Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Một số vấn đề quản lý đầu tư phát triển ngành thủy lợi Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.07 KB, 87 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tình hình yêu cầu phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ như hiện nay,
sự nghiệp của toàn dân tộc nói chung cũng như sự nghiệp phát triển ngành thủy
lợi nói riêng đã và đang tiếp tục lựa chọn các giải pháp và bước đi thích hợp để
phục vụ cho mục tiêu chung.
Dân tộc ta từ xa xưa đã biết lấy thuỷ lợi làm cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển. Cùng với các hoạt động như đào kênh rạch, khai phá đất đai, đắp đê, ngăn
lũ lụt, xây dựng đất nước Việt Nam như ngày nay, cùng với sự phát triển chung
của nhân loại về khoa học và công nghệ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, được nhà nước đầu tư to lớn, được nhân dân hết lòng ủng hộ đã
giành được những kỳ tích to lớn, không những thuỷ lợi mang lại hiệu quả kinh
tế mà còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội hết sức quan trọng và to lớn.
Đối với đặc điểm cụ thể của nước ta, trải qua thời kỳ chiến tranh khốc liệt
kéo dai, nông nghiệp vẫn phát triển với trên 80% dân số làm nghề nông, khi nào
mất mùa là khi đó mất trắng, đời sống nhân dân biết bao khổ cực, vất vả. Điều
đó gây ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới sự phát triển chung của cả
dân tộc. Chính vì vậy chúng ta thấy được tầm quan trọng to lớn như thế nào của
sự phát triển ngành thuỷ lợi.
Chính vì lý do đó mà trong chiến tranh cũng như trong giai đoạn hoà
bình, khi đất nước gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về đủ mọi mặt thì công
tác thủy lợi vẫn được Nhà nước ta tập trung đầu tư phát triển cùng với sự ủng
hộ to lớn của nhân dân nên đã giành được những thành tích quan trọng, góp
phần vào những chuyển biến và thành công của sản xuất nông nghiệp, biến đổi
nông thôn, phòng ngừa thiên tai, bảo đảm an toàn cho nhiều khu vực. Do đó mà
thuỷ lợi luôn được nhấn mạnh là “ biện pháp hàng đầu trong nông nghiệp”
Tuy có nhiều thành tựu song để sử dụng đạt hiệu quả cao nhất, mang lợi
ích tốt nhất thì ngành thuỷ lợi vẫn gặp phải không biết bao khó khăn. Tính đến
thời điểm này, không chỉ các nước đang phát triển như Việt Nam mà còn biết
bao quốc gia khác kể cả các nước phát triển cũng không thể giải quyết xong vấn
đề thuỷ lợi.


Với những thành tựu đã đạt được và cả những hạn chế đang tồn tại trong
đầu tư thuỷ lợi, trước tất cả những thách thức đang đặt ra đòi hỏi chúng ta phải
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tiếp tục nghiên cứu, xác định phương hướng đầu tư phát triển thủy lợi trong sự
phát triển chung của ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc
tăng trưởng và phát triển mọi mặt trong nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về
lương thực thực phẩm thì ở nhiều nước trên thế giới, sự phát triển thủy lợi đã
trở thành quy mô quốc gia. Đối với Việt Nam đang trong quá trình Công nghiệp
hoá- Hiện đại hoá đất nước vì vậy yêu cầu đầu tư phát triển thuỷ lợi lại càng cần
thiết hơn bao giờ hết.
Với ý nghĩa to lớn và sâu sắc đó, em xin trình bầy đề tài: “ Một số vấn đề
quản lý đầu tư phát triển ngành thủy lợi Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010”
làm luận văn tốt nghiệp của mình.
* Mục đích nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp nhằm góp phần:
- Sáng tỏ các vấn đề trong lý luận, phương pháp luận về đầu tư, vai trò nhiệm
vụ của thuỷ lợi từ đó làm rõ và hiểu sâu sắc hơn về sự cần thiết phải đầu tư vào
thủy lợi.
- Phân tích và đánh giá thực trạng đầu tư và hoạt động quản lý dự án đầu tư
phát triển thuỷ lợi ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp nâng cao quản lý đầu tư phát triển
thủy lợi.
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp:
Tình hình chung của công tác thuỷ lợi, sự hoạt động triển khai của ngành
thủy nông, các công trình thuỷ lợi nói chung, đi sâu nghiên cứu tình hình đầu tư
vào thuỷ lợi, công tác quản lý của các cơ quan chức năng trong hoạt động đầu
tư phát triển thuỷ lợi. Mặt khác, đối tượng chủ yếu của thuỷ lợi lại nhằm phục
vụ nông nghiệp nên ta lấy các chỉ tiêu về sản lượng lương thực, các công trình
được thực hiện làm đối tượng phân tích trực tiếp.

* Phạm vi nghiên cứu
Thu thập thông tin tư liệu, tài liệu tham khảo nghiên cứu và chọn lọc kinh
nghiệm của các nước đi trước với tư duy khoa học, khách quan và thực tiễn để
đề xuất kiến nghị những định hướng nhằm phục vụ cho hoạt động đầu tư phát
triển thuỷ lợi đem lại hiệu quả cao hơn.
Luận văn nghiên cứu tình hình hoạt động trên lĩnh vực thủy lợi và công
tác quản lý tại Việt Nam thời gian qua và xu hướng 5 năm tiếp theo. Những
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quan điểm, phương hướng, một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư
phát triển thuỷ lợi của quốc gia, mang lại tác động hữu ích và cao nhất có thể
đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và riêng ngành nông nghiệp nói riêng.
* Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn bao gồm 3 phần:
CHƯƠNG I:
Lý luận về đầu tư và quản lý đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi
CHƯƠNG II:
Thực trạng quản lý đầu tư phát triển ngành thủy lợi Việt Nam thời gian
qua
CHƯƠNG III:
Định hướng và giải pháp quản lý đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi Việt
Nam giai đoạn 2006-2010.
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư và bản chất của đầu tư

1.1. Khái niệm đầu tư
“Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.”
1
Nguồn lực ở đây có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động
và trí tuệ. Những kết quả có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính ( tiền vốn),
tài sản vật chất ( nhà máy, đường sá, các của cải vật chất…) và nguồn nhân lực
có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Những kết quả đạt được từ việc đầu tư này thì cả nền kinh tế được thụ hưởng
chứ không chỉ riêng các nhà đầu tư. Đó chính là khái niệm đầu tư hiểu theo
nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Tóm lại, thuật ngữ “ đầu tư” có thể được hiểu đồng nghĩa với “ sự bỏ ra”,
“ sự hy sinh”. Vì vậy, có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó
ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
1.2. Bản chất của đầu tư
Quá trình tiến hành một công cuộc đầu tư là kể từ khi bắt đầu chi phí các
nguồn lực cho đến khi các thành quả của quá trình đầu tư phát huy tác dụng và
ngừng hoạt động. Có rất nhiều công việc phải làm với tính chất kỹ thuật rất đa
dạng, đòi hỏi phải sử dụng kiến thức của rất nhiều ngành kinh tế, kỹ thuật, phải
biết sử dụng và phối hợp trong việc sử dụng đội ngũ các chuyên gia thuộc các
1
Giáo trình kinh tế đầu tư; NXB Giáo dục, 1998; Chủ biên PGS. TS Nguyễn
Ngọc Mai, tr 16
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật khác nhau vào quá trình thực hiện đầu tư theo từng
giai đoạn và toàn bộ các công cuộc đầu tư.
Hơn nữa, hoạt động đầu tư đòi hỏi một số vốn rất lớn và để nằm khê
đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá rất lớn phải trả của
hoạt động đầu tư nói chung. Bên cạnh đó, thời gian để tiến hành một công cuộc
đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng mất khá nhiều thời
gian, công sức và rất nhiều rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Tuy nhiên, các thành quả của nó lại có giá trị sử dụng lâu dài và có ảnh
hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội nếu như hoàn thành được
các chỉ tiêu đã đề ra.
2. Phân loại hoạt động đầu tư
2
Hoạt động đầu tư được các nhà quản lý kinh tế phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau, tuỳ theo mục đích sử dụng, đáp ứng cho từng nhu cầu quản lý
khác nhau.
- Phân chia theo bản chất của các đối tượng đầu tư hoạt động đầu tư: đầu
tư cho các đối tượng vật chất, đầu tư cho các đối tượng tài chính, đầu tư cho
các đối tượng phi vật chất.
- Phân chia theo cơ cấu tái sản xuất: đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo
chiều sâu.
- Phân chia theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư:
đầu tư phát triển, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng…
- Phân chia theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: đầu tư cơ
bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định, đầu tư vận hành các tài sản lưu động
cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới hình thành
- Phân theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình
sản xuất xã hội: Đầu tư thương mại, đầu tư sản xuất
- Phân theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng: đầu tư ngắn hạn,
đầu tư dài hạn

