Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thực trạng thu hút các nguồn vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.74 KB, 32 trang )

Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế phát triển 48B - 1 - SV: Lê Thị Ngọc

Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
Đầu tư và phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội. Nó là động lực của tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế xã
hội và tạo ra các tác động có lợi cho chính trị xã hội. Một nền kinh tế sẽ không thể tồn tại
và phát triển nếu thiếu hoạt động đầu tư.
Hải Dương là một tỉnh chủ yếu phát triển nông nghiệp và tồn tại nhiều tiềm năng về
mọi mặt cho phát triển kinh tế xã hội. Do đó đầu tư lại có vai trò rất quan trọng. Trong
những năm qua, được sự quan tâm của nhà nước cùng với sự nỗ lực của cán bộ lãnh đạo và
sự phấn đấu nỗ lực của nhân dân trong tỉnh, hoạt động đầu tư đã góp phần làm thay đổi bộ
mặt kinh tế của tỉnh. Đó là sự tăng trưởng GDP, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát
triển cơ sở hạ tầng, nâng cao phúc lợi cho người dân. Tuy vậy bên cạnh những thành tựu
đáng ghi nhận thì vẫn còn không ít những hạn chế. Việc nghiên cứu để bổ khuyết những
kinh nghiệm cũng như có thể nâng cao được hiệu quả đầu tư trong thời gian tới là cần
thiết. Chính vì vậy, sau quá trình học tập và được thâm nhập thực tế tại tỉnh, em xin được
đưa ra những hiểu biết của mình thông qua đề tài: “Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu
tư vào tỉnh Hải Dương”, gồm 3 phần :
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về đầu tư phát triển
Chương II : Thực trạng hoạt động đầu tư trên địa bàn Hải Dương từ năm 2005 đến
nay
Chương III : Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn cho đầu tư phát triển của Hải
Dương thời gian tới
Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Lê Quang
Cảnh và phòng tài chính thương mại – Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hải Dương. Em xin
chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG I
Kinh tế phát triển 48B - 2 - SV: Lê Thị Ngọc



Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1.Đầu tư phát triển
1.1.Khái niệm
Đầu tư phát triển nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu hút về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Như vậy mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt
được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh
chịu khi tiến hành đầu tư.
Đầu tư phát triển: Là hoạt động đầu tư mà trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến
hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất
kinh doanh và các hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao
đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng các công
trình hạ tầng kinh tế - xã hội, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực,
thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và
tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển ngoài những đặc điểm chung của đầu tư như là tính rủi
ro, lượng vốn đầu tư, đầu tư đòi hỏi phải có thời gian, đầu tư là một sự hi sinh các nguồn
lực hiện tại… còn có các đặc điểm khác biệt sơ với các loại hình đầu tư khác là :
Đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá
trình thực hiện hoạt động đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư mang tính chất lâu dài. Thời gian tiến hành một công cuộc đầu tư
cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với
nhiều biến động xảy ra và thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra cũng đòi
hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực
của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế…
Kinh tế phát triển 48B - 3 - SV: Lê Thị Ngọc


Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài trong nhiều
năm, có khi hàng trăm năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác các thành quả của hoạt
động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên.
Do đó các điều kiện về địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư
cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
2. Vốn đầu tư
2.1. Khái niệm vốn đầu tư và các hình thức đầu tư
Vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là
tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được sử dụng trong quá trình tái sản
xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
Hoạt động đầu tư thường được tiến hành dưới hai hình thức đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào quá
trình hoạt động và quản lý đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương thức
hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này có thể được thực hiện dưới
các dạng: hợp đồng, liên doanh, công ty cổ phẩn, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đầu tư gián tiếp là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả
cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội, những người có vốn không trực tiếp tham
gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp thường được thực hiện dưới dạng : cổ phiếu,
tín phiếu,… HÌnh thức đầu tư này thường gặp ít rủi ro hơn so với đầu tư trực tiếp.
2.2. Tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong
đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn ,
việc làm. Khi đầu tư tăng lên, có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết
bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng… tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổn
cầu dịch chuyển. Trong hình 1.1. mô tả khi đường tổng cầu dịch chuyển từ AD
0
đến AD
1

làm cho mức sản lượng tăng từ Y
0
đến Y
1
và mức giá cũng biến động từ Y
0
đến Y
1
Kinh tế phát triển 48B - 4 - SV: Lê Thị Ngọc

