Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Thực trạng và các giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên nước ta giai đoạn 2006 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.97 KB, 72 trang )

GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
LỜI NÓI ĐẦU
Ở nước ta, thanh niên chiếm một tỷ lệ lớn, nếu không nói là lớn nhất trong
các nhóm tuổi của nguồn lao động và lực lượng lao động. Dự báo sau 10 năm nữa,
thanh niên sẽ là tầng lớp dân cư đông đảo nhất ở Việt Nam. Thanh niên thực sự là
chủ thể đại diện cho tương lai của dân tộc. Nhưng để thực hiện được trách nhiệm to
lớn này, họ phải tham gia vào dân số hoạt động kinh tế và phải có việc làm.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, phát
huy vai trò làm chủ, tiềm năng to lớn của thanh niên trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
trung ương Đảng (khoáVII) khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay
không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới
hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn
luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề số còn của dân tộc, là một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”. Vì vậy, giải quyết
việc làm cho thanh niên là một trong những mục tiêu hướng tới của chiến lược phát
triển kinh tế xã hội.
Hơn nữa, trong giai đoạn cách mạng mới, với bối cảnh quốc tế biến động và
phức tạp, trước những thách thức to lớn xu thế toàn cầu hoá về kinh tế sự phát triển
của kinh tế tri thức, thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng là nguồn nhân lực
quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nên
giải quyết việc làm cho thanh niên cần được chú trọng để lực lượng thanh niên phát
triển, trưởng thành nhanh nhất và cống hiến nhiều nhất cho đất nước.
Nhận thức được vấn đề trên, em đã chọn đề tài nghiên cứu:
“Thực trạng và các giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên nước ta
giai đoạn 2006 - 2010”
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên.
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 1
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
Chương 2: Phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho thanh


niên nước ta giai đoạn vừa qua.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên
nước ta giai đoạn 2006 - 2010.
- Đối tượng: Lao động trong độ tuổi thanh niên: 15 - 35 tuổi.
- Phạm vi: Về không gian: Cả nước.
Về thời gian: Từ năm 2000 - 2004.
Nội dung: Phân tích theo giới tính và khu vực (nông thôn - thành
thị)
Trong quá trình em làm đề tài này có sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo
GS.TS: Đỗ Hoàng Toàn đã giúp em hoàn thành đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2006
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 2
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1. Một số khái niệm liên quan đến việc làm.
1.1. Việc làm:
Theo Điều 13, chương Việc làm của Bộ luật Lao động nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, “Việc làm là những hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn
cấm và đem lại thu nhập cho người lao động”.
Người có việc làm là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động
kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra: đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền
công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật hoặc đang làm công việc không được
hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận trong các công việc sản xuất kinh doanh
của hộ gia đình mình hoặc đã có công việc trước đó, song trong tuần lễ trước điều
tra tạm thời không làm việc và sẽ trở lại tiếp tục ngay sau thời gian nghỉ tạm thời.
Căn cứ vào số giờ thực tế làm việc và nhu cầu làm thêm của người được coi
là có việc làm trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra, người có việc làm được

chia ra thành người có đủ việc làm và người thiếu việc làm.
Người đủ việc làm bao gồm những người có số giờ việc làm trong tuần lễ
tính đến điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ, hoặc có số giờ nhỏ hơn 40 giờ nhưng
không có nhu cầu làm việc hoặc những người có số giờ việc làm nhỏ hơn số giờ
quy định đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện
hành.
Người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ tính đến thời điểm điều
tra có số giờ làm việc dưới 40 giờ, hoặc số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy định
đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành của
Nhà nước, có nhu cầu làm thêm giờ và đã sẵn sàng làm việc nhưng không có việc
làm để làm (trừ những người có số giờ việc làm dưới 8 giờ, có nhu cầu làm việc và
sẵn sàng làm việc nhưng không tìm việc làm).
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 3
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
Người thất nghiệp là người từ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động
kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm
việc. Nghĩa là:
Có hoạt động tìm việc trong 4 tuần qua hoặc không có hoạt động đi tìm việc
trong 4 tuần qua vì lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà không được.
Hoặc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8
giờ, muốn và sẵn sàng làm thêm nhưng không tìm được việc.
1.2. Giải quyết việc làm:
Mục tiêu giải quyết việc làm là hướng tới có việc làm đầy đủ cho người lào
động, đảm bảo thu nhập ổn định, tiến đến nâng cao mức sống cho người lao động;
dần nâng cao chất lượng việc làm để sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn
nhân lực của đất nước.
Căn cứ vào mục tiêu trên, người ta phân ra việc giải quyết việc làm thành
việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý.
Việc làm đầy đủ là “sự thoả mãn nhu cầu về việc làm của các thành viên có
khả năng lao động trong nền kinh tế”

1
. Hiểu theo cách này, việc làm đầy đủ thể
hiện trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động muốn làm việc đều có thể tìm
được việc làm trong một thời gian nhất định. Nhưng nó chỉ nói lên sự giải quyết
việc làm trọng một thời gian nhất định. Nhưng nó chỉ nói lên sự giải quyết việc làm
về mặt số lượng, chưa tính đến việc đó có phù hợp với khả năng, trình độ, sở
trường của người lao động hay không.
Việc làm hợp lý là “việc làm không chỉ tính về mặt số lượng mà còn xét cả
về trình độ, nguyện vọng, năng khiếu của người lao động; đó là sự phù hợp cả về số
lượng và chất lượng các yếu tố con người và vật chất của sản xuất”
2
. Việc làm hợp
lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn hẳn việc làm đầy đủ,
đó là sự phát triển cao hơn của việc làm đầy đủ.
1
Nguyễn Thị Tú Oanh - Phát triển nguồn nhân lực thanh niên trong sự nghiệp Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá ở
Việt Nam hiện nay- Học viện Chính trị Quốc gia- Luận án Tiến sĩ – Tr 30
2
Như trên – Tr 31
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 4
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
Chính về vậy việc đầu tiên là giải quyết việc làm đầy đủ cho người lao động;
đồng thời cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội, chúng ta phải giải quyết
việc làm hợp lý cho người lao động.
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm cụ thể nào về giải quyết việc làm, dựa
vào mục tiêu trên, theo em giải quyết việc làm bao gồm các hoạt động tác động
hoạt động từ cả 3 phía: Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động nhằm mở rộng
cầu lao động, nâng cao sự phù hợp của cung lao động và phát triển thị trường lao
động; từ giúp đỡ, tạo điều kiện cho người lao động tìm và tự tạo việc làm cho mình.
Đối với thực trạng việc làm của nước ta hiện nay, giải quyết việc làm bao