- Phân theo nguồn vốn: Nguồn vốn huy động trong nước, nguồn vốn huy
động của nước ngoài
2
Giáo trình kinh tế đầu tư; NXB Giáo dục, 1998; Chủ biên PGS. TS Nguyễn
Ngọc Mai, tr 38
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Có rất nhiều khái niệm cũng như cách phân loại khác nhau về hoạt động
đầu tư, tuy nhiên, xuất phát từ bản chất và lợi ích của đầu tư đem lại thì cách
phân loại đầu tư quan trọng và có ý nghĩa nhất là phân thành: đầu tư tài chính,
đầu tư thương mại và đầu tư tài sản vật chất và sức lao động.
* Đầu tư tài chính: Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra sản phẩm mới
cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu
tư cũng là một loại đầu tư tài chính tuy nhiên với mục đích thu lời cá nhân thì bị
cấm vì gây ra nhiều tệ nạn cho xã hội. Đây là loại hình đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định
trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty phát hành.
Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được
lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Do đó nó
khuyến khích người có tiền bỏ ra đề đầu tư. Đây là một nguồn cung vốn lớn và
quan trọng bậc nhất cho đầu tư phát triển.
* Đầu tư thương mại: Đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình
lưu thông của cải vật chất cho đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư
phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất,
kinh doanh dịch vụ nói riêng và cả nền sản xuất xã hội nói chung. Đây là loại
hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán ra
với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua vào và bán ra.
Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, mà chỉ làm

tăng tài sản của chính người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao
quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và với khách hàng của
họ.
* Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: Đây là loại hình đầu tư trong
đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các loại hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới
cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội
khác, là điều kiện chủ yếu để tạo ra việc làm, nâng cao đời sống của mọi người
dân trong xã hội. Ví như, bỏ tiền ra để xây dựng nhà cửa, sửa chữa nhà cửa và
các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Nói tựu chung lại, đây là loại hình đầu tư quan trọng nhất hay đầu tư phát triển.
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đầu tư phát triển này là điều kiện chủ yếu để tạo ra công ăn việc làm,
nâng cao mức sống của toàn dân trong xã hội cũng như góp phần cải tạo, phát
triển đất nước. Là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung và
của địa phương ngành, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng.
3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển
3.1. Đối với nền kinh tế
3.1.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu của
nền kinh tế
- Về mặt cầu: Theo như số liệu của Ngân hàng thế giới ( World Bank),
đầu tư chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế ( khoảng từ
24-28%) trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đối với
tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn, với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự
tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo sản lượng cân bằng tăng
theo và dẫn tới giá và các đầu vào của đầu tư cũng tăng theo. Hay muốn tiến

hành mua máy móc thiết bị thì phải có tiền để đầu tư và tiến hành huy động các
nguồn lực nhàn rỗi đang “ nằm chết” trong dân vào hoạt động kinh tế. Khi đó,
các tiềm lực này mới được khai thác và đem lại hiệu quả nhất định nào đó như
tạo việc làm, tăng thu nhập, tăng ngoại tệ…
- Về mặt cung: Đầu tư đi vào hoạt động, mang lại hiệu quả cho xã hội,
các nguồn đầu ra, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung hay nói
chính xác hơn là tổng cung dài hạn sẽ tăng lên, làm cho sản lượng tiềm năng
tăng và giá cả sản phẩm giảm. Với giá cả giảm ở mức độ nhất định nào đó,
điều tất yếu là sẽ kích thích tăng tiêu dùng trong đại đa số các bộ phận. Và đó là
nguyên nhân khiến cho sự sản xuất sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ lại có lý do để
mở rộng và phát triển. Sản xuất kinh doanh phát triển chính là điểm cốt lõi, là
nòng cốt của sự phát triển xã hội, của sự tăng tích luỹ, của sự giàu có, của sự
gia tăng thu nhập người lao động và hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của
mọi người dân trong xã hội. Đó chính là mục tiêu hướng tới.
3.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt tới sự ổn định kinh tế
Bất cứ một hoạt động nào hầu như cũng đều có tác động hai mặt, không
thể tránh khỏi, đầu tư cũng không phải là ngoại lệ: Dù là tăng hay giảm, đầu tư
cũng cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn
định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Lý do là vì nó tác động không đồng đều
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
về mặt thời gian đối với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Ví như, khi
tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của hàng hoá có liên
quan ( như giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức độ
nào đó sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản
xuất đình trệ, đời sống ucả người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương
ngày càng thấp, thâm hụt ngân sách, kinh tế sẽ phát triển chậm lại. Mặt khác,
tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các
ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng

cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả những tác động này tạo
điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Ngược lại, khi giảm đầu tư thì nó cũng có tác động hai mặt đến nền kinh
tế mỗi quốc gia. Một mặt, khi giảm đầu tư sản xuất của các ngành chậm phát
triển do thiếu vốn, giảm lực lượng lao động dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đời
sống của người lao động cũng giảm… Mặt khác, khi giảm đầu tư thì giá các
hàng hoá có liên quan không tăng, thậm chí còn giảm khi đó nó sẽ giảm được
tình trạng lạm phát. Chính vì sự tác động hai mặt rất phức tạp của đầu tư đối
với tình hình kinh tế của quốc gia, nên vai trò, trách nhiệm của các nhà hoạt
động kinh tế vĩ mô là hết sức khó khăn, vất vả. Làm sao để hạn chế tối đa, kiểm
soát trong tầm tay những ảnh hưởng tiêu cực, và phát huy tận lực mọi tiềm
năng, mọi cống hiến mà đầu tư đem lại cho toàn bộ nền kinh tế. Với tất cả nỗ
lực quản lý, mục tiêu cuối cùng là làm sao duy trì sự ổn định và phát triển nền
kinh tế quốc dân ngày một đi lên.
3.1.3 Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của
đất nước.
Với những đặc tính riêng biệt vốn có của mình, bất cứ một quốc gia nào
cũng mong muốn có được những tài nguyên công nghệ mới nhất, hiện đại nhất
phục vụ cho công cuộc kiến thước nước nhà. Tuy nhiên, dù là tự nghiên cứu
triển khai bằng sức lao động của các nhà nghiên cứu khoa học hay đi mua lại
của các nước phát triển đi trước thì đều phải cần có vốn để đầu tư. Do đó, ta
mới thấy được tầm quan trọng của đầu tư là to lớn đến thế nào. Mọi phương án
đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không khả
thi. Đất nước ta hiện nay đang trong tiến trình phát triển mạnh mẽ, trong công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng phát triển các thành phần kinh tế
thì vai trò của công nghệ lại càng cần thiết và hữu ích hơn bao giờ hết. Công
nghệ về nội dung gồm có 4 yếu tố chính: trang thiết bị , kỹ năng của con người,
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