P
Q
Y
0
Y
1
P
1
P
0
E
0
E
1
Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
Hình 1.1. Tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
Nếu như nến kinh tế với
đường tổng cầu AD
0
đang cân

bằng tại điểm E
0
thì dưới tác
động của tăng đầu tư sẽ làm
dịch chuyển đường tổng
cầu sang phải, vào vị trí AD
1
,
thiết lập điểm cân bằng mới tại
điểm E
1
. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc làm cho mức sản lượng tăng từ Y
0
đến Y
1

mức giá tăng từ P
0
đến P
1
.
2.3. Các nguồn hình thành vốn đầu tư
Khi doanh nghiệp quyết định đầu tư mua sắm, lắp đặt tài sản sản xuất phục vụ cho
nhu cầu sản xuất tức là doanh nghiệp đã tham gia vào thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Nhưng thị trường vốn đầu tư sẽ diễn ra ở đâu và cái gì là đối tượng lưu thông trên thị
trường này?
Vấn đề đơn giản là ở chỗ, khi doanh nghiệp quyết định đầu tư hay mua sắm tư liệu
sản xuất, rất ít khi doanh nghiệp sử dụng tiền mặt để trang trải cho các khoản đầu tư, mà
doanh nghiệp sẽ thông qua các tổ chức tài chính, ví dụ như ngân hàng, để mượn khoản chi
Kinh tế phát triển 48B - 5 - SV: Lê Thị Ngọc


Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
phí đầu tư và tất nhiên doanh nghiệp phải trả cho tổ chức tài chính khỏan lãi suất tiền vay.
Như vậy, lúc này doanh nghiệp có nhu cầu đối với quỹ tín dụng, hay nói cách khác là có
nhu cầu đối với tiền tiết kiệm mà các hộ gia đình gửi để nhận lãi suất tiền gửi. Ngân hàng
hay tổ chức tài chính là những trung gian thực hiện nhiệm vụ chuyển số tiền tiết kiệm trong
các hộ gia đình sang cho các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư và hưởng phần chênh lệch
giữa hai mức lãi suất tiền vay và tiền gửi. Xu hướng chung là khi nền kinh tế càng phát
triển thì tỉ lệ tiết kiệm càng tăng.
Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có thu nhập thấp thì quy
mô và tỉ lệ tiết kiệm đều thấp trong khi yêu cầu của sự phát triển kinh tế ngày càng tăng,
đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn. Điều đó đặt ra sự cần thiết phải có nguồn hỗ trợ từ nước
ngoài. Mặt khác, trong sự giao lưu quốc tế hiện nay, ngay đối với các nước công nghiệp
phát triển vẫn cần có sự kết hợp nguồn vốn đầu tư trong nước và ngòai nước phục vụ cho
công cuộc phát triển kinh tế. Như vậy đối với một quốc gia tiết kiệm có được là tổng số
của tiết kiệm trong nước và tiết kiệm ngoài nước.
S = S
d
+ S
f
Trong đó, S là tổng tiết kiệm của một quốc gia, S
d
là tiết kiệm trong nước, S
f
là tiết
kiệm ngòai nước.
2.3.1. Tiết kiệm trong nước
2.3.1.1. Tiết kiệm của Chính phủ
Theo tính chất sở hữu, tiết kiệm của Chính phủ bao gồm tiết kiệm của ngân sách
nhà nước và tiết kiệm của các công ty nhà nước. Theo tổ chức kinh tế, thì tiết kiệm của các

công ty nhà nước và tiết kiệm của các công ty tư nhân được kết hợp chung là tiết kiệm của
các công ty. Do vậy, tiết kiệm của Chính phủ ở đây chỉ giới hạn trong phạm vi tiết kiệm
của ngân sách nhà nước. Về nguyên tắc, tiết kiệm được tính bằng cách lấy tổng số thu nhập
trừ đi các khoản chi tiêu. Thu ngân sách của Chính phủ chủ yếu là các khoản thu thuế,
ngoài ra còn có các khoản thu phí và lệ phí có tính chất thuế. Nhưng đối với Chính phủ,
Kinh tế phát triển 48B - 6 - SV: Lê Thị Ngọc

Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
đặc biệt là Chính phủ các nước đang phát triển, chi cho đầu tư phát triển là một nhiệm vụ
quan trọng, do đó tình trạng phổ biến thường là bội chi ngân sách.
Các khỏan chi ngân sách của Chính phủ bao gồm:
- Chi mua hàng hóa dịch vụ
Chi cho hoạt động dịch vụ ở Việt Nam được gọi là “ chi Thường xuyên” bao gồm :
chi cho bộ máy quản lý nhà nước; chi cho văn hóa, giáo dục, y tế; chi cho hoạt động khoa
học; chi cho an ninh, quốc phòng.
Chi mua hàng hóa chính là khoản “ chi đầu tư phát triển” bao gồm: chi xây dựng cơ
sở hạ tầng; chi phát triển một số ngành mũi nhọn có ý nghĩa quan trọng, tác động tới việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Chi cho các khoản trợ cấp.
- Chi trả lãi suất các khoản tiền vay của Chính phủ.
Điều đáng chú ý là, trong các khoản chi tiêu của Chính phủ qua ngân sáchchỉ có
khoản chi mua hàng hóa và dịch vụ được tính và GDP, còn chi trợ cấp là khoản sẽ tính vào
cho thu nhập của các hộ gia đình và chi trả lãi suất tiền vay của Chính phủ được gọi là
thanh toán chuyển khoản, không phải là yếu tố cấu thành GDP.
2.3.1.2. Tiết kiệm của các công ty
Tiết kiệm của các công ty được xác định trên cơ sở doanh thu của công ty và các
khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh thu của công ty (TR) là các khoản thu nhập của công ty do tiêu thụ hàng hóa
hoặc các dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian trong quá trình sản xuất. Tổng chi
phí (TC) thường bao gồm các khoản : trả tiền công, trả tiền thuê đất đai, trả lãi suất tiền

vay và thuế kinh doanh.
Khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí được gọi là lợi nhuận của
công ty trước thuế.
Pr trước thuế = TR – TC
Kinh tế phát triển 48B - 7 - SV: Lê Thị Ngọc

Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
Lợi nhuận trước thuế sau khi đóng thuế lợi tức sẽ còn lại lợi nhuận của công ty sau
thuế.
Pr sau thuế = Pr trước thuế - T
de
T
de là
thuế thu nhập của công ty.
Đối với các công ty cổ phần thì lợi nhuận sau thuế còn phải chia cho các cổ đông,
do đó còn xuất hiện thêm khái niệm lợi nhuận để lại công ty ( hay còn gọi là lợi nhuận
không chia). Lợi nhuận để lại công ty cùng với quỹ khấu hao trở thành nguồn vốn đầu tư
của công ty.
2.3.1.3. Tiết kiệm của dân cư
Tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Thu nhập
của hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng (DI) và các khoản thu nhập khác. Chúng
ta đã biết cách xác định thu nhập có thể sử dụng từ thu nhập quốc dân sản xuất (NI):
DI = NI – T
d
+ S
d
Trong đó: T
d
là thuế thu nhập ( bao gồm cả thuế thu nhập của công ty T
de


thuế thu nhập của dân cư T
dh
).
T
d
= T
de
+ T
dh
S
d
là các khoản trợ cấp của Chính phủ.
Các khoản thu nhập khác có thể từ rất nhiều nguồn như được viện trợ, thừa kế, bán
tài sản, trúng vé xổ số, thậm chí là các khoản đi vay…
Chi tiêu của hộ gia đình bao gồm:
- Các khoản chi mua hàng hóa và dịch vụ.
Chi mua hàng hóa đó là chi về lương thực, thực phẩm, quần áo, phương tiện đi lại
và các hàng hóa tiêu dùng lâu bền khác…;Chi cho hoạt động dịch vụ là chi cho du lịch, chi
cho các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao…
- Chi trả lãi suất các khoản tiền vay.
Kinh tế phát triển 48B - 8 - SV: Lê Thị Ngọc

Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
Khác với chi tiêu của Chính phủ, tất cả các khỏan chi tiêu của hộ gia đình đều được
coi là yếu tố cấu thành GDP. Mối quan hệ giữa các khoản thu nhập và chi tiêu của hộ gia
đình có thể được mô tả qua hàm chi tiêu.
Hàm chi tiêu C có dạng : C = a + b.DI
Trong đó : a là các khoản chi tiêu cố định
b là xu hướng tiêu dùng cận biên (MPC) phản ánh độ dốc của hàm chi

tiêu
MPC
DI
C
b
=


=
Tại D
1
, mức thu nhập có thể sử dụng nhỏ hơn mức chi tiêu ( DI<C). Tại đó, để có
đủ tiền chi tiêu dân cư phải sử dụng các khỏan thu nhập khác a
1
.
Tại D
0
, mức thu nhập có thể sử dụng vừa bằng mức chi tiêu (DI=C). Điểm 0 được
gọi là điểm vừa đủ.
Tại D
2
, mức thu nhập có thể sử dụng lớn hơn mức chi tiêu (DI>C). Tại đâydân cư
mới có thể tiết kiệm S
2
.
Hình 1.2. Hàm chi tiêu của các hộ gia đình
Kinh tế phát triển 48B - 9 - SV: Lê Thị Ngọc

C
D

1
D
0
D
2
a
a
1
S
2
0
C = a+b.DI
Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
Thu nhập ở mức D
0
là thu nhập vừa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia
đình. Nếu các hộ gia đình có mức thu nhập D
1,
tại đó sẽ không có tiết kiệm, mà còn thiếu
hụt so với nhu cầu tiêu dùng một lượng a
1
. Chỉ khi các hộ gia đình có mức thu nhập lớn
hơn D
0,
ví dụ ở mức D
2
sẽ có mức tiết kiệm là S
2
. Thu nhập càng tăng tỉ lệ tiết kiệm càng
lớn, còn tỷ lệ tiêu dùng giảm xuống.

