Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.64 KB, 92 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ HNG HNH

PHáP LUậT Về CạNH TRANH KHÔNG LàNH MạNH
TRONG VIệC Sử DụNG NHãN HIệU ở VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ HNG HNH

PHáP LUậT Về CạNH TRANH KHÔNG LàNH MạNH
TRONG VIệC Sử DụNG NHãN HIệU ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN TRNG IP

H NI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Hồng Hạnh


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG VIỆC SỬ DỤNG NHÃN HIỆU VÀ
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH TRONG VIỆC SỬ DỤNG NHÃN HIỆU Ở VIỆT NAM........ 5
1.1.

Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong
việc sử dụng nhãn hiệu....................................................................... 5


1.1.1. Khái quát về nhãn hiệu và hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........ 5
1.1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu ...... 9
1.1.3. Phân biệt hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử
dụng nhãn hiệu với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối
với nhãn hiệu ...................................................................................... 12
1.2.

Pháp luật điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh trong việc
sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam........................................................ 14

1.2.1. Xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử
dụng nhãn hiệu ở Việt Nam ............................................................... 14
1.2.2. Các biện pháp xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
việc sử dụng nhãn hiệu ....................................................................... 22
1.2.3. Mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ
trong việc xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc
sử dụng nhãn hiệu ................................................................................ 35


1.2.4. Ý nghĩa của sự điều chỉnh bằng pháp luật các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu ................................ 37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 40
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG VIỆC SỬ DỤNG NHÃN HIỆU Ở VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ............................................... 41
2.1.

Thực trạng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong
việc sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam ................................................ 41


2.1.1. Thành tựu ........................................................................................... 42
2.1.2. Hạn chế ............................................................................................... 43
2.2.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về cạnh tranh không lành
mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam........................... 47

2.2.1. Tình trạng vi phạm pháp luật của các chủ thể kinh doanh trên thị trƣờng .... 47
2.2.2. Hoạt động xử lý của hệ thống cơ quan thực thi ................................. 58
2.2.3. Hoạt động tự bảo vệ quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu ...................... 62
2.2.4. Nguyên nhân....................................................................................... 63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 64
Chương 3: ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG VIỆC SỬ DỤNG NHÃN HIỆU
Ở VIỆT NAM ..................................................................................... 65
3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật ...................................................................................... 66

3.2.

Đề xuất hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành
mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam ........................ 67

3.2.1. Thống nhất các quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật
sở hữu trí tuệ về cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử dụng
nhãn hiệu ............................................................................................ 68



3.2.2. Nâng cao mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu ....................... 70
3.2.3. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh không lành mạnh .............................................................. 70
3.2.4. Bổ sung quy định mới xác định hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu .................................................... 71
3.2.5. Ban hành các quy định pháp luật về xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu điều chỉnh từng
lĩnh vực cạnh tranh ............................................................................. 71
3.3.

Đề xuất nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam ...... 72

3.3.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật ..... 72
3.3.2. Củng cố, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp trong hoạt động
kinh doanh .......................................................................................... 77
3.3.3. Nâng cao nhận thức và tính chủ động của ngƣời tiêu dùng trên
thị trƣờng ............................................................................................ 78
3.3.4. Tăng cƣờng mở rộng hợp tác quốc tế về xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu ................................ 79
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 83


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Từ viết tắt

Ý nghĩa

CTKLM

Cạnh tranh không lành mạnh

QLCT

Quản lý cạnh tranh

QLTT

Quản lý thị trƣờng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình hội nhập kinh tế-xã hội ngày
một sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế của khu vực cũng nhƣ của toàn thế giới,
vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền đối với nhãn hiệu nói riêng
ngày càng đóng vai trò quan trọng. Nhãn hiệu là tài sản vô hình quý giá của doanh
nghiệp và là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu của thời kì hội nhập, nó đã và đang
khẳng định vai trò là yếu tố quan trọng tạo nên thƣơng hiệu, giá trị và uy tín trên thị
trƣờng của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức
thƣơng mại thế giới WTO và nhiều diễn đàn kinh tế nhƣ APEC, AFTA, ASEEM,
v.v… đây là thuận lợi lớn để hội nhập với các nền kinh tế phát triển khác, song
cũng là thách thức không nhỏ đối với chúng ta trong vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ nói chung và bảo hộ nhãn hiệu nói riêng. Việc xây dựng một nhãn hiệu có sức

mạnh và bảo vệ nó trƣớc các hành vi làm giả, làm nhái, hành vi xâm phạm quyền,
hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể khác là yêu cầu bức bách đối
với sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp.
CTKLM trong sở hữu trí tuệ nói chung và trong việc sử dụng nhãn hiệu nói
riêng hiện đang là vấn đề nóng của toàn xã hội với mật độ ngày càng phổ biến,
theo chiều hƣớng trầm trọng hơn và cách thức ngày càng tinh vi hơn. Từ các đô
thị lớn – nơi có mật độ dân sinh cao và sức tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ lớn, cho
đến khắp các tỉnh thành, những vùng nông thôn – nơi mà trình độ dân trí của
ngƣời tiêu dùng còn thấp, khả năng phân biệt nhãn hiệu và các chỉ dẫn thƣơng mại
khác còn kém thì những sản phẩm, dịch vụ nhái lại các nhãn hiệu uy tín vẫn xuất
hiện trên thị trƣờng, len lỏi vào các cửa hàng tạp hóa nhỏ lẻ, và dễ dàng đƣợc tiêu
thụ bởi khả năng gây nhầm lẫn cho đại bộ phận ngƣời tiêu dùng. Những tổn thất
mà hành vi CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu gây ra cho các chủ thể quyền –
những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chân chính, và cho đông đảo ngƣời tiêu
dùng là rất nghiêm trọng.