thông tin, tổ chức thể chế. Chính vì vậy mà xét về nội dung thì để tăng cường
khả năng khoa học và công nghệ của đất nước cần phải đầu tư mua sắm trang
thiết bị, thu thập thông tin, đào tạo nguồn nhân lực… Đây chính là những công
việc cụ thể, thiết thực nhất trong giai đoạn hiện nay của nước ta trong tiến trình
hội nhập và phát triển.
3.1.4. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các
vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo,
phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, văn hoá,
chính trị… của những vùng có khẳ năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp để
thúc đẩy sự phát triển chung của các địa phương khác, là điều kiện để kiến tạo
một đất nước phát triển đồng đều, toàn diện giữa các vùng, miền, địa phương
trong cả nước. Vì lý do hạn hẹp về đất đai và khả năng sinh học nên các ngành
nông, lâm ngư nghiệp để phát triển nhanh với tốc độ cao là điều hết sức khó
khăn và khó có thể xảy ra. Do đó, cũng như các quốc gia phát triển trên thế giới
đã thực hiện và có kết quả to lớn như ngày nay là nhờ sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây chính là điểm cốt lõi của
sự phát triển lâu dài và bền vững cho bất kỳ một quốc gia nào trong điều kiện
hiện nay.
3.1.5. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tốc độ tăng trưởng của bất cứ quốc gia nào muốn giữ ở mức trung bình
thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-20% so với GDP và tuỳ thuộc vào ICOR mỗi
nước. Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao
động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế lao động, do sử dụng công nghệ hiện
đại có giá cao. ICOR trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công nghiệp. Do
đó, ở các nước phát triển tỷ lệ đầu tư thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
Ví dụ, ở Mỹ năm 1965 là 12%, năm 1989 là 15%, dẫn đến tăng trưởng
1965-1989 là 1.6 lần. Ở Nhật: năm 1965 là 28%, năm 1989 là 33%, dẫn đến
tăng trưởng 1965- 1989 là 4.3 lần. Ngược lại, ở các nước chậm phát triển,
ICOR thấp từ 2 -3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng

lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Ở
Việt Nam, tính bình quân giai đoạn 1995- 1999 thì tỷ lệ vốn đầu tư xã hội so
với GDP đạt 28.2% tốc độ tăng trưởng GDP theo giá so sánh là 7.5% và hệ số
ICOR là 3.8 lần.
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, thay đổi
theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong quốc gia đó.
3.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
3.2.1. Đầu tư quyết định sự ra đời của các cơ sở.
Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở sản
xuất kinh doanh dịch vụ nào thì phải có vốn đầu tư để xây dựng nhà xưởng, cơ
sở hạ tầng, trang thiết bị, lắp đặt máy móc, xây dựng cơ bản và rất nhiều các
khoản chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở
vật chất kỹ thuật vừa tạo ra.
Chính vì vậy, có thể nói rằng không thế có cơ sở sản xuất kinh doanh
dịch vụ nào muốn ra đời mà không cần đến vốn đầu tư. Do đó, đầu tư chính là
yếu tố đầu tiên, yếu tồ tiền định cho sự ra đời của bất cứ một cơ sở nào.
3.2.2. Đầu tư quyết định sự tồn tại của cơ sở.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ sở cần có vốn đầu tư
để tiến hành duy trì, bảo dưỡng hay thay thế các thiết bị máy móc đã hao mòn,
hỏng hóc để chúng thích ứng kịp thời với điều kiện hoạt động mới của sự phát
triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Với các cơ sở vô vị lợi đang tồn tại để duy trì sự hoạt động ngoài tiến
hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các
chi phí thường xuyên. Tất cả các hoạt động này đều là những hoạt động đầu tư.
Chính vì lẽ đó, đầu tư được coi là nhân tố duy trì sự hoạt động của mọi
cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
3.2.3. Đầu tư quyết định sự phát triển của các cơ sở

Không chỉ xây dựng nhà xưởng rồi sửa chữa chúng xong rồi để đó, bất
cứ cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nào ra đời cũng đều nhằm mục đích thu
lợi nhuận, tìm ra chỗ đứng vững chắc trên thị trường, phát triển sản phẩm, tạo
tính cạnh tranh. Do đó, các doanh nghiệp lại cần tiếp tục có vốn để đầu tư vào
khoa học, công nghệ thích hợp, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề,
mở rộng xúc tiến bán hàng, quảng bá sản phẩm, giao tiếp với khách hàng, quần
chúng….
Với các ý nghĩa to lớn như trên, tựu chung lại một điều có thể kết luận:
Trong mọi nền kinh tế, đầu tư đóng vai trò chủ đạo, quan trọng không thể
không tồn tại, nó là nhân tố đầu tiên, nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phát triển của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và sự ổn định đi
lên của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
II. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH THUỶ LỢI
1. Ngành thuỷ lợi
1.1. Khái niệm thuỷ lợi
3
Thuỷ lợi là lĩnh vự kinh tế, kỹ thuật rộng lớn gồm nhiều hoạt động đấu
tranh với tự nhiên để khai thác mặt khác có lợi của nguồn nước trên và dưới mặt
đất phục vụ sản xuất và đời sống đồng thời hạn chế những tác hại của nước gây
ra đối với sản xuất và đời sống con người.
1.2. Vai trò của thuỷ lợi đối với nền kinh tế
1.2.1. Góp phần phát triển sản xuất lương thực
Thuỷ lợi góp phần thâm canh tăng năng suất cây trồng, biến đổi cơ cấu
cây trồng theo hướng có lợi, góp phần gia tăng tổng sản lượng và giá trị tổng
sản lượng cây trồng. Do cung cấp đủ lượng nước cho nhu cầu sinh trưởng và
tiêu thoát kịp thời đã làm cho năng suất cây trồng tăng thêm được từ 20-30 %
theo tài liệu của FAO, các loại giống mới có tưới tiêu hợp lý đạt được 80-90%

