Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Một số vấn đề cơ bản của lý luận văn học việt nam thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.63 KB, 93 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ 1986 đến nay, lý luận văn học ở Việt Nam đạt nhiều thành tựu đáng
kể, góp phần thúc đẩy, định hướng cho sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học. Lý
luận đổi mới khẳng định nhiều vấn đề quan trọng có giá trị đặt nền tảng cho việc
hình thành, hướng tới phát triển một nền lý luận mang tính dân tộc và tính hiện đại.
1.2. Vận động cùng sự đổi mới của nền văn học nước nhà, nhiều vấn đề lý
luận quen thuộc dần dần được xem xét, nhận thức lại với một phương pháp khoa
học, một thái độ khách quan hơn. Chúng thốt dần những thiên kiến chính trị,
những quan niệm giai cấp, dân tộc hẹp hòi để đưa ra những tiêu chí mới, giá trị mới.
Q trình đổi mới tư duy xung quanh những vấn đề lý luận trên diễn ra như thế
nào? Tác động của chúng đối với thực tiễn văn học và cuộc sống xã hội ra sao?
Đồng thời, thành tựu nổi bật của lý luận văn học thời kỳ đổi mới là đã mở rộng giao
lưu, tiếp thu, sáng tạo và ứng dụng vào thực tiễn những lý thuyết của văn học nước
ngoài (đặc biệt là lý luận văn học phương Tây hiện đại) vào Việt Nam. Điều này đã
làm diện mạo lý luận, phê bình văn học nước nhà những năm qua khởi sắc thế nào?
Đó là những vấn đề hiện nay cịn nhiều chỗ cần được làm sáng tỏ hơn.
1.3. Sau bao thăng trầm bởi nhiều biến đổi của lịch sử, lý luận văn học Việt Nam
đương đại đang đứng trước những yêu cầu ngày một gay gắt của quá trình hội nhập sâu
với văn học thế giới. Hàng loạt câu hỏi về các vấn đề lý luận tiếp tục được đặt ra, đòi
hỏi tìm lời giải đáp. Trong bối cảnh như thế, nghiên cứu về một giai đoạn giao thời sẽ
giúp chúng ta có một cái nhìn đối sánh để tìm ra quy luật vận động của lý luận văn học
dân tộc trong tiến trình hiện đại hóa và hội nhập tồn cầu, góp phần trả lời những câu
hỏi của hiện tại, từng bước đổi mới, phát triển nền lý luận văn học nước nhà.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về lý luận văn học ở Việt Nam từ 1986 đến nay
Sau mỗi chặng đường phát triển (5 năm, 15 năm, 20 năm) lý luận văn học
thời kỳ đổi mới luôn là đối tượng quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trong
khoảng từ 1994 đến nay, có trên hai chục cơng trình liên quan ở dạng tổng thuật, bài
báo, khảo cứu, cơng trình nghiên cứu, ý kiến trao đổi. Có thể chia thành hai loại tư
liệu sau:



1


Một là những nghiên cứu mang tính chất đánh giá khái quát sau mỗi chặng
đường phát triển của lý luận của các tác giả: Trần Đình Sử; Phương Lựu, Phong Lê,
Nguyễn Văn Long, Trịnh Bá Đĩnh,…
Hai là những nghiên cứu về các vấn đề cụ thể của lý luận đổi mới mà sau
mỗi chặng đường phát triển cần phải xem xét, nghiên cứu để đưa ra những kết luận
đánh giá khoa học. Cho đến thời điểm hiện nay việc nghiên cứu, nhận xét đánh giá
các vấn đề như: Mối quan hệ giữa văn học và chính trị, văn học và hiện thực, chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, tính dân tộc và tính hiện đại trong văn học nghệ
thuật, tiếp thu lý luận văn học nước ngoài,… chủ yếu chỉ xuất hiện lẻ tẻ, rải rác đan cài
ít nhiều trong các bài viết, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả: Phương Lựu,
Phong Lê, Hoàng Trinh, Phạm Vĩnh Cư, Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Hạnh,
Lưu Văn Bổng, Phan Trọng Thưởng, Trương Đăng Dung, Nguyễn Đăng Điệp,
Đỗ Lai Thúy, Trần Ngọc Vương, Lã Nguyên, Vương Trí Nhàn, Trịnh Bá Đĩnh,
Lộc Phương Thủy, Nguyễn Nghĩa Trọng, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Duy Bắc,
Nguyễn Văn Dân; Nguyễn Văn Long; Lê Thành Nghị…
Bước sang giai đoạn đầu của thế kỷ XXI này, các vấn đề của lý luận văn học
thời kỳ đổi mới còn được quan tâm trong các tham luận có giá trị học thuật tại các
hội thảo do Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương tổ chức:
Hội thảo Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật tại Tam Đảo (tháng 8/2003); Hội thảo
Phát huy thành tựu đổi mới, sáng tạo nhiều tác phẩm chất lượng cao tại Đồ Sơn
(tháng 10/2006); Hội thảo Tính dân tộc và tính hiện đại trong văn học nghệ thuật tại
Hội An (tháng 8/2009); Hội thảo Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước
hôm nay tại Đà Lạt (tháng 7/2010).
Dù chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên sâu,
nhưng lịch sử nghiên cứu về lý luận văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986 đến
nay đã đạt được những kết quả rất đáng trân trọng và có một số điểm đáng lưu ý:

Thứ nhất, thành tựu được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm là lý luận văn học
đổi mới đã nêu cao tinh thần phê phán những vấn đề lý luận khơng cịn phù hợp với
thời đại mới, thậm chí là sai lầm của giai đoạn trước và tiếp thu bổ sung thêm vào
hệ thống khái niệm những giá trị lý luận vốn có từ di sản lý luận văn học dân tộc và
tinh hoa lý luận văn học nước ngoài, đặc biệt là lý luận hiện đại phương Tây.
Thứ hai, nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất quan điểm đánh giá:
Đổi mới khơng cịn là phương diện của lịch sử mà đã trở thành mục tiêu của văn

2


học nói chung và lý luận văn học nói riêng, là nhân tố quan trọng cấu tạo lại hệ giá
trị của hệ thống lý thuyết văn học ở Việt Nam. Mặc dù q trình đổi mới có những
bước thăng trầm, cịn tình trạng phân tán, mâu thuẫn, bất cập, chưa đáp ứng được
đòi hỏi ngày càng cao của xã hội nhưng lý luận văn học thời kỳ này thực sự đạt
được những thành tựu khơng nhỏ, có những bước tiến đáng kể so với giai đoạn
trước và góp phần làm chuyển biến ý thức nghệ thuật, hình thành những quan niệm
văn học mới, thúc đẩy sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học đương đại.
2.2. Những nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài
2.2.1. Những cơng trình mang tính chất tổng thuật thơng tin và sưu tầm tư liệu
Cơng trình Về một số vấn đề lý luận văn nghệ cơ bản đang được tranh luận
qua công cuộc đổi mới (1987 - 1992) do Lê Bá Hán chủ biên và Đời sống văn nghệ
thời đầu đổi mới do Lại Ngun Ân và Nguyễn Thị Bình sưu tập có giá trị về mặt tư
liệu thơng tin, giúp người đọc có thể hình dung ít nhiều diện mạo đời sống văn nghệ và
lý luận văn học ở Việt Nam thời đầu đổi mới, từ giữa những năm 1980 đến giữa những
năm 1990.
2.2.2. Những nghiên cứu về các vấn đề của lý luận văn học từ 1986 đến nay
Nhiều vấn đề cụ thể của lý luận đổi mới được đề cập đến trong các nghiên
cứu như: Lý luận, phê bình văn học Việt Nam 1986 - 2000 (2005) và Hai mươi
năm lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học - Thành tựu và suy ngẫm (2006) của

Trần Đình Sử; Mấy mươi năm tiến bước của lý luận văn học Việt Nam (2006) của
Phương Lựu, Lý luận văn học trước yêu cầu đổi mới và phát triển (2004) của
Phan Trọng Thưởng; Lý luận văn học - con đường nào cho sự phát triển (2005) của
Nguyễn Đăng Điệp; Một số vấn đề lý luận văn học - nghệ thuật nhìn từ sự nghiệp
đổi mới (2006) của Phong Lê; Lý luận, phê bình từ “phản tư” đến hội nhập (2010)
của Trịnh Bá Đĩnh…
Qua các công trình nghiên cứu chúng tơi nhận thấy có một số điểm thống
nhất sau:
- Đánh giá cao những điều kiện thuận lợi của lịch sử mở ra một khơng gian
thơng thống cho sáng tạo nghệ thuật, điểm lại những nét lớn về sự vận động tư duy
xung quanh các vấn đề văn học và chính trị, văn học và phản ánh hiện thực, chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa,… các nhà nghiên cứu cho rằng các vấn đề trên đã
có thay đổi về phương diện nhận thức (các cuộc thảo luận đã chỉ ra được phần nào

3


giới hạn của lý luận phản ánh được vận dụng một cách dung tục trong thực tế,
những tranh luận về vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đều nhận thấy
những điểm bất cập, thậm chí sai lầm ở mức độ khác nhau trong lý thuyết về
phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa trước đây, đòi hỏi có sự cải tiến, đổi mới,
hồn thiện, thay đổi).
- Khẳng định vai trò quan trọng của việc tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận
văn học nước ngoài ở Việt Nam, từ đó các nhà nghiên cứu ghi nhận sự đổi mới của
hệ thống khái niệm lý luận, nghiên cứu phê bình văn học dưới ánh sáng của lý luận
đổi mới.
Có thể thấy nhiều vấn đề lý luận trong từng quãng thời gian đã được đề cập
đến ở những mức độ khác nhau.Chúng tôi coi những kiến giải trên là cơ sở quan
trọng để có thể tiếp nối, đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc, tồn diện, hệ thống hơn
về Lý luận văn học Việt Nam từ 1986 đến nay (một số vấn đề cơ bản).