1


Tại Việt Nam hiện nay, trƣớc đòi hỏi bức thiết của việc điều chỉnh bằng pháp
luật các hành vi CTKLM trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và trong việc sử
dụng nhãn hiệu nói riêng, cũng nhƣ đòi hỏi về sự tƣơng thích với pháp luật quốc tế
trƣớc công cuộc hội nhập kinh tế toàn cầu, các quy định pháp luật về hành vi
CTKLM trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nằm chủ yếu trong Luật Cạnh tranh 2004 và
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (đƣợc sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 và đƣợc hợp nhất trong văn bản hợp nhất số
19/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 do Văn phòng Quốc hội ban hành, sau đây gọi
là Luật sở hữu trí tuệ 2013) đã ra đời. Sau một thời gian thực hiện, bên cạnh những
hiệu quả đã đạt đƣợc thì khung pháp lý về CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu
cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, đòi hỏi sự cập nhật, thay đổi để phù hợp hơn với môi

trƣờng pháp lý chung trên toàn thế giới và thực tiễn tại Việt Nam.
Vì vậy, vấn đề “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử
dụng nhãn hiệu ở Việt Nam” là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Xuất
phát từ nhu cầu thực tế và mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật về CTKLM
trong việc sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam, ngƣời viết đã chọn đây làm đề tài cho
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật, vấn đề thực thi
pháp luật trên thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật liên quan đến CTKLM trong việc sử dụng
nhãn hiệu ở Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu;
- Phân tích quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh vấn đề bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trƣớc hành vi CTKLM;
- Tìm hiểu, đánh giá việc thực thi pháp luật về CTKLM trong việc sử dụng
nhãn hiệu ở Việt Nam;

2


- Đề xuất giải pháp nhằm tăng cƣờng việc thực thi pháp luật về CTKLM
trong việc sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Những đóng góp của đề tài bao gồm:
- Một là, nghiên cứu một cách cụ thể những vấn đề lý luận và pháp lý của
pháp luật về CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu.
- Hai là, phân tích, đánh giá việc thực thi các quy định pháp luật hiện hành
liên quan đến CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam.

- Ba là, qua quá trình nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến
CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam, luận văn đƣa ra một số đề
xuất nhằm góp phần nâng cao tính hiệu quả của các quy định pháp luật trong
thực tiễn thực hiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Pháp luật về CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu ở
Việt Nam và việc thực thi trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu nghiên cứu về hành vi CTKLM trong
việc sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam theo các quy định của pháp luật cạnh tranh và
pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, nhiều phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử
dụng nhƣ: Phƣơng pháp tổng hợp và phân tích kết hợp phƣơng pháp logic; phƣơng
pháp so sánh; phƣơng pháp thu thập thông tin nhằm đƣa ra các bình luận, đánh giá
thích hợp.
6. Tổng quan tài liệu
Một số công trình khoa học nghiên cứu đi trƣớc:
 Luận văn thạc sĩ “Xử lý một số vi phạm quyền sở hữu trí tuệ dưới góc độ
Luật cạnh tranh” của Nguyễn Thị Thanh Mai, năm 2005, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội;
 Luật văn thạc sĩ “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

3


vực sở hữu trí tuệ ở Việt Nam” của Vũ Quỳnh Lâm, năm 2005, Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội;
 Luận văn thạc sĩ “Cạnh tranh không lành mạnh: Thực trạng và những đề
xuất xử lý vi phạm ở Việt Nam” của Vũ Thu Giang, năm 2010, Trƣờng Đại học
Ngoại thƣơng Hà Nội;

 Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng “Pháp luật về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm
cho Việt Nam”, Chủ nhiệm đề tài: TS. Hồ Xuân Thắng, Trƣờng Đại học Sài Gòn,
năm học 2014-2015;
 Luận văn thạc sĩ “So sánh pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ở Việt Nam và Hoa Kỳ” của Đỗ Thu Thủy, năm 2016,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nhìn chung, liên quan đến pháp luật cạnh tranh và pháp luật về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đi trƣớc đề
cập ở nhiều góc độ và mức độ khác nhau, tuy nhiên, đó mới là những nghiên cứu
mang tính riêng lẻ về hai ngành luật độc lập. Còn vấn đề xử lý các hành vi CTKLM
trong việc sử dụng nhãn hiệu theo quy định của luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ
và mối quan hệ giữa hai ngành luật này trong điều chỉnh pháp luật thì cho đến nay
chƣa có công trình nghiên cứu nào.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong việc
sử dụng nhãn hiệu và pháp luật điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh trong việc
sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong việc
sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam và thực tiễn thực hiện
Chương 3: Đề xuất hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu ở Việt Nam.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG VIỆC SỬ DỤNG NHÃN HIỆU VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG VIỆC SỬ DỤNG
NHÃN HIỆU Ở VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử
dụng nhãn hiệu
1.1.1. Khái quát về nhãn hiệu và hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Nhãn hiệu là yếu tố đƣợc sử dụng rất rộng rãi trong nền kinh tế thị trƣờng, ở
một nhãn hiệu có sự gắn liền giữa lĩnh vực thƣơng mại và lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Mặc dù có nhiều thuật ngữ đƣợc đƣợc sử dụng rộng rãi không chỉ trong kinh tế,
thƣơng mại mà cả trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng và đời sống thƣờng nhật
nhƣ “nhãn hiệu”, “thƣơng hiệu”, “biểu tƣợng” hay “logo”, tuy nhiên chỉ có nhãn
hiệu là khái niệm đƣợc nhắc đến trong pháp luật sở hữu trí tuệ. Theo pháp luật sở
hữu trí tuệ Việt Nam, “nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ
của các tổ chức, cá nhân khác nhau” [13, Điều 4, Khoản 16].
Về khái niệm cạnh tranh, theo Từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh là “cố gắng
giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động
nhằm những lợi ích như nhau” [32, tr. 129]. Với khái niệm này, cạnh tranh đƣợc
xem xét ở góc độ chung nhất của đời sống xã hội.
Theo C. Mác: "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà
tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng
hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch" [5, tr. 556].
Theo Từ điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992, cạnh tranh đƣợc định
nghĩa là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm
tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba” [13, tr.12].
Dƣới góc độ sản xuất, kinh doanh trong điều kiện của cơ chế thị trƣờng, có
thể hiểu khái niệm cạnh tranh nhƣ sau: “Cạnh tranh được coi là hành vi của các