năng suất thí nghiệm, nếu không sẽ chỉ đạt 30-40%. Không những thế, thuỷ
nông cũng cần dùng nước để cải tạo đất thông qua việc thâu chua, rửa mặn…
làm cơ sở để áp dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật nông nghiệp nên
đã làm cho năng suất cây trồng tăng cao.
Toàn thế giới có 14% diện tích canh tác được tưới nước và 8.2% diện
tích được tiêu, những giá trị sản phẩm nông nghiệp thu được trên diện tích này
chiếm 38% tổng giá trị nông nghiệp trên toàn thế giới, ở Việt Nam có khoảng
36.1% diện tích canh tác được tưới và 21.4% được tiêu đã cho số sản phẩm
nông nghiệp thu được trên đó chiếm tới 68% tổng sản phẩm nông nghiệp. Tuy
nhiên, sự phát triển đó là không đồng đều giữa các quốc gia, đặc biệt ở các quốc
gia đang phát triển thuỷ lợi thực sự còn yếu kém và có chăng mới phát triển từ
giữa thế kỷ 20 trở lại đây. Vì vậy, dù dân số thế giới trong hơn 40 năm qua đã
tăng trên 2 lần và mặc dù hầu hết đất đai canh tác đã được loài người sử dụng
song nhìn chung lương thực bình quân đầu người của thế giới vẫn tăng nhanh
3
Giáo trình kinh tế thuỷ nông; Đại học Thuỷ Lợi
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hơn mức tăng dân số. Trong thập kỷ 80, bình quân lương thực đầu người trên
thế giới tăng 5%.
Chính vì vậy, thủy lợi được coi là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất
trong phát triển ngành nông nghiệp. Có tồn tại và phát triển hay không phụ
thuộc rất lớn vào quá trình triển khai đầu tư hoạt động các dự án thủy lợi.
1.2.2. Góp phần phát triển trồng cây công nghiệp và cây ăn quả
Bên cạnh đó, thuỷ lợi còn góp phần tạo điều kiện cho chuyển dịch cây
trồng vật nuôi, phục vụ sản xuất muối và nuôi trồng thuỷ sản. Ngoài diện tích
lúa ra, thuỷ lợi còn đảm bảo tưới tươi cho hệ thống trồng hoa màu, cây công
nghiệp. Hàng năm các công trình thuỷ lợi đã được khai thác tổng hợp phục vụ
giao thông, thuỷ sản, thuỷ điện, du lịch, góp phần tạo việc làm tại chỗ.

4
Thuỷ lợi chính là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng
các tiến bộ khoa học công nghệ mới nhằm phát triển cây công nghiệp và cây lâu
năm. Với thuỷ lợi, cây ăn quả đã phát triển nhanh cả về diện tích và sản lượng.
Không những thế, thuỷ lợi còn góp phần tạo ra sản phẩm hàng hoá nông sản
vừa đáp ứng tiêu dùng trong nước và tăng nhanh khối lượng kim ngạch xuất
khẩu các mặt hàng nông sản của Việt Nam ra thị trường các quốc gia trên thế
giới. Việt Nam bình quân của 17 năm (1986-2002) so với bình quân 5 năm
trước đó, sản lượng tăng 64%, mía tăng 3 lần, đỗ tương tăng 67%, cao su tăng
hơn 5 lần. Đặc biệt sản phẩm chủ lực là cà phê trở thành mặt hàng xuất khẩu
thứ hai sau gạo. Năm 1995 là 268 tấn lên đến 698 nghìn tấn năm 2000. Cây loại
ăn quả đặc sản có chất lượng cao phát triển mạnh, nhất là nho, vải thiều, nhãn…
đã mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ nét ở nhiều vùng Nam Bộ, miền núi
phía Bắc.
1.2.3. Cấp nước cho ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác
Với sự phát triển và đi lên nhanh chóng như hiện nay của nước ta, để có
thể đáp ứng nhu cầu về nước cho ngành công nghiệp và các ngành kinh tế quốc
dân khác, việc cấp nước của các công trình thuỷ lợi sẽ phải nỗ lực và cố gắng
rất nhiều.
Trong giai đoạn xây dựng công nghiệp hoá, nguồn nước giữ vai trò quan
trọng thứ hai trong giai đoạn phát triển này. Tính đến năm 1999 nguồn nước do
các hệ thống cung cấp nước sạch cho các khu công nghiệp, thành phố, thị xã và
một số thị trấn mới phục vụ được cho trên 20 triệu dân và hàng năm mới sử
4
Giáo trình kinh tế thuỷ nông; Đại học Thuỷ Lợi
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dụng khoảng 0.6 tỷ m
3

nước ngầm dưới đất. Hầu hết các hộ gia đình còn lại đều
dùng nước tự nhiên hoặc nước chưa được xử lý thành nước sạch. Các công trình
thuỷ lợi cung cấp trên 5 tỷ m khối nước công nghiệp và dân sinh. Các công
trình thuỷ lợi lớn sử dụng tổng hợp nguồn nước như Hoà Bình, Trị An, Thác
Bà, Thác Mơ… tham gia cắt lũ, cấp nước cho hạ du, cấp điện cho lưới điện
quốc gia trên 10 tỷ kwh/năm và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển giao
thông, thuỷ sản, du lịch…
Bên cạnh việc góp phần cung cấp nước cho ngành nông nghiệp, thuỷ lợi
nói chung hay cụ thể là công tác công trình thuỷ lợi nói riêng đã cung cấp một
lượng nước đầy đủ và đảm bảo yêu cầu cho các ngành công nghiệp và các
ngành khác có liên quan, nhằm phát triển một nền kinh tế xã hội chung ở nước
ta, việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên nước để phục vụ cho nhiều
ngành kinh tế giữ vai trò hết sức quan trọng.
1.2.4. Củng cố hệ thống đê điều phòng chống, giảm nhẹ tác hại của thiên
tai, lũ lụt.
Như bao quốc gia khác đã tiến hành hoạt động và xem xét thì kết luận rút
ra là, nước nào có hệ thống thuỷ lợi đảm bảo thì nền sản xuất nông nghiệp của
nước đó phát triển và nâng cao. Đó chính là nhờ vai trò củng cố hệ thống đê
điều, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, do vậy mới có thể giúp ích cho phát
triển nông nghiệp và đời sống nhân dân nói chung. Thuỷ lợi tiến hành trị thuỷ
như đắp đê, đắp đập, đào sông để chỉnh trị dòng chảy, phòng chống lũ lụt, bão
nhằm khắc phục và giảm nhẹ thiên tai cũng những thiệt hại mà nó đem lại.
Các công trình thuỷ lợi được xem là cơ sở kinh tế kỹ thuật thuộc kết cấu
hạ tầng nhằm khai thác nguồn lợi của nước và bảo vệ môi trường sinh thái, góp
phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thành quả đạt được trong nông nghiệp và
phát triển nông thôn trong nhiều năm qua là do những chuyển động mạnh mẽ
của đường lối đổi mới của Đảng, đã trở thành động lực thúc đẩy hàng triệu
nông dân hăng hái sản xuất, cùng với những tiến bộ thành công trong các lĩnh
vực khoa học kỹ thuật nông nghiệp, giống, phân bón, bảo vệ thực vật… nhưng
đảm bảo cho những chuyển động đó phải khẳng định yếu tố thuỷ lợi đóng vai

trò hàng đầu cho sản xuất nông nghiệp. Thực tiễn sản xuất ở các vùng chứng
minh rằng, nơi nào được đầu tư phát triển thuỷ lợi giải quyết được tưới tiêu, chủ
động hệ thống đê điều vững chắc, đảm bảo an toàn đời sống và sản xuất của
nhân dân thì nơi đó cuộc sống mới ổn định và phát triển.
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tóm lại, thuỷ lợi là ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, có vai trò
hết sức quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước và nâng cao đời sống
nhân dân, lợi ích mà ngành thuỷ lợi đem lại là cải tạo thiên nhiên, chiến thắng
thiên tai, hạn hán, lũ lụt, khai thác mặt lợi, ngăn trừ mặt hại, phục vụ quốc kế
dân sinh và bao trùm toàn bộ các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội.
2. Sự cần thiết phải đầu tư vào thuỷ lợi
Xây dựng thuỷ lợi là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, nó sản xuất
trực tiếp ra tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân, góp phần trực tiếp cải
thiện đời sống nhân dân thông qua các công trình tạo ra tích luỹ cho xã hội từ
lợi nhuận của xí nghiệp. Góp phần thực hiện đường lối kinh tế, chính trị, văn
hoá, quốc phòng của Đảng.
Không những thế, Việt Nam là một đất nước nông nghiệp ( cơ sở cho sự
tồn tại, đi lên và phát triển). Trong nông nghiệp, thuỷ lợi là một vấn đề hết sức
quan trọng, nó như là một nhân tố hàng đầu cần cho sự tồn tại của tất cả các
tiểu ngành trong nông nghiệp: cung cấp nước cho trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ
an toàn cho việc phát triển và sản xuất của nhân dân thông qua hệ thống đê điều
chắn lũ và một phần góp cho việc nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân.
Một trong những phương hướng thúc đẩy phát triển thuỷ lợi là cầu vốn
để đầu tư mới cho thuỷ lợi gồm có ba giai đoạn: quy hoạch khảo sát thiết kế, tổ
chức thi công xây dựng công trình, tổ chức quản lý khai thác và sử dụng công
trình. Đầu tư cho thuỷ lợi ở đây chính là đầu tư cho cơ sở hạ tầng mà cơ sở hạ
tầng lại chính là nền tảng cơ bản cho sự phát triển. Chính vì thế, mỗi giai đoạn
muốn thực hiện được đều cần phải có vốn thì mới tiến hành mua nguyên vật

