Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

GIÁO TRÌNH THỰC HÀNH HÓA HỌC PHÂN TÍCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 161 trang )

www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

2

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
XY ZW

LÊ THỊ MÙI

HÓA HỌC PHÂN TÍCH
(Giáo trình dùng cho sinh viên chuyên ngành Sinh Môi trường, Hóa kỹ thuật)

Đà Nẵng, 2006




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

3

LỜI MỞ ĐẦU
Hóa học phân tích là môn khoa học về các phương pháp xác định thành phần
định tính và định lượng của các chất và hỗn hợp của chúng. Như vậy, hóa phân tích
bao gồm các phương pháp phát hiện, nhận biết cũng như các phương pháp xác định
hàm lượng của các chất trong các mẫu cần phân tích.
Phân tích định tính nhằm xác định chất phân tích gồm những nguyên tố hóa học
nào, những ion, những nhóm nguyên tử hoặc các phần tử nào có trong thành phần
chất phân tích. Khi nghiên cứu thành phần một chất chưa biết, phân tích định tính
phải được tiến hành trước phân tích định lượng vì việc chọn phương pháp định lượng


các hợp phần của chất phân tích phụ thuộc vào các dữ liệu nhận được khi phân tích
định tính chất đó.
Phân tích định tính dựa vào sự chuyển chất phân tích thành hợp chất mới nào
đó có những tính chất đặc trưng như có màu, có trạng thái vật lý đặc trưng, có cấu
trúc tinh thể hay vô định hình, ...
Phân tích định lượng cho phép xác định thành phần về lượng các hợp phần của
chất cần phân tích.
Nội dung của hóa học phân tích là giải quyết những vấn đề chung về lý thuyết
của phân tích hóa học, hoàn thiện những luận thuyết riêng về các phương pháp phân
tích hiện có và sẽ được xây dựng.
Hóa học phân tích đóng vai trò quan trọng và có thể nói đóng vai trò sống còn
đối vối sự phát triển các môn hóa học khác cũng như các ngành khoa học khác nhau,
các lĩnh vực của công nghệ, sản xuất và đời sống xã hội. Chỉ cần đơn cử một ví dụ:
Muốn tổng hợp một chất mới rồi nghiên cứu các tính chất cũng như những ứng dụng
của nó nhất thiết phải sử dụng các phương pháp phân tích thích hợp để xác định
thành phần nguyên tố, mức độ tinh khiết, xác định cấu trúc của nó. Chính vì thế,
Engel đã từng nói: “Không có phân tích thì sẽ không có tổng hợp”.
Do có tầm quan trọng như vậy nên một loạt các chuyên ngành của khoa học
phân tích đã ra đời và ngày càng phát triển mạnh như: Phân tích môi trường, Phân
tích khoáng liệu, Phân tích hợp kim, kim loại, Phân tích lâm sàng, Phân tích dược
phẩm, Phân tích thực phẩm, ...
Khi phân tích một đối tượng nào đó, nhà phân tích phải thực hiện các bước sau
đây:
a. Chọn phương pháp phân tích thích hợp và các vấn đề cần giải quyết. Khi thực
hiện bước này cần phải đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng, ý nghĩa pháp lý và kinh tế
của công việc phân tích, chú ý đến độ đúng đắn, độ lặp lại và tính khả thi của phương
pháp phân tích.
b. Chọn mẫu đại diện là mẫu có thành phần phản ánh đúng nhất cho thành phần
của đối tượng phân tích. Từ mẫu đại diện tiến hành chọn và chuẩn bị mẫu thí nghiệm
là mẫu dùng để tiến hành phân tích chất cần xác định. Sau đó thực hiện việc biến

mẫu này thành dung dịch phân tích.
c. Tách chất: Để phân tích các mẫu có thành phần phức tạp thường phải tách hoặc
là các chất lạ, các chất ngăn cản phép xác định chất cần phân tích hoặc tách riêng




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

4
chất cần phân tích ra khỏi hỗn hợp với các chất khác.
d. Tiến hành định lượng chất cần phân tích, tức là thực hiện các thao tác, các
phép đo đạc phân tích để xác định nồng độ hoặc hàm lượng chất cần phân tích trong
dung dịch mẫu đã chuẩn bị trong bước trên.
e. Tính toán kết quả phân tích, đánh giá độ tin cậy của các kết quả đó.
Tất cả các bước trên đều có tầm quan trọng và liên quan mật thiết với nhau
không thể bỏ qua và coi nhẹ bước nào cả.
Tùy thuộc vào bản chất của các phương pháp phân tích mà người ta chia chúng
thành các nhóm chủ yếu sau:
1. Các phương pháp hóa học: Các phương pháp này ra đời sớm nhất, nên đến
nay người ta thường gọi nhóm phương pháp này là nhóm các phương pháp phân tích
cổ điển. Để phân tích định lượng một chất nào đó bằng phương pháp này, người ta
chỉ dùng các thiết bị và dụng cụ đơn giản (như buret, pipet, cân, ...) để thực hiện các
phản ứng hóa học. Nhóm phương pháp này chỉ dùng để định lượng các chất có hàm
lượng lớn (đa lượng) nhưng chính xác, cho nên đến nay phương pháp này vẫn được
dùng nhiều trong các phòng thí nghiệm phân tích.
2. Các phương pháp phân tích vật lý: Đó là những phương pháp phân tích dựa
trên việc đo các tín hiệu vật lý của các chất phân tích như phổ phát xạ, độ phóng xạ,
... các phương pháp này cần dùng những máy đo phức tạp.
3. Các phương pháp phân tích hóa lý: Đó là những phương pháp kết hợp việc

thực hiện các phản ứng hóa học sau đó đo các tín hiệu vật lý của hệ phân tích, như sự
thay đổi màu sắc, độ đục, độ phát quang, độ dẫn điện, ...
Các phương pháp phân tích hóa lý cũng như vật lý đòi hỏi phải dùng những
máy đo phức tạp, vì vậy chúng có tên chung là các phương pháp phân tích công cụ.
Các phương pháp phân tích công cụ ra đời sau các phương pháp phân tích hóa
học, chúng cho phép phân tích nhanh, có thể xác định lượng nhỏ chất phân tích khá
chính xác nên được ứng dụng rất rộng rãi. Với sự phát triển vũ bão của kỹ nghệ điện
tử, các ngành kỹ thuật mới và những yêu cầu ngày càng cao của các ngành khoa học
và công nghệ sản xuất hiện đại đã đòi hỏi và thúc đẩy các phương pháp phân tích
công cụ ngày càng được phát triển và hoàn thiện để đáp ứng các nhiệm vụ ngày càng
nặng nề của ngành phân tích hiện đại.
Cơ sở lý thuyết chung của hóa học phân tích là lý thuyết về các phản ứng hóa
học dùng trong phân tích. Trong giáo trình này chỉ đề cập đến lý thuyết của các loại
phản ứng phân tích và các phương pháp hóa học sử dụng các loại phản ứng đó.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn mọi độc giả góp ý kiến phê bình và đề nghị về
quyển sách này.
Tác giả




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

5

CHƯƠNG 1

DUNG DỊCH CHẤT ĐIỆN LY – CÂN BẰNG HÓA HỌC
1.1. Chất điện ly mạnh và yếu.
Các chất điện ly mạnh trong dung dịch thực tế phân ly hoàn toàn. Đa số các

muối tan, kiềm và axít mạnh đều thuộc nhóm này.
Trong dung dịch, các chất điện ly yếu phân ly không hoàn toàn. Các axit yếu,
bazơ yếu và phức chất là các chất điện ly yếu. Để đặc trưng cho khả năng phân ly
của các chất trong dung dịch, người ta dùng hai đại lượng là độ điện ly α và hằng số
điện ly (hằng số cân bằng).
Độ điện ly và hằng số điện ly liên hệ với nhau theo hệ thức Ostvant như sau:
K=C

α2
, trong đó c là nồng độ ban đầu của chất tan.
1− α

1.2. Cân bằng hóa học và hoạt độ.
1.2.1. Nhắc lại một số kiến thức cần dùng
Trong hóa học, khi tính toán người ta hay dùng nồng độ mol/l, cần phân biệt
các khái niệm:
Nồng độ gốc C0 là nồng độ của chất trước khi đưa vào hỗn hợp phản ứng.
Nồng độ ban đầu C là nồng độ của chất trước khi tham gia phản ứng. Nồng độ
ban đầu khác với nồng độ gốc là do sự thay đổi thể tích khi trộn các thuốc thử với
nhau: C i =

C i0 Vi0
.
V

Vi0 là thể tích thuốc thử i đã lấy để đưa vào hỗn hợp phản ứng. V là tổng thể
tích của hỗn hợp phản ứng.
Khi một phản ứng đạt trạng thái cân bằng thì nồng độ các chất tham gia phản
ứng tại thời điểm đó được gọi là nồng độ cân bằng. Nồng độ cân bằng thường được
ký hiệu trong ngoặc vuông [ ].

Ví dụ:
Trong dung dịch HCl: HCl = H+ + Cl- thì [HCl] = 0 nên CHCl = [Cl-]
CH3COO- + H+
Trong dung dịch CH3COOH: CH3COOH
C CH 3COOH = [CH 3 COOH] + [CH 3 COO − ]

Theo định luật bảo toàn nồng độ thì nồng độ ban đầu của một cấu tử nào đó
bằng tổng nồng độ cân bằng của các dạng tồn tại của cấu tử đó ở trong dung dịch tại
thời điểm cân bằng.
Ví dụ: Biểu diễn định luật bảo toàn nồng độ ban đầu đối với ion PO43- trong
dung dịch Na3PO4 0,1M.
H+ + OHTrong dung dịch ta có Na3PO4 = 3Na+ + PO43- ; H2O
32+
HPO4
PO4 + H
2+
H2PO4HPO4 + H
+
H3PO4
H2PO4 + H




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

6
C Na 3PO 4 = C PO3− = 0,1
4


C PO3− = 0,1 = [PO 34− ] + [HPO 24− ] + [H 2 PO 4− ] + [H 3 PO 4 ]
4

Một dạng khác của định luật bảo toàn nồng độ là định luật bảo toàn điện tích.
Theo định luật này thì để đảm bảo tính trung hòa điện của dung dịch chất điện ly,
tổng điện tích âm của các anion có mặt trong dung dịch phải bằng tổng điện tích
dương của các cation có mặt trong dung dịch. Số điện tích tuyệt đối từng loại ion có
được bằng số ion tương ứng có mặt trong dung dịch nhân với điện tích của nó. Như
vậy tổng điện tích q mà mỗi loại ion có bằng tích nồng độ cân bằng của ion đó với số
Avôgađrô N và điện tích n của mỗi ion.
q = N[ ]n
Ví dụ: Trong dung dịch Na3PO4 ở trên ta có:
N[Na+] + N[H+] = N[OH-] + N[H2PO4-] + N[HPO42-].2 + N[PO43-].3
Và ta có: [Na+] + [H+] = [OH-] + [H2PO4-] + 2[HPO42-] + 3[PO43-].