5


chủ thể trong khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị

trường với mục đích giành và thiết lập cho mình những ưu thế có lợi nhất để thu lợi
nhuận cao nhất” [16].
Cạnh tranh là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trƣờng,
nơi pháp luật thừa nhận và bảo đảm chế độ sở hữu nhiều thành phần, quyền tự do ý
chí của các chủ thể mà tiêu biểu là quyền tự do kinh doanh. Có tự do cạnh tranh thì
nền kinh tế thị trƣờng mới vận hành theo đúng quy luật tất yếu của nó và từ đó phát
huy nội lực thúc đẩy nền kinh tế. Do đó, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa
nhận cạnh tranh và đƣa ra những đảm bảo pháp lý nhằm thúc đẩy tự do cạnh tranh.
Tuy nhiên, chính cạnh tranh cũng là yếu tố đem đến những hậu quả tiêu cực
về kinh tế - xã hội, đó là khi các chủ thể sản xuất, kinh doanh thực hiện những hành
vi CTKLM. Khi cơ chế thị trƣờng khuyến khích các doanh nghiệp đƣợc tự do kinh
doanh thì việc đánh giá tính lành mạnh, trung thực trong hành vi cạnh tranh của
doanh nghiệp và đặt ra các giới hạn cho cạnh tranh nhằm ngăn ngừa hành vi
CTKLM là một công việc khó khăn, trong đó việc đƣa ra một khái niệm đầy đủ về
hành vi CTKLM có ý nghĩa then chốt.
Công ƣớc Paris ngày 20/03/1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp (sau đây gọi
là Công ƣớc Paris) là một trong những điều ƣớc quốc tế sớm nhất có quy định về
việc chống lại hành vi CTKLM. Điều 10Bis của Công ƣớc đã đƣa ra khái niệm về
các hành vi CTKLM, cụ thể là: “Bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực
trong công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành động cạnh tranh không lành
mạnh” [8]. Theo Công ƣớc Paris, tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá tính chất
“không lành mạnh” là “trái với tập quán trung thực”. Tuy nhiên, chính bản thân tiêu
chí này cũng không nhất quán ở mọi quốc gia. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử,
điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội mà ở mỗi quốc gia sẽ có những tập quán kinh
doanh riêng. Điều 10Bis Công ƣớc Paris có ý nghĩa rất to lớn trong thƣơng mại
quốc tế, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thiết chế pháp luật của các
quốc gia thành viên trong việc chống lại các hành vi CTKLM. Công ƣớc cũng
khuyến nghị các quốc gia thành viên cụ thể hoá các tiêu chí để đánh giá hành vi
CTKLM trong pháp luật của quốc gia mình.


6


Theo pháp luật của Cộng đồng châu Âu: Với nỗ lực để thống nhất các quy
định về CTKLM giữa các quốc gia thành viên trong khuôn khổ chƣơng trình hài
hoà hoá pháp luật chung (Legal Harmonisation), Cộng đồng châu Âu đã phát
triển các quy định chung áp dụng cho Cộng đồng theo nhiều hình thức, cấp độ.
Đặc biệt, Chỉ thị số 2005/29/EC hƣớng dẫn các hành vi thƣơng mại không lành
mạnh đã thay thế cho một loạt các luật lệ thông thƣờng đang tồn tại ở các quốc
gia thành viên [27]. Từ khi Chỉ thị số 2005/29/EC ra đời, các hành vi thƣơng mại
trên khắp Châu Âu đƣợc đánh giá theo một tiêu chuẩn chung. Điều 5 của Chỉ thị
quy định một hành vi thƣơng mại bị coi là không lành mạnh nếu:
- Đi ngƣợc lại với các yêu cầu về sự cần mẫn nghề nghiệp; hoặc
- Bóp méo một cách nghiêm trọng hoặc có khả năng bóp méo nghiêm trọng
ứng xử kinh tế trong mối liên hệ với sản phẩm của ngƣời tiêu dùng trung bình (hay
ngƣời tiêu dùng phổ thông) [27].
“Ngƣời tiêu dùng trung bình” – theo định nghĩa của Toà án công lý liên minh
châu Âu, “là người có đầy đủ thông tin ở mức vừa phải, tinh ý ở mức vừa phải và thận
trọng ở mức độ vừa phải, khi tính đến các yếu tố xã hội, văn hóa và ngôn ngữ” [17].
Theo quy định của Chỉ thị số 2005/29/EC thì trong thực tiễn để xác định một
hành vi thƣơng mại là không lành mạnh đều dựa trên tác động của hành vi đó hoặc
tác động có khả năng xảy ra của hành vi đó đối với ngƣời tiêu dùng trung bình hay
còn gọi là ngƣời tiêu dùng phổ thông. Với sự ra đời của Chỉ thị số 2005/29/EC, các
hành vi thƣơng mại trên khắp Châu Âu đã đƣợc đánh giá theo một tiêu chuẩn chung
nhất, mật thiết hơn, thay thế cho một loạt các luật lệ thông thƣờng về hành vi
thƣơng mại không lành mạnh đang tồn tại phân tán ở các quốc gia thành viên EU và
góp phần xoá bỏ các rào cản vốn tồn tại trên thị trƣờng chung những năm trƣớc đó.
Theo pháp luật Việt Nam: Luật cạnh tranh 2004 đƣa ra định nghĩa về CTKLM tại
Khoản 4 Điều 3 nhƣ sau:
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của

doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông
thƣờng về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến

