Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

hoàn thiện cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.22 KB, 66 trang )

MỞ ĐẦU
Quản lý hành chính nhà nước có vị trí rất quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân, trong thời gian qua các cơ quan hành chính ở trung ương và địa
phương đã có nhiều đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Cơ chế chính sách của nhà nước đối với lĩnh vực này cũng có nhiều
chuyển biến, từng bước tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới và hoàn thiện thể
chế kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, cơ chế
quản lý đối với cơ quan hành chính đã bộc lộ những hạn chế cần khắc phục,
nhất là cơ chế quản lý tài chính và biên chế. Chính vì vậy chính phủ đã ban
hành Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/09/2001 phê duyệt chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 với 4 nội
dung lớn là:
- Cách thể chế
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
- Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
- Cải cách tài chính công
Trong đó coi cải cách cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành
chính nhà nước là bước đột phá. Để triển khai chương trình này, ngày
17/12/2001 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 192/2001/QĐ-
TTg về mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối
với cơ quan hành chính nhà nước.
Mục đích của sự đổi mới này là thực hiện việc trao quyền tự chủ và
tự chịu trách nhiệm cho cơ quan hành chính trong việc tổ chức công việc, sử
dụng lao động và các nguồn lực tài chính của cơ quan theo hướng khoán biên
1
chế và kinh phí quản lý hành chính, từ đó tạo điều kiện cho các đơn vị chủ
động sắp xếp lao động, tổ chức công việc, quản lý tài chính.
Sau hơn 4 năm thực hiện Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg đến nay
đã có 58/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 3 Bộ triển khai thí điểm


khoán. Những kết quả đạt được cho thấy chủ trương này của chính phủ là
hoàn toàn đúng đắn: các cơ quan đã có quyền tự chủ trong việc tổ chức bộ
máy, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu suất lao động, hiệu
quả công việc... Nhưng bên cạnh những thành tựu đáng biểu dương thì cơ chế
này cũng bộc lộ những hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực thi.
Để làm rõ và đánh giá một cách khách quan tình hình thực hiện và
kết quả đạt được của cơ chế khoán từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện và phát huy hiệu quả của cơ chế này, em đã lựa chọn đề tài:
“Một số giải pháp,kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế khoán biên
chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan hành chính ở nước ta
trong giai đoạn 2006-2010”
Đề tài gồm ba phần:
- Chương I : Cơ quan hành chính nhà nước và khoán chi ngân
sách cho cơ quan hành chính nhà nước
- Chương II : Thực trạng khoán chi ngân sách nhà nước cho cơ
quan hành chính nhà nước trong thời gian quan
- Chương III : Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ
chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà đã nhiệt tình
giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.

2
CHƯƠNG I
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ KHOÁN CHI NGÂN
SÁCH CHO CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM VỀ CƠ QUAN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.Quản lý hành chính nhà nước
“Quản lý là tác động có mục đích của chủ thể quản lý lên các đối
tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến
động của môi trường”.

1
Quản lý xuất hiện ở bất cứ nơi nào có hoạt động chung của con
người. Nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung, hướng
các hoạt động chung theo những hướng thống nhất nhằm đạt được mục tiêu
đã định trước. Cũng như vậy, quản lý hành chính nhà nước có thể hiểu là việc
điều khiển các quá trình xã hội do hệ thống hành chính nhà nước thực hiện
bằng quyền lực của nhà nước.
“Quản lý hành chính nhà nước là tác động của chủ thể quản lý hành
chính nhà nước,chủ yếu bằng pháp luật, tới các đối tượng quản lý để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực hành pháp”.
2
Quản lý hành chính nhà nước được thực hiện chủ yếu bởi hệ thống
cơ quan nhà nước mà đứng đầu là chính phủ và các cơ quan hành chính nhà
nước. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động nằm trong
nhóm ba loại hoạt động của nhà nước, đó là: hoạt động lập pháp, hoạt động
hành pháp và hoạt động tư pháp. Mục đích của loại hoạt động này là bảo đảm
sự chấp hành pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà
nước nhằm duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật trong
1
Giáo trình Khoa học quản lý (tập 1), Đại học KTQD, NXB Khoa học và kĩ thuật 2002
2
Trần Minh Hương: Quản lý hành chính nhà nước, tạp chí Quản lý nhà nước 2/2001
3
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hay còn có thể nói quản lý hành
chính nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành của nhà nước.
Tính chấp hành của quản lý hành chính nhà nước thể hiện ở mục
đích của hoạt động này, đó là: đảm bảo tính hiệu lực của văn bản pháp luật do
cơ quan nhà nước cấp cao ban hành trong thực tế. Mọi hoạt động của quản lý
hành chính nhà nước đều được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm thực
thi pháp luật.

