Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Cau con dương dat den quyen luc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.05 KB, 3 trang )

CON ĐƯỜNG ĐẠT ĐẾN QUYỀN LỰC
1. Quyền lực chính trị là phạm trù cơ bản nhất của Chính trị học. Với tư cách là “phạm trù trung tâm của Chính trị học” (quan niệm của nhà nghiên cứu Liên Xô: M. N. Kây
– rô - dốp), có thể xem: “Chính trị học là khoa học về cuộc đấu tranh cho quyền lực; là khoa học về giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị trong xã hội được tổ chức
thành nhà nước”. Quyền lực chính trị được xác định là phạm trù cơ bản bởi vì nó nói lên thực chất hoạt động chính trị của mọi giai cấp, mọi đảng phái trong xã hội có giai cấp;
việc nắm được phạm trù này là cơ sở để nắm các phạm trù còn lại của Chính trị học. Các quan niệm hiện đại về vấn đề quyền lực: Bertrand Russel cho rằng quyền lực là sản
phẩm của những hiệu quả có chủ ý, là phương tiện trong cuộc đấu tranh tranh đua luân lý và ganh đua chính trị. R. Dahl (Mỹ) quan niệm nắm quyền lực là buộc người khác
phải phục tùng. L. Lipson (Mỹ) xem quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ một hành động phối hợp. Grazia cho rằng Quyền lực là khả năng ấn định những quyết định có
ảnh hưởng đến thái độ con người. Trong Từ điển Bách khoa Triết học Liên Xô (cũ) có nêu Quyền lực là khả năng thực hiện ý chí của mình, có tác động đến hành vi, phẩm
hạnh của người khác nhờ một phương tiện nào đó như uy tín, quyền hành, sức mạnh…Với nghĩa chung nhất, có thể xem: “Quyền lực là cái mà nhờ đó người khác phải
phục tùng”, “là khả năng của một chủ thể buộc người khác phải phục tùng”.
Quyền lực trong xã hội có cấu trúc phức tạp được tạo thành từ nhiều loại quyền lực khác nhau; đồng thời tồn tại, đan xen, thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau tạo thành một
chỉnh thể quyền lực trong xã hội. Đáng chú ý là có 3 loại quyền lực cơ bản sau: Quyền lực công cộng; Quyền lực chính trị; Quyền lực nhà nước.
Quyền lực công cộng: Quyền lực công cộng là loại quyền lực được nảy sinh từ một nhu cầu chung nào đó của cả cộng đồng xã hội (ý chí chung của cộng đồng), nhờ vậy
mà xã hội có được tính tổ chức và trật tự.Quyền lực công cộng là cái vốn có của mọi xã hội, nó lấy sự tồn tại của cả cộng đồng, dân tộc làm cơ sở xã hội của mình. Quyền lực
công cộng về cơ bản không mang tính giai cấp, nó thường mang tính dân tộc hơn tính giai cấp. Tuy vậy, trên một số vấn đề và một số lĩnh vực nó cũng bị chi phối bởi lợi ích giai
cấp (trong trường hợp đó quyền lực công cộng cũng mang dấu ấn giai cấp). Quyền lực chính trị: Quyền lực chính trị là quyền lực của một hay của liên minh giai cấp, của một
tập đoàn xã hội (hoặc của nhân dân lao động – trong điều kiện của CNXH), nó nói lên khả năng thực tế của một giai cấp trong việc thực hiện ý chí của mình trong chính trị (và
trong chuẩn mực pháp quyền), nhờ đó mà lợi ích khách quan của giai cấp được hiện thực hoá trong cuộc sống.Quyền lực chính trị bao giờ cũng mang tính giai cấp trong nội dung
cơ bản của mình.Quyền lực chính trị luôn mang tính thống nhất về cơ bản khi biểu hiện ra bên ngoài, nhưng trong quan hệ nội tại nó có thể chứa đựng những khác biệt và mâu
thuẫn.Quyền lực chính trị thường được biểu hiện bằng sức mạnh của những tổ chức mang tính giai cấp, tính đảng phái. Quyền lực nhà nước:Xét về bản chất, Quyền lực nhà
nước là Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền (hay có thể nói cách khác đó là hình thức thức biểu hiện Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền). Về cơ bản Quyền lực
nhà nước mang đầy đủ đặc trưng của Quyền lực chính trị. Đặc trưng cơ bản nhất của Quyền lực nhà nước là nó có thể sử dụng một loạt các biện pháp cưỡng chế để thực thi
quyền lực trên quy mô toàn xã hội. Là một bộ phận quan trọng nhất của Quyền lực chính trị, sự thay đổi cơ bản của Quyền lực nhà nước - bằng việc chuyển chính quyền nhà
nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác - sẽ trực tiếp dẫn đến sự thay đổi căn bản tính chất chế độ chính trị (hay thể chế chính trị).Bất kỳ Quyền lực nhà nước nào cũng
mang tính chính trị, nhưng không phải mọi Quyền lực chính trị đều là Quyền lực nhà nước. So với Quyền lực chính trị thì Quyền lực nhà nước hẹp hơn về cấp độ chủ thể, phương
pháp thực hiện, hình thức thể hiện.
2. Lý luận về con đường đạt đến quyền lực:
- Quan niệm của L. Lipson: Ông ta mô tả con đường dẫn đến quyền lực trong lịch sử nhân loại thông qua mô hình: Thiểu số được lựa chọn cai trị vì ưu tú và đa số không
được lựa chọn vì thấp kém (bị cai trị).Tiêu chí để được lựa chọn và không được lựa chọn phụ thuộc vào các yếu tố: Chủng tộc, Giới tính, Tuổi tác, Dòng tộc, Đẳng cấp, Tôn giáo,
Của cải, Sức mạnh, Trí tuệ…Từ mô tả đó ông đã rút ra kết luận: Có nhiều hình thức, con đường đạt đến quyền lực. Ứng với mỗi loại quyền lực khác nhau sẽ có những con
đường khác nhau; trong khi xem con đường nào đó là cơ bản để đi đến một loại quyền lực nhất định, đồng thời phải thấy tác động và ảnh hưởng của các con đường khác. Về