liệu, khoa học công nghệ, trả lương cho người lao động. Khi công trình thuỷ lợi
đi vào hoạt động đến một giai đoạn nào đó thì nó cần phải tu sửa nâng cấp, lúc
đó tiếp tục phải có vốn để phục vụ sự hoạt động của công trình. Việt Nam ta với
khoảng 80% dân số sống và làm việc ở nông thôn nên sản xuất nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu trong nền kinh tế. Do đó, hệ thống công trình thuỷ lợi tương
đối phát triển do được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt và đầu tư tương đối
cao so với các ngành khác. Chính vì vai trò vô cùng quan trọng của thuỷ lợi với
sự phát triển kinh tế mà nhu cầu phát triển thuỷ lợi ngày càng trở nên quan
trọng cấp thiết. Phát triển kinh tế nói chung là sự phát triển toàn diện ở tất cả
các ngành, các lĩnh vực. Phát triển vừa phải đảm bảo bền vững về tốc độ ( cả
chiều sâu và chiều rộng) có như vậy mới đảm bảo được phát triển bền vững,
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính vì những yếu tố đó mà nền kinh tế cần phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng
đảm bảo đủ lớn xứng đáng là nền tảng vững chắc cho mọi ngành. Thuỷ lợi
không nằm ngoài nhiệm vụ đó. Phát triển thuỷ lợi trước hết chính là phát triển
cơ sở hạ tầng cho nông thôn thể hiện ở công tác kiên cố hoá kênh mương, cải
tạo, nâng cấp hệ thống đê điều, góp phần quan trọng phát triển giao thông nông
thôn và nước sạch nông thôn. Phát triển thuỷ lợi cùng với phát triển giao thông,
thuỷ điện, môi trường… tạo thành một sự phát triển đồng bộ.
Chúng ta đều biết rằng, đầu tư chính là chìa khoá trong chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia, một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất nhất thiết phải đầu tư thoả đáng. Điều đó càng đúng với các quốc
gia có xuất phát điểm thấp, phát triển kinh tế từ nông nghiệp như nước ta. Do
vậy nhu cầu cấp thiết của đầu tư cho thuỷ lợi là không còn phải bàn cãi. Đây
chính là bước đi chiến lược trong tổng thể các chương trình phát triển kinh tế
xã hội của quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
3. Đặc điểm của đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi
- Đầu tư phát triển thuỷ lợi đòi hỏi người và khối lượng vốn lớn. Hàng

năm số vốn đầu tư cho các công trình thuỷ lợi chiếm tỷ trọng cao trong tổng số
vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp.
- Thời gian xây dựng công trình thuỷ lợi thường kéo dài sẽ hay dẫn đến
tình trạng thiếu vốn, không sinh hiệu quả…
- Công trình thuỷ lợi thường được xây dựng ở một số vị trí cố định do đó
chịu ảnh hưởng của yếu tố thiên nhiên, xã hội…
- Số lao động tham gia xây dựng công trình thuỷ lợi đông do vậy đầu tư
vào các công trình thuỷ lợi giải quyết được một số lượng lớn lao động.
- Do vốn lớn, thời gian xây dựng kéo dài vì vậy công trình thuỷ lợi
thường có độ rủi ro cao.
- Nguồn vốn đầu tư cho thuỷ lợi chủ yếu là từ Ngân sách Nhà nước và
viện trợ ODA trong đó, phần chính và quan trọng bậc nhất vẫn là từ phía Nhà
nước. Đó có thể là nguồn vốn cấp phát từ ngân sách Nhà nước theo nguyên tắc
không hoàn trả trực tiếp hoặc nguồn vốn tín dụng ưu đãi qua hệ thống ngân
hàng Đầu tư phát triển, thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả trực tiếp.Chính vì
thế, tất cả các khâu, các mục, giai đoạn trong triển khai thực hiện và quản lý các
công trình thuỷ lợi đều thuộc phạm vi hoạt động của Nhà nước.
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Chủ đầu tư trong các dự án thuỷ lợi không phải là người sở hữu vốn mà
là người được trao quyền trực tiếp quản lý và sử dụng vốn.
4. Nội dung của đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi
4.1. Vốn đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi
- Vốn đầu tư trực tiếp: bao gồm đầu tư cho việc nghiên cứu địa hình, địa
chất, các tài liệu cơ bản phục vụ xây dựng công trình; vốn đầu tư cho công tác
thiết kế, vốn đầu tư xây dựng công trình; hạn mục công trình, mua sắm, lắp đặt
máy móc, thiết bị; vốn trang trải những chi phí cần thiết cho công trình, chu
trình sản xuất; chi phí ngoài dự kiến.
- Vốn đầu tư liên hệ: Là phần vốn đầu tư tăng thêm cho các ngành hưởng

lợi của hệ thống công trình thuỷ lợi làm tăng hiệu quả công trình và tăng thêm
sản phẩm cho xã hội.
- Nguồn vốn đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi: Vốn do Ngân sách Nhà
nước cấp, vốn vay ngân hàng, vốn đóng góp của nhân dân, vỗn từ quỹ thuỷ
nông của tỉnh, vốn tự có, vốn huy động, vốn tài trợ của các tổ chức trong và
ngoài nước, vốn thu từ việc bán sản phẩm…
4.2. Cơ cấu vốn phân theo ngành và vùng
4.2.1. Cơ cấu vốn theo ngành: Đầu tư vào thuỷ nông và đê điều, đầu tư
vào khoa học và công nghệ, đầu tư vào nguồn nhân lực
4.2.2. Cơ cấu vốn theo vùng: Đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu
Long, miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Miền Trung, Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ.
4.3. Đầu tư, quản lý, khai thác vốn theo quá trình đầu tư
4.3.1. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Điều tra, khảo sát trước khi tiến hành
xây dựng công trình về các vấn đề sau: điều kiện khí hậu thời tiết, điều kiện khí
hậu địa hình, thổ nhưỡng, địa chất; điều kiện xã hội và dân sinh kinh tê; nguồn
nguyên liệu là nước trong thiên nhiên.
Sau khi điều tra, khảo sát thì tiến hành lập dự án khả thi và thiết kế kỹ
thuật công trình. Khi dự án có thể đi vào sử dụng thiết kế địa hình thì cần phải
xác định sơ bộ tổng mức đầu tư nguồn vốn, chi phí xây dựng, khả năng hoàn
vốn, xác định sơ bộ hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội. Đây là giai đoạn quan
trọng trong quá trình hình thành một dự án đầu tư, trong giai đoạn này công
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
việc của người quản lý đầu tư các công trình thuỷ lợi là phải: xác định danh
mục các công trình cần được đầu tư, xác định tổng mức đầu tư, nguồn vốn, địa
phương cần tăng cường đầu tư phát triển thuỷ lợi…thẩm định, và quyết định
duyệt dự án đầu tư phát triển. Trong thời gian qua, Nhà nước đã có sự ưu tiên
bố trí vốn lớn cho các công trình trọng điểm. Đã có sự phối hợp giữa trung