7


lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác
hoặc ngƣời tiêu dùng [21, Điều 3].
Định nghĩa về hành vi CTKLM trong Luật cạnh tranh 2004 về cơ bản là
tƣơng đồng với Công ƣớc Paris cũng nhƣ pháp luật của các nƣớc có nền kinh tế thị
trƣờng phát triển. Cụ thể, một hành vi CTKLM đƣợc cấu thành bởi 3 yếu tố:
- Chủ thể thực hiện hành vi CTKLM: doanh nghiệp hoạt động trên thị trƣờng;
- Tính chất của hành vi CTKLM: trái với các chuẩn mực thông thƣờng về
đạo đức kinh doanh;
- Đối tƣợng bị xâm hại bởi hành vi CTKLM: Nhà nƣớc, ngƣời tiêu dùng
hoặc doanh nghiệp khác.
Nhƣ vậy, có thể thấy có nhiều quan điểm, nhiều cách định nghĩa khác nhau
về hành vi CTKLM, tuy nhiên, tất cả các định nghĩa đó đều có chung nhận định
rằng đây là hành vi cạnh tranh tiêu cực, xâm phạm môi trƣờng kinh doanh lành
mạnh, đi ngƣợc lại chuẩn mực đạo đức xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh,
xâm hại tới lợi ích của các chủ thể khác. Những hành vi này do đó cần phải đƣợc
ngăn chặn kịp thời để bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích chính đáng của
doanh nghiệp khác và ngƣời tiêu dùng.
Có nhiều căn cứ để phân loại các hành vi CTKLM. Ví dụ:
- Xét theo hình thức của hành vi, hành vi CTKLM bao gồm nhiều dạng hành
vi: chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, phân biệt đối xử của hiệp
hội, bán hàng đa cấp bất chính, v.v…
- Xét theo mục đích của hành vi, hành vi CTKLM về cơ bản gồm các hành
vi chiếm đoạt ƣu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác (ví dụ, chiếm đoạt bí mật
thƣơng mại); hoặc hành vi hủy hoại ƣu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác (ví

dụ, gièm pha đối thủ cạnh tranh); hoặc hành vi tạo ra ƣu thế cạnh tranh giả tạo (ví
dụ, quảng cáo gian dối).
- Xét theo lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, hành vi CTKLM có thể gồm nhiều
loại: CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng, CTKLM trong lĩnh vực bảo hiểm, CTKLM
trong lĩnh vực viễn thông, CTKLM trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, v.v…

8


- Xét theo đối tượng bị xâm hại, hành vi CTKLM bao gồm: hành vi xâm hại
tới lợi ích của đối thủ cạnh tranh, hành vi xâm hại tới lợi ích của ngƣời tiêu dùng,
hành vi can thiệp vào môi trƣờng cạnh tranh nói chung.
1.1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu
Việc sử dụng quyền chống CTKLM trong các vụ việc có liên quan đến lĩnh
vực sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nói riêng đã đƣợc biết đến từ lâu trên thế
giới. Công ƣớc Paris đƣợc coi là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên quy định về hành
vi CTKLM trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, trong đó có việc sử dụng nhãn hiệu.
Theo Công ƣớc Paris, các nƣớc thành viên của Liên minh có trách nhiệm bảo đảm
cho công dân của các nƣớc thành viên đó sự bảo hộ có hiệu quả chống lại hành vi
CTKLM. Công ƣớc Paris đã trải qua rất nhiều lần sửa đổi, điều chỉnh nhằm ngày
một hoàn thiện hơn. Các hành vi CTKLM liên quan đến sở hữu công nghiệp đƣợc
quy định tại Điều 10bis của Công ƣớc. Trong đó, việc thực hiện những hành vi “có
khả năng gây nhầm lẫn dƣới bất cứ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt
động sản xuất, kinh doanh của ngƣời cạnh tranh” và hành vi sử dụng những chỉ dẫn
“gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính chất, tính thích
hợp để sử dụng hoặc số lƣợng của hàng hoá” đƣợc xem là liên quan trực tiếp đến
việc sử dụng nhãn hiệu.
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, vấn đề xác định khả năng gây nhầm lẫn của
việc sử dụng nhãn hiệu đƣợc xác định và tổng kết thông qua khảo sát thị trƣờng.
Việc xác định hành vi sử dụng nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn hay không

đƣợc căn cứ vào phản ứng của ngƣời tiêu dùng trƣớc các hàng hoá, dịch vụ gắn
nhãn hiệu, chứ không phụ thuộc vào ý đồ, mục đích của chủ thể sử dụng nhãn
hiệu. Theo đó, việc xác định một hành vi sử dụng nhãn hiệu có phải là CTKLM
hay không đƣợc đánh giá thông qua ngƣời tiêu dùng trung bình (hay ngƣời tiêu
dùng phổ thông).
Theo pháp luật Việt Nam, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc
sử dụng nhãn hiệu là một dạng cụ thể của hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
hƣớng tới đối tƣợng cụ thể là nhãn hiệu, nó mang những đặc điểm sau:

9


1.1.2.1. Chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử
dụng nhãn hiệu là chủ thể kinh doanh trên thị trường
Chủ thể thực hiện hành vi CTKLM theo Luật cạnh tranh 2004 là doanh
nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trƣờng. Trên thị trƣờng,
mỗi hành vi kinh doanh của doanh nghiệp này đều nằm trong mối tƣơng quan với
các doanh nghiệp khác, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về
tính chính đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh. Hành vi CTKLM có
thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh. Khái niệm doanh nghiệp ở đây đƣợc
hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động tìm
kiếm lợi nhuận một cách thƣờng xuyên và chuyên nghiệp, hay nói cách khác là
những thƣơng nhân trên thị trƣờng. Các đối tƣợng còn lại nhƣ cơ quan quản lý nhà
nƣớc, đơn vị sự nghiệp công lập, các tổ chức phi lợi nhuận, v.v… không là đối
tƣợng áp dụng các quy định pháp luật về hành vi CTKLM, do đó cũng không trở
thành chủ thể thực hiện hành vi CTKLM. Dù đôi khi trên thực tế có thể xảy ra
trƣờng hợp một số tổ chức phi lợi nhuận hoặc đơn vị truyền thông thực hiện những
hành vi gây ảnh hƣởng xấu đến quyền cạnh tranh lành mạnh của doanh nghiệp, tuy
nhiên pháp luật cạnh tranh không đƣợc áp dụng cho những tình huống này.

1.1.2.2. Tính chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử
dụng nhãn hiệu là tính đối lập, trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh
Tính chất của hành vi không lành mạnh là trái với với các chuẩn mực thông
thƣờng về đạo đức kinh doanh. Mặc dù chƣa có một định nghĩa chính thức nào về
“đạo đức kinh doanh” song có thể hiểu đó là là những quy tắc xử sự chung giữa các
chủ thể kinh doanh đã đƣợc chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh
doanh trên thị trƣờng.
Thực tiễn pháp lý hiện nay xác định “các chuẩn mực thông thƣờng về đạo
đức kinh doanh” dựa trên hai căn cứ:
- Các quy định của pháp luật: Pháp luật quy định một số dạng hành vi nhất

10


định là hành vi CTKLM, ví dụ nhƣ: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh
doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp khác; v.v… Theo đó,
hành vi CTKLM có thể là hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm các quy
định của pháp luật, bao gồm không chỉ các quy định của pháp luật cạnh tranh mà
còn của các văn bản pháp luật khác nhƣ pháp luật thƣơng mại, pháp luật về giá,
pháp luật về sở hữu trí tuệ, v.v…
- Các tập quán kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng rãi: Căn
cứ này là biện pháp dự phòng để áp dụng cho những trƣờng hợp mà pháp luật chƣa
quy định về một hành vi cụ thể là hành vi CTKLM, nhƣng hành vi này khi đƣợc
thực hiện sẽ có tác động tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
kinh doanh khác và trái với tập quán kinh doanh. Căn cứ này đã mở rộng khả năng
điều chỉnh và khắc phục đƣợc tình trạng thiếu bao quát của pháp luật cạnh tranh.
1.1.2.3. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử dụng nhãn hiệu gây
thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho nhiều đối tượng khác nhau trên thị trường
Hành vi CTKLM gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho nhiều

đối tƣợng khác nhau trên thị trƣờng, bao gồm doanh nghiệp khác, ngƣời tiêu
dùng và cả Nhà nƣớc.
Trƣớc đây pháp luật cạnh tranh ở một số quốc gia chỉ chống lại các biểu hiện
không lành mạnh xâm phạm lợi ích của đối thủ cạnh tranh theo quan niệm cạnh
tranh phải là sự đối đầu giữa các đối thủ kinh doanh trên thị trƣờng. Theo đó, những
hành vi xâm hại lợi ích của những chủ thể khác không phải là đối thủ cạnh tranh sẽ
không nằm trong khái niệm CTKLM. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trƣờng, những hành vi CTKLM có tác động tiêu cực trực tiếp đến ngƣời tiêu dùng,
nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại của các đối thủ cạnh tranh để xác định một hành vi cạnh
tranh là không lành mạnh thì sẽ không đầy đủ. Để kết luận về tính vi phạm cần phải
tính đến cả thiệt hại của ngƣời tiêu dùng.
Thực tế đã chỉ ra rằng hành vi CTKLM còn xâm hại đến trật tự quản lý cạnh
tranh của Nhà nƣớc. Tuy nhiên đối tƣợng Nhà nƣớc không mang tính tiêu biểu.
Thông thƣờng, vấn đề bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc trƣớc hành vi CTKLM chỉ đƣợc

11


đặt ra tại những nền kinh tế mà ở đó Nhà nƣớc tham gia sâu vào hoạt động kinh
doanh, thậm chí cạnh tranh trực tiếp với các thành phần kinh tế khác trên thị trƣờng.
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam xác định các đối tƣợng chịu tác động của
hành vi CTKLM là doanh nghiệp khác, ngƣời tiêu dùng và Nhà nƣớc.
1.1.3. Phân biệt hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử dụng
nhãn hiệu với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu
Trƣớc một hành vi trái pháp luật xâm hại đến nhãn hiệu, xuất hiện một vấn
đề cần phải đƣợc giải đáp xét cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật. Đó chính là việc tồn tại song song hai phƣơng thức xử lý dựa trên cơ sở pháp
luật cạnh tranh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và pháp luật về sở hữu trí tuệ đối với
các hành vi xâm phạm quyền [31]. Thực tế cho thấy việc xác định một hành vi là
CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu hay là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu

không phải là dễ dàng, nhƣng đây là điều hết sức quan trọng, nhằm tránh dẫn đến
trƣờng hợp một hành vi vi phạm có thể bị xử lý hai lần bởi các quy định pháp luật
về CTKLM và về xâm phạm nhãn hiệu, hoặc tránh việc không xác định chính xác
bản chất hành vi, dẫn đến việc không kết luận và xử lý đƣợc hành vi vi phạm.
Nhƣ đã phân tích ở phần trên, bản chất của hành vi CTKLM là hành vi trái
với các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác, cho ngƣời tiêu dùng và cả Nhà nƣớc. Theo
pháp luật hiện hành, hành vi CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu chịu sự điều
chỉnh của cả pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ.
Trong khi đó, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là một dạng hành vi
xâm phạm quyền sở hữu. Quyền sở hữu đối với một tài sản dù là tài sản hữu hình
hay vô hình đều đem lại cho chủ sở hữu những quyền năng nhất định. Khi một chủ
thể đƣợc cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tức là quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối
với nhãn hiệu thuộc sở hữu của mình đƣợc bảo vệ bởi pháp luật trƣớc những hành
vi mà pháp luật quy định là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu và CTKLM trong
việc sử dụng nhãn hiệu đều là các hành vi gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt

12


hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu, tuy vậy sự khác nhau giữa hai loại hành vi này xuất
phát từ chính bản chất pháp lý của mỗi loại hành vi, cho dù về bề ngoài thì hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và CTKLM có thể có rất nhiều điểm giống nhau. Đó
chính là sự khác nhau về căn cứ áp dụng, yếu tố chủ thể và yếu tố lỗi [15].
- Thứ nhất, căn cứ áp dụng: Việc xác định một hành vi là xâm phạm quyền
đối với nhãn hiệu chỉ đặt ra khi quyền đối với một nhãn hiệu đang đƣợc bảo hộ bị
xâm phạm. Một nhãn hiệu không đƣợc đăng ký bảo hộ thì không thể căn cứ vào
pháp luật sở hữu trí tuệ để bảo vệ khi bị xâm phạm. Tuy nhiên, trƣờng hợp này lại
hoàn toàn có thể áp dụng pháp luật cạnh tranh để điều chỉnh, theo đó hành vi sử

dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn, làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá,
dịch vụ nhằm mục đích CTKLM là một dạng của hành vi CTKLM, không phụ
thuộc vào việc dấu hiệu chỉ dẫn đó đã đƣợc đăng ký bảo hộ hay chƣa.
Thông thư ờng, một vu ̣ việc CTKLM , cụ thể là sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại
gây nhầm lẫn , sẽ phát triể n thành một vu ̣ việc về xâm pha ̣m nhãn hiệu , nế u như các
yế u tố chỉ dẫn thư ơ ng ma ̣i bi ̣gây nhầm lẫn đư ơ ̣c đăng ký bảo hộ dư ới da ̣ng nhãn
hiệu. Trong trư ờng hơ ̣p các yế u tố này không đư ơ ̣c

đăng ký nhãn hiệu , chủ thể

quyề n mới yêu cầ u xƣ̉ lý hành vi CTKLM .

- Thứ hai, yếu tố chủ thể: Hành vi CTKLM chỉ đƣợc đặt ra khi mà trên thực tế
các chủ thể ở trong vị thế cạnh tranh với nhau, hay nói cách khác là chủ thể thực hiện
hành vi cạnh tranh đối với đối thủ cạnh tranh trên thị trƣờng liên quan. Trong khi đó,
có thể kết luận hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu với
bất kỳ chủ thể nào vi phạm quyền của chủ sở hữu đã đƣợc pháp luật quy định.
- Thứ ba, yếu tố lỗi của chủ thể thực hiện hành vi: Hành vi CTKLM là hành
vi có lỗi cố ý theo pháp luật hiện hành. Điều 40 của Luật cạnh tranh 2004 chỉ rõ
hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn phải “nhằm mục đích cạnh tranh”, do đó không thể
nói tới CTKLM khi mà chủ thể thực hiện hành vi không nhằm mục đích CTKLM.
Đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, việc xác định chủ thể thực hiện
hành vi có lỗi hay không không phải là bắt buộc, bởi khi nhãn hiệu đƣợc đăng ký
bảo hộ và công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp, các chủ thể khác đƣợc suy

13


đoán là đã biết tới quyền của chủ hữu, do đó việc thực hiện hành vi xâm phạm tới
quyền đƣợc pháp luật bảo vệ của chủ sở hữu nhãn hiệu mà không đƣợc chủ sở hữu
cho phép sẽ cấu thành hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.

1.2. Pháp luật điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử
dụng nhãn hiệu ở Việt Nam
1.2.1. Xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc sử dụng
nhãn hiệu ở Việt Nam
1.2.1.1. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn
“Chỉ dẫn gây nhầm lẫn” là một trong 10 hành vi CTKLM đƣợc quy định tại
Điều 39 Luật cạnh tranh 2004. Luật sở hữu trí tuệ 2013 cũng quy định hành vi sử
dụng “chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn” là một trong các hành vi CTKLM, cụ thể
theo Khoản 1 Điều 130 về hành vi CTKLM thì các hành vi sử dụng chỉ dẫn thƣơng
mại gây nhầm lẫn sau đây bị coi là hành vi CTKLM:
- Thứ nhất, sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh,
hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thƣơng mại của hàng hoá, dịch vụ;
- Thứ hai, sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản
xuất, tính năng, chất lƣợng, số lƣợng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ;
về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ [23, Điều 130].
Một hành vi sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại đã “gây nhầm lẫn” có thể đƣợc xác
định dƣới nhiều góc độ: Nhầm lẫn rằng hai sản phẩm do cùng từ một nhà sản xuất,
cung cấp; hoặc nhầm lẫn rằng hai sản phẩm đến từ hai nhà sản xuất, cung cấp có
quan hệ, liên kết với nhau; hoặc nhầm lẫn rằng hai sản phẩm có công dụng, tính
năng, chất lƣợng nhƣ nhau.
Theo Luật sở hữu trí tuệ 2013, nhãn hiệu đƣợc xác định là một trong các chỉ
dẫn thƣơng mại, việc một chủ thể sử dụng nhãn hiệu gây nhầm lẫn về chủ thể kinh
doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thƣơng mại của hàng hoá, dịch vụ hoặc
gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lƣợng, số lƣợng hoặc các
đặc điểm khác của hàng hoá, hoặc về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ sẽ đƣợc
coi là thực hiện hành vi CTKLM trong việc sử dụng nhãn hiệu.

