Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Tiểu luận: Xu Hướng ODA trên thế giới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.53 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*********

Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
Môn: Đầu tư quốc tê

TIỂU LUẬN
XU HƯỚNG ODA TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
            

                  


TP.Hồ Chí Minh, Tháng 8 năm 2017

Danh sách thành viên nhóm
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

Họ và tên
Nuyễn Thị Tú Lịch
Tống Nguyễn Nhật Linh
Nguyễn Văn Lợi


Phạm Thị Hồng Mai
Trần Thị Diễm My
Hoàng Thị Oanh
Nguyễn Thanh Phương
Nguyễn Văn Thành

MSSV
1501015250
1501015269
1501015285
1501015298
1501015318
1501015414
1501015436
1501015494

Đánh giá


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tên Bảng, 
Nội dung
Số 
Biểu đồ
trang
Biểu đồ 
Lượng vốn ODA ròng năm 1980­2015 tính theo tỉ giá hiện 
5
2.1.

tại
6
Biểu đồ   ODA ròng theo % GNI của DAC và một số nước 2000­2016
2.2.
Tỉ trọng các ngành sử dụng nguồn vốn ODA từ các nước 
6
Biểu đồ  
2.3.
DAC
Danh sách của DAC về các nước nhận vốn ODA vào năm 
7
Bảng 2.1.
2014­2016
Biểu đồ  Cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết theo nhà tài trợ 
23
4.1.
thời kỳ 2011 ­ 2015
Bảng 4.1.
ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 2011 ­ 2015
24
Bảng 4.2. Báo cáo hoàn thành dự án (PCR) và Báo cáo kiểm toán thực  26
hiện hoàn thành dự án (PPAR) của Nhóm 6 Ngân hàng Phát 
triển
Biểu đồ 
Kết quả đánh giá hoạt động trên cơ sở cấp quốc gia trên 
26
4.2.
cơ sở hoàn thành dự án (PCR) giai đoạn 2005­2014
Bảng 4.3
Tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi so với GDP, Tổng 

27
vốn đầu tư toàn xã hội và Tổng vốn đầu tư từ NSNN thời 
kỳ 2011 ­ 2015
Bảng 4.4.
Vốn ODA ký kết phân bổ theo vùng thời kỳ 2011 ­ 2015
34
Biểu đồ  Nhu cầu huy động vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các Bộ,  36
4.5.
ngành và địa phương thời kỳ 2016 ­ 2020

Mục Lục



5

LỜI MỞ ĐẦU
          Đối với các nước đang phát triển, vốn có vai trò đặc biệt quan trọng và cần  
thiết để giải quyết các vấn đề kinh tế ­ xã hội khác. Xuất phát từ nhu cầu thực tế 
đó, vốn ODA ra đời nhằm giúp các nước nghèo giải quyết tình trạng thiếu vốn.  
Nguồn vốn này chủ  yếu được đầu tư  vào những lĩnh vực giữ  vai trò đầu tàu của  
nền kinh tế, từ đó kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành khác. Trên thực tế vai 
trò của ODA hết sức quan trọng. Có thể  minh chứng điều đó qua thực tế   ở  Châu 
Âu sau chiến tranh thế  giới thứ hai, nhờ vào nguồn vốn viện trợ  của Mỹ  mà EU  
đạt được sự  tăng trưởng ngoạn mục, trở  về  thời thịnh vượng như  trước chiến  
tranh, thậm chí còn phát triển hơn trước. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng là hai nước 
nhận được nhiều viện trợ của Mỹ. Kết quả sau một thời gian nhất định, Nhật Bản 
trở  thành cường quốc kinh tế  sau Mỹ; còn Hàn Quốc cũng vươn lên thuộc nhóm  
các nước công nghiệp mới – NICs. Trong quá trình đổi mới, tình trạng thiếu vốn  
cho phát triển đã được giải quyết một phần đáng kể  khi Việt Nam bắt đầu nhận  

viện trợ ODA từ năm 1993. Đây là nguồn vốn bổ sung quan trọng: trung bình đóng  
góp 11% tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội, trong giai đoạn 2006­2010. Các nước và  
vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Đài Loan nhờ vào nguồn vốn ODA và việc sử dụng  
có hiệu quả  nguồn vốn này đã tạo ra một nền kinh tế phát triển cao và ngày nay  
bắt đầu trở  thành nước cung cấp viện trợ  cho các nước khác. Ngoài ra, viện trợ 
ODA cũng đóng góp một phần tỷ  lệ  đáng kể  vào tăng trưởng GDP của các nước 
đang phát triển, bình quân 1­2%/năm. Như vậy, có thể thấy viện trợ ODA sẽ giúp 
giải quyết phần nào “cơn khát vốn” này và mang lại luồng sinh khí mới cho các  
nước đang phát triển và sẽ làm “thay da đổi thịt” cho nhiều nền kinh tế nếu ODA  
được sử dụng một cách hiệu quả.


6

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ODA
1.1.

Khái niệm

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau về ODA nhưng nói 
chung những quan điểm  ấy đều dẫn chung đến một bản chất. Theo cách hiểu  
chung nhất thì ODA là các khoản viện trợ  không hoàn lại hoặc cho vay với  
những điều kiện  ưu đãi của các cơ  quan tài chính thuộc các tổ  chức Quốc tế  
các nước, các tổ  chức Phi chính phủ  nhằm hỗ  trợ  cho sự  phát triển và thịnh  
vượng của các nước khác (không tính đến các khoản viện trợ  cho mục đích  
thuần tuý quân sự ).
Nghị  định 87­CP của chính phủ  Việt Nam quy định về  nguồn vốn ODA  là 
sự hợp tác phát triển giữa nước Cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt Nam với một  
hay nhiều Quốc gia, tổ  chức Quốc tế. Hình thức của sự  hợp tác có thể  là hỗ  
trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ theo chương trình, hỗ trợ theo kỹ thuật hoặc theo  

dự án.
1.2.