Tính chất điều hành của hoạt động quản lý hành chính được biểu
hiện ở chỗ để đảm bảo văn bản pháp luật của nhà nước được thực thi trong
đời sống, chủ thể quản lý hành chính cần tiến hành tổ chức và chỉ đạo việc
thực hiện đối với đối tượng quản lý.
Tóm lại, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động nhằm thực hiện
quyền hành pháp của nhà nước đối với xã hội.
2. Cơ quan hành chính nhà nước
2.1. Khái niệm
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước,
do nhà nước lập ra để thực hiện chức năng quản lý hành chính. Nhiệm vụ của
các cơ quan này là thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành trên lãnh thổ hay
trong từng ngành, từng lĩnh vực. Đây là dấu hiệu chính để phân biệt cơ quan
hành chính nhà nước với các cơ quan nhà nước khác. Những cơ quan hành
chính nhà nước khác không có chức năng quản lý nhà nước mà chỉ tham gia
vào quá trình quản lý nhà nước thông qua các hoạt động cơ bản của mình. Ví
dụ: Toà án nhân dân có chức năng xét xử các vụ án, Viện kiểm sát nhân dân
có chức năng kiểm sát chung, Ngân hàng trung ương có chức năng điều tiết
tài chính tiền tệ...
4
Cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà
nước theo hai hướng: thứ nhất, ban hành các văn bản pháp quy nhằm hướng
dẫn thực hiện các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; thứ hai là
chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước dưới quyền và các đơn vị cơ sở khác thuộc thẩm quyền.
Như vậy: “ Cơ quan hành chính nhà nước là một dạng cơ quan nhà
nước, thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước về mọi mặt của đời
sống xã hội thông qua hoạt động chấp hành và điều hành, có thẩm quyền
mang tính quyền lực nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ chức năng do luật
định.”
3

Nội dung quản lý hành chính nhà nước được thực hiện thông qua
các mục tiêu, nhiệm vụ, chức năng hoạt động của từng cơ quan hành chính
nhà nước, từng cấp, từng ngành và toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng hành chính
nhà nước trên các lĩnh vực sau:
- Quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại
giao.
- Quản lý về tài chính, ngân sách nhà nước, tài sản công, kiểm
toán, bảo hiểm, ngân hàng, tín dụng, v.v..
- Quản lý về khoa học, công nghệ, tài nguyên, môi trường.
- Quản lý về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.
- Quản lý về tổ chức bộ máy hành chính.
2.2 Phân loại cơ quan hành chính nhà nước.
Xét theo tiêu chí quy mô lãnh thổ hoạt động thì các cơ quan hành
chính nhà nước được chia thành: cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương
và cơ quan nhà nước ở địa phương.
3
Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước (tập 1), Học viện hành chính quốc gia, NXB Lao động 1993
5
Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương gồm: Chính phủ,
các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ. Trong đó,
theo điều 109, hiến pháp 1992, quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành cao
nhất của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “Chính phủ quản lý thống nhất các
nhiệm vụ: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại
của Nhà nước”. Các văn bản của Chính phủ ban hành có hiệu lực với mọi cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trên cả nước. Các quyết định của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ có hiệu lực trong
ngành hay lĩnh vực mà nó quản lý trong phạm vi cả nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương gồm: Uỷ ban nhân

dân các cấp, các sở, phòng ban của Uỷ ban nhân dân. Các hoạt động của
những cơ quan này chỉ được thực hiện trên một đơn vị lãnh thổ hành chính
nhất định.
Sơ đồ 1 sẽ cho ta hình dung về mối quan hệ quyền hạn giữa các cơ
quan hành chính nhà nước ở nước ta:
6
Sơ đồ 1. Bộ máy quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay
(Nguồn: Những vấn đề cơ bản về Nhà nước và QLNN, NXB Thống Kê, 2005)
II. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO CÁC CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Nội dung chi ngân sách nhà nước cho các cơ quan hành chính.
Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nhà nước đòi hỏi phải có
một nguồn tài chính để duy trì sự tồn tại và các hoạt động bình thường của
các cơ quan nhà nước. Các cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ thực
hiện lợi ích công cộng mà không yêu cầu người được phục vụ phải trả thù lao.
7
Chính phủ
UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc
Các Bộ, cơ quan
ngang Bộ
UBND quận, huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh
Các Sở, ban, ngành
UBND xã, phường, thị
trấn
Các phòng, ban
Vì vậy, ngân sách nhà nước phải chi kinh phí để duy trì các hoạt động của các
cơ quan này.
Chi ngân sách nhà nước đối với các cơ quan hành chính nhà nước là

quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách để đáp ứng nhu cầu thực hiện
các nhiệm vụ quản lý hành chính của nhà nước.
Quá trình phân phối là việc xác lập, xét duyệt và phân bổ ngân sách
nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước. Quá trình sử dụng là quá trình
cấp kinh phí từ quỹ ngân sách nhà theo các phân bổ trên cho các cơ quan hành
chính nhà nước. Sau khi nhận được kinh phí cấp phát, các cơ quan này sẽ chi
tiêu cho những hoạt động theo dự toán đã được phê duyệt.
Nội dung chi ngân sách nhà nước đối với cơ quan hành chính
nhà nước bao gồm: chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.
Chi thường xuyên được chia thành những khoản mục sau:
- Chi thanh toán cho cá nhân ( lương, phụ cấp, ...)
- Chi hàng hoá dịch vụ: các dịch vụ công cộng, văn phòng
phẩm, thông tin, tuyên truyền, liên lạc, hội nghị, công tác
phí, chi phí thuê mướn, ...
Chi đầu tư phát triển:
- Xây dựng trụ sở làm việc
- Mua sắm tài sản cố định dùng cho công tác chuyên môn
2. Phương thức chi ngân sách nhà nước trước khi thực hiện khoán chi
Trên thế giới tồn tại nhiều phương thức chi ngân sách nhà
nước như: phương thức chi theo yếu tố đầu vào, phương thức chi theo kết quả
đầu ra và phương thức chi theo chương trình dự án. Mục tiêu của hệ thống cơ
chế quản lý tài chính này là nhằm phát huy tối đa hiệu quả của chi ngân sách
8
nhà nước. Tuy nhiên ở nước ta, chủ yếu chỉ áp dụng phương thức phân phối
theo yếu tố đầu vào.
Theo phương thức này, mỗi cơ quan đơn vị thụ hưởng nguồn ngân
sách muốn thực hiện các nhiệm vụ chức năng mà nhà nước giao cho thì cần
phải có nguồn lực nhất định, đó là các yếu tố đầu vào. Chi ngân sách nhà
nước là tạo điều kiện vật chất để các cơ quan đơn vị đó có được các đầu vào
cần thiết nhằm duy trì và thực hiện các hoạt động của mình.