phương diện lý luận cách giải thích đó phản ánh được những nét cơ bản những con đường để đạt đến quyền lực và hai kết luận của ông cũng đã thể hiện sự biện chứng.
- Quan điểm của Alvin Toffler (nhà tương lai học người Mỹ): Về cơ bản ông ta nhất trí với quan điểm của L. Lipson; song ông ta cho rằng quan điểm của Lipson thiếu
tính hệ thống và không phân biệt được cấp độ của mỗi hình thức, mỗi con đường để đạt đến quyền lực. Để khắc phục nhược điểm đó, ông ta trình bày quan điểm của mình theo
logich: Theo ông, có rất nhiều con đường khác nhau để đạt đến quyền; trong đó có 3 con đường cơ bản (bạo lực, của cải, trí tuệ) với vị trí và bậc thang về giá trị phẩm chất
không như nhau. Quan niệm của ông được phản ánh trong bộ ba tác phẩm Thăng trầm quyền lực, Cú sốc tương lai, Làn sóng thứ ba. Con đường đi đến quyền lực bằng bạo
lực: Ông lập luận, đối với con đường này nó có các mặt mạnh, mặt hạn chế là: Mặt mạnh: Đây là con đường có hiệu quả và sức mạnh trực tiếp, đến mức ngay trong thời đại
ngày nay nhiều lúc, nhiều nơi người ta vẫn đang lợi dụng nó. Hạn chế: Tăng thù, bớt bạn; chạy đua vũ trang, gây lãng phí sức người và của cải, ảnh hưởng đến sự phát triển xã
hội; nó có một giới hạn không thể vượt qua .Từ lập luận đó ông rút ra kết luận: Đây là con đường có phẩm chất thấp nhất (loại 3). Con đường đạt đến quyền lực bằng của cải:
Ông lập luận, đối với con đường này nó có các mặt mạnh, mặt hạn chế là:Mặt mạnh: Theo ông thì con đường này có hệ số cao hơn, có thể dùng của cải để sai khiến theo kiểu “có
tiền mua tiên cũng được”, “nén bạc đâm toạc tờ giấy”… Hạn chế: Không phải mọi quyền lực đều có thể mua được bằng tiền; đồng tiền tiêu dùng đi là hết, không phải là vô hạn;
và nó không có tính phổ biến (có người có tiền, có người không). Từ lập luận đó ông đưa ra kết luận: Đây là con đường có phẩm chất loại 2. Con đường đi đến quyền lực bằng
trí tuệ: Theo ông trí tuệ là cái có hiệu quả nhất để đi đến quyền lực: “tri thức là cội nguồn quyền lực có tính cách dân chủ hơn cả”. Ưu điểm của nó là: Không cạn kiệt khi tiêu
dùng mà là ngược lại; không phụ thuộc vào của cải và sức mạnh “Dựa vào tri thức ngày nay người yếu đuối hay kẻ nghèo hèn đều có thể chuyển mình đoạt lấy quyền lực”; tăng
bạn, bớt thù; bằng trí tuệ cao có thể đưa ra được các chỉ thị, mệnh lệnh mà người chấp hành cảm thấy thoả mái.Từ lập luận đó ông kết luận: Đây là con đường có phẩm chất cao
nhất (loại 1)
Nhận xét quan điểm của Alvin Toffler: Những ý tưởng của ông ta cũng có một số nhân tố hợp lý.Tuy nhiên những ý tưởng đó vẫn mang một số ẩn ý về chính trị: đó là
việc lập lờ trong việc đồng nhất giữa bạo lực cách mạng và bạo lực phản cách mạng; xuyên tạc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng.Đưa ra ý tưởng về sự
đoạt lấy quyền lực nhưng không nói rõ làm thế nào để đoạt lấy quyền lực, mà chỉ ảo tưởng về việc giai cấp tư sản tự giác “chuyển giao quyền lực”; ảo tưởng về phép màu của “làn
sóng thứ 3”, của “cách mạng siêu công nghiệp” có thể sắp xếp lại mọi trật tự xã hội.Mơ hồ về cái “chủ nghĩa vị lai xã hội”, “hội đồng xã hội tương lai” (Hội đồng của một xã hội
không còn thống trị giai cấp mà chỉ đóng vai trò quản lý xã hội) - thực tế đó chỉ là sự tân trang chế độ “dân chủ đại nghị” đang khủng hoảng, suy đồi sau mấy trăm năm tồn tại.Tư
duy theo “làn sóng văn minh”, “gạt chính trị ra ngoài lề cuộc sống” - phủ định cả TBCN lẫn XHCN - nhưng cuối cùng lại thừa nhận sự vận động của “làn sóng văn minh” không
thể không có tham gia của chính trị. Ông ta nói: “Trong thế kỷ XXI nền dân chủ tư sản vẫn tồn tại và nhà nước tư sản hiện nay vẫn là quyền lực chính trị tốt nhất cho làn sóng đó
phát triển”.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Tiếp cận vấn đề quyền lực trên quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển và lịch sử - cụ thể: Những người theo chủ nghĩa
Mác – Lênin không tuyệt đối hoá một con đường nào để đi tới quyền lực. Mọi con đường, phương thức để đi tới quyền lực được xem là hợp lý nếu bằng cách đó từng bước đem
lại quyền lực cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động; đồng thời góp phần giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển. Ứng với cấp độ chủ thể khác nhau; ở các phạm
vi khác nhau của đời sống xã hội, ở các giai đoạn khác nhau trong lịch sử …sẽ có phương thức đạt đến quyền lực khác khau
Ví dụ: Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta, Đảng ta đã vận dụng vận dụng sức mạnh tổng hợp, với các phương thức đấu tranh: bạo lực cách mạng, nghị
trường; chính trị, quân sự, ngoại giao … Nhưng yếu tố “trội” vẫn là bạo lực cách mạng. Bởi vì cách mạng có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau; nhưng dù dưới hình
thức nào, cách mạng cũng không thể đạt được thành công nếu không sử dụng bạo lực cách mạng “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản không thể bằng con đường