gồm các hoạt động nhằm chống và giải quyết thất nghiệp ở thành thị và khắc phục
tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn.
1.3. Chính sách việc làm: Là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất
lượng nguồn lực và chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo nhiều việc làm, giảm thất nghiệp ở
thành thị và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn; góp phần tăng
thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước đã ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về việc làm để xác định rõ các hoạt động, quyền và nghĩa vụ của
các tổ chức và cá nhân trong lĩnh vực việc làm.
Chính sách việc làm được xây dựng trên quan điểm: giải quyết việc làm cho
người lao động và đó cũng là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn
định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng yêu cầu bức xúc của nhân
dân. Tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế
đầu tư phát triển, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, kết hợp
tăng trưởng việc làm với không ngừng nâng cao chất lượng việc làm. Tăng cường
các hoạt động hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm thông qua thực hiện có hiệu quả
chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, nhất là các hoạt động tín dụng ưu đãi
để tạo việc làm; thông tin tư vấn và giới thiệu việc làm,...
3
Hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết việc làm –Bộ Lao động Thương binh và Xã hội-NXB Lao động Xã hội –HN2003-
Tr7
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 5
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
2. Một số khái niệm về thanh niên:
2.1. Khái niệm:
Thanh niên là một khái niệm được sử dụng nhiều trong công tác cũng như
trong cuộc sống hàng ngày với nhiều cách hiểu khác nhau. Tuỳ theo trường hợp, có
khi thanh niên dùng để chỉ một con người cụ thể, có khi lại được dùng để chỉ tính

cách, phong cách trẻ trung của một người nào đấy, hay để chỉ một lớp người trẻ
tuổi.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng
thành”
Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội, đặc điểm của từng thời đại
lịch sử, các yếu tố truyền thống của từng quốc gia, dân tộc, ... mỗi nước có quy
định khác nhau về độ tuổi thanh niên.
Ở nước ta, cho đến nay, tuổi thanh niên thường được hiểu đồng nhất với tuổi
đoàn viên (15 – 30 tuổi). Nhưng ngay cả tuổi đoàn viên cũng thay đổi qua các giai
đoạn lịch sử. Sau Cách mạng tháng Tám là 18 – 24 tuổi, sau năm 1954 là 18 – 26
tuổi, sau đó được mở rộng dần từ 18 – 26 tuổi, 16 – 28 tuổi, và hiện nay là 15 – 30
tuổi. Do điều kiện kinh tế, chính trị xã hội phát triển, thời gian học tập, đào tạo cơ
bản của tuổi trẻ kéo dài hơn; tuổi thọ bình quân của người dân tăng cao hơn và các
yếu tố khác nên có thể cho rằng độ tuổi 15 – 30 tuổi là phù hợp với thanh niên Việt
Nam.
Hiện nay, Điều lệ của Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam quy định độ tuổi
hội viên là dưới 35 tuổi. Ban soạn thảo Luật Thanh niên, trong dự thảo Luật cũng
để nghị tính tuổi thanh niên đến hết tuổi 34.
Trong đề tài này em thống nhất cách hiểu khái niệm thanh niên như sau:
“Thanh niên là một nhóm nhân khẩu đặc thù bao gồm những người trong độ
tuổi 15 – 34 tuổi thuộc mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực
hoạt động xã hội, có vai trò lớn trong xã hội hiện tại và giữ vai trò quyết định sự
nghiệp phát triển trong tương lai của xã hội”
4
4
Chu Xuân Việt – Cơ sở thực tiễn của chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam – NXB Thanh niên – HN 2003 –Tr
18
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 6
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
2.2. Luật thanh niên:

Luật số 53/2005/QH11 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8. (từ ngày 18/10
đến 29/11 năm 2005).
Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến
30 tuổi. Quy định về quyền và nghĩa vụ của thanh niên, trách nhiệm của nhà nước,
gia đình và xã hội đối với thanh niên, tổ chức thanh niên. Luật này áp dụng đối với
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân Việt Nam.
Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng xã hội hùng hậu, có tiềm
năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy thanh niên là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội.
Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải
trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức
công dân, ý chí vươn lên phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên:
Trong học tập: Được học tập và bình đẳng về cơ hội học tập. Xung kích tham
gia các chương trình phát triển giáo dục và đào tạo, xây dựng xã hội học tập. Học
tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp, tham gia xây dựng môi
trường văn hoá học đường, trung thực trong học tập.
Trong lao động: Lao động để lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, góp
phần xây dựng đất nước. Tự lựa chọn việc làm và nơi làm việc phù hợp với khả
năng của bản thân và nhu cầu của xã hội. Rèn luyện tác phong công nghiệp, năng
lực quản lý, kinh doanh, tuân thủ kỷ luật lao động, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật; nâng cao trình độ nghề nghiệp.
Trong bảo vệ tổ quốc: Bảo vệ tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao
quý của thanh niên, được huấn luyện chương trình giáo dục quốc phòng, thực hiện
nghĩa vụ quân sự, giữ gìn bí mật quốc gia.
Trong hoạt động khoa học, công nghệ và bảo vệ tài nguyên, môi trường:
Được nghiên cứu khoa học và công nghệ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
và đời sống. Trung thực và có tinh thần hợp tác trong nghiên cứu khoa học và công

SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 7
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
nghệ. Tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên; đấu
tranh chống các hành vi huỷ hoại tài nguyên, môi trường.
Trong hoạt động văn hoá, nghệ thuật, vui chơi, giải trí: Tham gia các hoạt
động văn hoá, nghệ thuật, vui chơi, giải trí lành mạnh. Thường xuyên rèn luyện đạo
đức, tác phong, hành vi ứng xử văn hoá, thực hiện nếp sống văn minh. Giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ di sản văn hoá, tích cực tham gia xây
dựng đời sống văn hoá cộng đồng.
Trong bảo vệ sức khoẻ, hoạt động thể dục, thể thao: Được bảo vệ, chăm sóc,
hướng dẫn nâng cao sức khoẻ, kỹ năng sống lành mạnh, phòng ngừa bệnh tật,
phòng chống HIV/AIDS; phòng chống ma tuý và các tệ nạn xã hội khác.
Trong hôn nhân và gia đình: Được giáo dục kiến thức và hôn nhân và gia
đình, thực hiện hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng. Giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam: Kính trọng
ông bà, cha mẹ và người lớn tuổi; chăm sóc, giáo dục con, em trong gia đình.
Trong quản lý nhà nước và xã hội: Nâng cao ý thức công dân, chấp hành
pháp luật, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị với cơ
quan, tổ chức về những vấn đề mà mình quan tâm; tham gia góp ý xây dựng các
chính sách, pháp luật liên quan đến thanh niên và các chính sách pháp luật khác.
Tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
2.3. Đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên:
a) Định hướng nghề nghiệp cho thanh niên là một quá trình từ hướng nghiệp
chọn nghề đào tạo, chọn nghề làm việc thích ứng nghề nghiệp và phát triển nghề
nghiệp cả cuộc đời lao động:
5
Luật số 53/2005/QH11
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 8

GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
Giáo dục hướng nghiệp: Thanh niên trước hết là học sinh phổ thông (cuối
bậc THCS hoặc THPT), trên cơ sở tư vấn và thu nhập thông tin nghề nghiệp nhất
định để hình thành quan niệm bước đầu về nghề nghiệp đồng thời căn cứ vào điều
kiện của bản thân đưa ra những dự định bước đầu về phương hướng lựa chọn nghề
để học hoặc làm việc sau này.
Chọn nghề để học: Trên cơ sở các thông tin cụ thể về ngành nghề, yêu cầu
của thị trường lao động, hệ thống giáo dục đào tạo và tự đánh giá hoặc được tư vấn
đánh giá đúng khả năng, nguyện vọng cá nhân, thanh niên quyết định nghề để học
ở các cấp, bậc học khác nhau (học nghề, Đại học...). Sau khi học chọn được nghề
để học và được đào tạo nghề nghiệp, thanh niên có thể bước đầu nắm vững kiến
thức và kỹ năng làm công việc nào đó. Đây là giai đoạn quan trọng chuẩn bị nghề
nghiệp phù hợp của thanh niên để sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động. Giai
đoạn này sự tác động của các yếu tố định hướng giá trị xã hội và định hướng thị
trường đến các quyết định của cá nhân rất lớn và cũng là giai đoạn quyết định trong
phân luồng học sinh để đi vào thị trường lao động, học nghề hoặc học Đại học theo
yêu cầu của thị trường.
Chọn nghề để làm: Sau khi được đào tạo, thanh niên có năng lực nghề nghiệp
nhất định, hiểu rõ nhu cầu của thị trường lao động, đồng thời căn cứ vào điều kiện
của bản thân để lựa chọn vị trí, nơi làm việc phù hợp với trình độ và điều kiện của
bản thân, của gia đình. ở giai đoạn này, vấn đề quan trọng nhất là khả năng đáp ứng
nghề nghiệp của thanh niên như thế nào đối với yêu cầu của thị trường lao động. Sự
đáp ứng càng tốt, khả năng hội nhập của thanh niên vào thị trường lao động càng
lớn, cơ hội thanh niên có việc làm càng cao. Đây là mắt xích quan trọng của việc
định hướng nghề nghiệp cho thanh niên mà kết quả của nó là thanh niên có việc
làm phù hợp.
Trong giai đoạn này, vai trò tư vấn, giới thiệu và hoạt động giao dịch lao
động trên thị trường là rất quan trọng.
Thích ứng và phát triển nghề nghiệp của thanh niên: Sau khi có việc làm,
thanh niên vẫn phải được định hướng để qua thực tiễn họ có thể đảm đương được

hay không; tiếp đó thanh niên luôn phải tiếp tục thích ứng với công việc thông qua
tích luỹ kinh nghiệm, đào tạo lại, đào tạo nâng cao hoặc bổ sung kiến thức, kỹ năng
do công việc đòi hỏi, đặc biệt là trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 9
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
nghệ, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất; thanh niên còn được định hướng để
phát triển nghề nghiệp và thăng tiến, đảm đương các công việc phức tạp hơn, các vị
trí cao hơn. Giai đoạn này là kết quả tổng hợp, tích hợp của các giai đoạn trước và
thể hiện hiệu quả tổng hợp các hoạt động định hướng nghề nghiệp.
b) Các hoạt động định hướng nghề nghiệp cho thanh niên.
Hoạt động định hướng nghề nghiệp cho thanh niên là quá trình tác động làm
cho thanh niên nâng cao nhận thức về giá trị xã hội của nghề nghiệp, yêu cầu của
sản xuất và thị trường lao động để tự mình là lựa chọn nghề, việc làm phù hợp và
có phương hướng đúng về phát triển nghề nghiệp trong cuộc đời lao động của
mình.
Tổ chức hoạt động hướng nghề nghiệp cho thanh niên là một công việc rất
phức tạp, bao gồm các hoạt động trong nhà trường gắn với quá trình giáo dục để
nâng cao dân trí, đào tạo nghề nghiệp trong các cơ sở đào tạo (dạy nghề, đại học)
và các hoạt động ngoài nhà trường (tác động của gia đình, Nhà nước, các tổ chức
xã hội...).
Hoạt động định hướng nghề nghiệp cho thanh niên chủ yếu là thông tin tư
vấn và đào tạo định hướng cho thanh niên tuỳ từng đối tượng để thanh niên tự lựa
chọn và quyết định phương hướng nghề nghiệp cho mình. Các hoạt động chủ yếu
có thể là:
- Hoạt động thông tin về nghề nghiệp mà xã hội và thị trường đang cần; các
nghề cần đào tạo và các cơ sở đào tạo; thông tin về thị trường lao động và các hình
thức giao dịch trên thị trường lao động (cả trong nước và quốc tế);
- Hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong các trường phổ thông (theo chương
trình chính thức của Nhà nước); kết hợp hoạt động định hướng nghề nghiệp với đào
tạo nghề nghiệp trong các cơ sở đào tạo (dạy nghề, đại học); tổ chức đào tạo định

hướng cho thanh niên trước khi tham gia thị trường lao động (hiện nay đang thực
hiện cho đối tượng thanh niên trước khi đi xuất khẩu lao động)...
- Hoạt động tư vấn về bản thân thanh niên, về lựa chọn nghề để học, lựa
chọn việc làm...
- Hoạt động đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên theo các cấp trình độ và các
bậc đào tạo, trong đó có đào tạo liên thông giữa các cấp trình độ và các bậc đại học.
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 10
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
- Hoạt động dịch vụ giới thiệu đào tạo nghề nghiệp, giới thiệu việc làm... cho
thanh niên (giao dịch trên thị trường lao động).
Như vậy, hoạt động định hướng nghề nghiệp cho thanh niên xét về bản chất
có nội dung kinh tế, hướng vào phát triển nguồn nhân lực (yếu tố đầu vào của sản
xuất), nhưng lại có ý nghĩa xã hội rất sâu sắc. Có thể nói, đó là một lĩnh vực dịch
vụ lao động – xã hội ngày càng phát triển trong kinh tế thị trường với những hình
thức rất đa dạng phong phú.
Trong đó vai trò của Nhà nước là rất quan trọng trong việc hoạch định chính
sách, phát triển hệ thống sự nghiệp định hướng nghề nghiệp và đầu tư hỗ trợ về tài
chính. Song trong kinh tế thị trường, cần đa dạng hoá các hình thức và các tổ chức
hoạt động định hướng nghề nghiệp theo tinh thần xã hội hoá, nhất là phát triển các
dịch vụ lao động – xã hội của các tổ chức xã hội hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, đồng thời cho phép phát triển các tổ chức dịch vụ xã hội tư nhân với điều
kiện nhất định.
6
II. GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN:
1. Tính tất yếu giải quyết việc làm cho thanh niên.
Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Con người được xem xét trên hai khía cạnh
thống nhất với nhau:
Một là, con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất và
tinh thần. Như vậy, để tồn tại và phát triển, con người bằng sức lao động của mình