Trong giai đoạn từ khi đổi mới đến trước năm 1999, chi ngân sách
nhà nước đối với các cơ quan hành chính cũng được áp dụng theo phương
thức cấp phát theo yếu tố đầu vào, nội dung cụ thể được quy định trong Nghị
định số 74 – CP ngày 24/12/1960 của Hội đồng Chính phủ về quản lý tài
chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước.
Nghị định này quy định kinh phí hoạt động bình thường của các cơ
quan hành chính nhà nước được ngân sách bao cấp 100% trên cơ sở chỉ tiêu
biên chế được giao. Cụ thể, các đơn vị thụ hưởng lập dự toán ngân sách để
trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dựa trên số biên chế và các khoản chi
thường xuyên tại đơn vị và được cấp phát kinh phí trong hạn mức, hết năm
ngân sách nếu đơn vị thụ hưởng sử dụng không hết phải trả về cho ngân sách
nhà nước. Đồng thời các cơ quan hành chính cũng không được phép sử dụng
bất cứ nguồn kinh phí nào khác để chi cho nhiệm vụ quản lý hành chính. Cơ
chế này không những không khuyến khích đơn vị sử dụng tiết kiệm chi phí,
lao động mà còn khuyến khích tăng thêm biên chế để được tăng thêm kinh
phí.
Thực trạng trên đã đòi hỏi phải sớm tìm ra phương thức quản lý mới
nhằm nâng cao trách nhiệm của các đơn vị trong việc sử dụng ngân sách.
Chính phủ cùng các Bộ, ngành và các địa phương đã có nhiều cơ chế chính
sách cải tiến quá trình chi tiêu. Một trong những cải tiến đó là thực hiện thí
điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính.
9
III. KHOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Khái niệm khoán chi ngân sách nhà nước cho cơ quan hành chính nhà
nước
Nhằm khắc phục những bất cập trong việc quản lý biên chế và kinh
phí hành chính như đã nêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số
192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12/2001 về mở rộng thí điểm khoán biên chế và
kinh phí quản ký hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước.

Các cơ quan hành chính nhà nước căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ
của mình, chi các nhiệm vụ thành thành các công việc nhỏ, trong đó xác định
số công chức tham gia, thời gian thực hiện và các phương tiện vật chất cần
thiết để thực hiện các công việc đó, như: số trang thiết bị, số văn phòng phẩm,
tiền thông tin liên lạc...Tổng hợp các số liệu đó thành ngân sách hoạt động
của năm. Cơ quan quản lý cấp trên giao ngân sách này cho cơ sở. Lãnh đạo cơ
sở tự xác định số lượng biên chế, hạn chế tối đa đầu vào...nhằm tiết kiệm
được một khoản kinh phí trên cơ sở vẫn hoạt thành đúng chất lượng và tiến độ
công việc. Số ngân sách dôi dư được sử dụng vào việc tăng quỹ phúc lợi, cải
thiện điều kiện làm việc cho cán bộ công chức, bổ xung quỹ lương...
Như vậy, khoán chi ngân sách nhà nước cho cơ quan hành chính là
nhà nước (trực tiếp là đơn vị có thẩm quyền duyệt dự toán ngân sách nhà
nước) giao cho các cơ quan hành nhận mức khoán kinh phí ổn định trong một
thời kỳ (có thể là một năm hoặc một số năm) để đơn vị chủ động sử dụng hiệu
quả kinh phi được cấp phát trên cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
4
Các đơn vị được chủ động sử dụng nguồn kinh phí dôi dư trên cơ
sở đảm bảo tính công khai, dân chủ.
4
Đặng Văn Thanh: Khoán chi hành chính-một giải pháp nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý hành chính
nhà nước, Tạp chí Quản lý nhà nước 8/1999
10
Ở đây, cần lưu ý rằng, khoán chi ngân sách nhà nước cho cơ quan
hành chính nhà nước là việc khoán chi cho việc thực hiện nhiệm vụ của cơ
quan hành chính, chứ không phải là khoán chi cho các công việc quản lý của
tất cả các cơ quan thuộc khu vực nhà nước nói chung.
Hộp1. Ngân sách có kiểm soát chi tiêu ở Fairfield