3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những nguyên nhân trực tiếp tác động đến đổi mới lý luận văn
học Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay, khái quát những nét lớn về diện mạo của lý
luận văn học giai đoạn này dưới sự tác động của những quy luật phát triển văn học.
- Chỉ rõ quá trình vận động tư duy của một số vấn đề lý luận văn học cơ bản
được quan tâm tranh luận, bàn bạc nhiều trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
- Nêu bật thành tựu đáng được ghi nhận nhất của lý luận văn học đổi mới:
tiếp thu sáng tạo lý luận văn học hiện đại phương Tây để phát triển, hiện đại hóa lý
luận văn học Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài là mảng lý luận văn học Việt Nam
(từ 1986 đến nay) đặt trong bối cảnh đổi mới của văn học dân tộc nói chung. Mảng lý
luận này bao gồm những cơng trình nghiên cứu về lý luận văn học, các chuyên luận
(có giá trị học thuật) của các tác giả Việt Nam được công bố trong thời kỳ đổi mới.
Đồng thời, để đánh giá thành tựu tiếp thu lý luận văn học hiện đại thế giới nhằm phát
triển lý luận văn học dân tộc, chúng tôi cũng cố gắng hướng đến bao qt những cơng
trình dịch và giới thiệu lý luận văn học nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
đặc biệt là những khuynh hướng ảnh hưởng rõ rệt tới lý luận văn học Việt Nam giai

4


đoạn này như: thi pháp học, phân tâm học, văn hóa học, tự sự học, ký hiệu học, cấu
trúc luận…
4.2. Từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu nói trên, nhiệm vụ chính của cơng
trình là:
- Khảo sát cụ thể diễn biến đổi mới của tư duy lý luận qua hai hoạt động
chính: nghiên cứu xây dựng hệ thống lý thuyết và ứng dụng trong thực tiễn.
- Phân tích, so sánh chỉ rõ sự khác biệt của những vấn đề lý luận văn học cơ
bản trước và sau thời kỳ đổi mới.

- Chỉ rõ những tác động của lý luận văn học hiện đại nước ngoài đối với lý
luận, nghiên cứu phê bình văn học và trên cơ sở đó bước đầu khái quát bài học kinh
nghiệm và quy luật phát triển của lý luận văn học Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để có thể tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách thấu đáo, tồn diện chúng
tơi sử dụng hai phương pháp chính là: Phương pháp thực chứng-lịch sử; Phương
pháp hệ thống. Trong phạm vi nhất định, khi xem xét các vấn đề lý luận văn học từ
góc nhìn văn hóa học chúng tơi cũng chú ý đến phương pháp tổng hợp liên ngành
để hướng đến cái nhìn hệ thống, biện chứng hơn về đối tượng nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của đề tài
6.1. Về lý luận
- Hệ thống và kiến giải những nguyên nhân cơ bản tác động đến sự đổi mới
lý luận văn học Việt Nam (từ 1986 đến nay). Từ đó cố gắng có cái nhìn khái quát đối
với diện mạo của lý luận, khẳng định quá trình đổi mới của lý luận văn học Việt Nam
giai đoạn này mang tính tất yếu khách quan của lịch sử, văn hóa, xã hội và sự vận
động nội tại của tiến trình văn học Việt Nam.
- Chỉ ra sự vận động đổi mới tư duy xung quanh một số vấn đề lý luận văn
học cơ bản được tranh luận nhiều trong thời kỳ đổi mới, chúng tôi hy vọng đóng
góp tiếng nói thẩm định về các vấn đề lý luận văn học còn tồn tại nhiều ý kiến khác
nhau mà chưa có ý kiến cuối cùng.
- Nghiên cứu việc kế thừa di sản lý luận văn học dân tộc, tiếp thu lý luận văn
học nước ngoài, đề tài làm sáng tỏ hơn một đặc thù quan trọng của tiến trình hiện
đại hóa lý luận văn học Việt Nam: Bên cạnh tinh thần phát huy chỗ mạnh vốn có

5


của lý luận mác xít, lý luận truyền thống phương Đông, để nâng cao chất lượng học
thuật, lý luận nước ta cần thiết phải tiếp thu có chọn lọc thành tựu của lý luận hiện
đại phương Tây. Trên cơ sở đó mới có thể xây dựng một nền lý luận có hiệu lực

thực tiễn, tham gia các cuộc đối thoại văn học của mọi thời đại và hội nhập với văn
học nhân loại.
6.2. Về thực tiễn
Cơng trình này góp phần cung cấp một tài liệu tham khảo có giá trị cho
những ai quan tâm nghiên cứu, giảng dạy văn học và lý luận văn học thời kỳ đổi
mới (từ 1986 đến nay).
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo nội dung
đề tài gồm ba chương: Chương 1: Đổi mới lý luận văn học Việt Nam sau 1986:
nguyên nhân, diện mạo; Chương 2: Vận động tư duy xung quanh một số vấn đề lý
luận văn học cơ bản; Chương 3: Tiếp thu lý luận văn học hiện đại thế giới (từ
1986 đến nay).

6


Chương 1

ĐỔI MỚI LÝ LUẬN VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1986:
NGUYÊN NHÂN, DIỆN MẠO
1.1. Những nguyên nhân cơ bản tác động trực tiếp đến đổi mới lý luận
1.1.1. Tâm thế đồng thuận và khát vọng hướng về đổi mới của toàn xã hội - Sự vận
động cùng chiều với thế giới hiện đại
Từ sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, dân tộc Việt Nam bước sang một
giai đoạn phát triển mới của lịch sử. Tuy vậy trong khoảng thời gian mười năm sau
chiến tranh (1975 - 1985) người Việt Nam vẫn phải tiếp tục sống trong sự “khép
kín”, khơng giao lưu rộng với các nước trên thế giới và buộc phải chấp nhận những
gì tù túng của cơ chế quan liêu bao cấp (sinh ra bởi hoàn cảnh lịch sử đặc biệt) trên
mọi phương diện xã hội: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, văn học nghệ thuật…
Từ cuối những năm 80 trở đi đến nay, tình hình xã hội đã bắt đầu biến đổi.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (năm 1986) như một cái mốc quan
trọng xoay chuyển tình thế của đất nước: từ hệ thống nhà nước bao cấp, quan liêu
chuyển sang thực hành dân chủ hóa xã hội, phát huy nhân tố sáng tạo của mỗi cá
nhân, quyền cá nhân của con người được tơn trọng. Từ thế “khép kín” chuyển sang
“mở cửa”, giao lưu với tất cả các dân tộc trên thế giới, kể cả những quốc gia đã từng
là kẻ thù dân tộc “không đội trời chung” một thời. Mở rộng giao lưu quốc tế là cơ
hội để mở rộng tầm nhìn của người Việt. Và đặc biệt ở thế kỷ XX, thế giới đã trải
qua nhiều biến động thăng trầm, nhưng những bước tiến của nhân loại trong mọi
lĩnh vực của đời sống đã được khẳng định. Nhân loại đã và đang tiến vào thế kỷ
XXI, mà như dự đoán của các nhà nghiên cứu xã hội, đây là thế kỷ nhân văn. Trong
xu thế vận động của toàn cầu, Việt Nam trở thành một mắt xích khơng thể thiếu.
Sự thức tỉnh trước thực trạng nghèo nàn, lạc hậu, dân trí phong bế của người
Việt Nam sau thời gian chiến tranh kéo dài đã mang lại cho đời sống dân tộc một
luồng sinh khí mới. Đội ngũ trí thức, giới văn nghệ sĩ là lực lượng tiên phong trong
công cuộc đổi mới bởi họ là những người nhanh nhạy trong việc nắm bắt tinh thần
mới của thời đại. Tiếng nói của họ chính là tiếng nói đại diện cho khát vọng hướng
về văn minh, tiến bộ, phá thế khép kín để được cùng nhân loại tiến bước tới tương
lai tươi sáng, dẫu biết rằng cuộc hành trình hướng về phía trước lần này là một thử
thách lịch sử quá lớn lao và mới mẻ, nhiều gian khó, thử thách.
Như vậy, nhìn từ một bối cảnh rộng lớn có thể thấy cơng cuộc đổi mới văn
học nói chung và lý luận văn học nói riêng ở nước ta là một cuộc cách mạng “vận
động cùng chiều với thế giới” [144, tr.13]. Cuộc cách mạng này mang tính tất yếu

7


của lịch sử, và chính vì vậy nó đã phát triển bởi sức mạnh đồng thuận của toàn xã
hội trong một thời điểm lịch sử có nhiều cơ hội thuận lợi chưa từng thấy đối với dân
tộc Việt Nam.
1.1.2. Sự phát triển của sáng tác văn học

Bắt đầu từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, văn học Việt Nam chuyển từ
tư duy nghệ thuật mang khuynh hướng sử thi là chủ yếu sang tư duy nghệ thuật
mang tính thế sự - đời tư. Văn học thời kỳ này đã và đang vận động theo xu hướng
từng bước xác định thêm các giá trị mới bên cạnh các giá trị cũ. Sự vận động này
của văn học đổi mới đã đặt ra cho lý luận nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó có
một số bình diện cơ bản sau đây:
Ở bình diện ý thức nghệ thuật:
Đó là sự biến đổi quan trọng của các quan niệm về vai trị, vị trí, chức năng
của văn học, về nhà văn và quan niệm về hiện thực. Những mặt trái của xã hội xã
hội chủ nghĩa được phơi bày. Trong rất nhiều tác phẩm đặc biệt ở các thể loại tiểu
thuyết, truyện ngắn, thơ, hiện thực nghệ thuật hiện lên đa chiều, có cái như cuộc
sống vốn có, nhìn thấy trong đời thực, có cái khơng thể nhìn thấy, hoặc chưa thấy
xuất hiện trong đời thực, nó chỉ là ý niệm của nhà văn, là hiện thực “siêu hiện thực”.
Vậy phải cắt nghĩa thế nào đây nếu chỉ quan niệm rằng “văn học là tấm gương phản
ánh hiện thực” một cách thuần túy, đơn giản?
Ở bình diện nghệ thuật sáng tác:
Nở rộ các phong cách, bút pháp, cá tính sáng tạo của nhà văn được phát huy
cao độ. Chưa bao giờ văn học Việt Nam lại có sự đa dạng về các phương diện nghệ
thuật như thời kỳ này như: Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người; Đổi mới
về phương thức biểu hiện; Đổi mới về cách xây dựng nhân vật văn học; Đổi mới về
nghệ thuật kết cấu tác phẩm; Đổi mới về phương thức trần thuật; Đổi mới về ngôn
ngữ,…(1) Khi thế giới bước vào một thời kỳ hội nhập, giao lưu và trao đổi văn học,
văn hóa đa phương, đa dạng thì trong đời sống sáng tác văn học, đã xuất hiện nhiều
những hiện tượng văn học khác lạ, góp phần phá vỡ khơng khí trầm mặc, ngưng
đọng của văn học Việt Nam sau chiến tranh. Khơng khí đổi mới trong sáng tác là
một thách thức đối với lý luận, hệ thống lý luận trước đây khơng thể bao chứa, giải
thích nổi những hiện tượng văn học mới của nước nhà. Sự phát triển của thực tiễn
sáng tác, đã đánh thức tư duy lý luận, cần có cách nhìn và quan niệm mới trên nhiều
phương diện cơ bản, phải tìm cách trả lời những vấn đề cấp bách mà sáng tác đặt ra.
Hơn bao giờ hết, tính cách mạng của thực tiễn sáng tác địi hỏi lý luận cần có sự