Phân loại

Phân loại theo nước nhận: theo phân loại này thì ODA có 2 loại: 
­

ODA thông thường: hỗ  trợ  cho các nước có thu nhập bình quân đầu  
người thấp.

­

ODA đặc biệt: hỗ trợ cho các nước đang phát triển với thời hạn cho  
vay ngắn, lãi suất cao hơn. 

Phân loại theo nguồn cung cấp: bao gồm
­

ODA song phương: là các khoản viện trợ  trực tiếp từ  nước này tới 
nước khác thông qua việc ký kết giữa chính phủ hai nước. 

­

ODA đa phương: Là viện trợ  chính thức của một tổ  chức quốc tế 
(IMF, WB1...) hay tổ chức khu vực (ADB, EU,...) hoặc của một chính 
phủ  của một nước dành cho chính phủ  của một nước nào đó, nhưng  
có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như  chương 



7

trình phát triển Liên hiệp quốc ( UNDP ), quĩ nhi đồng Liên Hiệp 
quốc ( UNICEF )... cũng có thể không.
Phân loại ODA theo tính chất nguồn vốn
­

Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ ( mà bên  
nhận viện trợ  không phải thanh toán lại ) để  bên nhận có thể  thực 
hiện các chương trình, dự án đã được thỏa thuận giữa hai bên như: hỗ 
trợ  kỹ  thuật ( thực hiện việc chuyển giao công nghệ  cho nước nhận 
việc trợ ), bằng hiện vật ( lương thực, thuốc chữa bênh, …).

­

Viện trợ  có hoàn loại: nhà tài trợ  cung cấp cho nước cần vốn một  
khoản tiền ( tùy theo quy mô và mục đích đầu tư  ) với mức lãi suất 
ưu đãi và thời gian hoàn trả  thích hợp, các  ưu đãi thường là: lãi suất  
thấp, thời gian vay dài ( 20­30 năm ),… 

­

ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA  
không hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện 
của tổ  chức hợp tác kinh tế  và phát triển mạnh hơn cả  về đời sống 
kinh tế xã hội.

1.3.

Đặc điểm


ODA là nguồn vốn mang tính chất ưu đãi: vì bao giờ cũng có phần không  
hoàn lại là chủ  yếu, còn phần cho vay chủ yếu là cho vay ưu đãi với lãi  
suất thấp hơn lãi suất ngân hàng rất nhiều ( thường dưới 3% một năm )  
nhưng thời gian sử dụng vốn rất dài ( thường là 20­50 năm ). 
ODA luôn bị  ràng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp: Đi kèm với ODA bao 
giờ  cũng có những ràng buộc nhất định về  kinh tế  , chính trị. Bao gồm: 
nước viện trợ phải đáp ứng yêu cầu cho bên cấp viện trợ như việc thay  
đổi chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế, thể chế chính trị,… cho phù 
hợp với mục đích của bên cấp viện trợ. 
Khả  năng gây nợ  cho nước nhận đầu từ  của ODA: Khi tiếp nhận và sử 
dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ thường chưa 
xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên 


8

sự  tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ 
nần do không có khả  năng trả  nợ. Vấn đề  là ở  chỗ  vốn ODA không có 
khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi 
việc trả  nợ  lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch  
định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để  tăng 
cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.


9

CHƯƠNG II: BIẾN ĐỘNG VÀ XU HƯỚNG ODA TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
2.1. Biến động của ODA
2.1.1. Sự biến động trong lượng vốn

Biểu đồ 2.1. Lượng vốn ODA ròng năm 1980­2015 tính theo tỉ giá hiện tại
(Đơn vị: Tỷ USD) (Nguồn: )

Giai đoạn 1980­1990: Hỗ  trợ  phát triển chính thức tăng tương đối đều, tỉ 
trọng ODA nằm trong khoảng 29,06 tỷ  USD đến 58,234 tỷ  USD. Từ  những năm  
1990, giá trị ODA có sự giảm nhẹ do chịu  ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đầu  
những năm 1990 tác động đến nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, từ những năm 2000, 
dòng vốn ODA có dấu hiệu khởi sắc khi tăng tương đối đều với tốc độ  cao. Cụ 
thể, trong giai đoạn 2000­2005, tổng giá trị  vốn đã tăng hơn gấp đôi từ  49,831 tỷ 
USD lên 108,2 tỷ  USD. Tuy vào năm 2008 có khủng hoảng tài chính, lượng vốn 
vẫn chỉ  giảm nhẹ  trong năm đó và tiếp tục tăng những năm sau. Từ  đó đến hiện  
tại, tốc độ tăng trưởng của mức vốn ODA tương đối bền vững.


10

Nhìn chung, lượng vốn ODA tăng qua các năm, tuy nhiên mức độ tăng không 
ổn định, tuỳ  thuộc vào tình hình thế  giới nói chung và các quyết định trong việc 
viện trợ nói riêng. 
Trong tổng số  vốn viện trợ  song phương, phần lớn vốn được cấp bởi các nước 
OECD/DAC, cụ thể năm 2015 là 131.555 tỷ  USD ( theo số liệu của data.oecd.org)  
trên tổng 152,513 tỷ  USD của toàn thế  giới (tương đương 86,26%). DAC là các 
nước thuộc tổ  chức OECD cam kết thường xuyên cung cấp vốn ODA, hiện nay  
gồm 30 thành viên. Ngoài ra, vốn viện trợ  song phương còn được đóng góp một 
phần nhỏ từ các nước không thuộc DAC. Bên cạnh đó tồn tại ODA đa phương, là 
nguồn vốn từ  các định chế  tài chính và tổ  chức quốc tế, cụ  thể  như: các cơ  quan  
của UN, WB, IMF, ADB, AfDB,…
2.1.2 Sự biến động theo tỉ lệ ODA và GNI
Biểu đồ 2.2.ODA ròng theo % GNI của DAC và một số nước 2000­2016 (nguồn  


data.worldbank.org) (đơn vị %)