ăm 1979, thành phố Fairfield ở
California đã sáng tạo ra một

giải pháp cho hệ thống ngân sách. Giám
đốc tài chính của Fairfield vốn là một
người nhập cư từ Philipin, nơi anh ta từng
là nhân viên ngân hàng. Anh ta đề xuất
với ông Gala Wilson, một nhà quản lý
thành phố, làm theo cách của Philipin tức
là giống như cách thức lập ngân sách của
gia đình: lập các khoản chi cho những
khoản chi chính, nhưng có thể chuyển
được tiền từ tài khoản này sang tài khoản
khác khi thực sự phải làm như vậy.
N
Ông Wilson đã đồng ý và đến
năm 1981, California đã xác định Fairfield
là một trong những thành phố nổi tiếng nhất
về tài khoá của bang. Đến năm 1991, các cơ
quan của thành phố này đã tiết kiệm được
6,1 triệu đôla. Quỹ chung lúc đó là 30.2
triệu đôla, nhưng chỉ sử dụng hết 28.8 triệu
đôla. Điều này cho phép thành phố thực
hiện được một số nhiệm vụ khác vốn không
được cấp tiền và dành ra một khoản dự trữ
đề phòng suy thoái
(Nguồn: Sáng tạo lại chính phủ, Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế TW )
11
2. Nội dung chủ yếu của cơ chế khoán chi ngân sách nhà nước cho cơ
quan hành chính nhà nước
Theo Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ,
nội dung chủ yếu của cơ chế khoán chi ngân sách nhà nước cho cơ quan hành

chính nhà nước bao gồm những nội dung sau:
2.1. Đối tượng áp dụng khoán chi ngân sách nhà nước
Đối tượng thực hiện Quyết định này là tất cả các cơ quan hành
chính nhà nước và các tổ chức trực tiếp sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Không áp dụng cơ chế này đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc cơ quan thực
hiện khoán.
2.2. Mục tiêu
- Đổi mới cơ chế quản lý biên chế và kinh phí đối với các cơ
quan hành chính và các tổ chức được nhà nước cấp kinh phí hoạt động.
- Thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn để nâng cao
chất lượng, hiệu quả công việc của các cơ quan, đơn vị.
- Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng kinh
phí quản lý hành chính.
- Nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả sử dụng kinh phí hành
chính trong cơ quan, đơn vị, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.
2.3. Các cơ quan, đơn vị thực hiện khoán chi hành chính phải tuân thủ
những nguyên tắc sau:
- Đảm bảo thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao
Mục đích của khoán chi là thay đổi phương thức quản lý để đơn vị
chủ động chi tiêu phù hợp với công việc nhằm nâng cao hiệu quả chi ngân
sách nhà nước. Nhưng các cơ quan hành chính nhà nước cũng phải đảm bảo
12
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không phải vì để tiết kiệm chi phí mà làm
giảm chất lượng công việc so với trước khi giao khoán.
- Không tăng biên chế và tổng kinh phí của các khoản chi thực hiện
khoán so với trước khi thực hiện khoán.
Tổng kinh phí của các cơ quan giao khoán không được tăng so với
trước khi thực hiện khoán, điều này đòi hỏi cơ quan thực hiện thí điểm khoán
phải tổ chức lại bộ máy, quy định lại chức năng nhiệm vụ của từng bộ
phận....sao cho hệ thống hoạt động có hiệu quả nhất với số kinh phí được giao

khoán.
- Thực hiện công khai, dân chủ và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của
cán bộ, công chức.
Việc sử dụng kinh phí tiết kiệm hoàn toàn do đơn vị tự quyết định
trên cơ sở quy định tỷ lệ khung. Trong điều kiện đó để tránh tình trạng phân
phối không công bằng, gây mất đoàn kết trong tổ chức thì việc thực hiện quy
chế dân chủ cơ sở và công khai tài chính trong đơn vị thực hiện khoán là rất
cần thiết.
2.4. Nội dung và mức giao khoán
2.4.1. Biên chế giao khoán:
Biên chế giao khoán là số biên chế do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giao cho cơ quan, đơn vị thực hiện thí điểm khoán sau khi đã rà
soát lại trên cơ sở biên chế hiện có và được giao ổn định trong 3 năm kể từ
khi thực hiện thí điểm giao khoán.
2.4.2. Kinh phí ngân sách nhà nước giao khoán được ổn định trong
3 năm, bao gồm:
a) Tổng quỹ lương được xác định trên cơ sở số biên chế được giao
khoán và ngạch, bậc lương của cán bộ, công chức theo quy định tại Nghị định
13
số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ và các chế độ liên quan đến chính
sách tiền lương hiện hành của nhà nước.
b) Kinh phí quản lý hành chính được xác định căn cứ vào:
- Hệ thống định mức tiêu chuẩn, chế độ sử dụng kinh phí chi
thường xuyên của ngân sách nhà nước theo quy định;
- Tình hình thực tế sử dụng kinh phí trong 3 năm liền kề trước năm
thực hiện thí điểm khoán, có xem xét đến các yếu tố tăng giảm đột biến.
c) Mức khoán kinh phí hành chính được phép điều chỉnh trong các
trường hợp sau:
- Nhà nước thay đổi chính sách tiền lương;
- Có sự thay đổi ở mức tối thiểu là 20% đối với các định mức, tiêu

