; mà bản chất của dân chủ là
quyền lực trên thực tế thuộc về nhân dân.
+ Về các loại hình Thể chế chính trị, Thể chế nhà nước:Trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều hình thức Thể chế nhà nước, song có thể quy
thành 2 hình thức Thể chế nhà nước cơ bản là : Quân chủ và Cộng hòa
-Thể chế quân chủ được chia thành các loại: Quân chủ tuyệt đối và Quân chủ lập hiến (gồm có Quân chủ nhị nguyên và Quân chủ đại
nghị). Trong đó Thể chế quân chủ đại nghị có các đặc trưng:Vua đứng đầu Nhà nước nhưng quyền lực tập trung trong tay Nghị viện (cơ quan do
dân bầu). Quyền lực nhà Vua chủ yếu mang tính hình thức “trị vì nhưng không cai trị”. Nghị viện là cơ quan quyền lực tối cao: có quyền thành
lập và giải tán Chính phủ, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Song trên thực tế, quyền lực tập trung vào người đứng đầu cơ quan Hành
pháp (Thủ tướng). Vua là người đứng đầu nhà nước được coi như “chế định tiềm tàng” trong trường hợp có khủng hoảng chính trị; là biểu tượng
của sự thống nhất phi chính trị và không thiên vị, nhưng trên thực tế Vua vẫn chịu ảnh hưởng của Đảng cầm quyền.Tiêu biểu cho hình thức thể
chế này là Vương quốc Anh, Nhật Bản, Úc, Thái Lan, Campuchia ...

-Thể chế cộng hòa: Xét về bản chất QLNN thuộc về nhân dân; song trên thực tế ở các nước TBCN tất cả quyền lực thuộc về giai cấp tư
sản độc quyền.Ở các nước TBCN, hình thức thể chế này có 3 loại: Cộng hòa tổng thống, Cộng hòa đại nghị, Cộng hòa hỗn hợp. Ở các nước

1


XHCN phổ biến là mô hình Cộng hòa Xôviết (XHCN). Trong đó Thể chế Cộng hòa Tổng thống (Điển hình là Mỹ, các nước Châu Mĩ La Tinh,
Liên Bang Nga).Đặc trưng tiêu biểu của thể chế này là:Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia và nếu Tổng thống là người đứng đầu cơ quan Hành
pháp thì quyền hạn vô cùng lớn. Tổng thống lập ra Chính phủ, các thành viên Chính phủ do Tổng thống cử ra và chịu trách nhiệm trước Tổng
thống. Tổng thống, Chính phủ không chịu trách nhiệm trước Quốc hội, tuy nhiên Tổng thống cũng không có quyền giải tán Quốc hội nếu Quốc
hội có thực quyền và trở thành đối tượng kiềm chế Tổng thống (Ngoại trừ LB Nga thì Tổng thống có quyền giải tán Đuma, mặc dầu Đuma do
dân bầu ra).Trong thể chế này: quyền Hành pháp có phần lấn át quyền Lập pháp và Tư pháp.Đối với Thể chế chính trị Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa có các đặc trưng: QLNN là thống nhất (thuộc về nhân dân) nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.Quyền lực tối cao thuộc về Quốc Hội Quốc hội có quyền thành lập Chính phủ, bầu Chủ tịch nước,
cơ quan Tư pháp, Hội đồng Quân sự Trung ương; có quyền quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước như tuyên bố chiến tranh hay hòa
bình; có quyền giám sát tối cao việc thi hành pháp luật (đặc điểm này giống Thể chế chính trị Cộng hòa đại nghị). Chính phủ là cơ quan hành
chính chịu trách nhiệm trược Quốc hội, thực thi vai trò quản lý hành chính và bảo đảm sự thống nhất từ Trung ương đến Địa phương. Khác với
thể chế cộng hòa khác, trong hệ thống Tư pháp của thể chế chính trị Cộng hòa XHCN có hệ thống cơ quan Viện kiểm sát.
Phương hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
Khái niệm NNPQ đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước nói chung thông qua hệ thống pháp luật như
Hiến pháp, Luật và các văn bản pháp quy khác. Vì Pháp luật bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi nước, mỗi dân tộc... Do
vậy phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của NNPQ sẽ thể hiện cụ thể khác nhau tuỳ thuộc vào bản chất chế độ chính trị; hệ thống quan
điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ thể mỗi nước, chứ không có mô hình tiêu chí cụ thể về NNPQ đồng thời
nhất cho tất cả các nước.
+ Tại Hội nghị Quốc tế về NNPQ tổ chức tại Bê - Nanh năm 1992 đã có nhiều ý kiến về vấn đề này; tựu trung lại những tiêu chí chung về
NNPQ như sau: Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do Pháp luật quy định. Nhà nước và Công dân phải thừa
nhận tính tối cao của Pháp luật (đảng phái, tổ chức tôn giáo ... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của Pháp luật). Quyền lực Nhà
nước được xác định gồm quyền Lập pháp, quyền Hành pháp và quyền Tư pháp.Có hệ thống Pháp luật đầy đủ, rõ ràng minh bạch; thể hiện ý chí
và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội - đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân (hay con người nói chung).