Tuy tỉ  trọng vốn ODA có xu hướng tăng, nhưng khi so tỉ  lệ  với tổng thu  
nhập quốc dân của các nước tài trợ  lại có xu hướng không đổi. Khái niệm 0,7%  
ODA/GNI lần đầu được chấp nhận vào năm 1970 và được nhấn mạnh tầm quan  
trọng nhiều lần tại các hội nghị  viện trợ và phát triển quốc tế. Cho đến nay, mục  
tiêu quốc tế  nổi bật nhất trong lĩnh vực viện trợ  là nâng cao vốn phát triển chính  


11

thức (ODA) bằng 0,7% thu nhập quốc dân của các nhà tài trợ. Tuy nhiên, tính đến  
thời điểm hiện tại, chỉ có một vài nước đã chạm và duy trì được chỉ  tiêu này (bao  
gồm Na Uy,Thuỵ  Điển, Hà Lan, Lúc­xăm­bua, Đan Mạch, UAE). Đặc biệt, các 
tiểu vương quốc  Ả Rập Thống nhất, tuy mới gia nhập DAC vào năm 2014, nhưng 
dựa vào chỉ số ODA/GNI đã cho thấy UAE xứng đáng được công nhận là một nhà 
tài trợ tầm cỡ thế giới.

2.1.3. Sự biến động trong cơ cấu ODA
2.1.3.1 Sự biến động trong lượng vốn đổ vô các ngành

                  2005                                                                      2015

Biểu đồ 2.3. Tỉ trọng các ngành sử dụng nguồn vốn ODA từ các nước DAC

Nguồn ODA có mặt  ở  hầu hết các lĩnh vực kết cấu hạ  tầng kinh tế và xã  
hội. Các chương trình, dự  án ODA đã góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm 
nghèo và cải thiện đời sống của nhân dân. Cơ  cấu ODA ký kết vào các lĩnh vực 
như  biểu đồ  trên, trong đó, có thể  thấy phát triển cơ  sở  hạ  tầng và sản xuất vẫn  
luôn chiếm một vị trí trọng tâm trong tổng vốn ODA, bởi nó là nền móng thúc đẩy  

một nền kinh tế đi lên. Đặc biệt, cơ sở hạ tầng kinh tế (giao thông, liên lạc, mạng  
lưới phân phối, định chế tài chính và cung cấp năng lượng) tăng tỉ trọng mạnh qua 
các năm. Đa số  các nước nhận ODA đang trong giai đoạn kinh tế  phát triển nên 
việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại sẽ là yếu tố quan trọng  


12

thúc đẩy quá trình cơ  cấu lại nền kinh tế, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của  
nền kinh tế. Ngoài ra, viện trợ  nhân đạo cũng có cơ  cấu tăng, chứng tỏ  các quốc 
gia ngày càng quan tâm đến các vấn đề phúc lợi xã hội.
2.1.3.2. Tỉ trọng ODA dành cho các khu vực


13

Trên là tổng hợp danh sách cách quốc giai nhận được ODA giai đoạn 2012 – 2013.  
Và theo như  bảng thống kê thì Afghanistan chính là nước nhận được ODA nhiều 
nhất, theo sau chủ yếu là các nước thuộc Châu Phi như  Algeria, Kenya, Algeria,…  
và đông đảo các quốc gia thuộc khu vực có thu nhập thấp và trung bình thấp.  
Lượng vốn ODA dành cho các quốc gia này rất mạnh, và nó chủ yếu đến từ Mỹ và  
Nhật Bản. Chính đều này cũng cho thấy cả  Mỹ  và Nhật Bản đều muốn khẳng 
định tầm ảnh hưởng của mình tại đây. Ngoài ra, World Bank cũng tang hỗ trợ ODA  
cho các nước nhằm xóa bỏ tỷ lệ đói nghèo cũng như  xây dựng các cơ  sở hạ  tầng,  
chương trình giáo dục giúp nâng cao đời sống kinh tế, xã hội của các quốc gia.
2.2. Xu hướng ODA hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng sau:
Thứ nhất
Tỉ  trọng ODA song phương có xu thế  tăng lên, ODA đa phương có xu thế 
giảm đi. Quá trình quốc tế  hoá đời sống kinh tế  thế giới và xu thế  hội nhập đã 

tạo điều kiện cho các quan hệ  kinh tế, chính trị... giữa các quốc gia ngày càng 
được đẩy mạnh và tăng cường. Hoạt động của một số tổ chức đa phương tỏ ra  
kém hiệu quả  làm cho một số  nhà tài  trợ  ngần ngại đóng góp cho các tổ  chức  
này. Điều đó là nguyên nhân chính tạo nên     sự chuyển dịch, tỉ trọng ODA song  
phương có xu thế  tăng lên, ODA đa phương có xu hướng giảm đi. Điều đó đã 
được chứng minh trên thực tế  là trong các năm 1980 ­ 1994 trong tổng số  ODA  
của thế  giới, tỉ  trọng ODA song phương từ  67% tăng lên 69% trong khi đó tỉ 
trọng ODA đa phương giảm từ 33% xuống 31%.
(Nguồn: Bộ Kế hoạch ­ Đầu tư).
Thứ hai
Sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA.
Trên thế giới, một số nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra từ các nhà 
nước liên bang tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Một số nước công hoà 
thuộc Nam Tư cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh 
sắc tộc đang cần đến sự hỗ trợ quốc tế. ở Châu á, Trung Quốc, các nước Đông 
Dương, Myanmar... cũng đang cần đến nguồn ODA lớn để xây dựng kinh tế, phát 
triển xã hội. Số nước có nhu cầu tiếp nhận ODA là rất lớn vì vậy sự cạnh tranh 
giữa