chuẩn, chế độ hiện đang là cơ sở cho việc lập dự toán và phân bổ kinh phí đối
với các khoản chi thực hiện khoán.
- Nhà nước có chính sách tăng chi cho các lĩnh vực đang thực hiện
khoán;
- Sáp nhập, chia tách cơ quan, đơn vị theo quyết định của cấp có
thẩm quyền.
d) Không thực hiện khoán đối với các khoản chi sau:
- Chi sửa chữa lớn trang thiết bị, phương tiện, trụ sở và nhà công vụ
- Chi mua sắm tài sản cố định, cải tạo, xây dựng trụ sở, nhà công vụ
- Chi đoàn ra, đoàn vào
- Chi đào tạo cán bộ, công chức.
2.5. Sử dụng kinh phí do tiết kiệm
- Kinh phí tiết kiệm từ quỹ lương do thực hiện tinh giảm biên chế
được sử dụng 100% tăng thu nhập cho cán bộ, công chức cơ quan.
14
- Kinh phí tiết kiệm từ chi hành chính, nghiệp vụ và khoản khác
+ Tăng thu nhập cho cán bộ, công chức cơ quan:
Từ nguồn tiết kiệm quỹ lương và nguồn này tăng thu nhập
cho cán bộ, công chức theo hệ số điều chỉnh mức tiền lương tối
thiểu không quá 2,5 lần so mức lương tối thiểu chung do nhà nước
quy định.
QTL
=
Lương tối
thiểu một
người một
tháng theo
chế độ
(1+
Hệ số

điều
chỉnh
tăng
) x (
Hệ số
lương cấp
bậc bình
quân của
cơ quan
+
Hệ số phụ
cấp lương
bình quân
của cơ
quan
) x
Biên
chế
x
12
tháng
Lương thực tế
điều chỉnh (L)
= Lương tối thiểu 1
tháng theo chế độ
x ( 1 + Hệ số điều chỉnh tăng )
Lương trả cho người
cán bộ, công chức
= L x ( Hệ số lương cấp
bậc đang hưởng

+ Hệ số phụ cấp
lương đang hưởng )
+ Chi khen thưởng
+ Chi phúc lợi
+ Chi nâng cao hiệu quả, chất lượng công việc: mua sắm, sửa
chữa tài sản cố định, đào tạo cán bộ...
+ Chi thêm cho những người thực hiện giảm biên chế
+ Lập quỹ ổn định thu nhập.
Thủ trưởng đơn vị quyết định mức sử dụng các nội dung trên
15
- Kinh phí tiết kiệm chi không hết được chuyển sang năm sau tiếp
tục chi.
2.6 Tổ chức thực hiện (Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số
17/2002/TTLT-BTC-BTCCBCP)
- Các cơ quan được lựa chọn thực hiện khoán chi xây dựng đề án
khoán chi của cơ quan mình theo đề án mẫu gửi Bộ, ngành chủ quản (đối với
các cơ quan thuộc trung ương quản lý), Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (đối với các cơ quan thuộc địa phương quản lý) phê
duyệt.
- Các đề án chi sau khi được phê duyêt, cơ quan phê duyệt đề án gửi
về Bộ Tài chính, Ban tổ chức cán bộ chính phủ (đối với cơ quan trung ương
quản lý); Ban tổ chức chính quyền, Sở Tài chính-Vật giá (đối với cơ quan
thuộc địa phương quản lý) để theo dõi, giám sát việc thực hiện.
3. Sự cần thiết phải khoán chi ngân sách nhà nước cho cơ quan hành
chính
3.1. Xuất phát từ mối quan hệ giữa cải cách tài chính công và cải cách hành
chính.
Ở nước ta công cuộc cải cách hành chính bắt đầu được triển khai từ
khi Nghị quyết 38/CP ngày 04/05/1994 cả Chính phủ về cải cách một bước
thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân, tổ chức ra đời.

Đặc biệt, Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 khoá VII tháng 01/1995 đã đặt
cải cách hành chính thành một nội dung quan trọng trong sự nghiệp đổi mới
toàn diện ở nước ta và xác định cải cách hành chính là trọng tâm của công
cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
16
Ngày 17/09/2001 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định
136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đọan 2001-2010. Bao gồm bốn nội dung là:
- Cải cách thể chế
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
- Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
- Cải cách tài chính công
Như vậy cải cách hành chính và cải cách tài chính có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Chỉ có thể thực hiện cải cách hành chính thành công khi
tiến hành đồng thời với cải cách tài chính công.
“Mối quan hệ khăng khít giữa cải cách hành chính với cải cách tài
chính công thể hiện trên những mặt sau:
- Việc thực thi hoạt động của bộ máy nhà nước gắn liền với cơ chế
tài chính hỗ trợ cho các hoạt động đó.
- Việc phân cấp quản lý hành chính phải tương ứng với sự phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước để đảm bảo kinh phí cho hoạt động có hiệu quả ở
mỗi cấp.
- Các cấp chính quyền trong bộ máy hành chính đều có trách nhiệm
và quyền hạn có ý nghĩa quyết định trong quản lý tài chính công ở phạm vi
quản lý của mình.
- Các thể chế về tài chính công có tác dụng chi phối hoạt động của
các cơ quan nhà nước theo ý định của Chính phủ.
- Tỷ trọng và cơ chế chi tiêu kinh phí ngân sách để trả lương cho
đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước có tác động quan trọng đến
việc phát huy năng lực của cán bộ công chức trong công việc.