(1). Xin xem thêm: Cao Thị Hồng (2009), “Một số nguyên nhân cơ bản tác động đến đổi mới lý luận văn học
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, (61), tr.11-17.

8


tổng kết, đúc rút, điều chỉnh và bổ sung để đổi mới nếu không muốn lạc hậu so với
thực tiễn.
1.1.3. Đổi mới đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đường lối văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam được quán triệt bởi tư
tưởng văn nghệ Marx-Lenin. Trong thời kỳ đổi mới Đảng đã nhận thức lại toàn diện
hơn, khắc phục những hạn chế lịch sử của đường lối chỉ đạo trước đây để linh hoạt
điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh của thời đại mới. Đây là cơ sở quan trọng,
quyết định hướng đi của lý luận văn học ở Việt Nam. Sự “cởi trói” (từ dùng của cố
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh) của Đảng và chính sách Nhà nước đối với văn học
nghệ thuật trong suốt thời kỳ đổi mới đã liên tục được cụ thể hóa trong các văn
kiện, nghị quyết. Xuyên suốt thời kỳ đổi mới, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị (khóa
VI), Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, và mới đây nhất là Nghị quyết số 23
(16/6/2008) của Bộ chính trị về Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật
trong thời kỳ mới là những dấu mốc đánh dấu bước ngoặt về tư duy trong chiến
lược lãnh đạo văn hoá văn nghệ của Đảng. Trước đây, tư tưởng lãnh đạo văn nghệ
của Đảng chủ yếu quán triệt tinh thần đề phòng việc các văn nghệ sĩ sáng tác chệch
hướng phục vụ cơng tác chính trị. Đến thời đổi mới, tư tưởng chỉ đạo chủ yếu là tạo
điều kiện cho văn nghệ phát triển phong phú và đa dạng, khuyến khích sự tìm tịi
thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học nghệ thuật, đưa văn học
nước nhà tiến lên bước phát triển mới. Dân chủ hóa trên mọi mặt của đời sống xã
hội được xem là một thành tựu lớn của công cuộc đổi mới do Đảng ta phát động từ
1986 đến nay. Tư duy dân chủ với tinh thần cốt lõi “nhìn thẳng vào sự thật” thực sự
trở thành động lực thúc đẩy tiến trình đổi mới hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực văn

học nghệ thuật nói chung, lý luận và phê bình nói riêng.
1.1.4. Những ảnh hưởng của phong trào đổi mới trong văn nghệ của Liên Xô và
Trung Quốc
1.1.4.1. Ảnh hưởng của phong trào “cải tổ” văn nghệ ở Liên Xô
Công cuộc đổi mới ở Liên Xô diễn ra bắt đầu vào năm 1985 đã tác động
mạnh đến giới trí thức, giới văn nghệ sĩ của Việt Nam. Tiếp nhận những vấn đề mới
mẻ trong công cuộc cải tổ của Liên Xơ, tinh thần chung của giới trí thức, văn nghệ
sĩ Việt Nam là đồng tình với tư tưởng đổi mới, tinh thần dân chủ, tự phê của giới lý
luận phê bình văn học Liên Xơ. Những vấn đề gì của lý luận văn học Liên Xô được
xem xét lại trong thời kỳ “cải tổ” được quan tâm giới thiệu và có ảnh hưởng đến tư
tưởng học thuật của các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam?

9


Thứ nhất, các nhà nghiên cứu lý luận Liên Xô đánh giá lại lý luận văn học
Xô-viết và dần đi đến thống nhất quan điểm chung là: Lý luận văn học Xơ-viết cịn
bị gị ép, chật chội. Đã đến lúc phải xem xét và phục hồi lại các vấn đề lý luận, các
khuynh hướng nghệ thuật trước đây bị đánh giá không đúng. Đây là một tinh thần
đổi mới mang tính khoa học, khách quan, nghiêm túc. Họ mong muốn đặt đúng vị
trí những gì đáng được tơn vinh và loại bỏ những gì khơng cịn phù hợp, thậm chí là
lực cản đối với sự tiến bộ của một nền văn học. Thứ hai,đó là việc các nhà nghiên
cứu nhìn nhận lại phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, ngọn cờ của
nền văn học vô sản. Các nhà nghiên cứu cho rằng khái niệm hiện thực xã hội chủ
nghĩa bị hiểu chung chung, sáo mòn, cần phải cụ thể hóa nó trong từng thời kỳ khác
nhau, chẳng hạn tính đảng cộng sản, tính lạc quan phải được nghiên cứu thêm và
hiểu theo những cách mới. Thứ ba, vấn đề “tính hiện thực của phản ánh” đã được
giới thiệu ở Việt Nam và thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà
văn. Ý kiến của các nhà lý luận Xô-viết cho rằng cái mới của văn học đương đại là
phải thể hiện được mặt trái của đời sống xã hội chủ nghĩa.

Công cuộc “cải tổ” văn học nghệ thuật nói chung và lý luận văn học nói
riêng của các nhà nghiên cứu khoa học nhân văn Xô-Viết đã giúp các nhà nghiên
cứu lý luận phê bình Việt Nam có thêm kinh nghiệm học thuật để vận dụng trong
công cuộc đổi mới văn học ở Việt Nam.
1.1.4.2. Ảnh hưởng của tinh thần “cải cách mở cửa” của văn nghệ Trung Quốc
Đại hội văn nghệ Trung Quốc lần thứ tư họp vào tháng 10 - 1979 đã mở ra
một giai đoạn mới cho văn nghệ ở quê hương của chủ nghĩa Mao và “cách mạng
văn hóa”. Nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình trong bài phát biểu Tình hình và nhiệm vụ
trước mắt tun bố: Thứ nhất, “khơng tiếp tục” sử dụng nguyên lý “văn học phụ
thuộc chính trị” nữa, vì thực tế cho thấy nó chỉ là căn cứ để can thiệp thô bạo vào
văn nghệ, “lợi ít, hại nhiều”[144, tr.23]; Thứ hai, giải phóng tư tưởng, mở cửa cải
cách, tiến theo thời đại, sáng tạo cái mới. Từ lời tun bố của ơng Đặng Tiểu Bình,
lý luận văn học Trung Quốc có thêm động lực thúc đẩy và đã đạt được những thành
tựu đáng kể trong thời kỳ đổi mới.
Vấn đề gì của học thuật lý luận Trung Quốc có ảnh hưởng tới Việt Nam?
Trước hết là tinh thần “phản tư”. Theo nhà phê bình Trương Nhẫn (1988) “phản tư”
(réflexion) “là quy luật của văn học, là địi hỏi bên trong của văn học ln ln phải
tự nhìn lại mình và lịch sử, truyền thống, ln đổi thay hệ quy chiếu của mình để
nhìn nhận hiện thực sâu sắc hơn” [144, tr.28]. Ở giai đoạn “phản tư”, lý luận văn
nghệ Trung Quốc diễn ra cuộc thanh toán chủ nghĩa tả khuynh trong văn học, nổi
lên hàng đầu là quan hệ văn học và chính trị, địi hỏi bức xúc nhất là tháo gỡ những

10


quan niệm chính trị thiển cận như vịng kim cơ thít chặt tồn bộ đời sống, trong đó
có văn nghệ.
Nhìn lại giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới ở nước ta, mơ hình “phản tư”
cũng được triển khai sơi nổi và đạt được một số thành tựu nhất định trong việc phát
triển tư duy lý luận văn học lên một cấp độ mới. Hành trình đổi mới lý luận văn học