là yếu tố của quá trình sản xuất, là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, tạo ra giá trị
hàng hoá và dịch vụ. Muốn vậy phải có quá trình kết hợp sức lao động với các tư
liệu sản xuất, gọi là quá trình người lao động làm việc hay là họ có việc làm. Vậy
thông qua làm việc con người mói tạo ra của cải cho xã hội, thúc đẩy kinh tế.
6.
Định hướng nghề nghiệp và việc làm – Chủ biên TS Mạc Văn Tiến – NXB Lao động Xã hội – Trang 60.
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 11
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
Hai là, con người là người sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần
thông qua quá trình phân phối, tái phân phối. Trong khái niệm việc làm đã nói ở
trên, việc làm đem lại thu nhập cho người lao động. Thu nhập ấy dùng cho việc tiêu
dùng để tái sản xuất lại sức lao động và phục vụ những nhu cầu khác cho bản thân
cũng là gia đình, ... từ đó góp phần khuyến khích sự sản xuất, phát triển kinh tế.
Như vậy, việc làm cho vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của cá nhân
người lao động cũng như của nền kinh tế – xã hội.
Mặt khác, thất nghiệp tác động tiêu cực đến cả hai mặt kinh tế và xã hội của
đất nước, cụ thể như:
Xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn với tình trạng nghèo đói và phân phối thu
nhập không công bằng. Những người thất nghiệp tuy không sản xuất ra sản phẩm,
nhưng vẫn phải tiêu dùng mà không tạo thêm sản phẩm mới. Giả sử rằng số người
thất nghiệp đó nếu được làm việc, họ sẽ tạo ra một lượng giá trị chí ít bằng gía trị
tối thiểu mà họ tiêu dùng (thực tế thì còn nhiều hơn); nghĩa là xảy ra lãng phí
nguồn lực xã hội do không sử dụng hết các yếu tố có sẵn của sản xuất. Hơn thế,
Nhà nước lại mất thêm những khoản chi phí liêu quan như chi cho bảo hiểm thất
nghiệp, trợ cấp mất việc làm, chi cho về hưu sớm cùng các chi phí xã hội cho đào
tạo, đào tạo lại, dịch vụ việc làm từ những chương trình chống thất nghiệp.
Xét về kinh tế cá nhân, thất nghiệp gây khó khăn cho cuộc sống cá nhân
cũng như cuộc sống của gia đình do không có nguồn thu nhập.
Đối với xã hội, thất nghiệp gây nên những hậu quả nặng nề. Khi xét các
nguyên nhân của các tệ nạn xã hội người ta nhận thấy rằng, những người thất

nghiệp tham gia đáng kể vào các tệ nạn xã hội như ma tuý, trộm cướp, mại dâm...
Trong lúc các con đường khác để tạo việc làm rộng mở hơn và khó bị kiểm soát và
ngăn chặn hơn. Mặt khác, thất nghiệp còn tác động đến tâm tư tình cảm, suy nghĩ
của người lao động, thất nghiệp gây cho người lao động tâm lý luôn luôn lo lắng, bị
đe doạ, làm mất niềm tin của họ vào tương lai tươi sáng.
Chính vì vậy trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc
gia đều hướng vào mục tiêu việc làm đầy đủ cho người lao động, nâng cao chất
lượng việc làm... Nhưng trên thực tế, không dễ dàng thực hiện được những mục
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 12
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
tiêu này nên một yêu cầu có tính khách quan là cần phải có các biện pháp giải
quyết việc làm cho người lao động.
Như chúng ta đã xem xét ở phần trên, thanh niên trong lực lượng lao động,
nên nó cũng là một trong những đối tượng cần giải quyết việc làm. Mặt khác, thanh
niên là lực lượng lao động dự trữ đầy tiềm năng, là những “người làm chủ tương lai
của nước nhà”, quyết đinh đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nên giải
quyết việc làm cho đối tượng này có ý nghĩa rất quan trọng. Mặt khác, độ tuổi
thanh niên là độ tuổi bắt đầu tham gia vào thị trường lao động nên có những yếu
điểm so với các nhóm tuổi khác trong tìm và tự tạo việc làm; với tính di chuyển cao
gây khó khăn trong việc phân bố là lực lượng lao động, mặc dù họ có tính chất
xung phong. Không những thế, thanh niên là đối tượng đang trong giai đoạn trưởng
thành, “nhạy cảm” với sự tác động của bên ngoài nên những tác động tiêu cực đến
bản thân thanh niên mạnh hơn các đối tượng khác. Chính vì vậy giải quyết việc làm
cho đối tượng này không chỉ là yêu cầu khách quan mà là yêu cầu bức xúc.
2. Đặc điểm trong giải quyết việc làm cho thanh niên.
“Giải quyết việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, các cấp, các tổ chức xã
hội và của mỗi người lao động”
7
. Có nghĩa là bản thân thanh niên phải có tinh thần
học hỏi, tự lực rèn luyện, vươn lên, chuẩn bị tốt về thể lực và trí lực để tự tìm tạo

việc làm. Các cấp, các ngành cần thực hiện tốt chính sách giải quyết việc làm trong
đó có thanh niên, coi đó là nghĩa vụ của mình.
Giải quyết việc làm phải phát huy được lợi thể của thanh niên nghĩa là đảm
bảo việc làm ấy ngày càng nâng cao về chất lượng, giúp thanh niên có thể phát huy
được tinh thần sáng tạo, ham học hỏi, tính xung phong và hạn chế các yếu điểm của
thanh niên về trình độ, kinh nghiệm,...
Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ
chức và cá nhân đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để giải quyết việc làm cho
người lao động.
7
Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Chính phủ
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 13
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
Trong giải quyết việc làm cho thanh niên, cần có những chính sách hỗ trợ
cho thanh niên trong tìm và tự tạo việc làm như hỗ trợ về vốn, công nghệ, kinh
nghiệm... cùng với chính sách hỗ trợ nâng cao chất lượng lao động và định hướng
nghề nghiệp và các chính sách tạo hỗ trợ đối với các tổ chức, đơn vị và cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho
nhiều người lao động.
Thanh niên Việt Nam tham gia nhiều vào các tổ chức như Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam; Hội sinh viên Việt
Nam nên giải quyết làm cho đối tượng này nên gắn với các chương trình hành động
của các tổ chức trên thông qua các phong trào hoạt động của thanh niên.
3. Một số chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên.
3.1. Chính sách việc làm.
Chính sách việc làm là chính sách xã hội được thể chế hoá bằng pháp luật của
Nhà nước, một hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để
giải quyết việc làm cho người lao động nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định
và phát triển xã hội.
8