1.2.2. Cân bằng và hằng số cân bằng.
Trong hóa học phân tích ta thường phải tính nồng độ cân bằng của các chất
tham gia và được tạo thành trong các phản ứng phân tích, tức là nồng độ của chất đó
khi phản ứng đạt tới trạng thái cân bằng. Để tính các nồng độ cân bằng, người ta
thường sử dụng biểu thức của hằng số cân bằng được thiết lập bằng cách dùng định
luật tác dụng khối lượng. Giả sử xét cân bằng hóa học:
mA + nB + ...
pC + qD + ...
trong đó A, B, C, D ... là những cấu tử tham gia cân bằng mà chúng không tích điện.
áp dụng định luật tác dụng khối lượng, ta có:
[ C] p [ D ] q
=K
[A]m [B]n

(1.1)


trong đó [A], [B], [C], [D], ... là nồng độ cân bằng của các chất A, B, C, D, ... và K là
hằng số cân bằng, là đại lượng chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ. Nếu A, B, C, D, ... là
những ion thì ta phải tính đến sự tương tác giữa chúng với nhau nên trong biểu thức
(1.1) ta phải thay nồng độ bằng hoạt độ.
Hoạt độ a của một chất được xác định bằng hệ thức:
a = fC
(1.2)
trong đó, C là nồng độ của ion; f là hệ số hoạt độ.
Đại lượng f phụ thuộc vào lực ion µ của dung dịch. Lực ion µ biểu thị tương tác
tĩnh điện giữa các ion trong dung dịch.
Nếu Z1, Z2, ... là điện tích và C1, C2, ... là nồng độ của các ion trong dung dịch
thì lực ion µ được xác định bằng hệ thức:
1
µ = ( Z12 C1 + Z 22 C 2 + ...)
2

(1.3a)

Hoặc dưới dạng tổng quát:
µ=

1 i 2
∑ Zi Ci
2 i =1

(1.3b)

Nếu µ gần bằng 0 tức là dung dịch rất loãng, tương tác tĩnh điện giữa các ion
không đáng kể, thì f bằng 1, hoạt độ bằng nồng độ.





www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

7

* Khi µ < 0,02 thì f được tính bằng hệ thức:
1
lg f = − Z 2 µ
2

(1.4)

Ví dụ 1: Tính hoạt độ của các ion trong dung dịch hỗn hợp KCl 10-3M, MgSO4
10 M.
Tính lực ion µ của dung dịch:
µ = 0,5(1.10-3 + 1.10-3 + 22.10-3 + 22.10-3) = 5.10-3
-3

µ = 7.10 −2 = 0,07

Tính hệ số hoạt độ của các ion:
log f = lg f Cl = −0,05.1.0,07 = −0,035


f K + = f Cl− = 0,92
log f Mg 2+ = log f SO 2 − = −0,5.2 2.0,07 = −0,14
4


f Mg 2 + = f SO 2 − = 0,72
4

Tính hoạt độ các ion:
a K + = a Cl − = 0,92.10 −3 = 9,2.10 −4 mol.l −1

a Mg 2 + = a SO2 − = 0,72.10 −3 = 7,2.10 −4 mol.l −1
4

* Khi 0,02 < µ <0,2 thì f được tính bằng hệ thức:
log f = −0, 5

Z2 µ

(1.5)

1+ µ

Ví dụ 2: Tính hoạt độ của các ion trong dung dịch KCl 0,1M.
Lực ion µ của dung dịch:
µ = 0,5(12.0,1 + 12.0,1) = 0,1.
µ = 0,32

Hệ số hoạt độ của các ion:
log f K + = lg f Cl− =

0,5.12.0,32
= 0,121
1 + 0,32


f = 0,757
Hoạt độ của các ion:
a K + = a Cl − = 0,757.10 −1.mol.l −1

* Khi µ > 0,2 thì hệ số hoạt độ f được tính bằng công thức:
log f = −0,52

Z2 µ
1+ µ

+ hµ

(1.6)

trong đó h là hệ số thay đổi cùng với ion.
Thực nghiệm cho thấy rằng, trong dung dịch loãng có lực ion µ gần giống nhau
thì f của các ion có điện tích bằng nhau gần giống nhau (bảng 1.1)




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

8

Lực ion (µ)
0,001
0,005
0,01

0,05
0,1

Điện tích 1
0,96
0,92
0,89
0,81
0,77

Bảng 1.1 Hệ số F
Điện tích 2
Điện tích 3
0,86
0,73
0,72
0,51
0,63
0,39
0,44
0,15
0,33
0,08

Điện tích 4
0,56
0,30
0,19
0,04
0,01


Nếu A, B, C, D, ... trong hệ thức (1.1) là những ion, tức là những phần tử tích
điện, thì biểu thức hằng số cân bằng có dạng sau:
a Cp a qD
= Ka
a mA a nB

(1.7)

Trong trường hợp này, Ka được gọi là hằng số cân bằng hoạt độ hay hằng số
cân bằng nhiệt động, đại lượng này chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ (không phụ thuộc vào
hoạt độ). Thay a = fC vào biểu thức (1.7):
Ka =

[C] p [D]q ...f Cp f Dq
f Cp f Dq
=
K
C
[A]m [B]n ...f Am f Bn
f Am f Bn

(1.8)

trong đó, Kc được gọi là hằng số cân bằng nồng độ, đại lượng này phụ thuộc vào
nhiệt độ.
Các hằng số cân bằng của các hệ khác nhau, ví dụ hằng số axit, hằng số bazơ,
tích số ion của nước, tích số tan của các chất khó tan, hằng số bền và không bền của
các phức chất ghi trong các tài liệu thường là các hằng số hoạt độ. Trong thực tế, để
tính toán được đơn giản, khi tính nồng độ các ion trong dung dịch, hằng số cân bằng

hoạt độ thường được coi bằng hằng số cân bằng nồng độ, tức là ta bỏ qua sự tương
tác tĩnh điện của các ion trong dung dịch và coi hệ số hoạt độ bằng 1. Kết quả tính
toán, như vậy sẽ thiếu chính xác. Nhưng vì ta thường dùng các dung dịch loãng nên
sai số có thể nằm trong giới hạn có thể chấp nhận được.
Trong các chương sau, để đơn giản hóa việc tính toán, hệ số hoạt độ thường
được coi bằng 1.
Giả sử chúng ta phải xét cân bằng trên mà các chất A, B, C, D, ... trong đó còn
tham gia vào các phản ứng phụ khác (như phản ứng trao đổi proton, phản ứng tạo
phức chất, phản ứng tạo kết tủa) thì nồng độ của chúng tham gia vào cân bằng trên sẽ
giảm đi, nghĩa là các phản ứng phụ đã ảnh hưởng đến cân bằng đó. Để biểu thị ảnh
hưởng của các phản ứng phụ đến cân bằng , người ta thường dùng một dạng hằng số
gọi là hằng số điều kiện. Gọi [A’], [B’], [C’], [D’], ... là tổng nồng độ cân bằng của
các dạng của A, B, C, D, ... trong dung dịch thì [A], [B], [C], [D] chỉ bằng một phần
của các nồng độ [A’], [B’], [C’], [D’], tức là:
[A] = [A’]αA ; [B] = [B’] αB
trong đó αA, αB là các hệ số nhỏ hơn 1 là những đại lượng biểu thị ảnh hưởng của
các phản ứng phụ tới nồng độ của A, B, C, D, ... tự do.
Thay các nồng độ cân bằng [A], [B], ... trên vào hệ thức biểu diễn hằng số cân
bằng nồng độ của cân bằng trên, ta có:




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

9

Kc =

[C]p α Cp [D]q α qD

[C]p [D]q α Cp α qD
α Cp α qD
[C]p [D]q ...
=
=
=
K
'
[A]m [B]n ... [A' ]m α mA [B' ] n α nB [A]m [B]n α mA α nB
α mA α nB

(1.9)

Đại lượng K’ trong hệ thức (1.9) được gọi là hằng số cân bằng điều kiện, nó
không những phụ thuộc vào nhiệt độ, vào lực ion của dung dịch mà còn phụ thuộc
vào cả nồng độ của các chất khác tức là phụ thuộc vào điều kiện của dung dịch trong
đó cân bằng chính (a) được thiết lập. Các ví dụ cụ thể sẽ được trình bày trong các
chương sau.
Trong các phương pháp hóa học nói riêng cũng như trong tất cả các phương
pháp của phân tích nói chung, người ta thường nghiên cứu sử dụng các loại cân bằng
chính sau đây:
- Cân bằng axit - bazơ (hoặc cân bằng trao đổi proton)
- Cân bằng tạo phức.
- Cân bằng kết tủa.
- Cân bằng oxy hóa khử (hoặc cân bằng trao đổi electron).
Trước khi đi vào xét cơ sở lý thuyết của các loại cân bằng trên và ứng dụng của
chúng trong các phương pháp hóa học cũng như hóa lý của chúng, chúng ta hãy đề
cập đến nguyên tắc của các phương pháp hóa học: phương pháp phân tích khối lượng
và phân tích thể tích.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Minh Châu, Từ Văn Mặc, Từ Vọng Nghi. Cơ sở hóa học phân tích,
NXB KH & KT, 2002.
2. Lê Đức, Hóa học phân tích. NXB ĐH Quốc Gia Hà Nội, 2002.
3. Nguyễn Tinh Dung phần I, II, III. Hóa học phân tích. NXB Giáo dục, 2000.
4. Trần Tứ Hiếu, Hóa học phân tích, NXB ĐHQG Hà Nội, 2002.