14



Do Luật cạnh tranh 2004 và Luật sở hữu trí tuệ 2013 cùng quy định về các
hành vi CTKLM trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, nên về bản chất hành vi “chỉ
dẫn gây nhầm lẫn” theo Luật cạnh tranh 2004 và “sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây
nhầm lẫn” đều cùng chỉ một dạng hành vi CTKLM. Tuy nhiên, hành vi “chỉ dẫn
gây nhầm lẫn” và “sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn” đƣợc quy định tại hai
văn bản pháp lý khác nhau, nên các hành vi này bị chi phối bởi các quy định chung
mang tính đặc thù của các đạo luật đó, cụ thể nhƣ sau:
- Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi: Hành vi “chỉ dẫn gây nhầm lẫn”
theo Luật cạnh tranh 2004 có chủ thể thực hiện hành vi là “doanh nghiệp”. Khái
niệm “doanh nghiệp” theo Luật cạnh tranh 2004 bao gồm không chỉ các loại hình
doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp mà còn có cả tổ chức, cá nhân kinh doanh (cá
nhân có đăng ký kinh doanh hoặc cá nhân không có đăng ký kinh doanh), hiệp hội
ngành nghề [21, Điều 2]. Trong khi đó, chủ thể thực hiện hành vi “sử dụng chỉ dẫn
thƣơng mại gây nhầm lẫn” theo Luật sở hữu trí tuệ 2013 có thể là tổ chức, cá nhân Việt
Nam; tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài đáp ứng các điều kiện quy định tại Luật này và điều
ƣớc quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên [23, Điều 2]. Nhƣ
vậy có thể thấy, phạm vi chủ thể thực hiện hành vi CTKLM liên quan đến các chỉ
dẫn thƣơng mại theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ 2013 rộng hơn so với Luật
cạnh tranh 2004.
- Thứ hai, về đối tượng được xác định thuộc phạm trù “chỉ dẫn”: Luật cạnh
tranh 2004 không đƣa ra các dấu hiệu để nhận dạng các đối tƣợng bị xâm phạm này,
do đó, phải sử dụng phối hợp các quy phạm định nghĩa trong các văn bản pháp luật
hiện hành khác có liên quan để từ đó có cách hiểu thống nhất trong quá trình áp
dụng. Trong khi đó Luật sở hữu trí tuệ 2013 xác định rõ ràng các chỉ dẫn thƣơng
mại tại Khoản 2 Điều 130, bao gồm: các dấu hiệu, thông tin nhằm hƣớng dẫn
thƣơng mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thƣơng mại, biểu tƣợng kinh
doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn
hàng hoá. Nhƣ vậy, với việc xác định nhãn hiệu là một trong các loại chỉ dẫn
thƣơng mại, việc sử dụng nhãn hiệu gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động


15


kinh doanh, nguồn gốc thƣơng mại của hàng hoá, dịch vụ hoặc về xuất xứ, cách sản
xuất, tính năng, chất lƣợng, số lƣợng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ, về
điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ sẽ bị coi là thực hiện hành vi CTKLM trong
việc sử dụng nhãn hiệu theo Luật sở hữu trí tuệ 2013.
- Thứ ba, về mục đích của hành vi: Luật cạnh tranh 2004 quy định mục
đích của hành vi phải là “nhằm mục đích cạnh tranh”. Tức là, việc thực hiện hành
vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn phải là nhằm gây nên sự nhầm lẫn của khách
hàng giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với hàng hoá,
dịch vụ của doanh nghiệp mình. Nhƣ vậy, hàng hoá, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn
gây nhầm lẫn phải cùng trong một thị trƣờng với hàng hoá, dịch vụ của đối thủ
cạnh tranh hoặc cùng trên thị trƣờng liên quan. Mặc dù theo Luật sở hữu trí tuệ
2013, mục đích của hành vi không đƣợc quy định, tuy nhiên để xác định một hành
vi là CTKLM thì việc xác định và chứng minh mục đích cạnh tranh của chủ thể
thực hiện hành vi là điều tất yếu.
Do có sự khác biệt trong cách quy định về chủ thể thực hiện hành vi, đối
tƣợng hay mục đích của hành vi, trên thực tế sẽ dẫn đến một số trƣờng hợp hành vi
cạnh tranh thoả mãn các dấu hiệu của hành vi “chỉ dẫn gây nhầm lẫn” nhƣng lại
đƣợc thực hiện bởi chủ thể không thuộc đối tƣợng áp dụng của Luật cạnh tranh
2004, do đó, sẽ không đƣợc hiểu là hành vi “chỉ dẫn gây nhầm lẫn” theo quy định
tại Điều 130 Luật cạnh tranh 2004. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc, hành vi đó sẽ
không đƣợc xử lý theo quy định của Luật cạnh tranh 2004 mà phải áp dụng Luật sở
hữu trí tuệ 2013.
1.2.1.2. Hành vi của người đại diện hay đại lý sử dụng nhãn hiệu được bảo
hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện
hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Việt Nam cũng là
thành viên
Việt Nam đã tham gia nhiều Điều ƣớc quốc tế quan trọng trong lĩnh vực sở

hữu trí tuệ mà trong số đó, Công ƣớc Paris là văn kiện pháp lý quốc tế mang tính
nền tảng cho sự ra đời của các điều ƣớc quốc tế điều chỉnh từng đối tƣợng sở hữu