17
- Thông qua tài chính công, nhà nước thực hiện giám sát bằng tiền
đối với mọi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Từ những mối quan hệ hữu cơ nói trên có thể thấy công cuộc cải
cách hành chính không thể tách rời với cải cách tài chính công. Xét trên phạm
vi rộng, cải cách tài chính công là cải cách các hoạt động thu chi bằng tiền của
nhà nước từ đó tác động đến toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước và cung ứng
dịch vụ công trên các lĩnh vực. Xét trên phạm vi hẹp, vai trò của tài chính
công được xem xét thông qua các tác động trực tiếp tới cách thức tổ chức bộ
máy, cơ cấu tổ chức, quan hệ phân cấp trong bộ máy, tiền lương công
chức...”
5
Một trong những mục tiêu của cải cách tài chính công là: trên cơ sở
phân biệt rõ cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ
công thực hiện đổi mới cơ bản cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan
hành chính và đơn vị sự nghiệp. Trên tinh thần đó Quyết định số
192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ về khoán biên
chế và kinh phí hành chính đã ra đời, góp phần tạo ra cơ chế tài chính cho
phép các đơn vị chủ động hơn trong việc tổ chức và sắp xếp bộ máy hợp lý,
nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
3.2. Xuất phát từ hạn chế của phương thức cấp phát trước đây
Cơ chế quản lý và phương thức cấp phát kinh phí đối với cơ
quan hành chính trước đây được thực hiện theo hạn mức kinh phí cho từng
mục chi theo mục lục ngân sách. Hết năm ngân sách nếu đơn vị không sử
dụng hết thì phải trả lại nhà nước.
Phương thức này có mặt tích cực là khắc phục được tình trạng sử
dụng kinh phí không đúng mục đích và tồn đọng kinh phí ở các cơ quan nhà
nước. Tuy nhiên, do việc xác định số lượng biên chế, kinh phí thường xuyên
5
Cải cách hành chính vấn đề cấp thiết để đổi mới bộ máy nhà nước, NXB Tổng hợp TPHCM, 2004

18
một cách chính xác là công việc rất khó khăn phức tạp, dẫn đến tình trạng các
cơ quan hành chính có kinh phí thừa ở mục này nhưng lại thiếu ở mục khác
cho nên nhiều công việc không thể hoàn thành được.
Để khắc phục tình trạng định mức không phù hợp, hàng năm bên
cạnh việc tính chi hành chính theo định mức, các cơ quan tài chính còn phải
cân đối thêm một số nội dung chi ngoài định mức. Những nội dung này mang
nhiều cảm tính, thiếu chính xác. Ví dụ trong cân đối dự toán ngân sách trung
ương năm 1998 cho chi hành chính là 2542 tỷ đồng thì phần chi ngoài định
mức là 1392 tỷ đông, chiếm 52% tổng chi hành chính, điều đó làm cho định
mức chi trở nên không còn ý nghĩa.
Hạn chế thứ hai của cơ chế này là: việc cấp kinh phí thường xuyên
hàng năm của các cơ quan hành chính thường dựa vào chỉ tiêu biên chế được
giao. Do vậy xu hướng muốn tăng biên chế để có thêm kinh phí diễn ra khá
phổ biến ở các bộ, ngành, địa phương. Cách làm này không những không thúc
đẩy được các cơ quan tích cực sắp xếp hoàn thiện bộ máy, mà còn tạo điều
kiện để bộ máy tổ chức ngày càng cồng kềnh hơn.
Bên cạnh đó phương thức cấp phát kinh phí cũ còn tạo nên cơ chế
xin cho giữa cơ quan thụ hưởng ngân sách và cơ quan duyệt dự toán, dẫn đến
các tệ: quan liêu, cửa quyền, tham nhũng...
Mặt khác hãy thử hình dung, chuyện gì sẽ xảy ra nếu đến cuối năm
mà các cơ quan hành chính vẫn không chi hết số ngân sách của mình. Họ sẽ
phải hoàn trả lại cho nhà nước và năm sau họ sẽ được nhận ngân sách ít hơn.
Trong hoàn cảnh đó thì chẳng ai muốn tiết kiệm chi phí cả. Như vậy hệ thống
ngân sách của chúng ta đã khuyến khích các nhà quản lý phung phí tiền của.
Có thể thấy rằng trước khi thực hiện khoán kinh phí hành chính thì
tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho cơ quan hành chính nhà nước là rất cao, gây
lãng phí nguồn lực của quốc gia.
19
Bảng 1. Tình hình chi ngân sách nhà nước cho quản lý hành chính

Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000
Chi ngân sách nhà nước 68.210 78.057 77.380 82.500 85.000
Chi quản lý hành chính 6.354 6.007 5.120 5.220 5.300
% so chi NSNN 9,32% 7,7% 6,62% 6,33% 6,24%
(Nguồn: Số liệu của Bộ Tài chính, 2000)
3.3. Hiệu quả của phương thức khoán chi hành chính
Về cơ bản, phương thức khoán chi hành chính góp phần tăng cường
sức mạnh cho các cơ quan hành chính để chúng thực hiện nhiệm vụ của mình,
khoán chi sẽ tăng cường tính tự chủ cho đơn vị cơ sở thể hiện ở những điểm
sau:
Đối với vấn đề về biên chế, tổ chức bộ máy và hiệu quả công việc
của cơ quan, đơn vị được khoán chi: Căn cứ vào nhiệm vụ của cấp có thẩm
quyền duyệt, người đứng đầu đơn vị sắp xếp công chức dưới quyền vào từng
vị trí phù hợp với năng lực của họ và yêu cầu của công việc. Trường hợp cần
thiết có thể áp dụng các cơ chế như thuê thêm chuyên gia ngắn hạn mà không
cần xin thêm biên chế, từ đó góp phần làm cho bộ máy gọn nhẹ, nâng cao
hiệu quả và chất lượng công việc.
Về vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức: Thông
qua khoán chi, đội ngũ cán bộ công chức sẽ phát huy được tinh thần trách
nhiệm và năng lực chuyên môn, phong cách làm việc cũng như tính tự giác
cũng được nâng cao, do đó tư duy tầm nhìn của mỗi cán bộ sẽ được đổi mới.
Về hiệu quả sử dụng kinh phí ngân sách đối với cơ quan hành chính
nhà nước: Khi khoán ngân sách hoạt động, từng cấp quản lý sẽ tìm mọi cách
khai thác các nguồn lực sẵn có để thực thi nhiệm vụ với kinh phí ít nhất. Tăng
cường được ý thức tiết kiệm trong sử dụng kinh phí của mỗi đơn vị, nâng
20
hiệu quả cho hoạt động tài chính, thúc đẩy tư duy sáng tạo của cán bộ công
chức.
Về thu nhập của từng cán bộ, công chức: Việc cho phép các đơn vị