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

10

CHƯƠNG 2

ĐẠI CƯƠNG VỀ PHÂN TÍCH KHỐI LƯỢNG
VÀ PHÂN TÍCH THỂ TÍCH
2.1. Nguyên tắc chung của phương pháp phân tích khối lượng
Phương pháp phân tích khối lượng là phương pháp phân tích định lượng cổ
điển. Tuy phương pháp này ra đời đã lâu nhưng đến nay nó vẫn đóng vai trò đắc lực
trong các phương pháp xác định, nhất là để xác định chất có hàm lượng lớn và trung
bình trong mẫu phân tích. Phương pháp này có thể dùng để xác định hầu hết các
nguyên tố có độ chính xác và tin cậy cao.
Đây là phương pháp phân tích định lượng dựa vào kết quả cân khối lượng của
sản phẩm hình thành sau phản ứng kết tủa bằng phương pháp hóa học hay phương
pháp vật lý. Do chất phân tích chiếm một tỷ lệ xác định trong sản phẩm đem cân nên
dựa vào khối lượng của sản phẩm đem cân dễ dàng suy ra lượng chất phân tích trong
đối tượng phân tích.
Quá trình phân tích một chất theo phương pháp khối lượng:

- Chọn và gia công mẫu.
- Đưa mẫu vào dung dịch (phá mẫu) và tìm cách tách chất nghiên cứu khỏi
dung dịch (làm phản ứng kết tủa hay định phân).
- Xử lý sản phẩm đã tách ra bằng các biện pháp thích hợp (rửa, nung, sấy, ...)
rồi đem cân để tính kết quả.
Ví dụ: Để xác định magie, người ta tiến hành như sau:
Hòa tan mẫu phân tích trong dung môi thích hợp để chuyển toàn bộ lượng
magie vào dung dịch dưới dạng ion Mg2+. Chế hóa dung dịch bằng các thuốc thử
thích hợp để kết tủa hoàn toàn và chọn lọc ion Mg2+ dưới dạng hợp chất khó tan
MgNH4PO4. Lọc, rửa kết tủa rồi sấy và nung nó ở nhiệt độ thích hợp để chuyển hoàn
toàn thành hợp chất Mg2P2O7. Cuối cùng cân để xác định khối lượng của nó. Dựa
vào công thức của kết tủa và khối lượng vừa cân được sẽ tính được hàm lượng Mg
trong mẫu phân tích. Trong ví dụ này hợp chất MgNH4PO4 được kết tủa để tách định
lượng magie nên được gọi là dạng kết tủa còn Mg2P2O7 là hợp chất được tạo thành
sau khi nung dạng kết tủa và được cân để xác định hàm lượng của magie nên được
gọi là dạng cân. Phương pháp phân tích khối lượng magie như trên được gọi là
phương pháp kết tủa. Phương pháp kết tủa là phương pháp được sử dụng phổ biến
nhất trong phân tích khối lượng.
2.2. Giới thiệu về các phương pháp phân tích khối lượng.
2.2.1. Phương pháp đẩy.
Dựa vào việc tách thành phần cần xác định ở dạng đơn chất rồi cân.
Ví dụ: Xác định lượng vàng trong một hợp kim như sau: hòa tan hợp kim bằng
nước cường toan thành dung dịch. Đem chế hóa dung dịch đó bằng những thuốc thử
thích hợp rồi khử chọn lọc và định lượng vàng (III) thành vàng kim loại Au. Đem lọc
rửa kết tủa Au rồi sấy và nung đến khối lượng không đổi, làm nguội rồi cân.
2.2.2. Phương pháp kết tủa.
Trong phương pháp này ta dùng phản ứng kết tủa để tách chất nghiên cứu ra khỏi





www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

11
dung dịch phân tích, thu lấy kết tủa, lọc, rửa, đem nung rồi cân kết quả.
Ví dụ: Khi cần phân tích lượng sắt (Fe) trong một dung dịch ta có thể dùng phản
ứng tạo kết tủa Fe(OH)3 bằng thuốc thử như NH3, lọc kết tủa Fe(OH)3, nung và cân ở
dạng Fe2O3, từ khối lượng Fe2O3 thu được ta dễ dàng tính được lượng Fe trong dung
dịch nghiên cứu.
2.2.3. Phương pháp điện phân
Người ta điện phân để tách kim loại cần xác định trên catốt bạch kim. Sau khi kết
thúc điện phân, đem sấy điện cực rồi cân và suy ra lượng kim loại đã thoát ra trên cực
bạch kim. Phương pháp này thường được dùng để xác định các kim loại trong môi
trường đệm pH = 7.
2.2.4. Phương pháp chưng cất
Trong phương pháp này chất đem phân tích được chưng cất trực tiếp hay gián
tiếp. Trong phương pháp chưng cất trực tiếp, chất đem phân tích được chuyển sang
dạng bay hơi rồi hấp thụ nó vào chất hấp thụ thích hợp. Khối lượng của chất hấp phụ
tăng lên một lượng tương ứng với chất đã hấp thụ vào.
Ví dụ: Khi cần phân tích CO2 trong đá vôi ta có thể phân hủy lượng cân mẫu
trong một dụng cụ riêng bằng axít rồi hấp thụ toàn bộ khí CO2 giải phóng ra vào chất
hấp thụ thích hợp như hỗn hợp CaO và NaOH hay Ba(OH)2. Cân khối lượng chất hấp
thụ trước và sau khi hấp thụ sẽ tính được lượng CO2 trong đá vôi. Trong phương pháp
chưng cất gián tiếp, người ta đun cho bay hơi hết chất cần phân tích. Ví dụ: Có thể xác
định hàm lượng nước kết tinh trong các loại muối bằng cách sấy dưới một nhiệt độ xác
định.
Nói chung phương pháp chưng cất không phải là phổ biến vì nó chỉ được áp
dụng khi mẫu phân tích có chứa chất bay hơi hoặc dễ dàng chuyển sang chất bay hơi.
Sau đây ta chỉ nghiên cứu 2 phương pháp chính, đó là phương pháp kết tủa và
phương pháp điện phân.

2.3. Phương pháp kết tủa.
2.3.1. Nội dung và yêu cầu của kết tủa trong phương pháp kết tủa.
Phương pháp kết tủa là phương pháp dựa vào việc cân sản phẩm tách ra bằng
phản ứng kết tủa. Trong phương pháp này người ta thực hiện một loạt các thao tác như
lọc, rửa, sấy, nung, ... Trong quá trình nung, thành phần của kết tủa có thể thay đổi. Vì
vậy người ta phân biệt 2 dạng: dạng kết tủa và dạng cân.
2.3.1.1. Yêu cầu của dạng kết tủa.
- Dạng kết tủa phải có độ tan nhỏ thì mới kết tủa được hoàn toàn chất cần xác
định. Thực tế cho thấy rằng đối với các kết tủa loại AB, ví dụ: BaSO4, AgCl, ... thì
tích số tan phải bé hơn 10-8 mới sử dụng được còn tích số tan lớn hơn 10-8 thì không sử
dụng. Chất phân tích được làm kết tủa một cách định lượng, ví dụ kết tủa tới 99,99%.
- Dạng kết tủa phải tinh khiết, tinh thể hạt to để khỏi lấp lỗ giấy lọc, giảm bớt
hiện tượng cộng kết và dễ lọc, rửa để có thể tách ra khỏi dung dịch một cách nhanh
chóng và thuận lợi nhất.
Kết tủa vô định hình và đặc biệt là lại đông tụ như Al(OH)3 có bề mặt tiếp xúc
lớn nên hiện tượng cộng kết ở đây rất lớn, khó rửa và lọc rất chậm. Trong một số
trường hợp, người ta có thể tạo điều kiện thích hợp để thu nhận được kết tủa tinh thể
hạt lớn.




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

12

- Dạng kết tủa phải dễ dàng chuyển sang dạng cân.
2.3.1.2. Yêu cầu của dạng cân
- Thành phần kết tủa sau khi sấy hoặc nung phải ứng đúng công thức định
trước.

Ví dụ: Al(OH)3 có dạng cân thường ngậm một số phân tử nước nên muốn
chuyển thành dạng Al2O3, ta phải nung đến nhiệt độ trên 11000C. Trong trường hợp
này ta có thể chọn dạng kết tủa là các muối bazơ của nhôm để chuyển thành Al2O3
ngay ở nhiệt độ 6400C hơn ở dạng Al(OH)3.
- Kết tủa thu được sau khi nung phải bền và ít hút ẩm, khó bị oxy hóa trong
không khí. Yêu cầu này cũng nhằm đảm bảo cho chất sau khi nung ứng với công
thức định trước. Ví dụ: Kết tủa CaO dễ dàng hấp phụ H2O và CO2 từ không khí,
thường người ta chuyển sang dạng CaSO4 bằng cách cho tác dụng với axit sunfuaric.
- Hàm lượng của chất cần phân tích trong dạng cân càng ít càng tốt. Như vậy
sẽ giảm được sai số hệ thống của kết quả phân tích. Ví dụ: Cùng một đại lượng về sai
số tuyệt đối, trong khi xác định Cr dưới dạng kết tủa BaCrO4 và Cr2O3 thì sai số về
lượng Cr tìm được trong BaCrO4 sẽ bé gấp 3,5 lần khi tìm ở Cr2O3. Ví dụ: Khi xác
định Cr, nếu mất đi 1mg kết tủa thì đối với dạng cân là Cr2O3 sẽ mất đi 0,7mg Cr còn
với dạng BaCrO4 chỉ mất 0,2mg Cr.
2.3.2. Điều kiện để tiến hành phân tích theo phương pháp kết tủa.
2.3.2.1. Thuốc thử.
Thuốc thử dùng trong phân tích khối lượng có thể là thuốc thử hữu cơ hay vô
cơ. Trong quá trình tạo kết tủa hiện tượng cộng kết xảy ra rất mạnh, trong số ion bị
cộng kết có cả ion của thuốc kết tủa mà khi rửa cũng không thể sạch hoàn toàn được.
Vì vậy cần chọn thuốc thử dễ bay hơi hoặc dễ phân hủy trong quá trình nung sấy. Ví
dụ: khi kết tủa Fe3+ dưới dạng Fe(OH)3 thì dùng NH4OH chứ không dùng KOH hay
NaOH, kết tủa Ba2+ thì dùng H2SO4 chứ không dùng Na2SO4 hay K2SO4. Ag+ thì
dùng HCl chứ không dùng NaCl. Nhưng nguyên tắc này không phải dùng lúc nào
cũng được. Ví dụ: kết tủa Cu(OH)2 người ta không dùng NH4OH bởi nếu thừa
NH4OH sẽ tạo phức [Cu(NH3)4]2+ mà phải dùng KOH hay NaOH. Trong trường hợp
này cần phải rửa kết tủa cẩn thận.
Thuốc thử càng có độ chọn lọc cao càng tốt. Vì như vậy sẽ tránh được hiện
tượng các kết tủa khác cùng kết tủa theo kết tủa chính. Ví dụ: khi xác định ion Al3+
bằng NH4OH và cân dưới dạng Al2O3. Nếu có mặt Fe3+ thì cũng tạo Fe2O3. Do đó
trong trường hợp này người ta dùng Na2S2O3:

2Al3+ + 3S2O32- + 3H2O → 2Al(OH)3 + 3S + 3SO2
Lọc và rửa kết tủa (Al(OH)3 + S) rồi nung thì lưu huỳnh cháy hết còn Al2O3.
Ion Fe3+ trong trường hợp này không kết tủa mà bị khử tới Fe2+.
Lượng thuốc thử cũng đóng vai trò rất quan trọng trong phương pháp khối
lượng. Thực tế cho thấy rằng không tồn tại kết tủa nào mà lại hoàn toàn không tan
trong nước. Do vậy tích số tan luôn luôn lớn hơn 0. Từ đó ta thấy rằng không thể kết
tủa hoàn toàn bất kỳ một chất ít tan nào từ dung dịch. Trong phân tích định tính
người ta thấy rằng quá trình kết tủa được coi là hoàn toàn khi lượng ion cần xác định
còn lại trong dung dịch ít đến mức mà không thể dùng phản ứng nào để nhận ra
được. Tương tự như vậy trong phương pháp khối lượng quá trình kết tủa được coi là




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

13
hoàn toàn khi hàm lượng ion còn lại trong dung dịch không vượt quá 0,0002g. Thông
thường thì đối với các kết tủa có độ tan bé ta chỉ cần lượng thuốc kết tủa tương
đương với lượng tính theo phương trình phản ứng là đủ để thu được kết tủa hoàn
toàn. Khi kết tủa có độ tan không đủ nhỏ hoặc chất phân tích ở trong dung dịch khá
loãng, để đảm bảo kết tủa hoàn toàn ta cần tăng lượng thuốc kết tủa để làm giảm độ
tan của kết tủa. Có nhiều trường hợp việc tăng lượng thuốc kết tủa không những làm
giảm tính tan mà còn làm tăng tính tan theo hiệu ứng muối, sự tạo phức, muối axit
tan, do kết tủa là lưỡng tính ... Thường người ta dùng lượng thuốc thử dư gấp 1,5 lần
lượng cần thiết tính theo phương trình phản ứng.
2.3.2.2. Nồng độ thuốc thử.
Đối với kết tủa là dạng vô định hình hay tinh thể ta có yêu cầu về nồng độ khác
nhau.
- Kết tủa vô định hình:

Với kết tủa vô định hình thì tốt nhất là kết tủa từ các dung dịch đặc, nóng. Khi
làm kết tủa vô định hình ta cần chú ý đến xu hướng dễ tạo thành dung dịch keo của
chúng. Muốn làm đông tụ keo thì người ta cho thêm chất điện ly nào đó có ion khác
dấu với ion bị hấp phụ: các muối amonium hoặc các axit (nếu axit không làm tăng độ
hòa tan của kết tủa). Sau khi kết tủa xong để dễ lọc và giảm sự nhiễm bẩn do hấp
phụ, ta pha loãng dung dịch gấp đôi bằng nước cất nóng. Lúc này cân bằng hấp phụ
sẽ bị phá và một phần ion bị hấp phụ sẽ lại rời bề mặt kết tủa để đi vào dung dịch.
Kết tủa thu được sẽ chắc, ít bị nhiễm bẩn. Sau khi làm kết tủa phải lọc và rửa ngay
chứ không nên để lâu, để lâu là bất lợi vì trong một số kết tủa có thể bị đặc quánh lại
không rửa sạch được. Ngoài ra khi làm kết tủa vô định hình ta thường dùng các dung
dịch kiềm cho nên kết tủa sẽ bị nhiễm bẩn các chất khó bay hơi. Ví dụ SiO2 từ thủy
tinh lẫn vào.
- Kết tủa tinh thể
Với kết tủa là tinh thể, để có kết tủa lớn hạt ta phải làm giảm độ quá bão hòa
của dung dịch bằng cách kết tủa từ dung dịch loãng. Để tăng độ tan S của kết tủa
trong quá trình kết tủa người ta tăng nhiệt độ hay thêm chất nào đó để tăng độ tan.
Sau khi kết tủa xong cần làm muồi kết tủa bằng cách ngâm một thời gian kết tủa vào
trong nước cái để thu được kết tủa có kích thước lớn, đồng đều, dễ lọc, dễ rửa. Nói
chung để thu được kết tủa tinh thể phải tuân theo 5 nguyên tắc (xem trang 129). Cơ
chế của quá trình làm muồi kết tủa tinh thể như sau:
Vì tinh thể lớn có độ hòa tan bé nên dung dịch bão hòa đối với tinh thể lớn vẫn
chưa bão hòa đối với tinh thể bé nên tinh thể bé phải tan ra. Lúc này dung dịch lại
thành quá bão hòa đối với tinh thể lớn và chất tan lại bám lên bề mặt tinh thể lớn.
Bây giờ dung dịch lại thành chưa bão hòa đối với tinh thể bé do đó tinh thể bé lại tiếp
tục tan ra. Nhiệt độ tăng sẽ làm tăng tốc độ làm muồi kết tủa. Sau khi làm muồi ta
được không những một kết tủa dễ lọc mà còn tinh khiết hơn. Đối với các loại kết tủa
keo kị nước thì hiệu quả này không rõ lắm và trong vài trường hợp còn cho kết quả
xấu. Ví dụ người ta xác định được là lượng các ion Co2+, Ni2+, Zn2+ bị kết tủa
Fe(OH)3 kéo theo sẽ tăng dần theo thời gian. Điều đó có nghĩa là đã có sự hình thành
dần những hợp chất hóa học (các ferit) giữa hydroxyt sắt và các cation kể trên. Để

giảm sự hao hụt do tính tan, trước khi lọc người ta thường làm lạnh để làm giảm tính




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

14
tan của kết tủa.
2.3.2.3. Lượng chất phân tích.
Lượng cân chất lấy để phân tích phải không quá nhỏ hoặc quá lớn. Lượng cân
lớn quá sẽ thu được quá nhiều kết tủa và gây khó khăn cho việc lọc, rửa, nung. Trái
lại lượng cân quá nhỏ thì dung dịch sau khi phá mẫu khá loãng và có thể khó tách
hoàn toàn chất cần phân tích, do đó kết quả phân tích sẽ khó chính xác. Theo Tananaep lượng cân phải lấy thế nào để cho lượng cân kết quả phân tích vào khoảng
0,01đương lượng gam đối với kết tủa là tinh thể và 0,005 đương lượng gam đối với
kết tủa là vô định hình.
2.3.2.4. Nhiệt độ.
Đối với kết tủa tinh thể thì việc đun nóng có tác dụng làm tăng độ tan, làm giảm
độ quá bão hòa tương đối và giảm được số trung tâm kết tinh ban đầu, tạo được kết
tủa tinh thể to hạt.
Đối với kết tủa vô định hình, việc đun nóng giúp đông tụ và làm to hạt.
Đối với kết tủa có độ tan tăng khi đun nóng thì trước khi lọc phải làm nguội và
phải rửa bằng nước rửa nguội. Đối với kết tủa keo có độ tan bé như Fe(OH)3 thì phải
lọc nóng và rửa bằng nước rửa nóng để tránh sự pepti hóa.
2.3.3. Lọc, rửa, làm khô và nung kết tủa.
2.3.3.1. Lọc kết tủa.
Khi lọc người ta thường dùng giấy lọc không tàn là giấy lọc đã được làm sạch
gần hết các chất vô cơ bằng cách rửa với HCl và HF. Khi cháy chúng chỉ để lại một
lượng tro không đáng kể, lượng này đã được ghi ở vỏ bọc các gói giấy lọc không tàn.
Giấy lọc không tàn có nhiều loại dày mỏng khác nhau ứng với kích thước của các

phần tử kết tủa cần lọc. Ví dụ muốn lọc các kết tủa keo vô định hình rất khó lọc thì
ta nên dùng giấy lọc mỏng nhất, chảy nhanh như giấy băng đỏ hay đen. Muốn lọc đa
số các kết tủa khác thì dùng loại giấy trung bình (băng trắng) và cuối cùng muốn lọc
những kết tủa rất bé hạt như BaSO4 hoặc CaC2O4 thì nên dùng loại giấy dày nhất
(băng xanh).
2.3.3.2. Rửa kết tủa.
Mục đích rửa kết tủa là đuổi hết chất bẩn, kể cả dung dịch nước cái dính ở kết
tủa.
Thành phần nước rửa: có 4 trường hợp
- Rửa bằng dung dịch thuốc kết tủa: Chỉ trong những trường hợp hiếm có khi
độ hòa tan của kết tủa là rất bé ta mới phải bỏ qua biện pháp này. Khi rửa kết tủa ta
cần phải cho thêm vào nước rửa một ion của kết tủa, ví dụ dùng một dung dịch
loãng của thuốc kết tủa để rửa. Vì tích số hoạt độ các ion là hằng số nên khi tăng
nồng độ của một ion trong dung dịch thì độ hòa tan của kết tủa sẽ giảm đến mức có
thể bỏ qua được. Tất nhiên là ion thêm vào đó (hoặc một chất điện giải nào khác có
chứa ion của kết tủa) phải là một chất dễ bay hơi để khi nung ta có thể đuổi nó ra hết
khỏi kết tủa.
- Rửa bằng dung dịch chất điện ly: Muốn ngăn ngừa hiện tượng hóa keo ta
không nên rửa kết tủa bằng nước cất mà nên dùng dung dịch loãng của một chất điện
ly nào đó. Lúc bấy giờ các ion bị hấp phụ trước sẽ bị rửa sạch và kết tủa sẽ lại hấp
phụ các ion của chất điện ly đã dùng để rửa, ở đây có sự hấp phụ thay thế. Chất điện