14

các nước ngày càng trở  nên gay gắt. Các vấn đề  mà các nước cung cấp  
ODA quan tâm đến tạo nên sự  cạnh tranh giữa các nước tiếp nhận là năng lực 
kinh tế của quốc gia tiếp nhận, các triển vọng phát triển, ngoài ra còn chịu nhiều 
tác động của các yếu tố  khác như: Nhãn quan chính trị, quan điểm cộng đồng  
rộng rãi, dựa trên sự  quan tâm nhân đạo và hiểu biết về  sự  cần thiết đóng góp 
vào  ổn định kinh tế  ­ xã hội quốc tế. Cùng mối quan hệ  truyền thống với các 
nước thế giới thứ ba của các nước phát triển, hay tầm quan trọng của các nước 
đang phát triển với tư cách là bạn hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên liệu, lao 

động). Mặt khác, chính sách đối ngoại, an ninh và lợi ích chiến lược, trách nhiệm 
toàn cầu hay cá biệt... cũng là nhân tố  tạo nên xu hướng phân bổ  ODA trên thế 
giới theo vùng. Ngoài ra còn có thêm lý do đó là sự  chuẩn bị  đáp  ứng nhu cầu 
riêng biệt về thủ tục, quy chế, chiến lược, viện trợ ... khác nhau của các nhà tài 
trợ  trên thế  giới cũng tạo nên sự  chênh lệch trong quá trình thu hút và sử  dụng  
ODA giữa các quốc gia hấp thụ nguồn vốn này. Chính sự  cạnh tranh gay gắt đã 
tạo nên sự tăng giảm trong tiếp nhận viện trợ của các nước đang phát triển. Kể 
từ  năm 1970, ODA chủ  yếu hướng vào Tiểu vùng Sahara và Trung Đông kể  cả 
Ai Cập. Bên cạnh đó, Trung Mỹ  là vùng nhận được tỷ  trọng viện trợ  tăng lên  
chút ít, tỷ trọng này đã thực sự bị cắt giảm mạnh đối với các vùng Nam Á (đặc  
biệt là  Ấn Độ) và Địa Trung Hải trong vòng 10 năm, từ  tài khoá 1983/1984 đến 
1993/1994, tỷ trọng thu hút ODA thế giới của tiểu vùng Sahara đã tăng từ  29,6%  
lên 36,7%, của Nam và Trung á khác và Châu Đại Dương từ  20,3% lên 22,9%; 
Châu Mỹ  La Tinh và vùng Caribê từ  12% lên 14% (nguồn: Bộ  Kế  hoạch ­ Đầu 
tư).
Thứ ba
Sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng đều.
Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều lý giải khác nhau,  
có thể là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ  như  mở  rộng quan  
hệ hợp tác về chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó phụ thuộc rất nhiều 
vào ý muốn chủ quan của nhà tài trợ. Lúc đầu họ chỉ quan tâm đến việc thiết lập 
các mối quan hệ với các nước láng giềng của mình, nhưng sau họ lại nhận thấy  
rằng cần thiết lập các quan hệ với các nước khác trên thế giới để tìm kiếm thị 


15

trường  trao đổi buôn  bán hay  đầu tư mà  việc đầu tiên thiết lập quan hệ  ngoại 
giao bằng cách viện trợ  ODA. Mặt khác chính những yếu  tố  trong nội bộ  của 
quốc gia cũng tạo nên những khác biệt lớn trong quá trình nhận viện trợ như các  

mối quan hệ  với các nước phát triển, hay những thành tích trong phát triển đất  
nước hay cũng có thể là do nhu cầu hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai...
Thứ tư
Triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan.
Mặc dù Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP của các nước  
phát triển để  cung cấp ODA cho các nước nghèo. Nhưng nước có khối lượng  
ODA lớn như  Nhật Bản, Mỹ... thì tỷ  lệ  này mới chỉ  đạt  ở  mức trên dưới 0,3% 
trong nhiều năm qua. Tuy có một số nước như Thụy Điển, Na uy, Phần Lan, Đan 
Mạch... đã có tỷ  lệ  ODA chiếm   hơn  1%  GNP,  song  khối  lượng  ODA  tuyệt  đối 
của các nước này không lớn. Thêm vào đó tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp ở 
các nước đang phát triển cũng là một  trở ngại gia tăng ODA. Ngoài ra, hàng năm 
các nước cung cấp ODA dựa vào kết quả hoạt động của nền kinh tế của mình để 
xem xét khối lượng ODA có thể  cung cấp được. Nhưng  hiện nay các nước phát 
triển đang có những dấu hiệu đáng lo ngại trong nền kinh tế của mình như khủng 
hoảng kinh tế  hay hàng loạt các vấn đề  xã hội trong nước, chịu sức ép của dư 
luận đòi giảm viện trợ để tập trung giải quyết các vấn đề trong nước.
Tuy nhiên, ở các nước phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/năm trong các
năm 1991 - 1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân đang được
cải thiện rõ rệt. Do sự phục hồi kinh tế ở các nước phát triển, nguồn vốn
chuyển dịch vào các nước đang phát triển có thể sẽ giảm sút trong các năm
tới, ODA là một khoản vốn mà các nước phát triển hỗ trợ cho các nước đang
phát triển nó được thực hiện từ rất lâu, qua các giai đoạn nhất định, có những
xu thế vận động riêng, nhìn chung lại, xu hướng vận động hiện nay hàm chứa
cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn cho một số nước đang phát triển như
nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, tuy nhiên các yếu
tố thuận lợi là cơ bản. Xét trên phạm vi quốc tế, ODA có thể huy động được
lại tuỳ thuộc voà chính sách đối ngoại khôn khéo và khả năng hấp thụ vốn
nước ngoài của chính nền kinh tế nước đó. Qua đó ta có thể thấy rõ được
những đặc điểm riêng biệt của ODA so với các nguồn vốn khác.