Qua hình 1.2 có thể thấy rằng, khi thu nhập gia tăng, tỷ lệ tiết kiệm sẽ tăng dần, có ý
nghĩa là trong một nước, những gia đình có thu nhập cao hơn sẽ có tỷ lệ tiết kiệm lớn hơn.
Và tất nhiên, những nước giàu có sẽ có tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư cao hơn so với các nước có
mức thu nhập thấp.
2.3.2. Tiết kiệm ngoài nước
Nguồn tiết kiệm ngoài nước, đó chính là các khoản đầu tư nước ngoài (ĐTNN) hay
còn gọi là đầu tư quốc tế. Đầu tư nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước
ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ với mục đích kiếm tìm lợi nhuận hoặc
vì những mục tiêu chính trị, xã hội nhất định.
Vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chính là đầu tư của tư nhân ( trong đó chủ yếu là
đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI) và đầu tư của Chính phủ hay các tổ chức quốc tế.
2.3.2.1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn vốn đầu tư FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là một nguồn vốn lớn,
có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển.
Đối với các nước tiếp nhận đầu tư (chủ yếu là các nước đang phát triển), nguồn vốn
FDI có những tác dụng sau:
- FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích lũy nội bộ
thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ thuật thế giới phát
triển mạnh.
Kinh tế phát triển 48B - 10 - SV: Lê Thị Ngọc

Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
- Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển
giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận đầu tư, do đó các
nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại,
những kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện
về mọi mặt.
- Đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy tính
năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các tiềm

năng của đất nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tích cực.
- Với việc tiếp nhận FDI, không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không chịu những
ràng buộc về chính trị, xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua
việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài. Thông qua hợp tác với nước ngoài, nước tiếp
nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới. Như vậy các nước có khả năng
tốt trong việc huy động tài chính cho các dự án phát triển.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu
điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi có môi trường
bất ổn về kinh tế và chính trị, thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối với nước
sở tại, nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dẫn tới chỗ đầu tư tràn
lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.
2.3.2.2. Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
Nguồn vốn ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền nhà
nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang
phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Các hình thức viện trợ ODA
Theo mục đích và cách tiếp nhận viện trợ, thì ODA được thực hiện thông qua các
hình thức sau đây:
Kinh tế phát triển 48B - 11 - SV: Lê Thị Ngọc

Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương
- Hỗ trợ cán cân thanh toán, thường có nghĩa là hỗ trợ tài chính trực tiếp, nhưng đôi
khi lại là hỗ trợ hiện vật hoặc hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hóa chuyển vào trong
nước thông qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán có thể được chuyển thành hỗ trợ ngân
sách. Điều này xảy ra khi hàng hóa nhập vào nhờ hình thức này được bán ra trên thị trường
trong nước, và số thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của Chính phủ.
- Tín dụng thương mại với các điều khoản “mềm” (lãi suất thấp, hạn trả dài…).
Trên thực tế là một dạng hỗ trợ có ràng buộc.

- Viện trợ chương trình, là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ
nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà
không phải xác định chính xác nó sẽ phải được sử dụng như thế nào.
- Hỗ trợ dự án là hình thức chủ yếu của viện trợ chính thức. Hỗ trợ dự án thường
liên quan đến hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật và trên thực tế thường có cả hai yếu tố
này: Hỗ trợ cơ bản thường chủ yếu về xây dựng (đướng sá, cầu cống, trường học, bệnh
viện, hệ thống viễn thông…). Thông thường các dự án này có kèm theo một bộ phận của
viện trợ kỹ thuật, dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất
định nào đó, hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho các đối tác nhận viện trợ; Hỗ trợ
kỹ thuật thường chủ yếu chỉ tập trung vào chuyển giao trí thức hoặc tăng cường lập cơ sở
kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu trước khi đầu tư (quy hoạch, lập
các luận chứng kinh tế, kỹ thuật…). Chuyển giao trí thức có thể là chuyển giao công nghệ
thông thường, nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật phân tích (kinh tế, quản lý,
thống kê, thương mại, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội…).
Vai trò của ODA với các nước đang phát triển
- ODA là nguồn vốn cự kỳ quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế của các
nước đang phát triển. Thông qua các dự án ODA, cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của nước
tiếp nhận được nâng lên một bước. Nếu các nước đang phát triển sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn ODA sẽ là nhân tố tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Kinh tế phát triển 48B - 12 - SV: Lê Thị Ngọc

×