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

15
ly phải dễ bay hơi hay muối amônium.
- Rửa bằng chất ngăn được kết tủa khỏi thủy phân: Ví dụ kết tủa MgNH4PO4

là một chất có sản phẩm thủy phân là NH4OH:
MgHPO4 + NH4OH
MgNH4PO4 + H2O
nên sẽ được rửa bằng một dung dịch amoniac loãng.
- Rửa bằng nước: Trong những trường hợp kết tủa không bị mất do độ hòa
tan cũng không tạo được dung dịch keo và không bị thủy phân thì có thể dùng nước
cất để rửa kết tủa.
Trong đa số trường hợp nước rửa cần phải được đun nóng vì như vậy sẽ làm
giảm được hệ số nhớt và các dung dịch nóng sẽ lọc nhanh hơn.
Kỹ thuật rửa:
Trước hết rửa bằng cách lắng và chỉ khi gần sạch ta mới rửa kết tủa trên giấy
lọc. Cái lợi của cách rửa này là kết tủa dễ trộn lẫn với nước rửa và đồng thời các
phần tử kết tủa lại không bít lỗ giấy lọc. Thường ta rửa bằng cách lắng độ vài lần rồi
mới chuyển toàn bộ kết tủa lên giấy lọc. Đây là lúc quan trọng nhất: Nếu đánh mất
một giọt chất lỏng là kết quả phân tích có thể bị hỏng.
2.3.3.3. Làm khô và nung kết tủa.
Sau khi rửa, đậy phễu bằng một tờ giấy lọc để giữ cho kết tủa tránh khỏi bị bụi
và tránh được chuyển động của không khí, đặt phễu vào tủ sấy khoảng 20 – 30 phút
ở nhiệt độ khoảng 90 – 1050C. Sau đó đem nung trong chén sứ hoặc chén bạch kim
đến khối lượng không đổi.
Kỹ thuật nung:
Dùng đũa thủy tinh có đầu nhọn kéo giấy lọc ra khỏi phễu, gấp mép giấy thế
nào để kết tủa tản ra xung quanh giấy rồi đem bỏ vào chén, cho đỉnh nhọn quay lên
trên và nung cho đến khi có trọng lượng không đổi. Nếu dùng lò điện thì trước hết
phải đốt giấy lọc ở đèn (hoặc ở bếp điện) và chỉ sau khi hết khói mới bỏ vào lò nung.
Sau khi nung xong (khoảng 30 phút) cho chén vào bình làm khô (bình hút ẩm) để
chén khỏi hấp thụ hơi nước trong không khí và khỏi tăng trọng lượng. Không nên
đậy bình ngay mà phải để sau vài phút hãy đậy vì nếu không thì khi chén nguội trong
bình sẽ có khoảng chân không và ta khó mở nắp bình.


2.4. Phương pháp điện phân.
2.4.1. Nội dung.
Điện phân là phương pháp dựa vào việc cân để xác định khối lượng kim loại
thoát ra trên điện cực bạch kim dưới tác dụng của dòng điện. Phương pháp điện phân
thường dùng để xác định một số kim loại trong các hợp kim. Phương pháp này được
coi là phương pháp chính xác để xác định một số nguyên tố như Ni, Cu, Zn, Cd, và
Pb trong hợp kim.
2.4.2. Các thiết bị.
2.4.2.1. Điện cực:
Thường là điện cực bạch kim được chế tạo theo nhiều kiểu khác nhau. Catôt
thường là lưới đan bằng sợi bạch kim có hình trụ. Anôt có thể là lưới hoặc dây xoắn
bạch kim. Trong một số trường hợp người ta còn dùng điện cực bạch kim ở dạng bát
đĩa bạch kim. Ngoài ra còn dùng các điện cực bằng Ni, Ag, Au, ... (hình 2.1)




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

16

2.4.2.2. Nguồn điện:
Nguồn điện thường dùng khi điện phân là các ắc-qui kiềm hay axit có thế
khoảng 12V hay 36V. Người ta thường dùng máy phát điện một chiều hay chỉnh lưu.
2.4.2.3. Các thiết bị đo:
Chủ yếu là các đồng hồ đo điện như vôn kế, ampe kế.
Cực đĩa

Cực xoắn


Cực lưới

Cực bát

Hình 2.1: Các loại điện cực bạch kim thường dùng
2.4.2.4. Các thiết bị khác:
Biến trở con chạy, máy khuấy điện thế kế. Ngày nay người ta chế tạo các máy
điện phân chuyên dùng trong phòng thí nghiệm.
2.5. Ứng dụng của phương pháp khối lượng.
Khi lượng chất phân tích đủ lớn thì phương pháp khối lượng là phương pháp tin
cậy và chính xác. Phương pháp này cho phép xác định hầu hết các nguyên tố cần gặp
trong thiên nhiên. Nhược điểm của phương pháp là mất nhiều thời gian, nhiều khi
không đáp ứng được nhu cầu kiểm tra nhanh trong nghiên cứu và sản xuất. Tuy vậy
vì có độ tin cậy và độ chính xác cao cho nên đến nay phương pháp này vẫn được coi
là phương pháp trọng tài để đánh giá tính đúng đắn của các kết quả phân tích theo
các phương pháp khác nhau.
2.6. Phương pháp phân tích thể tích
2.6.1. Đại cương
Khác với phương pháp khối lượng, phương pháp phân tích thể tích không căn
cứ vào khối lượng sản phẩm phản ứng mà căn cứ vào thể tích thuốc thử đem dùng
cho phản ứng để suy ra lượng chất cần xác định. Thuốc thử ở đây đã biết nồng độ
chính xác. Giả sử cần phân tích một dung dịch chất A, ta phải dùng thuốc thử là dung
dịch chất B đã biết nồng độ chính xác rồi cho tác dụng theo phản ứng:
A+B=C+D
Phải cho dung dịch chất B vào tác dụng với chất A thế nào để cho lượng chất B
tác dụng với chất A vừa đủ theo phương trình phản ứng trên. Theo định luật đương
lượng hoặc định luật hợp thức, ta dễ dàng tìm ra nồng độ chất A. Phương pháp này
nhanh hơn phương pháp khối lượng. Người ta chỉ cần đo chính xác thể tích của thuốc
thử đem dùng mà không cần tách, chế hóa kết tủa và cân. Vấn đề quan trọng ở đây là
phải có biện pháp để biết lúc nào là phản ứng đã hoàn thành.

2.6.2. Một số định nghĩa và khái niệm
+ Như ví dụ nêu trên, quá trình thêm từ từ dung dịch chuẩn chất B từ burét vào




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

17
dung dịch chất xác định A để tiến hành phản ứng phân tích gọi là quá trình định phân
(sự định phân) hay sự chuẩn độ.
+ Thời điểm mà chất B thêm vào vừa đủ để tác dụng hết với chất A theo
phương trình phản ứng gọi là điểm tương đương.
+ Để nhận biết được điểm tương đương thường người ta dùng chất chỉ thị. Chất
chỉ thị có đặc tính thay đổi màu tại điểm tương đương trong quá trình định phân.
Thời điểm mà màu của chỉ thị thay đổi rõ rệt để dựa vào đó ta kết thúc sự định phân
được gọi là điểm kết thúc sự định phân hay điểm cuối.
+ Trong trường hợp lý tưởng thì điểm kết thúc định phân trùng với điểm tương
đương. Nhưng trong thực tế điểm kết thúc định phân thường sai lệch với điểm tương
đương. Điều này gây ra sai số cho phép định phân.
+ Dung dịch chất B đã biết nồng độ chính xác gọi là dung dịch chuẩn (hay tiêu
chuẩn). Có hai phương pháp pha dung dịch chuẩn:
* Cân trên cân phân tích (chính xác đến 0,0002g) một lượng chất nào đó, sau đó
hòa tan vào bình định mức. Biết được lượng chất (g), thể tích dung dịch thu được, ta
dễ dàng tính độ chuẩn của nó: T = g/ml.
* Trong thực tế để pha dung dịch chuẩn người ta thường dùng các ống chuẩn
“fixanal”. Đó là những ống thủy tinh được hàn kín 2 đầu, trong đó có chứa một
lượng chất khô nào đó đã được cân chính xác hoặc một thể tích chính xác của dung
dịch chuẩn cần thiết để pha 1 lít dung dịch với nồng độ đã biết chính xác, ví dụ:
0,1N; 0,05N …