ương và địa phương trong việc phối hợp điều hành quản lý song công tác chuẩn
bị kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu, công tác giải phóng mặt bằng còn gặp khó
khăn, chậm chễ. Công tác thẩm định còn chậm và chưa thực sự hiệu quả…
Những điều đó đã làm ảnh hưởng tới tiến độ triển khai thực hiện dự án đầu tư
phát triển ngành thuỷ lợi trong thời gian hiện nay.
4.3.2. Giai đoạn thực hiện đầu tư: Tổ chức thi công và xây dựng công
trình, thành lập ban quản lý và làm các công việc sau: xin giấy phép chứng nhận
quyền sử dụng đất để xây dựng; chọn tư vấn khảo sát thiết kế công trình; tổ
chức thi công: tổ chức đấu thầu thi công, ký hợp đồng với đơn vị trúng thầu;
thực hiện thi công công trình: điều kiện thi công, quản lý kỹ thuật, chất lượng,
vận hành thử nghiệm và nghiệm thu công trình, quyết toán vốn đầu tư.
Đây là giai đoạn phát huy cao độ sự quản lý của Nhà nước. Về vấn đề
này trong thời gian qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông nghiệp cũng đã có
sự phối hợp giữa các ngành, cơ quan chức năng và địa phương để cùng nhau
thực hiện và đã có những kết quả đáng ghi nhận: xây dựng được hơn 80% công
trình hồ đập loại vừa và lớn, trên 3500 loại hồ đập nhỏ, hơn 3000 cống tưới tiêu
loại lớn, trên 1000 trạm bơm nước với tổng công suất 24.8 triệu m
3
, trên 1000
kênh tưới tiêu loại lớn và hàng vạn km kênh mương thác…
4.3.3. Giai đoạn khai thác sử dụng: Phát huy đầy đủ các chỉ tiêu kỹ thuật
của công trình, hoàn trả vốn đầu tư…
Đây là giai đoạn Nhà nước giao cho các địa phương quản lý, khai thác và
sử dụng công trình thuỷ lợi đã xây dựng đầu tư. Do đặc điểm như vậy nên
thường có sự buôn lỏng quản lý của Nhà nước trong giai đoạn này. Nhà nước
chưa có sự đầu tư thích đáng trong việc duy tu, bảo dưỡng công trình, chưa phát
huy cao độ sức dân làm thủy lợi…Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, công tác
quản lý đầu tư phát triển đã mang lại nhiều thành công đáng kể: thực hiện tốt
các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội, công tác đầu tư phát triển thủy
lợi ngày càng được chú trọng phát triển và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của

nền kinh tế nước nhà. Đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm của nhân dân
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
và nhu cầu xuất khẩu sang các nền kinh tế khác bằng việc hàng năm gia tăng
sản lượng lương thực. Đáp ứng quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thông
theo hướng tiến bộ, trọng điểm, xây dựng và ban hành nhiều văn bản khuyến
khích đầu tư; áp dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học trên thế giới vào thuỷ
lợi và công tác quản lý dự án đầu tư phát triển ngành. Công tác chuẩn bị đầu
tư: trong lĩnh vực khảo sát, thiết kế đã ứng dụng công nghệ mới nhất là các
phần mềm tin học trong tính toán, đánh giá tài nguyên nước, lập bản vẽ, quy
hoạch thiết kế…công tác đầu tư: trong lĩnh vực xây dựng, thi công đã sử dụng
thiết bị mới, công nghệ tiên tiến như sử dụng công nghệ mới chống thấm, công
nghệ chế tạo vật liệu PVC…công tác vận hành kết quả đầu tư: vận dụng phần
mềm vi tính để điều hành hệ thống công trình thủy lợi…
III. QUẢN LÝ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH THUỶ LỢI
1. Khái niệm
Quản lý đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi là sự tác động liên tục, có tổ
chức, định hướng mục tiêu vào quá trình đầu tư ( bao gồm công tác chuẩn bị
đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư) và các yếu tố đầu tư, bằng
một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội, tổ chức kỹ thuật và các biện
pháp khác nhằm nâng cao tính hiệu quả của công tác thuỷ lợi trong các ngành
kinh tế quốc dân.
5
Quản lý đầu tư là hoạt động có tính liên ngành, do đó, quản
lý hoạt động đầu tư phát triển của ngành thuỷ lợi là yêu cầu khách quan nhằm
nâng cao hiệu quả đầu tư. Quản lý, theo nghĩa chung, là sự tác động có mục
đích của chủ thể vào các đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý
đã đề ra.
2. Mục tiêu quản lý đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi

- Thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế, xã
hội trong giai đoạn 2006-2010 đối với ngành thuỷ lợi nói riêng và với tiến trình
phát triển cả quốc gia nói chung. Đối với nước ta thời kỳ này, đầu tư cho ngành
thủy lợi là một phần quan trọng trong việc đạt mục tiêu thắng lợi chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh tốc độ tăng
5
Giáo trình kinh tế thuỷ nông; Đại học Thuỷ Lợi
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trưởng kinh tế, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế nông nghiệp
trọng điểm. Qua đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người
lao động như đại hội Đảng IX đã chỉ ra.
- Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả cao các nguồn vốn đầu tư, các
nguồn tài lực, vật lực đầu tư cho ngành thủy lợi của các địa phương, của bản
thân ngành và của toàn xã hội. Đầu tư sử dụng nhiều loại nguồn vốn trong và
ngoài nước, vốn nhà nước và tư nhân, vốn bằng tiền và hiện vật… Quản lý đầu
tư phát triển ngành thuỷ lợi trong giai đoạn hiện nay là nhằm sử dụng hợp lý,
tiết kiệm và khai thác có hiệu quả tối ưu các loại nguồn vốn, tài nguyên thiên
nhiên, đất đai, lao động và các tiềm năng khác, đồng thời bảo vệ môi trường
sinh thái, chống mọi hành vi tham ô, lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư và khai
thác các kết quả của đầu tư trong ngành.
- Thực hiện đúng các quy định phát luật và yêu cầu kinh tế - kỹ thuật
trong lĩnh vực đầu tư nói chung và trong bản thân ngành thủy lợi nói riêng.
Quản lý vĩ mô đối với hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo cho quá trình thực hiện
đầu tư, xây dựng công trình theo đúng quy hoạch và thiết kế được duyệt, đảm
bảo sự bền vững và mỹ quan, áp dụng công nghệ xây dựng tiên tiến, đảm bảo
chất lượng và thời gian sử dụng với chi phí thấp nhất, đặc biệt là hiệu quả tối ưu
áp dụng cho phát triển ngành nông nghiệp.