của đất nước ta đi sau Trung Quốc, và tất nhiên chúng ta còn phải thực sự cởi mở,
cầu thị để tiếp thu, đối thoại với những thành tựu của nước bạn.
1.2. Nhận thức mới về vị trí, đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của
lý luận văn học từ tầm nhìn hiện đại
1.2.1. Lý luận văn học - một khoa học về nghệ thuật ngôn từ
Trước đổi mới, để phục vụ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cuộc chiến
tranh chống ngoại xâm ba mươi năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, quan niệm văn học là vũ khí cách mạng đã chi phối tồn bộ các đặc điểm, tính
chất của tiến trình văn học. Quan niệm này càng thể hiện rõ rệt hơn trong lĩnh vực
lý luận và phê bình văn học. Lý luận và phê bình văn học trong văn học cách mạng
Việt Nam giữ một vai trò quan trọng. Đây được coi là một lĩnh vực nhạy bén nhất,
trực tiếp nhất để tuyên truyền các quan điểm văn nghệ cách mạng, để đập tan các
luận điệu phản cách mạng, để định hướng cho sáng tác. Trong điều kiện khắc nghiệt
của chiến tranh, lý luận mácxit và phê bình xã hội học mácxit trở thành chân lý
tuyệt đối. Mọi tư tưởng “phi mácxit”, “phi vô sản”, trái với đường lối văn nghệ của
Đảng đều bị phê phán và loại trừ. Đó là sự chuyên chính tất yếu để thống nhất tư
tưởng, xây dựng nền văn nghệ yêu nước, cách mạng góp phần đắc lực cho sự
nghiệp giải phóng đất nước đi đến thành công, thống nhất Tổ quốc.
Nhưng bởi quan niệm văn học là vũ khí nên lý luận và phê bình văn học
mácxit khơng phải là một ngành khoa học mà cũng không phải là nghệ thuật. Đảng
Cộng sản coi lý luận và phê bình văn nghệ là một cơng tác của Đảng, “là một
phương thức chỉ đạo cụ thể của Đảng trong lĩnh vực văn nghệ” [160, tr.418] chính
vì thế lý luận văn học (cũng như sáng tác và phê bình) được xem là có vai trị rất
thiêng liêng, quan trọng trong việc định hướng tuyên truyền tư tưởng chính trị. Tất
nhiên, coi văn hóa văn nghệ là một cơng tác tức là đã nhấn mạnh tính chất hành
chính, tính chất quan phương, tính chất chính trị cịn vai trị khoa học, tính học thuật
của lý luận văn học khơng được chú ý đúng mức. Thậm chí, có lúc người ta còn
“nhầm lẫn” đánh đồng đường lối lý luận văn nghệ của Đảng với lý luận văn học.
Đường lối của Đảng về văn học nghệ thuật là hết sức quan trọng và cần thiết vì nó
mang tính định hướng và gắn với thực tiễn phát triển của văn học. Nhưng thời đổi

mới cùng với sự phát triển của khoa học các nhà nghiên cứu đã nhận thấy lý luận

11


văn học có vị trí tương đối độc lập trong hệ thống các khoa học văn học, xác định rõ
lý luận văn học là một chuyên ngành riêng biệt nằm trong khoa học văn học, có đối
tượng, đặc trưng và phương pháp nghiên cứu riêng. Như vậy khái niệm lý luận văn
học được hiểu theo nghĩa khá hẹp và xác định - đây là một khoa học về nghệ thuật
ngôn từ (2), là “khoa học văn học, khoa học nhân văn chứ khơng phải một cái gì
khác, có thể gần gũi với nó, thí dụ đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng” [199,
tr.178]. Việc khẳng định rõ vị trí của lý luận đã nâng cao tính khoa học của lý luận
văn học, ngăn chặn xu hướng đầu cơ chính trị trong nghiên cứu văn học, loại trừ
tính quyền uy tuyệt đối, tột cùng, duy nhất của một chân lý nào đó, loại trừ dần lối
tư duy cơ giới, chỉ được thế này, không được thế kia vốn đã là một trong những
nguyên nhân kìm hãm bước tiến của văn học nói chung và lý luận văn học nói riêng.
Quan niệm lý luận văn học như là một bộ phận của khoa học về nghệ thuật ngơn từ
có nghĩa coi lý luận là một bộ phận hữu cơ của mỹ học triết học, được hiểu như là
khoa học về cái đẹp và về những phương cách làm ra cái đẹp trong nghệ thuật.
Xác định rõ lý luận văn học là một chuyên ngành riêng biệt nằm trong khoa
học văn học khơng có nghĩa tách rời lý luận khỏi các phân ngành nghiên cứu khác.
Là một phân ngành trong khoa văn học, lý luận văn học đương nhiên có liên hệ chặt
chẽ với các phân ngành khác như văn học sử, phê bình văn học, phương pháp luận
nghiên cứu văn học. Các phân ngành này có thể hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quá
trình nghiên cứu cùng một đối tượng.
1.2.2. Đối tượng, nhiệm vụ, bản chất, phương pháp nghiên cứu của lý luận văn học
Lý luận văn học lấy phương diện cấu trúc, những đặc điểm rất chung của văn
học, hoặc những đặc điểm của hiện tượng văn học phát triển đến mức điển hình làm
đối tượng chủ yếu. Lý luận văn học có nhiệm vụ khái quát về bản chất, đặc trưng,
cấu tạo, quy luật tồn tại và phát triển của văn học. Bản chất của lý luận văn học suy

đến cùng là việc phát hiện ra các quy luật khách quan và chủ quan đang tồn tại bên
ngoài và ngay trong thế giới tâm hồn của mỗi con người, từ đó sử dụng chúng một
cách hiệu quả vào các mục tiêu sáng tạo và nghiên cứu văn học nghệ thuật, phát hiện
(1). Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý thêm: “Lý luận văn học là một bộ môn khoa học, cũng giống như
Ngữ âm học, Tu từ học, Văn bản học, Hình học, Giải tích học v.v... Với tư cách là một khoa học, Lý luận văn
học cũng như tất cả các khoa học khác, chứa đựng những khái niệm, thuật ngữ xác định, có đối tượng nghiên
cứu riêng, được giảng dạy tương đối thống nhất ở các nước khác nhau trên thế giới. Theo nghĩa đó, khơng thể
có Lý luận văn học Việt Nam hay Lý luận văn học Pháp, Lý luận văn học Nga, Lý luận văn học Mỹ ... mà chỉ
có Lý luận văn học ở Việt Nam, Lý luận văn học ở Pháp, ở Nga, ở Mỹ… Lâu nay trong thực tiễn ngôn ngữ,
khi nói Lý luận văn học Pháp, Lý luận văn học Trung Quốc thường là người ta hiểu theo nghĩa thứ hai, tức là
tình hình Lý luận văn học, những khuynh hướng nghiên cứu lý luận văn học ở Pháp, ở Trung Quốc trong giai
đoạn nào đó, chứ ít khi hiểu đó là một ngành khoa học, một bộ mơn khoa học riêng của Pháp, kiểu Pháp hay
riêng của Trung Quốc, kiểu Trung Quốc hoặc giả hiểu theo nghĩa đó là một nền Lý luận văn học thống nhất,
độc đáo, mang đậm sắc thái địa phương, dân tộc”[185].

12


ra các quy luật của nghệ thuật văn chương, giúp nghệ sĩ sáng tạo theo đúng quy luật
của nghệ thuật văn chương. Xác định rõ đối tượng, nhiệm vụ, bản chất của lý luận
văn học, các nhà nghiên cứu cho rằng lý luận cần phải vận dụng tất cả các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như biện chứng- lịch sử, cấu trúc, phân tâm, kí hiệu, loại
hình, thống kê,… để nghiên cứu văn học, xác định sự tồn tại của nó, chỉ ra tính đặc
thù, quy luật vận động của văn học.
1.3. Khái quát diện mạo lý luận văn học đổi mới
Sau giai đoạn chuyển động có tính chất q độ, mang nhiều yếu tố dự báo
(1975 - 1985), lý luận văn học ở Việt Nam bắt đầu đổi mới rõ hơn từ sau năm 1986.
So với trước, lý luận văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới mang những nét đặc trưng
chưa từng thấy. Quan sát tiến trình đổi mới (tạm thời chia thời gian có tính ước lệ)(3)
qua hai giai đoạn: 1/ Từ 1986 đến 1995; 2/ Từ 1996 về sau, có thể khái quát diện

mạo lý luận với một số nét tiêu biểu sau đây:
1.3.1. Đề cao tinh thần biện giải, xới lật, mạnh mẽ phê phán các giáo điều lý luận
xơ cứng, phiến diện
Tinh thần biện giải, xới lật đó là sự tự phê phán, tự phản tỉnh đối với những
mơ thức hóa của lý luận văn học, khơng cịn thích ứng với u cầu phát triển của
sáng tác văn học nghệ thuật, thậm chí chính nó là ngun nhân gây nên sự trì trệ của
nền văn học. Tinh thần này cũng đồng thời thể hiện ở việc khơi phục, trả lại giá trị
đích thực cho những hiện tượng văn học đã bị đánh giá không đúng với những
phẩm chất vốn có của nó. Trên tinh thần phê phán khách quan khoa học với cái cũ,
lý luận đưa ra những đề xuất khoa học mới.
Tinh thần biện giải, xới lật của lý luận văn học thời đổi mới thể hiện rõ nét ở
bình diện ý thức hệ. Đó là việc nhìn nhận lại các vấn đề lý luận quen thuộc như: tư
tưởng văn nghệ mácxit; Lý luận văn học xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Về tư tưởng
văn nghệ mácxit, phương châm là vừa kiên trì tư tưởng Marx - Lenin, vừa phải có
những đối sách mới mẻ, linh hoạt để thích ứng với hồn cảnh mới. Những ngày đầu
đổi mới quan điểm nhận thức về vấn đề này đã được nêu rất rõ ràng: “Cái thần của
chủ nghĩa Marx không phải là giáo điều mà là tinh thần phê phán và tinh thần cách
mạng của nó” [4] Mặc dù khơng dễ dàng đi đến thống nhất quan điểm nhưng lý
luận đổi mới đã dần dần nhận thức được: “Không phải các tác gia kinh điển đã
khám phá hết chân lý của nghệ thuật” [93, tr.215] và: “Lý luận văn học mácxít hồn
tồn khơng phải chỉ có ý kiến của K.Marx, F.Engels, Lenin” [93, tr.168]. “Các nhà
(3). Chúng tôi đồng ý với Phương Lựu khi ông cho rằng: “Cũng như văn học nói chung không phải đợi
đến sau Đại hội VI mới đổi mới, mà đã có những chuyển động trước đó, thì lý luận văn học cũng vậy”[97,
tr.56]. Ý kiến này cho thấy muốn xem xét một cách thật đầy đủ quá trình đổi mới thì phải tính từ sau 1975 và
trên thực tế đến nay đổi mới văn học ở Việt Nam đã đi được chặng đường ngót 35 năm.