Dung dịch chuẩn biết nồng độ chính xác như trong trường hợp này gọi là dung
dịch gốc và chất tương ứng gọi là chất gốc, dung dịch gốc còn gọi là dung dịch tiêu
chuẩn.
Yêu cầu của chất gốc
+ Phải tinh khiết về mặt hóa học, tạp chất không lớn hơn 0,05 - 0,1%, có thể kết
tinh lại được và sấy khô ở một nhiệt độ nhất định.
+ Thành phần hóa học phải ứng đúng với công thức hóa học. Ví dụ các tinh thể
ngậm nước phải đúng với số phân tử theo công thức hóa học.
+ Chất gốc và dung dịch tiêu chuẩn phải bền trong thời gian giữ gìn và nồng độ
phải không đổi theo thời gian.
+ Mol đương lượng của chất gốc càng lớn càng tốt để tăng độ chính xác khi xác
định nồng độ của dung dịch.
Sở dĩ gọi là dung dịch tiêu chuẩn vì nó được sử dụng để xác định nồng độ của
các chất khác.
Nhưng trong thực tế không phải mọi dung dịch chuẩn đều đáp ứng được yêu
cầu trên. Ví dụ HCl, NaOH … Do vậy đối với loại chất này người ta pha với nồng độ
gần đúng (dùng ống đong, cân kỹ thuật). Sau đó người ta dùng dung dịch chuẩn gốc
để xác định lại nồng độ của dung dịch trên. Ví dụ nồng độ của dung dịch NaOH có
thể xác định bằng dung dịch gốc là axit oxalic (H2C2O4.2H2O). Dung dịch chuẩn mà
nồng độ của nó người ta xác định được nhờ dung dịch gốc gọi là dung dịch đã được
chuẩn hóa hay dung dịch chuẩn.
Trong thực tế nồng độ của dung dịch chuẩn không phải lúc nào cũng được xác
định bằng một dung dịch gốc nào đó. Ví dụ xác định nồng độ dung dịch NaOH có




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

18

thể dùng dung dịch chuẩn HCl, nồng độ của dung dịch này lại được xác định bằng
dung dịch gốc khác. Ví dụ: dung dịch gốc borat natri Na2B4O7.10H2O hay Na2CO3
khan. Bằng phương pháp này có thể tiết kiệm được chất gốc nhưng lại kém chính xác
hơn vì sai số sẽ là tổng sai số của các phép chuẩn độ.
Có trường hợp người ta xác định nồng độ bằng phương pháp trọng lượng. Ví dụ
xác định nồng độ HCl có thể theo AgCl bằng cách cho dung dịch HCl tác dụng với
dung dịch AgNO3.
Cuối cùng khi phân tích các hợp chất tự nhiên hay các sản phẩm công nghiệp
người ta dùng các mẫu tiêu chuẩn để xác định nồng độ của dung dịch chuẩn. Mẫu
chuẩn là mẫu trong đó có chứa nguyên tố cần phân tích nhưng đã biết nồng độ chính
xác. Ví dụ khi xác định Mn trong thép, người ta dùng dung dịch chuẩn là Na3AsO3,
nồng độ của nó được xác định bằng mẫu thép chuẩn có chứa một hàm lượng Mn
chính xác đã biết trước, hoặc khi xác định đồng trong đồng thau thì xác định nồng độ
của dung dịch chuẩn Na2S2O3 bằng mẫu chuẩn đồng thau đã biết trước hàm lượng
đồng, v.v… Dùng mẫu chuẩn có lợi ở chỗ là tất cả các thao tác và các yếu tố ảnh
hưởng đến kết quả phân tích là hoàn toàn giống nhau khi xác định nồng độ dung dịch
chuẩn cũng như khi thực hiện phân tích mẫu chưa biết. Vì vậy độ chính xác tăng lên.
2.6.3. Các phản ứng dùng trong phân tích thể tích
Một đặc điểm quan trọng của phương pháp phân tích thể tích là không sử dụng
dư thuốc thử mà luôn theo đúng phương trình phản ứng, tuân theo định luật đương
lượng. Như vậy rõ ràng là khi định phân phải xác định được điểm tương đương.
Trong một số trường hợp việc xác định điểm tương đương rất dễ dàng, dựa vào sự
thay đổi màu của dung dịch trong quá trình chuẩn độ. Ví dụ định phân dung dịch
FeSO4 bằng KMnO4 trong môi trường axit:
8H+ + 5Fe2+ + MnO4- → 5Fe3+ + Mn2+ + 4H2O
Mỗi lần thêm 1 giọt KMnO4 thì màu biến mất rất nhanh vì ion Fe2+ khử màu
tím của MnO4- đến Mn2+. Nhưng khi toàn bộ Fe2+ bị oxy hóa hết thì một giọt thừa
KMnO4 sẽ làm cho dung dịch chuyển sang màu hồng hoặc tím nhạt. Điều này nói
lên rằng điểm tương đương đã quá hay nói cách khác điểm kết thúc định phân xuất
hiện. Như vậy rõ ràng là chúng ta đã không kết thúc định phân tại điểm tương đương

mà hơi quá một ít và do đó sẽ xuất hiện sai số chuẩn độ. Vì nồng độ của dung dịch
KMnO4 rất loãng và lượng thừa không tới một giọt do đó sai số rất nhỏ và có thể bỏ
qua.
Phản ứng dùng ở ví dụ trên gọi là phản ứng tự chỉ thị. Nhưng trong thực tế phần
lớn các phép định phân phải dùng chỉ thị từ ngoài vào, ví dụ khi xác định nồng độ Cldùng dung dịch chuẩn là AgNO3 với chỉ thị là K2CrO4, hoặc trong phương pháp
trung hòa người ta dùng metyl da cam, phenolphtalein.
Tóm lại, những phản ứng hóa học dùng trong phân tích thể tích phải thỏa mãn
các yêu cầu sau:
- Chất định phân phải tác dụng hoàn toàn với thuốc thử theo một phương trình
phản ứng xác định, nghĩa là theo một hệ số tỷ lượng xác định.
- Phản ứng phải xảy ra rất nhanh. Đối với các phản ứng chậm, cần làm tăng tốc
độ của chúng bằng cách đun nóng hoặc dùng chất xúc tác thích hợp.
- Phản ứng phải chọn lọc, nghĩa là thuốc thử chỉ tác dụng với chất định phân




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

19
tích mà không phản ứng với bất kỳ chất nào khác.
- Phải có chất chỉ thị thích hợp để xác định điểm cuối với sai số chấp nhận được
2.6.4. Phân loại các phương pháp phân tích thể tích.
- Phương pháp trung hòa: Các phương pháp này dựa trên phản ứng cơ bản là
phản ứng trung hòa (axit - bazơ).
- Phương pháp oxy hóa - khử dựa trên phản ứng oxy hóa - khử.
- Phương pháp dùng các phản ứng kết hợp gồm các phương pháp sau: phương
pháp kết tủa dựa vào phản ứng kết tủa, phương pháp tạo phức dựa vào phản ứng tạo
phức, thuốc thử dùng nhiều nhất là các complexon.
2.6.5. Các phương pháp chuẩn độ.

2.6.5.1. Chuẩn độ trực tiếp.
Thêm từ từ dung dịch chuẩn vào dung dịch định phân (cần xác định) hoặc
ngược lại.
2.6.5.2. Chuẩn độ ngược.
Thêm một lượng dư chính xác dung dịch chuẩn vào dung dịch định phân. Sau
đó chuẩn độ lượng thuốc thử dư bằng một thuốc thử thích hợp khác. Phương pháp
này được sử dụng khi không có chỉ thị thích hợp hoặc khi phản ứng chính xảy ra
chậm. Ví dụ để xác định CaCO3 người ta cho một lượng thừa dung dịch chuẩn HCl
vào một lượng cân chính xác CaCO3, sau đó lượng thừa HCl được chuẩn bằng dung
dịch NaOH.
2.6.5.3. Chuẩn độ thay thế.
Cho chất cần xác định X tác dụng với một chất MY nào đó:
X + MY = MX + Y
Sau đó chuẩn độ chất Y bằng dung dịch thuốc thử R thích hợp. Phương pháp
này được sử dụng khi khó xác định được điểm tương đương hoặc khi xác định một
hợp chất hóa học nào đó không bền. Ví dụ Cr2+ dễ bị oxy của không khí oxy hóa và
khó chuẩn độ trực tiếp bởi một chất oxy hóa nào đó nên người ta cho một lượng dư
Fe3+ vào dung dịch cần xác định Cr2+:
Cr2+ + Fe3+ → Cr3+ + Fe2+
2+
Lượng Fe được giải phóng ra tương đương với hàm lượng Cr2+ và ta chuẩn độ
Fe2+ rất dễ dàng.
2.6.5.4. Phương pháp chuẩn độ gián tiếp tức là chuyển chất cần xác định sang một
chất khác chứa ít nhất một nguyên tố có thể xác định trực tiếp được bằng một thuốc
thử và chỉ thị thích hợp. Ví dụ để xác định chì trong quặng, người ta hòa tan quặng
rồi làm kết tủa PbCrO4, sau đó hòa tan PbCrO4 bằng dung dịch hỗn hợp HCl + NaCl
thêm dư KI và chuẩn độ lượng I2 thoát ra bằng Na2S2O3.
2.6.5.5. Phương pháp chuẩn độ phân đoạn được áp dụng khi chuẩn độ một số chất
trong cùng một dung dịch bằng một hay hai dung dịch chuẩn.
Dù cho phương pháp nào đi chăng nữa thì cũng phải:

- Đo chính xác thể tích của 1 hay 2 dung dịch phản ứng.
- Phải có dung dịch chuẩn.
- Tính toán kết quả.
2.6.6. Cách biểu diễn nồng độ trong phân tích
Nồng độ là đại lượng dùng để chỉ hàm lượng của một cấu tử (phân tử, ion)




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

20
trong dung dịch.
Sau đây là các cách biểu diễn nồng độ trong hóa phân tích:
Nồng độ thể tích: Nồng độ thể tích của một chất lỏng là tỷ số thể tích của chất
lỏng đó và thể tích của dung môi (thường là nước). Ví dụ dung dịch HCl 1:4 là dung
dịch gồm 1 thể tích HCl đặc (có khối lượng riêng d = 1,185g/ml) và 4 thể tích nước.
Nồng độ phần trăm khối lượng: Nồng độ phần trăm khối lượng của một chất
trong dung dịch là số gam chất đó tan trong 100g dung dịch. Thí dụ dung dịch NaOH
25% là dung dịch chứa 25g NaOH trong 100g, tức là dung dịch gồm 25g NaOH và
75g nước.
Ví dụ 1: Cần hòa tan bao nhiêu gam NaCl vào 100g nước để được dung dịch
nồng độ 10%.
Đặt a là số gam NaCl cần hòa tan, ta có:
a
.100 = 10; suy ra : a = 11,111g
a + 100