3. Công cụ quản lý đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi
6
Để quản lý thành công và mang lại hiệu quả tối ưu nhất đối với các dự án
đầu tư phát triển thuỷ lợi, Nhà nước cần phải tiến hành sử dụng hàng loạt các
công cụ quản lý khác nhau. Một mặt, phát huy tối đa mọi ưu thế sẵn có của
công cụ đó, mặt khác biết kết hợp để tạo sức mạnh tổng hợp, hỗ trợ nhau của hệ
thống các công cụ trong tiến trình phát triển ngành.
- Các công cụ định hướng cho quản lý dự án: Chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách về đầu tư và quản lý dự án. Trong đó quy hoạch là công cụ
quan trọng nhất, đây là quá trình hoạt động có trọng điểm cho từng thời kỳ, là
dự báo kế hoạch, là chiến lược quyết định các hoạt động đạt tới mục tiêu qua
đó quyết định mục tiêu mới, biện pháp mới. Quy hoạch phát triển ngành thuỷ
lợi là hình thức định hướng phát triển dài hạn. Trong đó xác định rõ quy mô và
giới hạn cho sự phát triển toàn ngành. Nó là biện pháp giải quyết các mâu thuẫn
6
Giáo trình Hiệu quả & quản lý dự án Nhà nước, NXB Khoa học & Kỹ thuật, tr 219
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
về thời gian và không gian, tạo ra sự phát triển một cách hài hoà, hợp lý, có
hiệu quả.
- Các công cụ pháp luật: đây là hệ thống các quy phạm đối với các hoạt
động đầu tư vào dự án. Các quy phạm này được thể hiện trong các văn bản
quản lý nhà nước về đầu tư và quản lý dự án đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và quản lý dự án, bao gồm cả
cơ cấu tổ chức và con người trong các cơ quan này. Đội ngũ cán bộ thực hiện
và quản lý dự án: Thiếu công cụ này, nhà quản lý dự án không thể hoàn thành
được công việc của mình. Nhiều dự án đầu tư, do đội ngũ cán bộ còn yếu kém,
năng lực chuyên môn chưa sâu nên gặp rất nhiều khó khăn trong công tác triển
khai dự án.

- Hệ thống đảm bảo thông tin cho quá trình quản lý vĩ mô các dự án. Đây
là công cụ đắc lực trong tay các nhà quản lý dự án để thu nhận, xử lý, lưu trữ và
truyền đạt thông tin lại cho các đối tượng mà ở đây cụ thể là các tổ chức, địa
phương nơi đặt công trình. Qua đó, nó đảm bảo cho các nhà quản lý thực hiện
quá trình lập, tổ chức, điều hành và kiểm tra các hoạt động của dự án. Đó là
điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả của quản lý dự án.
4. Cơ chế quản lý
Cũng như bất kỳ hoạt động quản lý nào, quản lý đầu tư phát triển ngành
thuỷ lợi muốn phát huy tốt nhất tác dụng của các công cụ trên thì cần tìm hiểu
phương thức phát huy chúng - hay đó chính là làm rõ cơ chế tác động của các
công cụ quản lý đầu tư phát triển ngành. Sự tác động của công cụ quản lý đầu
tư phát triển ngành thuỷ lợi được biểu hiện chủ yếu thông qua ba loại cơ chế
sau:
- Cơ chế dẫn dắt: Thông qua việc cung cấp các thông tin hữu quan nhằm
ảnh hưởng tới hành vi hoạt động của các chủ thể tham gia đầu tư dự án, chủ yếu
ở đây là thông tin về tình trạng thực tế của tiến trình dự án đầu tư, phương
hướng phát triển dự án trong tương lai, mục tiêu chính sách của chính phủ và
các chế độ có liên quan. Cơ chế này là phương thức tác động với cường độ rất
yếu.
- Cơ chế kích thích: Đây là phương thức tác động quản lý có tính gián
tiếp lên các chủ thể mà ở đây là các chủ dự án đầu tư. Gắn liền với việc nâng
cao lợi ích của các chủ dự án nhằm kích thích phát triển, cải tiến toàn bộ tiến
trình phát triển của dự án nói riêng và ngành thuỷ lợi trong tương lai nói chung.
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chính vì vậy mà cơ chế này mang tính hai mặt, có khả năng mang lại hiệu quả
tích cực đáng kể nhưng cũng có thể gây thiệt hại không nhỏ cho toàn ngành và
nền kinh tế xã hội. Do đó, các nhà quản lý dự án đầu tư phát triển ngành cần
chú ý phân tích, so sánh một cách toàn diện trước thi mở rộng việc vận dụng cơ

chế kích thích này.
- Cơ chế cưỡng chế: Cơ chế cưỡng chế là phương thức tác động trực tiếp
nhất, nhanh nhất và có hiệu quả nhất vì nó sử dụng quyền hạn và chức năng của
các nhà quản lý. Ở đây, các nhà quản lý đầu tư phát triển ngành can thiệp một
cách cưỡng chế đối với các hoạt động trong ngành nhằm mục tiêu đầu tư phát
triển tổng thể thuỷ lợi quốc gia.
5. Tổ chức quản lý
- Tổ chức quản lý theo hình thức chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án: Chủ
đầu tư tuyển chọn và trực tiếp ký hợp đồng với một hoặc nhiều tổ chức tư vấn
để thực hiện các công việc của dự án mà ở đây cụ thể là các địa phương được
tham gia triển khai quy hoạch phát triển ngành thuỷ lợi. Tổ chức quản lý theo
hình thức này thường được áp dụng cho các dự án nhỏ, đơn giản tại các địa
phương quy mô đầu tư vừa phải, vốn ít. Sau khi chủ đầu tư ký hợp đồng với
các nhà thầu, thì nhiệm vụ còn lại gồm giám sát, quản lý quá trình thực hiện
hợp đồng bảo đảm tiến độ vẫn do tổ chức tư vấn đã được lựa chọn đảm nhiệm.
- Tổ chức quản lý theo hình thức chủ nhiệm điều hành dự án: Ở đây, chủ
đầu tư thành lập một bộ phận chuyên trách, đại diện việc thực hiện quản lý dự
án đầu tư phát triển. Chủ nhiệm này phải có năng lực chuyên môn về lĩnh vực
thuỷ lợi tiêu chuẩn cao, có đầy đủ quyền hạn và chịu trách nhiệm về mọi vấn đề
xảy ra xung quanh tiến trình thực hiện triển khai dự án. Yêu cầu rất cao đối với
chủ nhiệm vì người này có trách nhiệm trực tiếp ký kết hợp đồng, giám sát các
chủ thầu, phân bổ nhân lực, thời gian hoàn thành dự án…Trong tình hình hiện
nay, những dự án lớn, quan trọng được đầu tư ở các khu vực trọng yếu của cả
nước như Đồng bằng Sông Hồng, Đồng bằng Sông Cửu Long…hầu như đều áp
dụng hình thức tổ chức quản lý này vì những thiết thực mà nó đem lại không
những cho chủ đầu tư, chủ nhiệm mà cả bên thụ hưởng hiệu suất thành quả của
dự án đầu tư.
- Tổ chức quản lý theo hình thức chìa khoá trao tay: Hình thức này hoàn
toàn phù hợp với các dự án thuỷ lợi quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản ví dụ như
dự án phát triển hệ thống cống tiêu huyện; dự án đầu tư nâng cấp dòng chảy

SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phục vụ vụ mùa…Theo hình thức này, chủ đầu tư tổ chức đấu thầu dự án một
nhà thầu thực hiện toàn bộ mọi công việc của dự án. Chủ thầu có trách nhiệm
như một chủ nhiệm dự án nhưng khác là quan hệ với chủ đầu tư là quan hệ hợp
đồng.
- Tổ chức quản lý theo hình thức tự làm: Ở hầu hết các công trình phát
triển thuỷ lợi tại địa phương với quy mô nhỏ, có tính chất chuyên ngành thì
hình thức quản lý này thực sự phát huy hiệu quả khi mang lại kết quả cao mà lại
cắt giảm tối đa chi phí hoạt động. Hình thức này, chủ đầu tư không cần nhờ đến
các nhà thầu trong việc thực hiện các công việc của dự án, mà sử dụng trực tiếp
lực lượng của mình ví như dân công, bà con nông dân trong địa phương cùng
nhau hoàn thành công trình.
Có sự phân biệt rõ ràng như vậy là vì chủ đầu tư trong các dự án phát
triển thủy lợi này là Nhà nước. Ở đây, có thể là tổng công ty, công ty, cơ quan
Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội được người có thẩm quyền quyết định đầu tư
giao trách nhiệm trực tiếp quản lý dự án. Với quyền lợi đó, chủ đầu tư phải đảm
bảo các yêu cầu cơ bản của dự án: bảo đảm đúng mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế xã hội trong từng thời kỳ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước, chống mọi hành vi tham ô,
lãng phí trong quá trình triển khai dự án; xây dựng theo quy hoạch kiến trúc và
thiết kế kỹ thuật được duyệt, bảo đảm bền vững, mỹ quan, bảo đảm hiệu quả
xây dựng…
7
6. Nội dung quản lý các dự án thuỷ lợi
- Giai đoạn 1: Nghiên cứu, xây dựng, thẩm định và ra quyết định đầu tư.
Trong toàn bộ quá trình tiến hành một dự án thuỷ lợi thì đây là giai đoạn

quyết định hành động hay không hành động, triển khai hay không triển khai dự
án. Với vai trò và tính chất quan trọng của mình, nó đòi hỏi một đội ngũ chuyên
gia về lĩnh vực thuỷ lợi phải thực sự giỏi, có tinh thần trách nhiệm cao. Qua đó,
mới có thể nắm bắt các nhu cầu thực tế từ các ngành, các cấp trong vấn đề thuỷ
lợi hoá, đến việc luận chứng về mọi khía cạnh để biến những ý tưởng thành
thực tế dự án cụ thể phục vụ cho sản xuất và phát triển xã hội. Chính vì vậy mà
các nội dung quản lý mà Nhà nước phải tiến hành trong giai đoạn này là:
7
Giáo trình Hiệu quả &quản lý dự án Nhà nước, NXB Khoa học và kỹ thuật, tr 241
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Lựa chọn và quyết định chủ đầu tư cho từng dự án cụ thể, từng dự án
phát triển vùng, miền chuyên biệt. Vì vai trò của chủ đầu tư trong các dự án
thuỷ lợi này là cực kỳ quan trọng, do đó, nhằm nâng cao khả năng tác động của
các chủ thể quản lý tới các đặc tính cuối cùng sản phẩm dự án là cao nhất Nhà
nước cần thực sự quan tâm lựa chọn hợp lý và chính xác.
+ Hướng dẫn chủ đầu tư thực hiện công tác nghiên cứu và lập dự án đầu
tư.
+ Thẩm định dự án và ra quyết định đầu tư. Trên cơ sở thẩm định dự án,
Nhà nước đưa ra quyết định đầu tư. Quyết định đầu tư được người có thẩm
quyền quyết định đầu tư thực hiện. Nội dung quyết định đầu tư bao gồm: xác
định chủ đầu tư và hình thức quản lý dự án thuỷ lợi cụ thể; xác định địa điểm,
diện tích sử dụng công trình; xác định công suất thiết kế; xác định tổng mức
đầu tư và nguồn vốn huy động; xác định phương thức thực hiện dự án; thời gian
thực hiện và các mốc tiến độ chính của toàn dự án.
- Giai đoạn 2: Triển khai thực hiện dự án
Triển khai thực hiện dự án là kết quả của một quá trình chuẩn bị và phân
tích kỹ lưỡng. Trong giai đoạn này các nguồn lực được sử dụng, các chi phí
phát sinh, đối tượng dự án từng bước được hình thành. Yêu cầu đặt ra trong giai

đoạn này là tiến hành công việc nhanh, đảm bảo chất lượng công việc và chi
phí trong khuôn khổ đã được xác định. Tuy nhiên, về thực tế thì rất ít các công
trình thuỷ lợi được tiến hành đúng như kế hoạch, đôi khi không những không
đảm bảo tiến độ mà còn gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy,
những công việc quản lý của Nhà nước trong giai đoạn này là cấp thiết và cần
củng cố hơn.Cụ thể: Phê duyệt kế hoạch và kết quả đấu thầu tuyển chọn nhà
thầu cho dự án; thẩm định và phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán cho công
trình; cấp giấy phép khai thác; quản lý kỹ thuật và chất lượng xây dựng; quản
lý nghiệm thu công trình; quản lý cấp vốn và thanh toán; thẩm tra và phê duyệt
quyết toán.
- Giai đoạn 3: Khai thác dự án. Đây là giai đoạn hoạt động của dự án.
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi kết thúc thực hiện dự án đến hết thời kỳ hoạt
động của dự án. Thời kỳ này đóng vai trò quyết định cuối cùng của toàn bộ chu
kỳ dự án. Lợi ích của dự án chỉ được thực hiện ở giai đoạn này.
8
Với những vai
trò đó, nội dung quản lý dự án của Nhà nước trong giai đoạn này bao gồm:
8
Giáo trình Hiệu quả & Quản lý dự án Nhà nước, NXB KH&KT, tr 39
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Giám sát quá trình bàn giao công trình giữa chủ đầu tư và người sử
dụng, khai thác dự án mà ở đây cụ thể là địa phương nơi đặt các cơ sở hạ tầng
hệ thống thuỷ lợi. Công trình thuỷ lợi này chỉ được bàn giao toàn bộ cho người
sử dụng khi đã xây lắp hoàn thành theo thiết kế được duyệt và nghiệm thu đạt
yêu cầu chất lượng; quản lý quá trình kết thúc công trình; quản lý việc bảo hành
công trình; quản lý nhà nước về quá trình vận hành dự án.
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
24

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN THUỶ LỢI VIỆT NAM THỜI
GIAN QUA
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÀNH THUỶ LỢI
1. Tiềm năng của ngành
Việt Nam hiện có một nền kinh tế nông nghiệp, tài nguyên nước có ý
nghĩa quyết định trong sự phát triển bền vững của đất nước. Lịch sử hình thành
và phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với sự hình thành của hệ thống đê
điều chống lũ hàng ngàn năm với hệ thống kênh rạch để mở mang vùng đất
mới, phát huy mặt lợi của nước, hạn chế mặt hại của nước để tồn tại và phát
triển. Cũng chính nhờ lợi thế đó, một nền văn minh lúa nước đã hình thành từ
nghìn năm ở Đồng bằng sông Hồng và di cư vào đồng bằng sông Cửu Long 300
năm trước đây.
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, thuỷ lợi mới thực
sự trở thành một ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được ưu tiên đầu
tư, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước và
nâng cao đời sống nhân dân.
- Ngành thuỷ lợi được sự quan tâm đúng đắn của Đảng và Nhà nước
- Điều kiện kinh tế, kỹ thuật của nước ta ngày càng phát triển khá, có khả
năng đầu tư và giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp trong lĩnh
vực nghiên cứu, thiết kế, xây dựng các công trình thuỷ lợi
- Sự phát triển hợp tác quốc tế ngày càng mạnh, điển hình là sự hợp tác
của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á… trong việc hỗ trợ đầu
tư cho thuỷ lợi của nước ta.
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B
25

×