13


kinh điển của chủ nghĩa Marx chưa bao giờ coi học thuyết của mình là bất biến mà

cần phải có sự bổ sung phù hợp để lý luận mácxit thực sự là một thực thể sống động
và phát triển một cách tự nhiên, hợp quy luật” [199, tr.272]. Hoặc: “Di sản của các
vị kinh điển chủ nghĩa Marx không phải là cuốn cẩm nang có thể mở ra tra cứu tất
cả các vấn đề mỹ học ở mọi thời đại” [199, tr.304]. “Quan điểm biến chủ nghĩa
Marx thành thế giới quan quan phương đã biến tư tưởng của Marx vốn là một
phương pháp tư duy sống động thành những giáo điều, biến một tư tưởng thấm
nhuần tinh thần thực tiễn thành huyền thoại” [128, tr.17].
Những ý kiến trên của các nhà nghiên cứu cho thấy tư duy lý luận đổi mới đã
coi lý luận văn nghệ macxit vừa như một thành tựu trí tuệ của nhân loại, vừa như là
đối tượng để nghiên cứu, tiếp nhận,bổ sung và phát triển, nó hồn tồn khơng phải
là loại lý luận duy nhất hàm chứa chân lý bất biến của văn học nghệ thuật như
nhiều năm trước đây chúng ta đã nghĩ. Đây không phải là vấn đề “xem nhẹ” hoặc
“làm sai lệch”, “hạ bệ thần tượng” mà chính là sự tơn vinh, phát huy lý luận văn
nghệ mácxit trong cái nhìn biện chứng, khoa học và đúng đắn nhất, là nhận thức
quan trọng trong sự vận động đổi mới ý thức hệ của lý luận văn học Việt Nam thời
kỳ đổi mới.
Trong lý luận văn nghệ mácxit, lý luận phản ánh có ý nghĩa hàng đầu để giải
thích về nghệ thuật, chính vì thế phương diện này đã được giới lý luận đặc biệt quan
tâm chú ý. Bên cạnh việc tranh luận, nhiều bài nghiên cứu đi sâu tìm hiểu thêm vấn
đề lý luận phản ánh trong nghệ thuật của các nhà nghiên cứu được công bố: Văn học với
hiện thực dưới ánh sáng phản ánh luận Marx-Lenin [93, tr.32-48] của Phương Lựu;
Về đặc trưng của phản ánh nghệ thuật trong mỹ học của Ch.Caudwell và G.Lukacs
[190, tr.175-199] của Trương Đăng Dung; Phương diện chủ quan của phản ánh và
đặc trưng của văn nghệ [144, tr.35-50] của Trần Đình Sử,... Các nhà lý luận nhận
thức phản ánh luận là cơ sở nền tảng chứ khơng phải là duy nhất. Từ đó, khẳng
định phản ánh luận của Lenin vẫn mang những ý nghĩa to lớn nhưng đồng thời chỉ
rõ nhược điểm của lý luận văn nghệ Việt Nam trong mấy chục năm qua là đã vận
dụng tư tưởng của Lenin vào thực tiễn văn học quá máy móc, áp dụng phản ánh
luận vào văn học một cách cứng nhắc không làm rõ những khâu trung gian. Và đây
chính là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhiều giới hạn đối với sự

phát triển của nền văn học nghệ thuật nước nhà nói chung và lý luận văn học nói
riêng. Từ việc xem xét lại cách hiểu và vận dụng phản ánh luận Lenin, hàng loạt các
vấn đề liên quan đến phản ánh luận (như mối quan hệ giữa văn học và hiện thực,
phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa,…) dần dần được tháo gỡ và bổ
sung, hình thành nên những cách hiểu, quan niệm khác trước.

14


Nhìn chung, thời gian từ 1986 đến 1995 đánh dấu một bước chuyển quan trọng
của tư duy lý luận văn học Việt Nam: từ tâm thế thụ động, luôn chịu ảnh hưởng, phụ
thuộc vào lý luận văn học Xô - viết một cách thiếu linh hoạt, thiếu cái nhìn phê phán
khách quan, nay chuyển sang tâm thế chủ động tự phê phán và đề xuất sáng tạo
những quan niệm lý luận mới có giá trị thực tiễn. Chính từ tâm thế mới này, lý luận
văn học nước nhà tiếp tục từng bước, bền bỉ hướng đến những kết tinh mới ở hành
trình phía trước.
1.3.2. Tiếp tục kế thừa di sản lý luận văn học dân tộc, mở rộng biên độ tiếp nhận
những điểm khả thủ của lý luận văn học thế giới
1.3.2.1. Nghiên cứu di sản lý luận văn học dân tộc từ trung đại đến hiện đại
Một trong những biểu hiện đáng ghi nhận của phong trào đổi mới lý luận
trên bình diện “nội sinh” là đã quan tâm nghiên cứu, phát huy di sản lý luận văn học
dân tộc từ trung đại đến hết thế kỷ XX.
Thời trung đại ở nước ta, những quan niệm văn học xuất hiện lẻ tẻ trong các
lời bạt, lời bình, lời tựa, tồn tại dưới dạng cổ Hán ngữ. Mặc dù không thành hệ
thống nhưng đây cũng là di sản vô cùng quý báu. Để kế thừa, khai thác phần di sản
này thì cơng việc sưu tầm, dịch thuật, chú thích là có ý nghĩa tiên quyết. Trước đổi
mới đã có một số nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này: Quan niệm văn học của
một số nhà nho Việt Nam của Nguyễn Đức Vân (Văn học số 12/1963), Từ trong di
sản của nhiều tác giả (Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1981), Về quan niệm văn
chương cổ Việt Nam của Phương Lựu (Nxb. Giáo dục,Hà Nội, 1985). Đây là những

công trình đặt cơ sở cho cơng việc này được tiếp tục triển khai sâu rộng hơn sau
1986 trở đi. Từ sau đổi mới xuất hiện thêm các cơng trình Người xa bàn về văn chương
của Đỗ Văn Hỷ sưu tầm (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993), Lê Quý Đơn trên
tiến trình ý thức văn học dân tộc của Đinh Thị Minh Hằng (Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội,1996), Thơ trong con mắt của người xưa chuyên luận của Phạm Quang Trung
(Nxb.Hội Nhà văn, Hà Nội,1999), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học
trung đại Việt Nam của Phương Lựu (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1977),… Những cơng
trình sưu tầm, nghiên cứu trên đã góp phần quan trọng xác lập hệ thống quan niệm
trong văn học trung đại Việt Nam.
Song song với việc khai thác kế thừa quan niệm văn học thời trung đại, là
việc sưu tầm, nghiên cứu thành tựu lý luận văn học thế kỷ XX. Theo thống kê của
chúng tôi, kể từ năm 1995 đến nay đã có khoảng hơn chục cơng trình sưu tầm, biên
soạn lý luận phê bình (phê bình tất nhiên có liên quan đến lý luận) được cơng bố. Các
nhà nghiên cứu tập trung vào mảng lý luận văn học trước và sau năm 1945: Tuyển tập

15


Phê bình, Nghiên cứu văn học Việt Nam 1900 - 1945, (Nxb.Văn học, Hà Nội, 1998)
do Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên; Lan Khai - Tác phẩm nghiên cứu lý luận phê bình
văn học do Trần Mạnh Tiến chủ biên, (Nxb. Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 2003); Tranh
luận văn nghệ thế kỷ XX, 2 tập, do Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn (Nxb. Lao Động,
Hà Nội, 2003); Phạm Quỳnh - Luận giải văn học và triết học do Trịnh Bá Đĩnh
tuyển chọn (Nxb. Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 2003); Bộ tùng thư: Văn học Việt Nam
thế kỷ XX Quyển Năm, Lý luận- phê bình đầu thế kỷ XX; Lý luận - phê bình 1945- 1975
các tập từ II đến X ( Nxb. Văn học, ấn hành từ 2005 đến 2009) do Nguyễn Ngọc
Thiện chủ biên; Bộ tuyển Trương Tửu: phê bình văn học do Nguyễn Hữu Sơn và
Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn (Nxb.Lao Động, Hà Nội, 2007); Bộ tư liệu Mười thế kỷ
bàn luận về văn chương - Từ TK X đến nửa đầu thế kỷ XX, 3 tập (Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 2007) do các tác giả Phan Trọng Thưởng, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn, Nguyễn Cừ

biên soạn.
Điều đáng lưu ý ở việc sưu tầm là các nhà nghiên cứu không chỉ chú ý đến
những tác giả đã được khẳng định trên văn đàn như Hải Triều, Đặng Thai Mai,
Hồi Thanh,... mà cịn giới thiệu thêm nhiều tên tuổi và cơng trình có phần lạ lẫm
và hầu như ít ai biết đến như Cao Văn Chánh, Hoàng Duy Từ, Trúc Hà, trân trọng
những giá trị lý luận có thể cịn rất sơ lược, giản đơn, nhưng nó đã được manh
nha ở nước ta từ thời trước cách mạng Nghệ thuật với văn hóa của Lê Quang Lộc,
Văn chương nữ giới của Nguyễn Đồng Khang, Vấn đề nữ lưu và văn học của
Nguyễn Thị Kiêm. Qua các cơng trình sưu tầm, các nhà nghiên cứu lý luận thời đổi
mới đã góp phần lưu giữ những thành tựu quan trọng của lý luận văn học dân tộc
trong thế kỷ XX, đồng thời mang lại sự đánh giá công bằng cho hàng loạt các nhà
nghiên cứu phê bình trước đây bị định kiến lâu dài do quan niệm hẹp hòi, ngộ nhận
một thời như: Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Lan Khai, Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa,...
Ở mảng lý luận văn học sau 1945, công việc sưu tầm biên soạn tư liệu đi theo tinh
thần chọn lọc các tác giả. Tuy vậy có thể thấy qua các bộ sách hội ngộ khá đầy đủ
gương mặt của hàng trăm các tác giả đã và đang góp phần tham gia vào nghiên cứu
lý luận phê bình văn học từ 1945 đến nay.
Việc sưu tầm, biên soạn tư liệu là cơng việc khoa học địi hỏi một sự cẩn
trọng, chu đáo và công phu. Mặc dù đến nay còn nhiều khoảng trống chưa thể lấp
đầy nhưng lý luận văn học thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tựu nhất định ở
mảng này, những bộ sách sưu tầm, biên soạn đã kịp thời bổ sung, phát triển nâng
cao những thành tựu lý luận vốn có, góp phần trang bị cho người nghiên cứu những
kiến thức không thể thiếu về lịch sử chuyên ngành lý luận văn học ở Việt Nam.