Ví dụ 2: Có bao nhiêu gam H2SO4 nguyên chất trong 1 ml dung dịch axit sunfuric đặc 98% có khối lượng riêng d = 1,84g/ml?
Đặt a là số gam H2SO4 cần tính, ta có:

a
.100 = 98; suy ra : a = 1,803g.
1,84

Nồng độ mol: Nồng độ mol của một chất là số mol chất đó tan trong 1l dung
dịch. Loại nồng độ này được ký hiệu bằng chữ M hoặc mol/l hoặc mol.l-1 đặt sau chữ
số chỉ số mol. Ví dụ: dung dịch NaOH 0,1M tức là dung dịch chứa 0,1mol NaOH
hoặc 0,1x40 = 4,0g NaOH trong 1l dung dịch.
Nếu a là số gam chất trong V lít dung dịch và M là khối lượng mol của chất tan
đó thì nồng độ mol CM được tính theo công thức:
CM =

a
M.V

Nếu V biểu thị theo ml thì:
CM =

a.1000
M.V

Ví dụ: Cần lấy bao nhiêu gam H2C2O4.2H2O để điều chế 250ml dung dịch nồng
độ mol là 0,025M?
Đặt số gam tinh thể ngậm nước cần lấy là a, ta có:
0.025 =

a.1000
; suy ra : a = 0,7880g.
126.250


Để tính toán kết quả phân tích thể tích, người ta thường dựa vào định luật hợp
thức: "Khi phản ứng đạt tới mức độ hoàn toàn thì tọa độ cực đại của mỗi chất
phản ứng phải bằng nhau". Tọa độ cực đại bằng số mol ban đầu chia cho hệ số hợp
thức của mỗi chất.
Giả sử ta có phản ứng: aA + bB = cC + dD
Trong đó: a, b, c, d gọi là các hệ số hợp thức của A, B, C, D.

Định luật hợp thức:

C A VA C B VB
=
a
b

Nồng độ đương lượng: Trước kia trong hóa học người ta thường dùng khái




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

21
niêm đương lượng và đương lượng gam nên trong hóa học phân tích, đặc biệt trong
phân tích thể tích người ta thường dùng loại nồng độ này, vì dựa vào định luật
đương lượng thì việc tính toán kết quả phân tích rất thuận lợi và dễ dàng. Nhưng
ngày nay trên thế giới người ta không dùng đến khái niệm đương lượng và mol
đương lượng nữa nên các nước ít dùng khái niệm nồng độ đương lượng.
Nồng độ đương lượng của một chất là số mol đương lượng (Đ) của chất đó
trong một lít dung dịch hoặc số milimol đương lượng (mĐ) của chất đó trong 1 ml
dung dịch và thường được ký hiệu bằng chữ N đặt sau chữ số chỉ nồng độ. Ví dụ,

dung dịch NaOH 0,1N là dung dịch chứa 0,1mol đương lượng NaOH trong 1 lít dung
dịch của nó. Nếu a là số gam chất tan trong Vl dung dịch (hoặc a là số mg chất tan
trong V ml dung dịch) và Đ là khối lượng mol đương lượng (Đ), (đại lượng này
trước kia được gọi là đương lượng gam) thì có thể tính nồng độ đương lượng theo
công thức: C N =

a
Ð.V

Nếu a biểu diễn theo gam còn V theo ml thì: C N =

a.1000
Ð.V

Từ công thức đó ta suy ra, CN.V là số mol đương lượng nếu V tính theo lít và là
số milimol đương lượng nếu V tính theo mililit.
Khối lượng mol đương lượng Đ của một số chất là số gam chất đó về mặt hóa
học tương đương với một nguyên tử hoặc một mol ion H+ hoặc OH- hoặc 1 2 mol oxy
(O). Đương lượng mol của một chất không phải là một hằng số như khối lượng mol
mà thay đổi tùy theo phản ứng nó tham gia.
Mol phân tử của một chất thì không thay đổi, nhưng đương lượng gam thì thay
đổi theo từng phản ứng hóa học. Ta xét đương lượng gam của các chất trong các
phản ứng sau dựa trên công thức tính mol đương lượng của một chất: Ð =

M
n

Trong phản ứng trao đổi:
Ví dụ 1: Đối với một axit, n là số ion H+ của một phân tử axit tham gia vào
phản ứng đã cho: H3PO4 + NaOH = NaH2PO4 + H2O

Ð H 3PO 4 =

M
= 98g
1

H3PO4 + 2NaOH = Na2HPO4 + 2H2O
Ð H 3PO 4 =

M
= 49g.
2

Ví dụ 2: Đối với một bazơ, n là số ion OH- của phân tử tham gia vào phản ứng.
Ca(OH)2 + 2HCl = CaCl2 + 2H2O
Ð Ca ( OH ) 2 =

M
= 37g
2

Ví dụ 3: Đối với các phản ứng trao đổi, tạo phức n là số điện tích âm hay dương
của một phân tử chất đó tham gia vào phản ứng đã cho.
K4[Fe(CN)6] + 2CuSO4 = Cu2[Fe(CN)6] + 2K2SO4
Ð K 4 [ Fe( CN ) 6 ] =

M
378
=
= 94,5g

4
4

2K4[Fe(CN)6] + 3ZnCl2 = Zn3K2[Fe(CN)6]2 + 6KCl




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

22

M
378
=
= 126g
3
3
Trong phản ứng oxy hóa - khử, n là số e của 1 phân tử chất oxy hóa hay chất
khử thu vào hay mất đi trong phản ứng đã cho.
Ví dụ:
10FeSO4 + 2KMnO4 + 8H2O = 5Fe2(SO4)3 + 2MnSO4 + K2SO4 + H2O
Fe2+ - e = Fe3+; MnO4- + 8H+ + 5e = Mn2+ + 4H2O
Ð K 4 [ Fe( CN ) 6 ] =

Ð K 4 MnO 4 =

M
M
và Ð FeSO4 =

5
1

Định luật đương lượng:
“Số đương lượng của các chất tác dụng với nhau hoàn toàn bao giờ cũng bằng
nhau”.
Ví dụ:
A+B→C+D
thì muốn cho 2 chất A và B tác dụng với nhau hoàn toàn, số đương lượng của chúng
phải bằng nhau. Có các biểu thức toán học sau:
- Nếu gọi VA là thể tích dung dịch chất A, NA là nồng độ của đương lượng của
dung dịch A và VB, NB là thể tích và nồng độ của dung dịch B. Ta có: NAVA = NBVB
- Nếu ag chất A tác dụng hết với bg chất B thì:

ag
bg
=
ÐA ÐB

- Nếu VA là thể tích dung dịch chất A (tính bằng lít) với NA là nồng độ đương
lượng của dung dịch A tác dụng hết với bg chất B thì: VANA =

bg
ÐB

Độ chuẩn.
Độ chuẩn là số gam (hoặc miligam - mg) chất tan trong 1 ml dung dịch. Nếu a
là số gam chất tan trong V ml dung dịch thì độ chuẩn T = a/V.
Độ chuẩn theo chất định phân.
Độ chuẩn theo chất cần định phân là số gam chất cần định phân (ion, phân tử

hoặc nguyên tử) phản ứng đúng với 1 ml dung dịch chuẩn và được ký hiệu là TR/X
trong đó R là thuốc thử, X là chất cần định phân. Cách biểu diễn nồng độ loại này rất
thuận tiện cho việc tính toán kết quả phân tích, đặc biệt khi phân tích hàng loạt mẫu
tại các phòng thí nghiệm nghiên cứu và sản xuất.
Ví dụ: Tính độ chuẩn của dung dịch chuẩn KMnO4 0,02M theo sắt, khi chuẩn
độ Fe2+ theo phản ứng:
MnO4- + 5Fe2+ + 8H+ → Mn2+ + 5Fe3+ + 4H2O
Theo phương pháp phản ứng chuẩn độ trên, ta có: 1 mol MnO4- phản ứng với 5
mol Fe2+. Trong 1 ml dung dịch chuẩn KMnO4 0,02M có chứa 0,02/1000 = 2.10-5
mol MnO4- và do đó 1ml MnO4- đó phản ứng với 5 x 2 x 10-5 = 10-4 mol Fe2+ hoặc
10-4 x 56 = 5,6 x 10-3 g Fe. Do đó:
TKMnO4 0,02M/ Fe = 0,0056 g Fe.ml.