16

CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐẾN NƯỚC CẤP/NHẬN 
NGUỒN VỐN
3.1. Tác động đối với nước nhận viện trợ
3.1.1. Tác động tích cực
 Nguồn bổ sung vốn quan trọng cho các nước đang phát triển
Tất cả các quốc gia khi thực hiện Công nghệ hoá ­ Hiện đại hoá đều cần đến một 
lượng vốn đầu tư rất lớn và đây là thách thức đối với các nước đang phát triển. Với nội  
lực còn hạn chế thì vốn trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư, do 
đó việc huy động vốn từ  nước ngoài trở  nên tất yếu. Đặc biệt, nguồn ODA tập trung  
đầu tư cho các lĩnh vực cơ sở hạ tầng  ở các nước đang phát triển là một giải pháp hữu 
hiệu để khắc phục sự thiếu vốn. Tại Việt Nam, năm 2016, tổng vốn ODA đạt 142,6 tỷ 
USD, trong đó khoảng 80% lượng vốn ODA được dành cho đầu tư  vào lĩnh vực cơ  sở 
hạ  tầng, số vốn này chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư  của toàn xã hội cho cơ  sở hạ 
tầng. (Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam)
 Tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ  tiên tiến và phát triển nguồn nhân 
lực
a/ Thành tựu khoa học tiên tiến
Thông qua hình thức viện trợ kèm theo ràng buộc phải sử dụng dịch vụ hay hàng 
hoá của nhà tài trợ, nước nhận đầu tư có cơ hội được tiếp cận với những công nghệ sản 
xuất hay quản lý tiên tiến. 
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ: dự án ODA về công nghệ cao, tiên tiến trong  
các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ xây  
dựng... Dự  án phát triển hạ  tầng khu công nghệ  cao và Trung tâm vũ trụ  Việt Nam tại  
khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội do Nhật Bản tài trợ là một thí dụ điển hình.
b/ Phát triển nguồn nhân lực
Nhận thấy vai trò then chốt của phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế 
của một quốc gia nên các nhà tài trợ  rất chú trọng  ưu tiên cho lĩnh vực này. Đào tạo 

nguồn nhân lực có thể được thực hiện ở trong và ngoài nước nhận đầu tư. Đặc biệt, các  


17

nhà tài trợ thường quan tâm đến việc đào tạo cho nhóm nhân sự tham gia vào quản lý nhà 
nước nhằm nâng cao năng lực quản lý cho họ. Đầu tư cho nguồn nhân lực mang lại hiệu 
quả lâu dài trong quá trình phát triển. 
 Góp phần phát triển kinh tế địa phương va xoá đói giảm nghèo 
ODA còn tác động tích cực đến phát triển kinh tế  xã hội của các địa phương và 
vùng lãnh thổ, đặc biệt là  ở  các thành phố  lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp cải thiện  
điều kiện về  vệ  sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường. Đồng thời nguồn  
ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ  sở  hạ  tầng nông thôn, phát triển 
lưới điện nông thôn, phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo. Trong năm 2014 Tổng 
công ty Điện lực miền Trung (EVN CPC) đã nhận hơn 236 triệu USD từ Ngân hàng Thế 
giới (chiếm 60% trong tổng số hơn 300 triệu USD vốn ODA), để  thực hiện các dự  án  
điện khí hóa nông thôn và phát triển lưới điện khu vực miền Trung ­ Tây Nguyên. Hay 
với 2 triệu EURO (tương  đương khoảng 40 tỷ  đồng) kinh phí của Dự  án xây dựng 
Trường Cao đẳng nghề  Việt ­ Đức Vĩnh Phúc (tỉnh Vĩnh Phúc) từ  Chính phủ  CHLB 
Đức, đã mang lại cho các trường nghề một lượng trang thiết bị tương đối đầy đủ, hiện 
đại, chất lượng tốt, đáp ứng xu hướng hiện đại hóa trong đào tạo nghề. (Bộ Kế Hoạch 
và Đầu Tư)
 Góp phần thu hút FDI và các nguồn vốn đầu tư khác
Trong năm 2015 Tổng vốn theo Hiệp định đã kí kết của 10 chương trình, dự  án 
hơn 7.180 tỷ đồng (trong đó, vốn ODA không hoàn lại: gần 342 tỷ đồng, ODA vay: hơn 
7.109 tỷ  đồng). Nhu cầu vốn cho các dự  án chủ  yếu tập trung vào lĩnh vực giao thông 
vận tải, phát triển đô thị, nông nghiệp và phát triển nông thôn, môi trường, giáo dục và 
đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ... (Theo thống kê của Bộ Tài Chính).
Đối với các nước đang phát triển thì nguồn vốn ODA được sử dụng chủ yếu vào 
các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Đây là lĩnh vực có nhu cầu vốn 

đầu tư lớn song khả năng sinh lời lại thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư  trực tiếp 
nước ngoài. Với mục đích là tìm kiếm lợi nhuận, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ 
quan tâm đến những nước có môi trường đầu tư  thuận lợi nhằm giảm chi phí. Vì vậy, 
cơ  sở  hạ  tầng kỹ  thuật yếu kém, môi trường chính sách không thông thoáng, không ổn  
định sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư. 