tiêu vong được; mà chỉ có thể theo quy luật chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi” (Lênin. Toàn tập. Tập 33. Nxb Tiến bộ. Mátxcơva. 1976. tr 27).
Ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng đánh đổ đế
quốc và phong kiến rồi thành lập ra chính phủ công nông, chứ không phải bằng con đường cải lương”. Đánh giá thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã chỉ
rõ: “Cách mạng tháng Tám Việt Nam là mẫu mực của cách mạng giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo…bằng một cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang của quần chúng,
bằng sự kết hợp tài tình của những cuộc chiến đấu quân sự với những hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng để giành chính quyền nhà nước, thiết lập chính quyền nhân
dân”1 và đồng chí Lê Duẩn cũng có nhận định: “Cách mạng tháng Tám Việt Nam thành công căn bản là do lực lượng chính trị của nhân dân đã kịp thời nắm lấy cơ hội thuận lợ
1

Bốn mươi năm hoạt động của Đảng Lao động Việt Nam. NXB ST, HN, 1975, tr 36.

1


nhất khởi nghĩa giành chính quyền. Nhưng nếu trước đó không xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập những khu căn cứ rộng lớn làm chổ dựa cho lực lượng chính trị và
phong trào đấu tranh, và khi điều kiện đã chính muồi, không mau lẹ phát động khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng cũng không thể mau chóng giành được thắng lợi”2
Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, truớc sức mạnh quân sự của Mỹ, đã xuất hiện tam lý sợ Mỹ và xu hướng Tam hòa 3 – nghĩa là chỉ nên duy trì đấu tranh
chính trị, hòa bình và tránh bạo lực. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng (khóa II) năm 1959 đã chỉ ra câu trả lời đúng về đường lối cách mạng miền Nam: Con đường cơ bản của
cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân và để đi đến thắng lợi thì con đường cơ bản là khởi nghĩa giành chính quyền bằng bạo lực
cách mạng của quần chúng. Nghị quyết đã thể hiện khả năng phân tích tính hình một cách toàn diện của Đảng và phương hướng giành thắng lợi của cách mạng miền Nam là
khởi nghĩa toàn dân để giành chính quyền: “Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng, thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng là chủ yếu, kết hợp lực
lượng vũ trang để đanh đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng ta lần
thứ IV (1976) cũng đã chỉ rõ phương pháp cách mạng ở Miền nam là: “…sử dụng bạo lực với hai lực lượng, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến
hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao; kết hợp khởi
nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng; nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy; đấu tranh cả trên ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; đánh
địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; kết hợp ba thứ quân; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ…;
nắm vững phuơng châm chiến lược đánh lâu dài, đòng tời biết tạo thời cơ mở những đợt tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên tổng tiến công và nổi dậy
đè bẹp quân địch để giành thắng lợi cuối cùng” 4. Rõ ràng, với việc phân tích tình hình cụ thể của cách mạng miền Nam, Đảng ta đã biết vận dụng sức mạnh tổng hợp – nhưng
trong đó bạo lực cách mạng vẫn là yếu tố “trội”. Bạo lực cách mạng là sức mạnh của quần chúng – với hai lực lượng chính trị và vũ trang – dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hiện nay, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, Đảng ta cũng đã vận dụng vận dụng sức mạnh tổng hợp trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Tuy
nhiên, Đảng ta vẫn xác định sự cần thiết của việc nâng cao trí truệ của Đảng trong việc lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh”; xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị xã hội.
3.Một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
a. Đối với Đảng:
Để xứng đáng là đội tiên phong chính trị của giai cấp, của dân tộc cả về trí tuệ và năng lực đòi hỏi Đảng phải thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ trí tuệ và chất lượng công tác lý luận của Đảng để hoạch định được những quyết sách chính trị đúng đắn, khoa học. Các quyết sách chính trị đó phải
phản ánh đúng quy luật khách quan và yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, chỉ ra được phương hướng và giải pháp cơ bản của cách
mạng; trên cơ sở đó tập hợp, tổ chức, động viên quần chúng thực hiện một cách có hiệu quả. Thường xuyên coi trọng việc xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức;
đảm bảo nội bộ luôn luôn đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. Thường xuyên chăm lo công tác cán bộ, đổi
mới tư duy trong công tác cán bộ; làm tốt hơn nữa công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng, công chức
nhà nước thật sự trong sạch, có đủ đức - tài theo hướng đề cao các yêu cầu về lập trường chính trị, tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, có thái độ tôn
trọng luật pháp và thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân.Thường xuyên củng cố và tăng cường mối liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, kiên quyết chống quan liêu và xa rời quần chúng - đó là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là nhân tố tạo ra sức mạnh của
Đảng. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Đảng phải tập trung lãnh đạo Nhà nước xây dựng được một Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; lãnh đạo xây dựng hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, đồng bộ, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động;
thể chế hóa đúng đắn và kịp thời đường lối của Đảng và tăng cường pháp chế XHCN.Đảng phải luôn luôn dựa vào và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức này; khắc phục tình trạng hành chính hóa; vận động và tổ chức
nhân dân tham gia xây dựng, củng cố bộ máy Nhà nước, tham gia các công việc và giám sát, kiểm tra hoạt động của Nhà nước và các cán bộ công chức hoạt
động trong cơ quan nhà nước; đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, cùng các biểu hiện tiêu cực khác.Không ngừng nâng cao trình độ
dân trí - đặc biệt là trình độ văn hóa pháp lý, văn hóa dân chủ, văn hóa chính trị cho nhân dân lao động - nhằm làm cho nhân dân lao động hiểu biết và sử dụng
quyền dân chủ, thực hành dân chủ một cách đúng đắn.
Để xứng đáng là đội tiên phong chính trị của giai cấp, của dân tộc cả về trí tuệ và năng lực đòi hỏi Đảng phải thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ trí tuệ và chất lượng công tác lý luận của Đảng để hoạch định được những Quyết sách chính trị đúng đắn, khoa học. Các Quyết sách chính trị đó phải
phản ánh đúng quy luật khách quan và yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, chỉ ra được phương hướng và giải pháp cơ bản của cách
mạng; trên cơ sở đó tập hợp, tổ chức, động viên quần chúng thực hiện một cách có hiệu quả.
b. Đối với Nhà nước: Tiến hành cải cách đồng bộ đối với các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Cụ thể là: +Đối với cơ quan Quốc hội: Cần đổi mới quy trình chuẩn bị và
thông qua các dự án luật tại các kì họp Quốc hội; xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, xác định rõ cơ chế giám sát đối với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; từng bước phát triển tỷ lệ đại biểu quốc hội chuyên trách; coi trọng việc lấy ý kiến nhân dân trong quá trình xây dựng pháp luật và chuẩn bị những quyết
sách của Quốc hội. Trên cơ sở đổi mới Quốc hội mà kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động các cấp Hội đồng nhân dân. +Đối với Chính phủ và hệ thống các cơ
quan Hành pháp: Phải tiến hành cải cách hành chính một cách đồng bộ ở các phương diện thể chế, tổ chức bộ máy, cán bộ công chức, tài chính công. Trong cải cách thể chế
hành chính cần bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phiền phức nhũng nhiễu; đổi mới việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và thi hành pháp luật. Cải cách bộ