+ Phương hướng và biện pháp tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước ở nước ta hiện nay:
Dân chủ hóa tổ chức và hoạt động của Nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: Dân chủ vừa là bản chất, vừa là mục
tiêu yêu cầu, động lực hoạt động của Nhà nước. Một Nhà nước thực sự dân chủ là nhà nước đảm bảo trên thực tế quyền tự do dân chủ của nhân
dân. Do đó, Nhà nước phải thể chế hóa quyền tự do dân chủ của nhân dân trong hiến pháp và pháp luật, có cơ chế bảo đảm thực hiện những
quyền đó trong thực tế. Để phát huy dân chủ trong tổ chức hoạt động của Nhà nước điều quan trọng hàng đầu là phải nâng cao chất lượng dân
chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả. Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình trước hết thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; vì vậy việc dân chủ hóa tổ chức, hệ thống của Nhà nước,
bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đòi hỏi phải đẩy mạnh việc cải cách, hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Bên cạnh đó cần xây dựng những thiết chế cụ thể để bảo đảm cho nhân dân trực tiếp bày tỏ ý kiến và nguyện vọng của mình
trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của chính bản thân họ, trong việc tham gia xây dựng, quản lý nhà nước và xã hội. Cần
tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, gây phiền hà cho nhân dân; chủ động giải
quyết kịp thời các khiếu kiện của dân; đặc biệt cần sớm nghiên cứu và ban hành Luật trưng cầu dân ý.
Tiếp tục cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước: Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước thực chất là cải
cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật; tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Nhà nước. Phương hướng và nội dung cải cách thể chế hoạt
động của bộ máy nhà nước được quán triệt và cụ thể là: Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội: Trọng tâm là tăng cường công tác
Lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về công tác Lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật; đổi mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi
hành pháp luật; tiếp tục hoàn thiện cơ chế bầu cử để chọn được đại biểu đủ năng lực, phẩm chất và có trách nhiệm cao trước Quốc hội; tăng
cường số lượng và chất lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách...Tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước: Cải cách nền hành chính nhà nước
là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước, là một công việc quan trọng quyết định thành công của công cuộc đổi mới.Mục tiêu và
yêu cầu của việc cải cách hành chính nhà nước được xác định là xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng
bước hiện đại hóa. Phương hướng và nhiệm vụ của việc cải cách hành chính nhà nước được xác định là: Điều chỉnh chức năng và cải tiến
phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô; việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ.Xác định lại chức năng, nhiệm vụ và sắp xếp
lại các Bộ, cơ quan ngang Bộ, giảm thiểu tối đa cơ quan thuộc Chính phủ và Thủ tướng, thực hiện tinh giảm bộ máy và đầu mối.Cải cách đồng
bộ trên các mặt thể chế hành chính; tổ chức bộ máy; và đội ngũ cán bộ, công chức hành chính và tài chính công: Về thể chế hành chính: cần tập
trung vào việc hoàn thiện thể chế giải quyết khiếu kiện của dân, thể chế trên lĩnh vực kinh tế, thể chế trong lĩnh vực tác động trực tiếp đến đời
sống và sản xuất của nhân dân. Về tổ chức bộ máy hành chính: xóa bỏ những qui định mang tính hành chính quan liêu, bao cấp, phiền hà, ngăn
chặn tệ sách nhiễu, cửa quyền, tham nhũng, vi phạm pháp luật. Về tổ chức bộ máy hành chính cần phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế với chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh; xác định rõ hơn chức năng nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan hành chính
từ Chính phủ đến Chính quyền địa phương, cơ sở; xây dựng bộ máy tinh gọn, bảo đảm sự điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt, hiệu lực,

đặc biệt là bộ máy chính quyền cấp cơ sở. Về đội ngũ cán bộ công chức hành chính: phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ vừa có trình độ
chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi
thừa nhận công vụ. Để đáp ứng yêu cầu đó cần tiến hành rà soát đội ngũ cán bộ công chức hiện hành; đổi mới cơ chế đánh giá, tuyển dụng bổ
nhiệm cán bộ, công chức đảm bảo dân chủ, khách quan, công khai và khoa học; đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, có
chương trình kế hoạch đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên cán bộ, công chức nhà nước; làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán
bộ; đổi mới cơ chế quản lý, kiểm tra giám sát cán bộ, công chức; chú trọng việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, tăng cường cán bộ cho
cơ sở - đặc biệt là ở những địa bàn xung yếu như Tây Nguyên, miền núi biên giới, vùng sâu vùng xa. Tiếp tục cải cách tổ chức, nâng cao chất
lượng và hoạt động của các cơ quan Tư pháp:Nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ Tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam,
giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, đặc xá, tha tù … không để xảy ra những trường hợp oan, sai. Đối với Viện kiểm sát nhân dân cần tập trung thực
hiện tốt chức năng công tố và kiểm soát hoạt động Tư pháp. Đối với Tòa án nhân dân cần sắp xếp lại và phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án
các cấp. Đối với cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án cần được tổ chức lại theo hướng gọn đầu mối. Chú ý đến việc xây dựng đội ngũ thẩm
phán, thư ký tòa án, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chức viên, giám định viên, luật sư... có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí
công, vô tư; có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.

2


3



×