18

Một quốc gia đang phát triển nhận được nhiều và sử dụng có hiệu quả vốn ODA  
góp phần vào việc xây dựng được môi trường đầu tư thuận lợi và sẽ tạo điều kiện cho 
các nguồn vốn khác như vốn FDI và vốn đầu tư trong nước phát huy hiệu quả.
3.1.2. Tác động tiêu cực
 Các nước đang phát triển rất dễ rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Điểm này  
được thể hiện rất rõ ở hình thức đầu tư gián tiếp (ODA).
Các nước nghèo quá cần vốn nên có tâm lý được bao nhiêu hay bấy nhiêu, thậm  
chí còn xem đây là “tiền chùa”. Điều này đã được kiểm chứng qua thực tế tại hai nước 
gặp khó khăn trong thập niên 60, vì “nghiện” ODA mà không phát triển nhanh được, đó  
là Myanmar và Philippines, dẫn đến gia tăng nợ công và đặc biệt là nợ nước ngoài. 
 Nước nhận đầu tư dễ rơi vào tình trạng phụ thuộc. Sự phụ thuộc được thể hiện  
trên nhiều cấp độ như  phụ thuộc về vốn (khi dòng vốn đầu tư  nước ngoài bị  rút nhanh  
thì sẽ  gây ra tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế), từ  phụ  thuộc về  vốn dễ dẫn tới  
phụ thuộc kinh tế (thị trường tiêu thụ  sản phẩm) và có thể  dẫn tới phụ  thuộc về chính 
trị. Ví dụ điển hình là dự  án đường sắt đô thị Cát Linh ­ Hà Đông phải mua tàu và chọn  
nhà thầu chính Trung Quốc mà không được chọn nhà thầu hay hợp tác bất kì nào hết. 
Mối quan hệ giữa nước ta và Trung Quốc từ lâu đã không thực sự tốt như bên ngoài. Vì 
vậy khi dự án được nhà thầu Trung Quốc thực hiện đã gây ra không ít sự tranh cãi, nhất  
là về vấn đề chính trị. 
 Nước nhận đầu tư  phải chia sẻ lợi ích quyền lợi. Như  trong lĩnh vực khai thác 
dầu thô, tuy tài nguyên là của Việt Nam nhưng khi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thì 

Việt Nam phải chia một phần lợi nhuận cho việc họ phân bổ  tỷ  lệ  lợi nhuận theo vốn  
đầu

 



 

của

 

họ.

 Nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng phát triển lệch lạc, mất cân đối. Sự mất cân đối  
thể hiện về mất cân đối cơ cấu ngành cũng như mất cân đối về cơ cấu lãnh thổ. Như ở 
Việt Nam các nhà đầu tư chỉ quan tâm tới những ngành có lợi nhuận cao trong khi đó các 
ngành như  trồng rừng hoặc như  nông nghiệp v.v… thu hút được rất ít vốn đầu tư. Cơ 
cấu lãnh thổ thu hút đầu tư rất mất cân đối ví dụ như ở Việt Nam chỉ có một vài tỉnh và  
thành phố lớn là có thể thu hút được các nhà đầu tư như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình  
Dương, Đồng Nai.


19

Ngoài ra, thực tế đã xảy ra trên cùng một địa bàn thôn, xã... có nhiều công trình tập 
trung vào việc phát triển mạng lưới điện và năng lượng và không nhắm vào phát triển cơ 
sở hạ tầng và an sinh xã hội, cùng với đó là chính quyền địa phương không đủ  năng lực 
quản lý và thiếu nguồn tài chính nhằm duy trì hoạt động của các công trình này một cách  

có hiệu quả  để  phục vụ  lâu dài cho người dân. (Theo Tổ  chức Tài Chính Công Việt  
Nam)
 Nước nhận đầu tư có thể trở thành bãi rác thải công nghệ. 
Việc tiếp nhận những dây chuyền công nghệ  của nhà đầu tư  nước ngoài là một  
vấn đề vô cùng nan giải. Do vậy phải so sánh các mặt lợi, hại khi tiếp nhận dự án đầu  
tư, thu hút đầu tư  vào các khu vực công nghệ  cao, hoặc thu hút vào lĩnh vực sử  dụng 
nhiều lao động là hai mục tiêu khác nhau. Dự  án sử  dụng nhiều lao động thì khả  năng 
công nghệ áp dụng vào đó là công nghệ lạc hậu, nhưng dự án đầu tư  vào khu vực công  
nghệ  cao thì sẽ được sử  dụng công nghệ cao do vậy Chính phủ  phải cân nhắc kỹ  càng  
trước khi chấp thuận cho các dự án đầu tư  vào đất nước. Ví dụ  điển hình là việc nhập 
công nghệ  lạc hậu trong hàng loạt lĩnh vực như  sản xuất xi măng, mía đường, nhiệt  
điện chạy than, sản xuất thép, giấy. “Tình trạng này không những làm cho năng suất lao  
động nước ta yếu kém mà gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng” ­ sự thẩm định không 
tốt  ở  nhiều dự  án đã khiến chúng ta phải chi hàng ngàn tỉ  đồng để  xử  lý hệ  lụy. (Đại 
biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận ­ Ngô Đức Mạnh)
 Ngoài ra khi nhận viện trợ ODA còn xảy ra các tình trạng sử dụng vốn sai mục  
đích và không hiệu quả, nhất là vấn đề  về  đạo đức của các nhà cầm quyền. Gần đây 
nhất, Ngân hàng Thế giới (WB) đã cấm Louis Berger Group, một công ty của Mỹ, nhận 
thầu các công trình có vốn vay từ WB trong thời gian một năm vì đưa hối lộ tại hai dự án  
tại Việt Nam. Vụ việc này lại làm rộ lên sự quan tâm trong nước về tham nhũng tại các  
dự   án   có   nguồn   vốn   ODA   (Theo   Phạm   Chí   Dũng   ­   VOA)
 Nguồn: Thư viện học liệu mở Việt NamThống kê của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Bộ 
Tài Chính )


20

3.2. Tác động với nước cấp viện trợ
3.2.1. Tác động tích cực
Viện trợ  song phương tạo điều kiện cho các công ty của bên cấp viên trợ  hoạt 