máy hành chính trước hết là bố trí lại cơ cấu, tổ chức Chính phủ cho tinh gọn, năng động và quản lý vĩ mô có hiệu quả hơn. Điều chỉnh cơ cấu các Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân
các cấp theo hướng gọn nhẹ, năng động, hiệu quả trong thực thi pháp luật chính sách, kế hoạch nhằm phục vụ phát triển kinh tế -xã hội trên cả nước. Đổi mới và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước trước hết là nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo lại cán bộ công chức theo yêu cầu mới của cải cách nhà nước. Đồng thời đổi mới việc
quản lý đánh giá, sử dụng, đãi ngộ cán bộ công chức.+Tiếp tục cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan Tư pháp: Nâng cao tinh thần trách nhiệm của
cơ quan và cán bộ Tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan, sai. Đối với Viện kiểm sát nhân dân cần tập
trung thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sóat hoạt động tư pháp. Đối với Tòa án nhân dân cần sắp xếp lại và phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các cấp. Đối với cơ
quan điều tra và cơ quan thi hành án cần được tổ chức lại theo hướng gọn đầu mối. Chú ý đến việc xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký tòa án, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp
hành viên, công chức viên, giám định viên, luật sư... có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí công, vô tư có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.
c. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân: Do tính quần chúng rộng rãi nên phương châm, phương
pháp hoạt động của các tổ chức này thể hiện ở tính tự nguyện, dân chủ, hiệp thương, phối hợp hành động, cùng có lợi trong một mục tiêu chung. Các tổ chức này cần quán triệt
chức năng, nhiệm vụ cơ bản của mình trong quá trình đổi mới, cải cách là: vừa bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên; vừa tổng hợp, vận động đoàn kết giúp nhau chấp
hành tốt đường lối của Đảng, luật pháp và chính sách của Nhà nước vì lợi ích của mình và của toàn dân tộc. Tăng cường những hoạt động có tính phản biện xã hội đối với các
QSCT của Đảng và Nhà nước.

2

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tập 1, NXB ST, HN, 1981, tr 420.

3

Tam hòa: Đấu tranh hòa bình, thi đua hòa bình, quá độ hòa bình (dẫn theo bài viết của TS. Trần Tăng Khởi trong sách Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
và 30 năm xây dựng CNXN. NXB Đà Nẵng 2005, tr 30)
4

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ IV. NXB ST, HN, 1977, tr 25 -26.

2


Bên cạnh đó cần xây dựng những thiết chế cụ thể để bảo đảm cho nhân dân trực tiếp bày tỏ ý kiến và nguyện vọng của mình trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi ích

hợp pháp của chính bản thân họ, trong việc tham gia xây dựng, quản lý nhà nước và xã hội. Cần tiếp tục thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; khắc phục tệ nạn quan liêu, tham
nhũng, mất dân chủ, gây phiền hà cho nhân dân; chủ động giải quyết kịp thời các khiếu kiện của dân; đặc biệt cần sớm nghiên cứu và ban hành Luật trưng cầu dân ý.

3



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×