16


Bên cạnh việc sưu tầm tư liệu, vấn đề nghiên cứu chuyên sâu lý luận văn học
dân tộc thế kỷ XX cũng được quan tâm chú ý. Có thể kể đến một số cơng trình có
giá trị học thuật đã được công bố như sau: Tác gia nghiên cứu lý luận phê bình văn

học 1945 - 1975 của Ban Lý luận Viện Văn học (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1986); Nhìn lại nửa thế kỷ lý luận hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (1936 1986) của Phương Lựu (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999); Lý luận phê bình văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX của Trần Mạnh Tiến (Nxb. Giáo dục Hà Nội, 2002);
Lịch sử phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1900 - 1945 của Trần Thị Việt Trung
(Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2002); Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX của Nguyễn Thị Thanh Xuân (Nxb. Đại học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh, 2004);
Lý luận phê bình văn học thế kỷ XX của Trần Đình Sử (Trong Văn học Việt Nam thế
kỷ XX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004) do Phan Cự Đệ chủ biên, Lược khảo 34 tác
giả lý luận, phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX (Trong Lý luận, phê bình đời sống
văn chương, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2010) của Nguyễn Ngọc Thiện…
Lý luận văn học Việt Nam thế kỷ XX có ý nghĩa đặt nền móng cho việc xây
dựng và phát triển nền lý luận hiện đại ở những giai đoạn tiếp theo. Những cơng
trình nghiên cứu về di sản lý luận văn học dân tộc được ra mắt ở thời kỳ đổi mới đã
góp phần phác họa diện mạo lý luận nước nhà một thế kỷ qua. Dưới sự thẩm định
khoa học và khách quan của các nhà nghiên cứu, thành tựu và hạn chế của lý luận
văn học giai đoạn này để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc cho việc hiện đại
hóa lý luận văn học nước nhà trong những chặng đường kế tiếp.
1.3.2.2. Nghiên cứu giới thiệu lý luận văn học nước ngoài
Từ những năm 90 trở đi quan điểm đa dạng hóa, đa phương hóa đã tạo nên
một sự phong phú trong nghiên cứu, dịch thuật, trong giới thiệu các cơng trình lý
luận của nước ngoài vào Việt Nam.
Về lý luận văn học cổ điển phương Đông, tuy chưa nhiều nhưng các nhà
nghiên cứu, dịch thuật đã chú ý tới việc dịch và giới thiệu tư liệu gốc như Tùy viên
thi thoại của Viên Mai do Nguyễn Đức Vân dịch (Nxb. Giáo dục, Hà Nội,1999);
Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp do Phan Ngọc dịch (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997).
Xuất hiện một số nghiên cứu có tính chun luận: Tinh hoa lý luận cổ điển Trung Quốc
của Phương Lựu (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1989), Thi pháp học cổ điển Ấn Độ của
Phan Thu Hiền (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006),...
Thành tựu đặc biệt hơn cả là việc nghiên cứu, giới thiệu và dịch lý luận văn
học hiện đại phương Tây. Mảng sách nghiên cứu có: Các vấn đề khoa học của văn


17


học (1990) do Trương Đăng Dung chủ biên; Từ kí hiệu học đến thi pháp học (1992)
của Hoàng Trinh (1992); Triết học và mỹ học phương Tây hiện đại (1992) của
Nguyễn Hào Hải chủ biên; Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại (1995) và
Mười trường phái lý luận văn học phương Tây đương đại (1998) của Phương Lựu;
Từ văn bản đến tác phẩm văn học (1988) của Trương Đăng Dung; Nghiên cứu văn
học, lý luận và ứng dụng (1988) của Nguyễn Văn Dân v.v... Bên cạnh các sách
nghiên cứu là mảng sách dịch lý luận văn học với mục đích giới thiệu nguyên gốc
các thành tựu lý luận văn học nước ngoài: Alain Robbe - Grillet và sự đổi mới tiểu
thuyết (Lê Phong Tuyết giới thiệu và dịch, 1993); Phê bình văn học Pháp thế kỉ XX
(Lộc Phương Thủy chủ biên, 1995); Phê bình, bình luận văn học London, Twain, Hemingway
(Vũ Tiến Quỳnh, 1995); Octavio Paz: Thơ văn và tiểu luận (Nguyễn Trung Đức dịch, 1998);
M.Kundera: Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch, 1998), J. P.Sartre: Văn học
là gì (Nguyên Ngọc dịch, 1999) v.v... Chỉ trong vài năm đầu thế kỉ XXI, số sách
nghiên cứu giới thiệu các thành tựu lý luận văn học thế giới tăng mạnh: Văn học so
sánh, lý luận và ứng dụng (Lưu Văn Bổng chủ biên, 2000), Lý luận phê bình văn
học phương Tây thế kỉ XX (Phương Lựu, 2001); Chủ nghĩa cấu trúc và thuyết hiện
sinh (Trần Thiện Đạo, 2001) v.v... Mảng sách biên soạn đã thực sự là các tư liệu bổ
ích cho các nhà lý luận. Tác giả biên soạn Đỗ Lai Thúy đã cho xuất bản hàng loạt
sách: Phân tâm học và văn học nghệ thuật (2000), Nghệ thuật như là thủ pháp
(2000), Phân tâm học và văn hóa tâm linh (2002), Phân tâm học và tình u (2003),
Sự đỏng đảnh của phương pháp (2004), Phân tâm học và tính cách dân tộc (2007);
Nhiều tác giả: Văn học hậu hiện đại thế giới - Những vấn đề lý thuyết (2003) v.v...;
Đặc biệt sách dịch: M.Kundera: Tiểu luận (Nguyên Ngọc dịch, 2000); Văn học phi
lí (Nguyễn Văn Dân giới thiệu và dịch cùng người khác, 2001); Chủ nghĩa cấu trúc
và văn học (Trịnh Bá Đĩnh giới thiệu và dịch, 2002); Phê bình lý luận văn học Anh Mỹ (Lê Huy Bắc chủ biên, 2002), Plin và Tzurganova: Các khái niệm và thuật ngữ
của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu - Hoa Kỳ thế kỉ XX (Đào Tuấn Ảnh,

Trần Hồng Vân và Lại Nguyên Ân dịch, 2003); Văn học so sánh, nghiên cứu và
dịch thuật (Khoa ngữ văn, và báo chí thành phố Hồ Chí Minh, 2003); J.M. Lotman:
Cấu trúc văn bản nghệ thuật (2004) do Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy
dịch; Kate Hamburger: Logic học về các thể loại văn học (2004) do Trần Ngọc Vương
và Vũ Hoàng Địch dịch; Chủ nghĩa Marx và phê bình văn học (2008) của Terry Eagleton
do Lê Nguyên Long Dịch; Lý luận văn học (2009) của R.Wellek và A.Warren do
Nguyễn Mạnh Cường dịch, Thi pháp của nền văn học Nga cổ (2010) của
D.S.Likhachev do Phan Ngọc dịch v.v...

18


Như vậy, vượt qua giới hạn của chính mình, lý luận văn học thời kỳ đổi mới
đã đi từ phong bế đến hội nhập, mạnh dạn phiên dịch, giới thiệu những lý thuyết
văn học trước nay bị xem là vùng cấm. Một số tác giả triết học và mỹ học phương
Tây như G.W.Hegel, I.Kant, M.Heidegger, J.P.Sartre, R.Barthes, M.Kundera,...
thậm chí có những tác giả trước đây bị lên án gay gắt như G.Lukacs (bị coi là đại
diện tiêu biểu của chủ nghĩa xét lại) cũng được trân trọng giới thiệu lại như là
những nhà lý luận với những quan điểm đáng được quan tâm, tham khảo. Song
cũng cần thấy, sự hội nhập với thế giới của lý luận văn học đương đại Việt Nam
thật ra không quay lưng lại với lý luận văn học Xô - viết. Nếu trước đây chúng ta
chỉ thiên về những thành tựu có tính chất chính thống thì nay quan tâm đến cả
những thành tựu lý luận vốn trước đây khơng được coi trọng, (thậm chí bị phê
phán) bởi những cơng trình này được viết khơng hoàn toàn theo tinh thần mácxit,
đến đổi mới, “cải tổ”, nó được nhìn nhận lại, trở thành di sản q báu khơng những
của Nga mà cịn là của thế giới. Đó là hai cơng trình quan trọng của M.Bakhtin –
một trong những nhà nghiên cứu lý luận văn học được coi là lớn nhất thế kỷ XX:
Lý luận và thi pháp tiểu thuyết do Phạm Vĩnh Cư dịch (Trường viết văn Nguyễn Du,
Hà Nội, 1992), Những vấn đề về thi pháp Dostoevsky do Trần Đình Sử, Lại Ngun Ân,
Vương Trí Nhàn dịch (Nxb. Giáo dục, Hà Nội,1993). Tư tưởng khoa học mới mẻ

trong các cơng trình khoa học này đã tác động mạnh đến giới lý luận Việt Nam.
Nhiều quan điểm của M.Bakhtin như coi thể loại là nhân vật chính của lịch sử văn
học, cách nhìn về vai trị lễ hội Carnaval trong chuyên khảo về F.Rabelais, vấn đề
“tính đa thanh” của tiểu thuyết,… đã được giới nghiên cứu nước ta hưởng ứng, vận
dụng. Những tư tưởng lý luận của phương Tây (đặc biệt là của Âu - Mỹ) trở lại với
Việt Nam trong tinh thần cầu thị học hỏi và đối thoại, đã nhen nhóm, kích thích
những tìm tịi, sáng tạo mới.
Có thể nói mặc dù việc tiếp thu lý luận văn học phương Tây cịn có những
điểm hạn chế (4) nhưng ở thời hội nhập sự cởi mở và đa dạng của lý luận đã được
tôn trọng và khích lệ, nó đã làm cho đời sống của lý luận văn học Việt Nam khởi
sắc và đó chính là tiền đề quan trọng bậc nhất để công cuộc hiện hóa lý luận văn
học Việt Nam tiến vào thế kỷ XXI với hy vọng cập nhật được mặt bằng của lý luận
văn học thế giới.
(1). Về việc giới thiệu và dịch thuật lý luận văn học nước ngoài Lộc Phương Thủy cho rằng: “Hiện
nay, việc giới thiệu nghiên cứu tư tưởng học thuật nước ngồi tuy đã có khởi sắc, đã có những gợi ý phần nào
cho lý luận nước nhà, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu (…) việc giới thiệu, dịch thuật các tác phẩm
học thuật nước ngồi ở Việt Nam cịn chưa được bao nhiêu”[199, tr.638-639]. Về việc tiếp thu, ứng dụng
Trần Đình Sử nêu nhận xét: “Nhiều lí luận vừa mới nhập khẩu vẫn còn “nguyên đai nguyên kiện” như là
“của người khác”, chưa được Việt hố, cịn để ngổn ngang như những thứ “phôi” chưa được cắt gọt, mài giũa
để trở thành đồ dùng. Nhiều người nhìn chúng bằng con mắt xa lạ. Có những người “sính Tây”, chủ trương
một thứ học Tây “thuần tuý”, như thứ hàng còn nguyên cả chữ “made in ...” như thế mới sang”[150].