Đối tượng tác động của chính sách việc làm người lao động xã hội, người
chưa có việc làm, người thất nghiệp, người thiếu việc làm. Như vậy chính sách việc
làm tác động trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, trong đó
có thanh niên.
Ngày 11/04/1992, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Nghị quyết số
120/HĐBT: “Về chủ trương, phương hướng và giải pháp giải quyết việc làm trong
những năm tới”, theo đó: Người lao động và người sử dụng lao động có quyền tự
do làm việc, tìm việc và tuyển lao động theo quy định của pháp luật, điều này thúc
đẩy thị trường lao động phát triển, mở rộng cơ hội tìm và tạo việc làm cho người
lao động trong đó có thanh niên.
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 14
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn

8
Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trang – Về Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam – NXB Chính trị Quốc
gia – HN 1997 – Tr17
Mặt khác, quy định Nhà nước có trách nhiệm:
Một là, Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính cho vay
vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người
lao động có khả năng tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho
nhiều người lao động.
Hai là, Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các
tổ chức và cá nhân trong và nước ngoài, gồm cả người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để giải quyết việc làm cho người lao
động.
Việc quy định những chính sách trên nhằm thúc đẩy mở rộng cầu lao động.
Vì nền kinh tế của nước ta còn chưa phát triển, nên ngoài việc khuyên khích nền

kinh tế tự vận động, thì Nhà nước còn có những chính sách hỗ trợ nhằm giúp đỡ
các cá nhân, tổ chức mở rộng sản xuất – kinh doanh dịch vụ, giải quyết nhiều việc
làm cho người lao động.
Ba là, để tác động vào cung lao động, nâng cao chất lượng cung, Chính phủ
có chính sách và biện pháp tổ chức dạy nghề, đào tạo lại; và các chính sách hỗ trợ
người lao động tự tạo việc làm bằng các chính sách hướng dẫn sản xuất, kinh
doanh, cho vay vốn với lãi suất thấp phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang
trại, kinh tế tư nhân.
Để thực các chính sách trên theo Nhà nước quy định Chính phủ lập Chương
trình quốc gia về giải quyết việc làm; nó bao gồm nhiều chương trình được nhấn
mạnh trong từng thời kỳ phát triển kinh tế – xã hội và phù hợp với mục tiêu giải
quyết việc làm, thường là 5 năm. Mục tiêu của chương trình là phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao chất lượng lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với
cơ cấu kinh tế; đảm bảo việc làm cho phần lớn lao động có nhu cầu việc làm, nâng
cao năng suất lao động, tăng thu nhập, cải thiện chất lượng nhân dân.
9

SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 15
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn

9
Hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết việc làm – Bộ Lao động Thương binh và Xã hội – NBX Lao động Xã hội – HN
2003 – Tr 12
10. Chỉ thị 41/ - TƯ, ngày 22/9/1998 của Bộ Chính Trị về Xuẩu khẩu lao động và chuyên gia
Trong đó có các chương trình như Phát triển kinh tế, tạo mở việc làm; Xuất
khẩu lao động và chuyên gia; Các hoạt động hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm và
phát triển thị trường lao động.
* Chương trình phát triển kinh tế tạo mở việc làm, bao gồm chương trình phát
triển nông nghiệp và nông thôn (thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
đặc biệt là nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản; phát triển kinh tế trang trại; xây

dựng các vùng kinh tế mới, khai thác vùng đất trống đồi núi trọc...; xây dựng cơ
cấu cây trồng) và chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ (chú trọng phát
triển các khu công nghệ cao, đặc biệt ở các cùng kinh tế động lực, các vùng đô thị);
từ đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
tăng tỷ trọng lao động ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông
nghiệp lâm nghiệp.
Việc triển khai các chương trình này có ý nghĩa rất lớn đến thanh niên vì náo
tác động đến tất cả nước lao động tham gia hoạt động kinh tế, đặc biệt việc tập
trung vào việc khai thác các tiềm năng kinh tế ở các vùng, ngành kinh tế trọng
điểm; vùng, ngành kinh tế mới; các khu công nghệ cao, các ngành kinh tế mũi nhọn
có khả năng tạo nhiều việc làm cho thanh niên vì họ tiếp thu nhanh cái mới và có
tính chất di chuyển cao.
* Chương trình xuất khẩu lao động và chuyên gia, đây hoạt động “góp phần
phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao tay nghề
cho người lao động, tăng thu ngoại tệ cho đất nước, ...; cùng với các giải pháp giải
quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến
lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây
dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá”
10

.
Đây là chính sách phù hợp với xu hướng mở rộng thị trường lao động quốc
tế với dòng di chuyển lao động từ nước thừa lao động sang nước thiếu lao động;
nhu cầu chủ yếu của những nước này là lao động giản đơn, thiên về lao động chân
tay nên chính sách này thu hút nhiều thanh niên tham gia, những người có nhiều lợi
thế về mặt này. Còn đối với xuất khẩu lao động chuyên gia, những lao động có
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 16
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
trình độ cao ở những ngành công nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học,... thanh niên cũng là đối tượng nhanh nhạy trong lĩnh vực này, nên có thể