động thuận lợi hơn tại các nước nhận viện trợ  một cách gián tiếp. Cùng với sự 
gia tăng của vốn ODA, các dự án đầu tư của những nước viện trợ cũng tăng theo  
với những điều kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sự  gia tăng về  buôn bán giữa  
hai quốc gia. Năm 2015, Chính phủ Trung Quốc chuyển khoản vay ưu đãi bên mua 
300 triệu USD sang sử dụng cho dự án đường cao tốc Móng Cái ­ Vân Đồn và bổ 
sung khoản vay  ưu đãi chính phủ  250 triệu USD cho dự án đường sắt đô thị  Cát 
Linh ­ Hà Đông; Trung Quốc tuyên bố sẽ cung cấp viện trợ 1 tỷ nhân dân tệ trong 
5 năm tới để giúp VN xây dựng các công trình cải thiện dân sinh như trường học,  
bệnh viện... Đổi lại, Việt Nam gia tăng thương mại với Trung Quốc.   kim ngạch 
xuất nhập khẩu 2 nước lên 100 tỉ USD, tạo điều kiện thuận lợi để các mặt hàng  
có thế mạnh của hai bên được tiếp cận thị trường của nhau
Nước viện trợ được mở  cửa thị  trường bảo hộ cho nhiều danh mục hàng hoá và 
những ưu đãi như được cho phép đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng 
sinh lời cao.
Thể  hiện mục đích nhân đạo và mang tính phúc lợi xã hội của viện trợ  ODA là  
nhằm khôi phục, cải tạo và phát triển nền kinh tế  ­ xã hội của nước nhận viện  
trợ.
Nước viện trợ còn đạt được những mục đích về chính trị, ảnh hưởng của họ về 
mặt kinh tế ­ văn hoá đối với nước nhận cũng sẽ  tăng lên. Thời gian qua, quan hệ Việt 
Nam ­ Nhật Bản đã không ngừng phát triển, trở thành đối tác chiến lược toàn diện trên 
mọi lĩnh vực, đặc biệt nhất là kinh tế, thương mại và đầu tư. Nhật Bản là quốc gia viện  
trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam. (Hội nghị Xúc tiến đầu tư Việt 
Nam tháng 1/2017)
ODA là công cụ  để  thiết lập, khẳng định và duy trì vị  thế  kinh tế  ­ chính trị  của  
nước tài trợ trên bình diện chính trị thế giới.


21

Nước viện trợ  nguồn vốn ODA có được quyền giám sát và quyền đề  ra những 

điều kiện nhất định mang tính ràng buộc. Ví dụ  nguồn vốn đầu tư  này chỉ  được 
đầu tư vào dự án này, hoặc khoản mục này mà không được đầu tư vào dự án khác  
tuân theo quy định, sự kiểm định của nước tài trợ, tuỳ theo những mục đích nhất  
định. Hay điều kiện phải sử dụng các chuyên gia, kĩ sư, công nghệ, máy móc của 
nước tài trợ…
3.2.2. Tác động tiêu cực
Nhà tài trợ không trực tiếp quản lý dự án trong nước nhận viện trợ.
Philippin những năm (1970 – 1980), Trung Quốc (1980 – 1990) không đưa ra chiến 
lược thu hút cụ  thể  nên vốn ODA sử  dụng tản mạn không tập trung, tình trạng 
tham nhũng xảy ra phổ biến hay những nước  ở Nam sa mạc Shahara như Kenya,  
Uganda (những năm 1975 – 1980) đã thu hút vốn ODA vào xây dựng và duy tu  
những tuyến đường xuyên sa mạc kém hiệu quả dẫn đến không có khả  năng thu  
hồi vốn, rơi vào tình trạng khó khăn trong việc trả  nợ  nước ngoài. (Viện nghiên 
cứu Lập pháp Việt Nam).
Mặc dù viện trợ  cho nước ngoài chỉ  chiếm một phần rất nhỏ  trong ngân sách, 
nhưng nó là một trong những hạng mục đầu tiên bị cắt giảm. Các nước OECD đang phải 
đấu tranh để kiểm soát việc thâm hụt ngân sách và kiềm chế việc gia tăng trong chi tiêu  
của chính phủ. Người dân ở  những nước này muốn chính phủ  giảm bớt ngoại viện để 
tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường trong nước.
Điều nguy hiểm nhất có thể  xảy ra của viện trợ ODA là các nước cấp viện trợ 
không nhằm cải tạo nền kinh tế ­ xã hội của nước đang phát triển mà nhằm vào 
các mục đích quân sự. Chúng ta cũng biết nước láng giềng Trung Quốc là một nhà 
đầu tư ODA lớn cho Việt Nam, nhưng chúng ta cũng không vì thế mà để nền kinh  
tế phụ thuộc quá vaò nước bạn, đặc biệt là tình hình trên biển Đông. Hai bên luôn  
tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau; thực hiện nghiêm túc các nhận thức chung  
và thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; duy trì nguyên trạng, 
không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, gây căng thẳng tình hình. 
(Báo Pháp Luật Đời sống)



22

Các nước giàu khó khăn trong việc cân đo đong đếm để tìm được nước nhận viện 
trợ. Tình trạng tài chính của các nước nghèo mắc nợ nhiều và khả  năng hấp thụ 
vốn ODA của nhiều nước nhận viện trợ còn hạn chế là những nguyên nhân “làm  
nguội” nhiệt tình của các nhà tài trợ.