19


Tiểu kết
1. Hệ thống lại những nguyên nhân cơ bản có ít nhiều tác động đến tiến trình
phát triển của lý luận văn học giai đoạn từ 1986 đến nay, chúng tôi cho rằng những
đổi mới của lý luận văn học Việt Nam đã và đang đi theo đúng dòng chảy của văn
học nhân loại và dân tộc một cách khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của

lịch sử văn hóa xã hội.
2. Từ tầm nhìn hiện đại, xác định rõ lý luận văn học là một chuyên ngành
riêng biệt nằm trong khoa học văn học, là khoa học của nghệ thuật ngôn từ đã khiến
bản thân lý luận ngày càng ý thức sâu sắc vai trò của mình đối với sự phát triển của
văn hóa nói chung và đời sống văn học nói riêng. Có thể khẳng định rằng ngót hai
mươi lăm năm qua lý luận văn học Việt Nam đã có sự vận động mau lẹ, hướng đến
sự thay đổi mở rộng hệ quy chiếu để dần từng bước tiến đến xây dựng một mơ hình
lý thuyết mới thay thế mơ hình lý thuyết quen thuộc nhưng bất cập và bất lực khi
phải đối diện giải quyết những vấn đề mới phát sinh trong tiến trình phát triển của
đời sống sáng tác văn học ở thời đại mới. Trên hành trình đổi mới lý luận văn học
Việt Nam bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần giải quyết
những vấn đề mà thực tiễn sáng tác cũng như phê bình văn học đặt ra.

20


Chương 2
VẬN ĐỘNG TƯ DUY XUNG QUANH MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VĂN HỌC CƠ BẢN
Thời kỳ đổi mới có rất nhiều vấn đề lý luận văn học ở Việt Nam vận động
hướng đến sự nhận thức, bổ sung cái mới, phát triển cái hợp lý vốn đã được khẳng
định. Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi chọn 2 vấn đề lý luận cơ bản để khảo sát,
phân tích với mục đích làm rõ q trình vận động tư duy của chúng theo quy luật của
sự phát triển văn học nói chung và lý luận văn học nói riêng, từ đó góp tiếng nói thẩm
định về các vấn đề lý luận văn học còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau: 1/Mối quan hệ
giữa văn học và hiện thực; 2/ Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa.
2.1. Văn học và hiện thực
2.1.1. Quan niệm về hiện thực trước 1986
Trước thời kỳ đổi mới, được kiến tạo chủ yếu từ cội nguồn là triết học, mỹ
học Marx - Lenin, nên lý luận văn học ở Việt Nam (cũng giống như lý luận văn học

Xô - Viết) đã coi văn học là một hình thái ý thức đặc thù phản ánh tồn tại xã hội và
có khả năng cải tạo xã hội, văn học là “tấm gương” phản ánh hiện thực đời sống.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng lúc này là văn nghệ phải ln bám sát tình hình thời
sự để nhìn nhận và phản ánh hiện thực cách mạng. “Văn nghệ là vũ khí sắc bén của
giai cấp cơng nhân, của Đảng trong cuộc đấu tranh để hồn thành nhiệm vụ cách
mạng do Đảng đề ra; Văn nghệ phản ánh hiện thực khách quan một cách cao đẹp,
góp phần cải tạo hiện thực đó theo một lý tưởng nhất định” [197, tr.99].
Từ định hướng đó, các tác phẩm văn học ra đời vào thời kỳ này luôn luôn
hướng đến những tấm gương chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, xây dựng những hình tượng điển hình, tượng trưng cho “con
người mới” vươn lên làm chủ xã hội, làm chủ tương lai... Văn học đề cao tính giáo
dục, giáo hóa gắn liền với các hoạt động chính trị thực tiễn. Hiện thực - đó là cơng
cuộc kháng chiến “trường kỳ, gian khổ”, là các chiến dịch lớn trên khắp các miền từ
Việt Bắc đến Trị Thiên, khu Năm, Nam Bộ, là đời sống của đồng bào ở hậu phương
và các vùng địch hậu...Cả một thế hệ nhà văn tự nguyện đưa tác phẩm đến với đời
sống nhân dân, biến tác phẩm thành phương tiện giáo dục tuyên truyền. Sự tiếp
nhận của đông đảo nhân dân là thước đo hiệu quả của văn học, tính hiện thực được
quy định và gắn bó với yêu cầu và trình độ tiếp nhận của nhân dân, đó là một dạng
hiện thực phù hợp với trình độ tiếp nhận chung ở thời kỳ ấy.
Do xuất phát từ việc quan niệm về đặc thù và chức năng của văn học giản
đơn như vậy nên trong một thời gian kéo dài mấy chục năm kháng chiến, nhiều thế
hệ những người cầm bút sáng tác, nghiên cứu, phê bình văn học, và bạn đọc - chủ

21


thể tiếp nhận văn học cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của văn học là thể hiện cuộc sống
sao cho chân thật, hùng hồn, phản ánh hiện thực như những gì đã và đang diễn ra.
Hiện thực là cái “dâng sẵn, đón chờ”, chỉ chờ đợi nhà văn "phản ánh", sao chép vào
tác phẩm. Hiện thực trong tác phẩm và hiện thực ngồi cuộc sống là một, đó là cái

mà người ta phải sờ tận tay, nhìn tận mắt. Nếu hiện thực ngồi cuộc sống khơng
giống với hiện thực trong tác phẩm thì tác phẩm khơng được tán dương, khơng
được cộng đồng thừa nhận. Dùng nghệ thuật để minh họa tư tưởng, đồng nhất văn
học với báo chí, lịch sử. Văn học chỉ được xem như “tên hề đồng lóc cóc chạy theo
đời sống” (Nguyễn Đình Thi). Nhà văn nào có ý vượt thốt khỏi cái khung định sẵn,
xây dựng hình tượng bằng trí tưởng tượng đơi chút lập tức bị phê phán: “xây dựng
bằng trí tưởng tượng tùy tiện của tác giả hơn là bằng sự quan sát nghiên cứu nghiêm
túc hiện thực của đời sống ” [134, tr.219]. Một thị hiếu đơn giản chế ngự trong tâm lý
cộng đồng: thích đối chiếu hiện thực trong tác phẩm nghệ thuật với hiện thực ngoài
cuộc sống. Và tai hại hơn, quan niệm này đã trở thành một cái “chuẩn” để đánh giá
giá trị đích thực của tác phẩm và bản lĩnh, tài năng của nhà văn. Mặt khác, do bị
chính trị chi phối nên văn nghệ nghiêng về phản ánh hiện thực theo quan điểm chính
trị chủ đạo, vì thế thường “một chiều” [16], “phải đạo” [58], thiếu sâu sắc, độc đáo.
2.1.2. Quan niệm về hiện thực sau 1986
2.1.2.1. Hiện thực trong văn học - hiện thực đa diện, nhiều chiều
Thực ra, không phải đợi đến thời kỳ đổi mới mà ngay từ giai đoạn giao thời
(1975 - 1985), một số cây bút lão luyện trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc đã bắt đầu nhận thấy lực cản của cách quan niệm xơ cứng về
mối quan hệ giữa văn học và hiện thực khiến ngòi bút không thể nào cất cánh. Với
vốn trải nghiệm dày dạn từ cuộc sống, những nhà văn này nhìn đời bằng con mắt
tinh tường, từng trải, họ bộc lộ nỗi buồn thấm thía, day dứt của người cầm bút khi
khơng được tận cùng trải lịng mình trên trang viết bởi cách quan niệm quá đơn giản
về hiện thực trong nghệ thuật.
Trước hết, đó là nhà văn Nguyễn Minh Châu - “người mở đường đầy tài hoa
và tinh anh” [106] của sự nghiệp đổi mới văn học nước nhà. Bên cạnh các tác phẩm
mà ở đó hiện thực được nhà văn kiến tạo vượt qua hiện thực giới hạn trong đời sống
chính trị như: Người đàn bà trên chiến tàu tốc hành; Cỏ lau; Khách ở quê ra; Mảnh
đất tình yêu; Phiên chợ Giát,… là hàng loạt các bài phê bình, tiểu luận: Viết về
chiến tranh (1978); Các nhà văn quân đội và đề tài chiến tranh (1979); Nhà văn,
nhân vật, bạn đọc; Văn học và cách mạng; Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn

văn học minh họa (1987), v.v... Nguyễn Minh Châu “điềm đạm, thận trọng, nhưng
triệt để và quyết liệt” [84, tr.89] từng bước bộc lộ khá rõ quan điểm sáng tác của
mình dựa trên cảm hứng tôn trọng hiện thực, khám phá bề sâu hiện thực sinh động

22


và toàn vẹn, tái hiện “những chặng đường mà dân tộc ta trải qua phải tuân theo
những quy luật phát triển của cách mạng và chiến tranh, nghĩa là khúc khuỷu, quanh
co trước khi đi đến thắng lợi cuối cùng” [17, tr.65].
Năm 1978, đất nước vừa đi qua cuộc chiến tranh gian khổ, khốc liệt, những
trang viết về chiến tranh cịn nóng hổi, khơng khí hân hoan chiến thắng vẫn là âm
hưởng chủ đạo. Nhưng Nguyễn Minh Châu với trái tim nghệ sĩ đầy nhạy cảm đã bắt
đầu trăn trở, lo lắng, bắt đầu nhận thấy có điều gì bất ổn của những trang viết mà
chính ơng và đồng đội đã từng sống chết vì nó. Trong tiểu luận Viết về chiến tranh
ơng băn khoăn:
Nhìn lại những tác phẩm viết về chiến tranh của ta, các nhân vật
thường khi có khuynh hướng được mô tả một chiều, thường là quá tốt,
chưa thực. Hình như tất cả những mặt tính cách đa dạng phải phơi bày
trong đời sống thực thì lại có thể tạm thời giấu mình trên trang sách. Vì ý
thức cổ động kháng chiến một phần, một phần khác có phải do quan niệm
sơ lược về nhân vật anh hùng?