nói chính sách này giải quyết nhiều việc làm cho thanh niên.
Các biện pháp tập trung là thành lập các doanh nghiệp chuyên doanh xuất
khẩu lao động và chuyên gia có khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc
tế, có chính sách ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp này; xây dựng và hoàn thiện
chính sách đào tạo nguồn lao động xuất khẩu và chuyên gia; đào tạo tay nghề,
ngoại ngữ, kiến thức Pháp luật phục vụ XKLĐ và chuyên gia theo một chương
trình đào tạo của các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp; khuyên khích người
lao động tự đào tạo, doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo; nghiên cứu ban hành Pháp
lệnh XKLĐ và chuyên gia;...
* Các hoạt động hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm và phát triển thị trường
lao động. Như đã nói ở trên thanh niên cần có các chính sách hỗ trợ trong giải
quyết việc làm, nên việc đưa ra chính sách này có ý nghĩa rất lớn với thanh niên, nó
bao gồm các hoạt động.
Tổ chức cho vay giải quyết việc làm thông qua Quỹ quốc gia giải quyết việc
làm và Quỹ giải quyết việc làm ở địa phương với lãi suất ưu đãi (thấp hơn lãi suất
ngân hàng thương mại); có hình thức cho vay tín chấp thông qua chính quyền địa
phương hoặc các tổ chức xã hội – chính trị như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội
Nông dân,... để tạo thuận lợi cho người lao động vay vốn; cùng với có chu trình
thẩm định nhằm đảm bảo các dự án hoạt động hiệu quả và đúng mục đích; chính vì
vậy các dự án cho vay vốn thường được gắn với các chiến lược và các chương trình
phát triển kinh tế của đất nước, địa phương.
Nâng cao năng lực và hiện đại hoá các trung tâm dịch vụ việc làm, tổ chức
các hội chợ việc làm, nơi tuyển dụng và cung cấp trực tiếp thông tin về việc làm,
nghề nghiệp, đào tạo nghề cho người lao động; có thể nói hội chợ việc làm là nơi
dành cho thanh niên vì họ là mới ra trường chưa bắt đầu đi tìm việc làm. Tổ chức
dạy nghề và nâng cao chất lượng dạy nghề theo hợp đồng học nghề gắn với việc
làm tại các Trung tâm dịch vụ việc làm cho những người thất nghiệp, người thiếu
việc làm đã đăng ký tìm việc làm.
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 17
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn

Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động bằng cách xây dựng hệ
thống thông tin quản lý lao động, việc làm; tổ chức điều tra, khảo sát, thu thập, xử
lý và sử dụng các thông tin về thị trường lao động, thông tin về lao động, việc làm
tại các địa bàn trọng điểm thông qua các cuộc điều tra mẫu, điều tra lặp lại; tổ chức
điều tra lao động, việc làm hàng năm, hàng quý ở đô thị, hàng năm ở nông thôn.
Việc xây dựng hệ thống thông tin này rất quan trọng, nó là cơ sở để người lao
động, nhà tuyển dụng, các trung tâm dịch vụ việc làm nắm bắt được thông tin về thị
trường lao động và là cơ sở để các nhà quản lý về lao động đưa ra những chính
sách đúng đắn điều chỉnh thị trường lao động, từ đó có những chính sách giải quyết
việc làm hiệu quả cho lao động nói chung và từng đối tượng lao động đặc thù nói
riêng như thanh niên, phụ nữ, lao động trẻ em, người tàn tật,...
3.2. Chính sách giáo dục - đào tạo.
Hiến pháp năm 1992 của nước ta đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu”.
“Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng
tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân
giàu nước mạnh, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
(Điều 35 - Hiến pháp). Mục tiêu này hướng đến người lao động hoàn thiện có đủ
khả năng và tự tạo việc làm.
Chính sách giáo dục – đào tạo tác động trực tiếp đến chất lượng cung lao
động, đặc biệt là đối với thanh niên, người đang trong độ tuổi học tập và cũng là
lứa tuổi có khả năng học hỏi và tiếp thu kiến thức hiệu quả nhất. Điều quan trọng
nhất là chính sách đào tạo nghề cho người lao động, vì đây là cơ sở cho việc làm
một công việc trong tương lai; 15 tuổi là bắt đầu tuổi lao động; nếu học liên tục thì
đã tốt nghiệp trung học cơ sở, và đây cũng là độ tuổi được học nghề, theo quy định
của Bộ luật lao động, 13 tuổi được phép học nghề nên các chính sách giáo dục -
đào tạo trong giai đoạn này tác động đến định hướng học sinh theo con đường nào
và điều này tác động trực tiếp đến công việc sau này của thanh niên.
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 18

GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
Chính phủ đã ban hành Luật phổ cập giáo dục tiểu học, ngày 12/08/1994 về
xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, tăng cường thu hút sự tham gia
của các ngành, các cấp, các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội, gia đình... vào sự
nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo.
Ngày 11/4/2002, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 48/02/QĐ-TTG phê
duyệt Quy hoạch mạng lưới dạy nghề giai đoạn 2002-2010. Mục tiêu là “Tạo cơ
hội cho đông đảo người lao động được trang bị kiến thức, kỹ năng tiếp thu công
nghệ mới để tự tạo việc làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập nghiệp”. Với các chính
sách:
Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và phương
thức đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao, đặc biệt là trong các ngành kinh
tế, kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao; mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng,
linh hoạt, năng động; gắn việc hình thành các khu công nghiệp, khu công nghệ cao
với hệ thống đào tạo nghề; phát triển nhanh và phân bố hợp lý hệ thống trường dạy
nghề trên địa bàn cả nước”.
3.3. Chính sách huy động lực lượng thanh niên phát triển kinh tế xã hội.
Ngày 06/4/1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị 145-TTG về việc
thanh niên tham gia thực hiện chương trình kinh tế xã hội bao gồm: chương trình
Quốc gia giải quyết việc làm; các chương trình khuyến nông và xây dựng một số
trung tâm chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nghề nông cho thanh niên ở những
vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm, có nhiệm vụ vừa tập huấn kỹ thuật vừa chỉ
đạo làm mẫu để vận động đông đảo nhân dân làm theo; thực hiện các chương trình
xoá đói, giảm nghèo; các chương trình biển Đông hải đảo, “Làng thanh niên”, “Khu
thanh niên”, “Vùng thanh niên” bằng việc tổ chức vận động thanh niên ra một số
đảo, vùng kinh tế lập nghiệp, xây dựng các vùng dân cư mới trên đảo và các cụm
làng thanh niên trở thành làng trọng điểm, kiểu mẫu trong phát triển kinh tế.
Các loại hình tổ chức tập hợp thanh niên tham gia phát triển kinh tế-xã hội
gồm:
+ Làng thanh niên, khu thanh niên.

SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 19
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
+ Thanh niên xung phong phát triển kinh tế.
+ Các trung tâm và các câu lạc bộ chuyển giao công nghệ
+ Đội ánh sáng văn hoá, đội thanh niên tình nguyện xây dựng nông thôn.
+ Câu lạc bộ thanh niên giúp nhau làm kinh tế.
+ Trung tâm xúc tiến việc làm thanh niên.
Để thực hiện chính sách trên, tại Hội nghị Ban chấp hành TU Đoàn Thanh
niên Cộng Sản Hồ Chí Minh lần thứ II, khoá VI, năm 1993 đã phát động phong
trào “Thanh niên lập nghiệp”
* Phong trào “Thanh niên lập nghiệp”
Các cấp bộ Đoàn triển khai thành các phong trào như: “Học tập vì ngày mai
lập nghiệp”, “Xoá đói giảm nghèo xây dựng nông thôn mới”, “Giải quyết việc làm
cho thanh niên’, “Phong trào tình nguyện”,...
- Phong trào “Học tập – rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp”
Hướng nghiệp cho thanh niên, tư vấn cho thanh niên việc chọn nghề, học
nghề và xin việc làm thông qua các trung tâm dịch vụ việc làm và các văn phòng
giới thiệu việc làm cho thanh niên.
Động viên, khuyến khích các đối tượng thanh niên tích cực học tập văn hoá,
chuyên môn, nghiệp vụ nâng cao trí tuệ để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa-
hiện đại hoá. Thông qua các câu lạc bộ học sinh, sinh viên ở các cơ sở Đoàn
trường học, các quỹ “khuyến học, khuyến tài, giúp nhau trong học tập”,..., các
nguồn vốn cho sinh viên vay để học tập,... động viên thanh niên tham gia chương
trình phổ cập tiểu học, phổ thông cơ sở, trung học phổ thông; các chương trình đào
tạo nghề và có tay nghề cao để tìm cho mình một công việc tốt. Mặt khác động viên
tham gia chương trình xoá mù chữ, chống tái mù nhằm nâng cao dân trí ở các vùng
trong cả nước thông qua việc tham gia các đội thanh niên tình nguyện xuống cơ sở
làm nhiệm vụ xoá mù chữ hay tổ chức các lớp học tình thương.
- Phong trào “Xoá đói giảm nghèo xây dựng nông thôn mới”
Động viên thanh niên tham giai các chương trình xoá đói, giảm nghèo và

giúp đỡ các gia đình đói, nghèo ở địa phương theo các dự án thuộc chương trình
như trồng rừng, chương trình trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và chương
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 20
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
trình khai thác bãi bồi ven biển – nuôi trồng, đánh bắt chế biến thuỷ sản.... Đoàn
thanh niên và Hội thanh niên ở các cơ sở đưa ra các giải pháp giúp các gia đình trẻ
vượt qua đói, nghèo thông qua các câu lạc bộ “Bạn giúp nhau”, các quỹ tự nguyện
đóng góp. Đặc biệt quan tâm đến việc phát triển kinh tế trang trại trẻ, mạnh dạn xây
dựng những mô hình mới ứng dụng KHKT, với những cây, con giống mới đạt hiệu
quả cao; khuyến khích thực hiện ở những vùng kinh tế mới, vùng khó khăn. Chính
điều này thể hiện được tinh thần sáng tạo, mạnh dạn, “dám nghĩ, dám làm” của
thanh niên và nó tác động trực tiếp đến việc làm, sự nghiệp của thanh niên.
Xây dựng ý thức tự lực tự cường, tự vượt lên của thanh niên, không chấp
nhận đói nghèo. Sau đó các cơ sở Đoàn và Hội thanh niên giúp họ về kinh nghiệm,
vốn, về vật tư,... để họ tham gia vào làm kinh tế với các hình thức tín chấp để để
giúp họ vay vốn trong các chương trình quốc gia giải quyết việc làm, vốn trồng
rừng và các nguồn vốn khác như quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước ở các ngân
hàng. Ngoài ra, các cơ sở Đoàn còn vận động phong trào “tiết kiệm, tích luỹ” để
“lập thân, lập nghiệp”. Đây là cơ sở cho việc giao lưu, học hỏi, giúp đỡ nhau làm
kinh tế, tạo việc làm tốt và ổn định; điều này rất có ý nghĩa đối với thanh niên nông
thôn và nhất trong xây dựng kinh tế trang trại.
Tổ chức các lớp tập huấn khoa học, kỹ thuật (KHKT), các điểm trình diễn kỹ
thuật, thành lập các câu lạc bộ khuyến nông-lâm-ngư để đẩy mạnh các hoạt động
ứng dụng tiến bộ KHKT vào trong sản xuất để tạo việc làm có chất lượng với năng
suất cao, mở rộng sản xuất tạo việc làm mới.
- Phong trào “Thanh niên tình nguyện”.
Tổ chức các đội hình học sinh, sinh viên tình nguyện, ngắn hạn; đội hình
thanh niên xung kích ở địa phương; đội trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển
kinh tế nông thôn, miền núi (những thanh niên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, phục vụ có thời hạn ít nhất là 2 năm) tham gia các hoạt

động phát triển kinh tế, đặc biệt là nông thôn, vùng sâu, vùng xa mục đích để giáo
dục thanh niên hiểu được nghĩa vụ phục vụ đất nước, phát huy tinh thần xung
phong và quan trọng là phân bố lại lực lượng lao động thanh niên mới ra trường ở
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 21
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
những nơi thừa lao động sang nơi những vùng thiếu lao động và phát triển kinh tế ở
những vùng này, tạo mở cầu lao động, tăng giải quyết việc làm.
Tổ chức các hoạt động thanh niên tình nguyện đảm nhận các công trình
thanh niên, phần việc thanh niên trong xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới. Đây
chính là “trường học kinh nghiệm”
11
nâng cao về trình độ tay nghề để họ có được
kiến thức cũng như khả năng thực hành tốt khi xin việc, cái mà ở độ tuổi thanh niên
còn yếu; cũng như rèn luyện được những đức tính tốt trong lao động như yêu lao
động, chăm chỉ, dẻo dai... Mặt khác nó giúp nâng cao cơ sở hạ tầng nông thôn phát
triển kinh tế, tạo mở nhiều việc làm mới, gián tiếp giúp cho chính minh.
Để khuyến khích thanh niên tham gia các hoạt động tình nguyện, nhất là
chương trình trí thức trẻ tham gia phát triển kinh tế nông thôn, Nhà nước có “Chính
sách ưu đãi đối với đội viên các đội trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển kinh
tế nông thôn miền núi” theo Quyết định số 149/2000/QĐ-TTG ngày 28/12/2000
của Thủ tướng Chính phủ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, khi về địa phương xuất
phát được cấp chính quyền nhập hộ khẩu và giúp đỡ tạo điều kiện ổn định cuộc
sống; được ưu tiên trong thi tuyển công chức, thi tuyển sinh đại học và sau đại học.
Nếu có ý định ở lâu dài ở nơi đã tình nguyện đến công tác thì được chính quyền địa
phương ưu tiên sắp xếp việc làm, tạo điều kiện về chỗ ở, phương tiện sản xuất và
các điều kiện sinh hoạt để ổn định cuộc sống.
* Phong trào’Thanh niên xung phong”
Theo Quyết định 770/TTG ngày 20/12/1994 của Thủ tướng chính phủ về tổ
chức và chính sách đối với thanh niên xung phong, “Thanh niên xung phong
(TNXP) là hình thức tổ chức lực lượng xung kích của thanh niên do Đoàn TNCS