Nồng độ (hoặc hàm lượng) phần triệu và phần tỉ.
Đối với các dung dịch rất loãng hoặc có hàm lượng rất nhỏ người ta thường
dùng các khái niệm này.
Phần triệu (thường được ký hiệu là ppm - parts per million) là số microgam




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

23
chất tan có trong một gam hoặc 1 microgam chất tan trong 1 gam dung dịch. Một
cách tổng quát ta có:
C ppm =

Khèi l−îng chÊt tan (g)
x10 6 (ppm)

Khèi l−îng dung dÞch (g)

Ví dụ: Dung dịch Au3+ nồng độ 1 ppm, tức là dung dịch có chứa 1µg Au trong
1g hoặc 1mg Au trong 1kg dung dịch. Đối với các dung dịch nước rất loãng thì có
thể coi gần đúng khối lượng riêng của nước bằng 1g/ml hoặc 1kg/l. Do đó, 1ppm = 1
µg/ml hoặc là 1 mg/l.
Đối với các dung dịch loãng hơn, người ta dùng phần tỉ, kí hiệu ppb (parts per
billion)
C ppb =

Khèi l−îng chÊt tan (g)
x10 9 (ppb)
Khèi l−îng dung dÞch (g)

2.6.7. Cách tính kết quả trong phân tích thể tích.
Việc tính kết quả phụ thuộc vào cách biểu diễn nồng độ và cách phân tích.
Nguyên tắc chung là dựa vào định nghĩa nồng độ, phương trình phản ứng chuẩn độ,
định luật hợp thức hoặc định luật đương lượng mà tính kết quả phân tích.
* Trường hợp chuẩn độ trực tiếp.
Cách tính theo định luật hợp thức: Dựa vào thể tích, nồng độ dung dịch chuẩn
và phương trình phản ứng chuẩn độ để tính được lượng chất cần phân tích theo số
milimol hoặc số mol.
Ví dụ 1: Tính nồng độ mol của một dung dịch NaOH biết rằng khi chuẩn độ
20ml dung dịch đó thì phải dùng vừa hết 22,75 ml dung dịch HCl 0,1060M.
Phản ứng chuẩn độ:
NaOH + HCl → NaCl + H2O
Số milimol NaOH bằng số milimol HCl:
CNaOH x 20 = 0,1060 x 22,75
Suy ra:
CNaOH = (0,1060 x 22,75) : 20 = 0,1260 M

Ví dụ 2: Khi chuẩn độ 0,2275g Na2CO3 tinh khiết đến CO2 phải dùng vừa hết
22,35ml HCl. Tính nồng độ mol của dung dịch HCl đó.
Phản ứng chuẩn độ: Na2CO3 + 2HCl → 2NaCl + CO2 + H2O
Số mol Na2CO3 bằng 0,5 số mol HCl.
Số mol HCl = (0,2275 : 106) x 2
Nồng độ dung dịch HCl = CHCl = (0,2275 : 106) x 2 : 0,02235 = 0,1920M.
Cách tính theo định luật đương lượng:
Khi tính theo nồng độ đương lượng thì cần dựa vào định luật về đương lượng
là: Số mili đương lượng mol của dung dịch chuẩn bằng số mili đương lượng mol chất
cần xác định đã phản ứng với nhau. Để tính được khối lượng các chất đã phản ứng
phải biết khối lượng mol đương lượng của các chất đó.
Ví dụ 3: Tính nồng độ đương lượng của dung dịch Na2S2O3, biết rằng khi thêm
lượng dư dung dịch KI tinh khiết vào 20 ml dung dịch K2Cr2O7 0,05N chứa axit sunfuric làm môi trường thì chuẩn độ lượng I2 thoát ra bằng 19,80 ml dung dịch Na2S2O3
đó.
Mili đương lượng mol Na2S2O3 = 19,80 x N Na S O = số milimol đương lượng
K2Cr2O7 = 20 x 0,05. Do đó, N Na S O = (20 x 0,05) : 19,80 = 0,0506 N.
2 2

2 2

3



3


www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

24


Cách tính theo độ chuẩn chất định phân.
Ví dụ 4: Tính hàm lượng phần trăm sắt trong quặng, biết rằng sau khi hòa tan
0,5170 g quặng, khử hoàn toàn Fe(III) thành Fe(II) rồi chuẩn độ Fe(II) bằng dung
dịch chuẩn KMnO4 có độ chuẩn theo Fe là 5,620 mg/ml thì dùng vừa hết 57,20 ml
dung dịch chuẩn đó.
Theo định nghĩa thì 1 ml dung dịch chuẩn KMnO4 oxy hóa được 5,620 ml Fe2+.
Vậy lượng Fe có trong quặng là 5,620 x 37,20 mg.
Phần trăm của Fe là [(5,620 x 37,20) : 517] x 100 = 62,18%.
* Trường hợp chuẩn độ ngược.
Ví dụ 5: Để định lượng Cr trong thép, người ta phân hủy 1,075 g mẫu thép
thành dung dịch rồi oxy hóa hoàn toàn Cr3+ thành CrO42-. Sau đó thêm vào 25 ml
dung dịch chuẩn FeSO4 0,0410 M và lượng dung dịch axit sunfuric loãng đủ làm môi
trường. Lượng Fe(II) dư được chuẩn độ bằng 3,70 ml dung dịch KMnO4 0,0400M.
hãy tính hàm lượng theo % khối lượng của Cr trong thép.
Để tiện lợi ta tính theo định luật đương lượng.
Nồng độ đương lượng của dung dịch chuẩn FeSO4 bằng nồng độ mol của nó,
bằng 0,0410N. Nồng độ đương lượng của dung dịch KMnO4bằng 0,0400 x 5 = 0,2N.
Số mili đương lượng mol CrO42- tác dụng với Fe2+ là:
25 x 0,0410 - 3,7 x 0,2
Số đương lượng mol Cr trong mẫu thép bằng:
25.0,0415 − 3,7.0,2
1000

Khối lượng mol đương lượng của Cr là M:3. Phần trăm Cr có trong thép là:
25.0.0410 − 3,7.02 52 100
. .
= 0,4595%
1000
3 1,075


* Trường hợp chuẩn độ gián tiếp.
Ví dụ 6: Để định lượng chì (Pb) trong quặng người ta phân hủy 1,1050 g mẫu
quặng thành dung dịch. Từ dung dịch đó thực hiện quy trình làm kết tủa định lượng
chì trong mẫu thành PbCrO4. Sau đó hòa tan PbCrO4 bằng dung dịch hỗn hợp HCl +
NaCl dư. Thêm vào dung dịch một lượng dư KI và cuối cùng chuẩn độ lượng I2 thoát
ra bằng 24,20 ml dung dịch chuẩn Na2S2O3 0,0962N. Tính hàm lượng chì trong
quặng theo % khối lượng.
Các phản ứng chính của quá trình định lượng:
CrO42- + Pb2+ → PbCrO4↓
2PbCrO4 + 2H+ + 8Cl- → 2PbCl42- + Cr2O72- + H2O
I2 + 2S2O32- → 2I- + S4O62Tính theo định luật hợp thức:
Theo các phương trình phản ứng trên thì 1 mol Pb2+ phản ứng với 3 mol S2O32-.
Số mol Pb2+ trong mẫu là: (24,2 x 0,0962) / (100 x 3). Vậy hàm lượng % khối lượng
chì trong quặng là:
24,2.0,0962.207,2.100
= 14,55%
1000.3.1,105

Tính theo định luật đương lượng:
Trong trường hợp này không cần phải viết các phương trình phản ứng để thực




www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

25
hiện việc tính kết quả vì theo định luật về đương lượng, các chất phản ứng với nhau
theo những đương lượng mol bằng nhau, tức là số đương lượng mol của S2O32- bằng

số đương lượng mol của Pb2+. Vì một ion Pb2+ tạo nên một phân tử PbCrO4 mà
CrO42- bị khử thành Cr3+ với sự nhận 3 electron, nên đương lượng mol của PbCrO4
bằng 1/3 khối lượng mol của nó, vì vậy công thức tính trùng với công thức đầu tính
theo nồng độ mol.

BÀI TẬP
1. Để xác định hàm lượng của CaCO3 trong đá vôi người ta cân 0,2560g mẫu,
hòa tan thành dung dịch và kết tủa ion Ca2+ dưới dạng CaC2O4. Sau khi lọc, rửa và
nung kết tủa đó, cân được 0,216g CaO. Tính hàm lượng CaCO3 trong mẫu. CaCO3 =
100, CaO = 56.
2. Khi phân tích dung dịch được chiết ra từ một mẫu đất, người ta tìm được các
kết quả sau:
MgO CO2
Hợp chất
CaO
SO3
Hàm lượng % 7,59
5,61 2,20
5,29
Từ các số liệu trên, hãy tính hàm lượng của các muối MgCO3, CaCO3, CaSO4
trong mẫu đất.
3. Khi phân tích một mẫu bari clorua người ta tìm thấy hàm lượng của bari là
56,22%, của nước kết tinh là 14,73%. Tính thành phần % của bari trong bari clorua
khan.
4. Phải dùng bao nhiêu ml dung dịch (NH4)2C2O4 4% để thực tế kết tủa hết
canxi có trong 0,4154g đá vôi có hàm lượng CaO là 43%. Thể tích cuối cùng của
dung dịch khi kết tủa là 250ml, canxi được coi như kết tủa hoàn toàn nếu lượng
CaC2O4 tan trong dung dịch không quá 10-4g/l. TCaC O = 2,57.10-9, CaC2O4 = 128,
CaO = 56, (NH4)2C2O4 = 124.
5. Phải thêm bao nhiêu ml H2SO4 đặc 98% (d = 1,84) vào 300 ml nước để dùng

lượng dung dịch đó rửa kết tủa SrSO4 và để lượng kết tủa mất đi không quá 10-4g
TSrSO = 2,8.10-7, SrSO4 = 183,7.
6. Hãy tính một phân tử Na2CrO4 ngậm bao nhiêu phân tử nước, nếu đem phân
tích trọng lượng 0,4927g muối ngậm nước thì cân được 0,1095g Cr2O3. Cr2O3 = 152;
Na2CrO4 = 162; H2O = 18.
7. Để xác định hàm lượng bari trong một mẫu BaCl2.2H2O, người ta cân
0,6531g mẫu, hòa tan thành 250ml dung dịch, lấy ra 50ml kết tủa ion bari dưới dạng
BaSO4. Sau khi lọc, rửa, sấy và nung kết tủa đó thu được 0,1241g BaSO4. Tính hàm
lượng bari trong mẫu BaSO4 = 233, Ba = 137.
2

4



4


www.DaiHocThuDauMot.edu.vn

26

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Minh Châu, Từ Văn Mặc, Từ Vọng Nghi. Cơ sở hóa học phân tích,
NXB KH & KT, 2002.
2. Nguyễn Tinh Dung phần I, II, III. Hóa học phân tích. NXB Giáo dục, 2000.
3. Trần Tứ Hiếu, Hóa học phân tích, NXB ĐHQG Hà Nội, 2002.
4. Trần Tứ Hiếu, Từ Vọng Nghi, Hoàng Thọ Tín. Bài tập Hóa học phân tích,
NXB ĐH&TH Chuyên nghiệp, 1984.
5. В.Н.Алексеев, Количественный анализ, Москва, издательствo “Химия”,

1972
6. В.Н.Алексеев, Кочественный анализ, Москва, издательствo “Химия”,
1972




×