nhận khoán có quyền sử dụng phần kinh phí tiết kiệm được đã tạo điều kiện
để tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, phát huy được tối đa hiệu quả làm
việc của họ. Mặt khác việc tinh giảm biên chế đặt người lao động dưới áp lực
phải tự hoàn thiện, nâng cao nghiệp vụ nếu không muốn bị đào thải. Như vậy,
khoán chi hành chính là đòn bẩy khuyến khích người lao động cả về vật chất
và tinh thần, tạo tâm lý làm việc tích cực hơn.
Cuối cùng, khoán chi hành chính cho phép các nhà lãnh đạo tập
trung vào những vấn đề quan trọng hơn. Họ không còn mất thời gian vào việc
thảo luận về từng khoản mục ngân sách cho các cơ quan hành chính nhà nước
nữa, mà sẽ tận dụng thời gian để giải quyết những vấn đề vĩ mô hơn: như xây
dựng chính sách thuế, chiến lược cho quá trình hội nhập v.v..
Tóm lại, khoán chi hành chính đối với cơ quan hành chính nhà nước
là một biện pháp quan trọng có tính đột phá, nhằm sử dụng tiết kiệm, nâng
cao hiệu quả sử dụng kinh phí nhà nước, chống tham nhũng lãng phí đồng
thời góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước
điều kiện hội nhập quốc tế.
21
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KHOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN QUA
I.TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KHOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TRONG THỜI GIAN QUA
1. Mô hình thí điểm ở thành phố Hồ Chí Minh và những kết quả đạt
được
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 khoá
VIII đã khẳng định: “...chỉ đạo thí điểm việc khoán biên chế và khoán kinh
phí quản lý hành chính ổn định một số năm để khuyến khích việc giảm biên
chế và tiết kiệm kinh phí quản lý hành chính ở các cơ quan, đơn vị. Khắc
phục tình trạng các cơ quan tăng thêm biên chế dưới bất cứ hình thức nào”
6

.
Nhận thức đầy đủ mục tiêu và tầm quan trọng của cải cách tài chính
công nói chung và cải cách tài chính đối với cơ quan hành chính nói riêng,
trong những năm qua cơ chế quản lý tài chính theo hướng khoán chi đã được
Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm và thúc đẩy quá trình xây dựng cơ
chế cùng với tổ chức thực hiện.
Căn cứ đề nghị của UBND thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17/12/1999
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 230/QĐ-TTg về thực hiện thí điểm
khoán biên chế và quản lý kinh phí quản lý hành chính đối với 10 cơ quan
thuộc thành phố Hồ Chí Minh gồm 3 sở (Sở Giao thông công chính, Sở tư
pháp, Sở Lao động thương binh xã hội), 4 quận (quận: 1, 3, 5, 11) và 3 huyện
(huyện: Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè).
Sau khi có Quyết định 230/QĐ-TTg, Ban Tổ chức Cán bộ Chính
phủ đã ra Thông tư số 30/2000/TT-BTCCBCP về hướng dẫn tiền lương, tiền
6
Nghị quyết trung ương lân 7 khoá VIII
22
thưởng, phúc lợi cho các đơn vị thực hiện thí điểm. Tiếp đó Bộ Tài chính ra
Thông tư số 33/2000/TT-BTC ngày 27/04/2000 về hướng dẫn lập dự toán,
cấp phát, thanh toán, quyết toán kinh phí quản lý hành chính đối với các đơn
vị này. Về phía thành phố, uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã phân
công Ban Tổ chức chính quyền thành phố phối hợp với Sở Tài chính vật giá
tổ chức triển khai hướng dẫn các đơn vị nhận khoán xây dựng và hoàn thiện
phương án khoán, với các định mức khoán như sau:
- Về biên chế: Các đơn vị được sử dụng mức biên chế mà uỷ ban
nhân dân thành phố đã giao năm 2000 với tổng số biên chế là 1067 người.
- Về kinh phí quản lý hành chính: Đối với đơn vị cấp quận, huyện:
23 triệu đồng/người/năm. Đối với đơn vị cấp sở, ngành là 19,5 triệu
đồng/người/năm.
Định mức này được thực hiện từ ngày 01/01/2000 và được áp dụng