[17, tr.50].
Những trăn trở của Nguyễn Minh Châu cho thấy ông đã bước đầu nhận ra sự
hạn chế của khuynh hướng sáng tác mô phỏng thực tế, sự thụ động của nghệ sĩ là do
tình trạng “bao cấp” về tư tưởng mà ra. Chính phong trào viết người thực, việc thực,
viết truyện các anh hùng đã trói buộc những người cầm bút, mục đích ghi lại sự
kiện một cách đầy đủ, chính xác đã khiến họ cho ra đời những “bộ đồng phục tinh
thần”. Con người trong nhiều tác phẩm được xây dựng với hành động giống nhau,

nhạt nhoà, đơn điệu. Họ chỉ là những nhân vật nhằm “minh hoạ” cho một quan
niệm đạo đức, cho đường lối chính trị… đó là những con người thiếu cá tính, những
con người khơng có khn mặt của riêng mình. Thái độ hồi nghi khoa học đầy
trách nhiệm với nghề của Nguyễn Minh Châu chính là khởi đầu cho một cách nhìn
mới về hiện thực. Ông nhận thức sâu sắc rằng chiến tranh đã đi qua, trong cuộc
sống đời thường muôn mặt, con người trở về với cái bản chất người thực sự như nó
vốn có, do vậy văn chương để phụng sự được con người cũng cần phải khác trước.
Lịch sử đã sang trang, quan niệm về cuộc sống và con người khơng cịn đơn giản
nữa. Hiện thực với những chiều dài lịch sử khác nhau cần được phản ánh một cách
đa diện, nhiều chiều mà trung tâm của nó là con người thời đại với những số phận
cụ thể, những tính cách phong phú. Con người và số phận của con người trong cõi
nhân sinh đầy những “mảnh vỡ” này không thể chỉ có cái tốt, cái lý tưởng xa vời
như trong sử thi, nó cần được soi chiếu từ nhiều góc độ trong đời thường với những
mặt đối lập nhau và ln song hành bên nhau, thậm chí gắn chặt nhau: tốt và xấu,

23


được và mất, cao thượng và thấp hèn, thiện và ác... Nếu nhà văn chỉ nói cái tốt, cái
được, cái cao thượng, cái thiện thì cũng chỉ nói lên được một phần sự thật mà thôi.
Tuyên ngôn nghệ thuật Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh
hoạ của Nguyễn Minh Châu đã đưa ra một quyết định dứt khoát: đoạn tuyệt với lối
văn minh hoạ. Nhà văn đã trăn trở cùng với trang giấy trước đèn để rồi trung thực
và can đảm viết:
Cũng phải nói thật với nhau rằng: mấy chục năm qua, tự do sáng
tác chỉ có đối với lối viết minh hoạ, văn học minh hoạ, với những cây bút
chỉ quen với công việc cài hoa, kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ đã
có sẵn mà chúng ta quy cho đấy đã là tất cả hiện thực đời sống đa dạng
và rộng lớn. Nhà văn chỉ được giao phó cơng việc như một cán bộ truyền
đạt đường lối chính sách bằng hình tượng văn học sinh động, và do nhiều

lý do… từ đấy rồi trở thành thói quen. Thói quen của một người vốn quen
đi trong một hành lang hẹp, vừa hẹp vừa thấp.

[16]
Nguyễn Minh Châu đã không ngần ngại chỉ ra những quan niệm ấu trĩ về sự
ràng buộc giữa văn học nghệ thuật và chính trị để sinh ra thứ văn chương “minh
họa”. Đành rằng trong một hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc, hiện thực bao
trùm và bức xúc nhất là hiện thực của đời sống chính trị xã hội với hai nội dung
chính là cuộc chiến tranh vệ quốc và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nhưng
nhiều nhà văn từ chỗ tự ý thức hướng tới những đề tài trung tâm của đời sống chính
trị xã hội tới chỗ coi phạm vi hiện thực ấy là đối tượng phản ánh duy nhất trong
sáng tác của mình. Quan niệm có phần hạn hẹp về hiện thực lâu dần đã đã ảnh
hưởng tới cảm quan thẩm mỹ, chuẩn mực định giá, cảm thụ văn chương.
Xuất phát từ những trải nghiệm quý giá trong lộ trình văn học nhọc nhằn ba
mươi năm cầm bút, Nguyễn Minh Châu đã nỗ lực bứt thốt, vượt mình để đi đến
một bước tiến quan trọng trong tư duy nghệ thuật. Ông là một trong những nhà văn
sớm nhận thấy sự hạn chế của khuynh hướng sáng mô phỏng thực tế và chỉ ra rằng
chỉ có phản ánh hiện thực trong cái nhìn đa diện, nhiều chiều thì văn học mới cắt
nghĩa được một cách biện chứng, chân thật đầy đủ về con người và cuộc sống.
Bên cạnh Nguyễn Minh Châu, thời điểm những năm đầu đổi mới nhiều nhà
văn Việt Nam - những người từng: “Nhìn về dân tộc và con người trong quầng sáng
sử thi, phủ lên nhân vật những vẻ đẹp mang tính huyền thoại” [40, tr.132] và nhiều
nhà nghiên cứu khác cũng nhanh chóng đổi mới cách nhìn. Họ trực tiếp bày tỏ ít

24


nhiều những suy nghĩ, trăn trở xung quanh vấn đề văn học và hiện thực: Trước hết
là đổi mới cách nhìn của Hồng Ngọc Hiến (Văn nghệ 17/1/1987); Nhìn thẳng vào
sự thật, nói đúng sự thật sẽ có nhiều tác phẩm hay của Nguyễn Tuân (Văn nghệ, số 3

và 4 ra ngày 17/1/1987); Điều quan trọng lúc này là trung thực và trung thực của
Lê Lựu (Văn nghệ số 27, ngày 4/7/1987); Đổi mới tư duy, khẳng định sự thật trong
văn học nghệ thuật của Nguyễn Văn Hạnh (Văn nghệ số 33, ngày 15/8/1987); Tiếng
nói của văn học của Huy Phương (Văn nghệ số 37, ngày 12/ 9/ 1987), Đề cương đề
dẫn thảo luận ở Hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học của Nguyên Ngọc (Tạp chí
Langbiang, số 3/1988), Vẻ đẹp của nỗi đau buồn trong thơ của Hồng Nhu (Văn nghệ
số 3&4&5, ngày 23/1/1988), Cuộc hành trình đi vào sáng tạo của Hồng Yến (Văn
nghệ số 11, ngày 12/3/1988),… Dù cách diễn đạt khác nhau nhưng tất cả đều có
chung nhận thức: cuộc sống đời thường sau chiến tranh, các thang giá trị mang tính
chuẩn mực xã hội có nhiều đảo lộn, thay đổi, điều này địi hỏi văn học phải giải
quyết bằng cách nhìn mới, sắc sảo, năng động. Cần phải bình tĩnh, trung thực tái
hiện hiện thực cuộc sống từ nhiều góc nhìn, nhiều thang bậc giá trị trước đòi hỏi
ngày càng cao của đời sống xã hội đối với văn học. Văn học phải lấy con người làm
đối tượng khảo sát thay cho các sự kiện đời sống. Quy luật thuộc về bản chất của
văn học là đào sâu, khám phá bản chất tâm hồn con người. Văn học phải là nơi để
con người gửi gắm những suy tư, khát vọng của mình. Và chỉ có như vậy văn học
mới giúp người đọc nhìn rõ bản chất của hiện thực với những mảng màu pha trộn
đen trắng, thật giả của cuộc sống đa sự, phong phú, phức tạp. Đó cũng là con đường
duy nhất để văn học tìm đến những giá trị vĩnh hằng.
2.1.2.2. Hiện thực trong văn học - trạng thái nhân sinh người nghệ sĩ cảm nhận và
thể nghiệm
Tiến trình đổi mới ngày càng rộng và đi vào chiều sâu, vấn đề quan hệ giữa
văn học với hiện thực đã trở thành trọng tâm bàn luận sôi nổi. Bài viết Về vấn đề
văn học phản ánh hiện thực [183, tr.34-52] của Lê Ngọc Trà đã thu hút được sự chú
ý của đông đảo bạn đọc. Điểm quan trọng nhất Lê Ngọc Trà muốn nhấn mạnh đến
là phương diện thể hiện tư tưởng, tình cảm thái độ của con người trong văn học, phê
phán lối đề cao hiện thực bên ngoài. Lê Ngọc Trà cho rằng:“ Phản ánh hiện thực là
thuộc tính chứ không phải là nhiệm vụ của văn học” [183, tr.39]. Nhiều nhà nghiên
cứu như Nguyễn Huệ Chi, Trương Đăng Dung, Lê Thành Nghị,… đã đồng tình với
quan điểm này. Có nghĩa là văn học cũng như tồn bộ các thành phần của văn hóa

và bản thân văn hóa như một chỉnh thể độc lập, đơn nhất đều phản ánh hiện thực.

25


×