23

CHƯƠNG IV: LIÊN HỆ TÌNH HÌNH VỐN ODA Ở VIỆT NAM
4.1. Thu hút vốn ODA ở Việt Nam
4.1.1. Sự thay đổi về môi trường và chính sách hợp tác phát triển 
4.1.1.1.Môi trường hợp tác phát triển
Kể từ năm 2010 khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, môi trường hợp 
tác phát triển  ở  nước ta bắt đầu thay đổi theo hướng chuyển dần từ  quan hệ viện trợ 
sang quan hệ đối tác. Sự thay đổi này một mặt phản ánh sự công nhận quốc tế đối với  
những thành tựu phát triển kinh tế ­ xã hội mà Việt Nam đã đạt được trong 30 năm đổi 
mới, trong đó có hơn 20 năm được sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng tài trợ quốc tế,  
mặt khác đòi hỏi Việt Nam phải có sự  thay đổi căn bản từ  nhận thức, tư  duy, hoạch  
định chính sách đến phương thức hợp tác, trách nhiệm của các bên trên tinh thần quan 
hệ  đối tác trong các hoạt động hợp tác phát triển với mục đích gắn kết cao nhất hiệu  
quả viện trợ với hiệu quả phát triển.
4.1.1.2.Chính sách hợp tác phát triển
Để  phù hợp với môi trường hợp tác phát triển thay đổi nêu trên, trong thời kỳ  2016 ­ 
2020 dự kiến các đối tác phát triển sẽ thay đổi chính sách hợp tác phát triển với những  
đường nét chủ yếu được dự báo như sau:

a) Các đối tác phát triển đã kết thúc chương trình hỗ  trợ  phát triển chính thức  
dành cho Việt Nam:

Các đối tác phát triển này sẽ  tập trung chủ  yếu đẩy mạnh phát triển quan hệ  thương  
mại và hợp tác đầu tư  với Việt Nam trong khung khổ các thỏa thuận  thương mại và 
đầu tư song phương hoặc đa phương, bao gồm các Hiệp  định thương mại tự do. Chính  
phủ các nước đối tác này sẽ hỗ trợ gián tiếp quan hệ hợp tác trực tiếp giữa các chủ thể 
của hai bên với những lĩnh vực và phương thức thực hiện theo thỏa thuận chung (các 
trường đại học, các viện nghiên cứu, các cơ quan, tổ chức công và tư, các địa phương,  
các tổ chức phi Chính phủ và các cá nhân). Chính phủ hai bên sẽ đóng vai trò gián tiếp  
tạo môi trường thuận lợi và cung cấp những sự  hỗ  trợ  nhất định để  các bên trực tiếp  
phát triển quan hệ với nhau.
Các đối tác phát triển này cũng có thể cung cấp các khoản hỗ trợ cụ thể cho các cơ quan 
và tổ chức Việt Nam thông qua các Quỹ toàn cầu hoặc khu vực, các tổ chức của Liên 


24

hợp quốc, các tổ  chức phi Chính phủ  của Việt Nam hoặc nước ngoài hoặc các đối tác 
phát triển song phương và đa phương khác đang hoạt động tại nước ta.


25

b) Các đối tác phát triển tiếp tục duy trì chương trình hỗ trợ phát triển chính thức  
dành cho Vệt Nam sẽ điều chỉnh chính sách phù hợp với môi trường mới:

­ Một số đối tác phát triển song phương sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh  
vực truyền thống như xây dựng chính sách và phát triển thể chế, cải thiện quản trị quốc 
gia, tăng cường năng lực con người, ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai, 
xóa đói, giảm nghèo bền vững, một số dự án đầu tư  quy mô nhỏ   trong ngành y tế  và 
giáo dục và đào tạo, hỗ trợ thực hiện các cam kết toàn cầu như  Chương trình Nghị  sự 
2030 vì sự phát triển bền vững (SDGs). Tuy nhiên quy mô hỗ trợ giảm dần, phạm vi hỗ 

trợ tập trung hơn và phương thức hỗ trợ sẽ linh hoạt hơn. Trong các đối tác phát triển 
song phương một số đã lên kế hoạch kết thúc chương trình hỗ trợ phát triển chính thức  
dành cho Việt Nam trong thời kỳ 2016 ­ 2020.

­ Ủy ban Châu Âu (EC) sẽ tiếp tục chương trình hợp tác phát triển đã hình thành  
trong 5 năm qua và sẽ tập trung hỗ trợ nhiều hơn các lĩnh vực liên quan đến việc thực  
hiện Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU.

­ Các Tổ  chức thuộc Hệ  thống Liên hợp quốc đang trong quá trình hợp tác với  
Chính phủ định vị vai trò của Liên hợp quốc ở Việt Nam tập trung hỗ trợ Chính phủ với  
tư cách là nhà tư vấn chính sách phát triển thay vì nhà tài trợ; áp dụng những  mô hình hỗ 
trợ  linh hoạt hơn và hợp tác chặt chẽ  với các cơ  quan Việt Nam vận động các nguồn 
lực bổ sung để đáp ứng nhu cầu hỗ trợ đang tăng lên trong bối cảnh ngân sách của Liên 
hợp quốc hạn hẹp.

­ Nhóm các Ngân hàng phát triển bao gồm ADB, AFD, JICA,   KfW,  KEXIM  và 
WB ­ nguồn cung cấp vốn ODA và vốn vay  ưu đãi chủ yếu của Việt Nam, tập trung 
đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội như phát  triển đường bộ, cảng 
biển, cảng hàng không; xây dựng các nhà máy điện và hệ  thống  truyền  tải và  phân 
phối;  phát  triển  hạ  tầng  đô  thị  (hệ  thống  cấp  thoát  nước,  xử  lý  rác  thải, phát triển 
giao thông nội  đô,…); phát triển nông nghiệp và  nông thôn kết  hợp  xóa đói,  giảm 
nghèo; xây dựng hệ thống thủy lợi; phát triển y tế; giáo dục; …..

­ Trong 5 năm tới các Ngân hàng Phát triển sẽ tiếp tục cung cấp hỗ trợ phát triển  
chính thức cho Việt Nam, song mức độ ưu đãi sẽ giảm dần, trong đó WB sẽ chấm dứt  


×