trong 3 năm (2000-2002)
Sau hơn 2 năm thực hiện (2000, 2001) tại 7 quận-huyện, 3 sở-
ngành, theo đánh giá của UBND thành phố Hồ Chí Minh các đơn vị đã chủ
động sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giảm biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của cơ quan nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân chủ, ý thức trách
nhiệm và tăng thu nhập cho cán bộ công chức. Kết quả cụ thể là:
- Cơ cấu bộ máy của các đơn vị được sắp xếp tinh gọn theo hướng
tổ chức đa ngành, đa lĩnh vực gắn với cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa, một dấu”. Hầu hết các đơn vị nhận khoán đã giảm được số đầu mối
quản lý. Trong năm 2000, với 6 đơn vị đã giảm được 24 đầu mối, sang năm
2001 giảm thêm được 3 đầu mối nữa. Như vậy sau 2 năm thực hiện khoán, 10
đơn vị ở thành phố Hồ Chí Minh số phòng ban đã giảm từ 113 xuống còn 86,
tương ứng tỷ lệ 24%. Đơn vị giảm được nhiều đầu mối nhất là huyện Bình
Chánh, từ 13 đầu mối xuống còn 6 đầu mối.
23
- Giảm biên chế (cả 10 đơn vị khoán) nhưng vẫn đảm bảo giải quyết
công việc bằng hoặc tốt hơn trước khi được giao khoán. Tính đến 31/12/2003
tổng số biên chế của các đơn vị thực hiện khoán giảm 140 người bằng 13% so
với số biên chế được giao khoán. Trong số này có 16 người về hưu, 102
người chuyển công tác và 22 người thôi việc. Một thành công ở đây là các
đơn vị đều đã thực hiện chủ trương tinh giảm biên chế và số lượng giảm là
đáng kể. Có được kết quả này là do các đơn vị đã áp dụng nhiều biện pháp
như: Giải quyết nghỉ hưu cho các trường hợp đã đến tuổi, những trường hợp
không đáp ứng được yêu cầu công việc đã áp dụng chế độ trợ cấp để hỗ trợ,
động viên họ tự nguyện xin nghỉ. Thêm vào đó thuyên chuyển công tác sang
đơn vị sự nghiệp có thu, hoặc các doanh nghiệp cũng là những biện pháp hiệu
quả.
- Nâng cao ý thức tiết kiệm trong việc sử dụng kinh phí quản lý
hành chính như xăng dầu, điện, nước, điện thoại và văn phòng phẩm, giúp các
đơn vị chủ động trong việc mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác. Cụ thể ở

đây 10 đơn vị khoán đã tiết kiệm được 10 tỷ 485 triệu đồng ứng với 21,2%
(11.985/48.817) kinh phí được giao khoán. Các đơn vị thực hiện khoán đã
tích cực chủ động, áp dụng nhiều biện pháp để thực hành tiết kiệm, cụ thể là:
Xây dựng và thực hiện nội quy cơ quan trong đó quy định chi tiết việc sử
dụng điện, điện thoại, văn phòng phẩm..., áp dụng các biện pháp kiểm tra
thích hợp trong nội bộ cơ quan, tiến hành bình xét thi đua cho những bộ phận
đã tiết kiệm được những khoản chi theo quy định.
- Việc sử dụng tài chính công của đơn vị nhận khoán có nhiều thuận
lợi so với trước khi nhận khoán. Quá trình thực hiện mang lại kết quả thiết
thực là tăng thu nhập cho cán bộ, công chức: mức trung bình là 73% số kinh
phí tiết kiệm được dành để tăng thu nhập cho người lao động, bình quân mỗi
người tăng 390.000đ/tháng tương ứng với tăng mức lương tối thiểu lên 1,83
lần. Sau 2 năm thực hiện khoán, tổng số kinh phí tiết kiệm để tăng thu nhập
24
cho cán bộ, công chức của 10 đơn vị thực hiện khoán là 8056 triệu đồng
Ngoài ra các đơn vị còn trích 19% để lập quỹ khen thưởng và 8% để lập quỹ
phúc lợi (Riêng huyện Nhà Bè dùng 10% để lập quỹ dự phòng). Nhìn chung
các đơn vị đã sử dụng nguồn kinh phí do tiết kiệm theo đúng quy định.
- Qua thực hiện khoán, việc thực hiện quy chế dân chủ trong cơ
quan hành chính được phát huy tích cực hơn, đồng thời thực hiện khoán biên
chế được công khai đã góp phần khắc phục được những nhược điểm trong xét
duyệt, giao định mức biên chế và quỹ tiền lương hàng năm, từng bước khắc
phục được cơ chế xin cho.
Trên cơ sở những kết quả đạt được, UBND thành phố Hồ Chí Minh
đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho tiếp tục thí điểm khoán đối với 10 đơn vị và
mở rộng đối với tất cả các sở, ban ngành, quận huyện còn lại của thành phố
Hồ Chí Minh
Đến cuối năm 2002, uỷ ban nhân dân thành phố đã thực hiện mở
rộng khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các sở-ngành,
quận- huyện, đồng thời thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí hoạt

động đối với phường-xã, thị trấn.
Từ thực tiễn triển khai cơ chế khoán theo Quyết định số 230/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17/12/2001
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 192/2001/QĐ-TTg về mở
rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan
hành chính nhà nước.
2. Tình hình thực hiện Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành
chính đối với cơ quan hành chính nhà nước:
25

×