16


công nghiệp riêng biệt và là cơ sở cho các thoả thuận song phƣơng, đa phƣơng khác
về sở hữu trí tuệ. Để nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và
nhãn hiệu nói riêng, Công ƣớc Paris có những quy định điều chỉnh vấn đề bảo hộ
một cách cơ bản nhất. Trong đó, liên quan đến quyền đăng ký và sử dụng nhãn hiệu
của ngƣời đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu, Điều 6 septies Công ƣớc
Paris quy định nhƣ sau:
(1) Nếu đại lý hoặc ngƣời đại diện của ngƣời là chủ nhãn hiệu tại
một trong số các nƣớc thành viên của Liên minh vẫn nộp đơn đăng ký
nhãn hiệu cho chính mình tại một hoặc nhiều nƣớc thành viên của Liên
minh, mà không đƣợc sự cho phép của ngƣời chủ đó thì chủ nhãn hiệu có
quyền phản đối việc đăng ký hoặc đề nghị huỷ bỏ việc đăng ký đó, hoặc,
nếu luật quốc gia cho phép, chuyển việc đăng ký đó cho mình, trừ trƣờng
hợp đại lý hoặc ngƣời đại diện biện hộ đƣợc cho hành động của mình.
(2) Ngƣời chủ nhãn hiệu, theo các quy định tại khoản (1) nêu trên,
có quyền phản đối việc đại lý hoặc ngƣời đại diện sử dụng nhãn hiệu của
mình nếu không cho phép việc sử dụng đó [8].
Với nguyên tắc tôn trọng sự độc lập của pháp luật quốc gia trong lĩnh vực
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Công ƣớc Paris cho phép các quốc gia thành viên trên
cơ sở các quy định của Công ƣớc mà tiến hành nội luật hoá sao cho phù hợp với
điều kiện, tình hình thực tế ở mỗi quốc gia.
Luật sở hữu trí tuệ 2013 đã tiếp thu Điều 6 septies của Công ƣớc Paris, thể
hiện thông qua Khoản 7 Điều 87 về vấn đề đăng ký nhãn hiệu và Điểm c Khoản 1
Điều 130 về vấn đề sử dụng nhãn hiệu. Về vấn đề sử dụng nhãn hiệu, Điểm c Khoản
1 Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ 2013 quy định việc sử dụng nhãn hiệu đƣợc bảo hộ

tại một nƣớc là thành viên của điều ƣớc quốc tế có quy định cấm ngƣời đại diện
hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu ngƣời sử dụng là ngƣời đại diện hoặc đại lý
của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không đƣợc sự đồng ý của chủ sở hữu
nhãn hiệu và không có lý do chính đáng, là một trong các hành vi CTKLM.

17


Nhƣ vậy, mặc dù Công ƣớc Paris không chỉ rõ đây là hành vi CTKLM, thì
pháp Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đã nhìn nhận hành vi này dƣới góc độ cứng
rắn hơn khi việc sử dụng này đƣợc xem là một hành vi CTKLM.
Để xác định một chủ thể sử dụng nhãn hiệu có bị coi là đã thực hiện hành vi
CTKLM thuộc trƣờng hợp quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 130 Luật sở hữu trí
tuệ 2013 hay không, cần xem xét các yếu tố sau:
- Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi: Là “ngƣời đại diện” hoặc “đại
lý” của chủ sở hữu nhãn hiệu. Ngƣời đại diện là ngƣời nhân danh và vì lợi ích
của chủ sở hữu nhãn hiệu xác lập và thực hiện các giao dịch trong phạm vi đƣợc
đại diện. Quan hệ đại diện đƣợc xác lập theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền.
Trong khi ngƣời đại diện theo pháp luật đƣợc xác định trên cơ sở các quy định
tại các Điều 136 và Điều 137 Bộ luật dân sự 2015 thì đại diện theo ủy quyền thì
đƣợc xác định trên cơ sở văn bản ủy quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu trong đó đã
giới hạn phạm vi đƣợc ủy quyền.
“Đại lý” theo quy định tại Luật thƣơng mại là từ chỉ một hoạt động thƣơng
mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh
chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên
giao đại lý cho khách hàng để hƣởng thù lao [24, Điều 166]. Trong trƣờng hợp đang
xét tại Điểm c Khoản 1 Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ 2013, “đại lý” đƣợc hiểu là bên
đại lý, còn chủ sở hữu nhãn hiệu là bên giao đại lý. Đại lý là chủ thể đƣợc chủ sở
hữu nhãn hiệu giao hàng hoá để bán, hoặc giao tiền để mua hàng hoá, hoặc uỷ

quyền thực hiện dịch vụ.
Quy định này xuất phát từ cơ sở thực tế sau: - Thứ nhất, ngƣời đại diện hoặc
đại lý có mối liên hệ thƣơng mại đối với chủ sở hữu nhãn hiệu, do đó họ đã có sự
hiểu biết ở mức độ nhất định về ý nghĩa, giá trị, tầm ảnh hƣởng của nhãn hiệu trên
thị trƣờng cũng nhƣ về sản phẩm mang nhãn hiệu. - Thứ hai, do đặc thù của công
việc đại diện hay đại lý là nhân danh hoặc đƣợc uỷ quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu
thực hiện các hành vi thƣơng mại trên thị trƣờng, nên ở một góc độ nào đó ngƣời

18


×