Hồ Chí Minh tổ chức ra nhằm tập hợp thanh niên xung kích thực hiện các chương
trình, dự án kinh tế, xã hội của Nhà nước, vừa làm nhiệm vụ kinh tế - xã hội, giải
quyết việc làm, vừa giáo dục, rèn luyện và đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên.”
Để khuyến khích phong trào này phát triển, Nhà nước có chính sách ưu đãi
cho các đơn vị TNXP được vay vốn lãi suất ưu đãi trong Quỹ quốc gia giải quyết
việc làm và các nguồn vốn khác để tạo thêm chỗ việc làm cho thanh niên; được xét
hỗ trợ đầu tư cho các hoạt động xã hội như giáo dục, dạy nghề, thể thao,...; đối với
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 22
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
đơn vị TNXP thực hiện nhiệm vụ ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo,...; ngoài việc được hưởng chính sách của các chương trình dự án
được giao, còn được xét hỗ trợ đầu tư cho các hoạt động giáo dục, dạy nghề, văn
hoá, thể thao,... nhằm đồng việc khuyến khích thanh niên lập nghiệp và góp phần
nâng cao dân trí trong vùng;... các đội viên tham gia TNXP được ký hợp đồng lao
động trong thời gian thực hiện dự án. Sau thời gian làm nhiệm vụ, tuỳ theo điều
kiện địa phương và nguyện vọng từng người để sắp xếp công việc hợp lý; có thể
được xem xét cử đi đào tạo ở các trường lớp và ngành nghề cần thiết.
Nói tóm lại, giải quyết việc làm cho thanh niên cần được thực hiện kết hợp
giữa các chính sách giải quyết việc làm nói chung với các phong trào của Đoàn
Thanh niên để các chính sách này đến với thanh niên nhanh hơn và hiệu quả hơn.
11
Trần Văn Miếu – Phong trào thanh niên với đào tạo nguồn nhân lực trẻ – NXB Thanh niên – HN 2001
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 23
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO THANH NIÊN NƯỚC TA GIAI ĐOẠN VỪA QUA
I. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI TRONG THỜI GIAN QUA.
1. Đặc điểm kinh tế.
1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế theo ngành.

Tổng sản phẩm quốc dân của nước ta tăng hàng năm với tốc độ năm sau cao
hơn năm trước. Giai đoạn 2000 – 2004 tốc độ tăng bình quân năm đạt 7,2%.
Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước theo ngành kinh tế.
Năm
Tốc độ tăng hàng năm
(Tính theo giá so sánh)
Cơ cấu
(Tính theo giá thực tế)
Tổng NLN CN &
XD
DV Tổng NLN CN &
XD
DV
2000 6,79 4,63 10,07 5,32 100 24,53 36,73 38,74
2001 6,89 2,98 10,39 6,1 100 23,25 38,12 38,63
2002 7,08 4,16 9,48 6,54 100 22,99 38,55 38,46
2003 7,34 3,6 10,15 6,45 100 22,54 39,46 38,00
2004 7,79 4,36 10,21 7,26 100 21,81 40,21 37,98
(Chú thích: “NLN’ là nông lâm nghiệp; “CN &XD” là công nghiệp và xây
dựng; “DV” là dịch vụ)
(Nguồn: Tính toán trên: Niên giám thống kê năm 2004- Tổng cục Thống kê -
Hà Nội 2005)
Qua bảng số liệu trên, ta thấy ngành công nghiệp có tốc độ tăng cao nhất, sau
đến ngành dịch vụ và thấp nhất là ngành nông lâm nghiệp; điều này phù hợp với xu
hướng phát triển chung của nền kinh tế và định hướng phát triển chung của nền
kinh tế và định hướng phát triển của đất nước là “công nghiệp hoá - hiện đại hoá”.
Chính vì tốc độ trên làm cho tỷ trọng ngành CN & XD tăng lên; giảm tỷ trọng
ngành DV và ngành NLN. Xét về mức độ đóng góp của các ngành, qua bảng cho
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 24
GVHD: GS.TS Đỗ Hoàng Toàn

thấy, ngành DV chiếm >37% tổng sản phẩm quốc dân, tuy nhiên tỷ trọng này đang
giảm xuống do tốc độ tăng ngành này thấp hơn tốc độ tăng chung của nền kinh tế.
Đối với ngành CN & XD tuy tốc độ tăng cao so với các ngành khác, nhưng do
mức tăng không nhanh nên tỷ trọng của ngành này trong 5 năm chỉ tăng từ 36,73%
năm 2000 lên 40,21% năm 2004.
Theo ước tính của tổng cục thống kê, báo cáo của chính phủ. Bộ kế hoạch -
đầu tư năm 20005 tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta sẽ tăng 8,43%. Đó là điều
đáng mừng để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, mà còn làm tiền
đề thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế xã hội khác như chống lạm phát, giảm thất
nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán, phát triển giáo dục, y tế xã hội...
1.2. Xu hướng phát triển kinh tế.
a) Xu hướng hội nhập kinh tế thế giới.
Đây là xu hướng tất yếu để phát triển kinh tế, nó sẽ đem lại những cơ hội và
thách thức mới cho nền kinh tế Việt Nam. Mở cửa hội nhập sẽ có cơ hội thu hút
đầu tư của nước ngoài. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng
chưa được khai thác hiệu quả, giá nhân công rẻ và nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi,
cùng với môi trường đầu tư khá ổn định đã giúp chúng ta thu hút được lương vốn
đầu tư lớn, năm 2005 tổng đầu tư phát triển 320 nghìn tỷ đồng (tổng đầu tư phát
triển/GDP là 38,2%).
Mặt khác, toàn cầu hoá tạo cơ hội Việt Nam tiếp thu những tiến bộ khoa học
kỹ thuật của thế giới, phát triển kinh tế, mở rộngthị trường xuất khẩu hàng hoá.
Năm 1999, xuất khẩu được 11.539 triệu $; đến năm 2002 là 15.656 triệu $, tăng
8,92%/năm, cao hơn cả tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân. Nhưng đến năm 2005
tổng kim ngạch xuất khẩu là 31.800 triệu $, chúng ta vẫn hướng tập trung xuất
khẩu hàng hoá sử dụng lợi thế nhân công rẻ và nguồn tài nguyên dồi dào như sản
phẩm ngành dệt may (chiếm 25% giá trị sản phẩm xuất khẩu), khoáng sản (chiếm
25% giá trị xuất khẩu), nông sản (chiếm 37% giá trị xuất khẩu),... Chính điều này
đã tạo nhiều việc làm cho người lao động, trong đó có thanh niên. Mặt khác Nhà
nước ta cũng đang hướng tới việc xuất khẩu những mặt hàng có hàm lượng trí tuệ
SV: Tạ Thị Hạnh QLKT 44B 25

×