Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

skkn một số biện pháp chỉ đạo “giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5 6 tuổi” trên địa bàn huyện đông sơn, tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.56 MB, 30 trang )

MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

TRANG

I

MỞ ĐẦU

1

1

Lý do chọn đề tài

1

2

Mục đích nghiên cứu

2

3

Đối tượng nghiên cứu

2


4

Phương pháp nghiên cứu

2

II

NỘI DUNG

2

1

Cơ sở lý luận

3

2

Thực trạng

3

2.1 Thực trạng chung

3

2.2 Thuận lợi


3

2.3 Khó khăn

4

2.4

Kết quả khảo sát đầu năm

4

3

Các biện pháp thực hiện

6

Biện pháp 1: Xây dựng chỉ đạo điểm ở 2 lớp MGL và 2
trườngmầm non

6

Biện pháp 2: Linh hoạt sáng tạo về nội dung và phương pháp,

11

hình thức tổ chức các hoạt động cho trẻ .
Biện pháp 3: Từ các lớp điểm được xây dựng thành công, chúng
tôi đã nhân diện rộng trong toàn huyện


14

Biện pháp 4: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh và các
đoàn thể xã hội

15

Kết quả đạt được

16

Kết luận và kiến nghị

18

1

Kết luận

18

2

Kiến nghị

19

4
III



I. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất bao quanh con người.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người và sự phát triển
kinh tế văn hoá của đất nước, của nhân loại. Bảo vệ môi trường là một trong những
hoạt động nhằm giữ cho môi trường xanh, sạch đẹp.
Hiện nay vấn đề ô nhiễm MT đang diễn ra ở tất cả các nước trên thế giới,
vấn đề ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe con người, làm
mất đi vẻ đẹp của các thành phố lớn, những miền quê, những vùng núi xa xôi và
khắp mọi nơi trên cả nước.
Thực tế cho thấy, môi trường trên thế giới và ở Việt Nam đang bị ô nhiễm
đây là một nỗi đau nhức nhối trong toàn xã hội, môi trường bị huỷ hoại nghiêm
trọng, gây nên sự mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống. Theo báo cáo của WHO được công bố mới đây
mỗi năm trên thế gioái có khoảng 12,6 triệu chế do ô nhiễm môi trường. Ở Việt
Nam đã có những làng gọi là làng ung thư do nguồn nước trong một xã có 20 em
học sinh bị viêm cầu thận do sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm...Ung thư do ô nhiễm
môi trường không chỉ là bệnh của những người có tuổi mà đã len lõi và ăn sâu vào
thế hệ trẻ.
Tài nguyên đất, nước ngọt, đa dạng sinh học đang bị suy thoái; MT ô nhiễm
do công nghiệp và đô thị hoá; Hệ thống giao thông cấp thoát nước kém; Khói bụi,
tiếng ồn, rác thải quá tải. Một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng
trên là do sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của con người. Vì vậy hiểu biết về môi
trường và giáo dục bảo vệ môi trường trở thành vấn đề cấp bách, có tính chiến lược
toàn cầu và là vấn đề có tính xã hội sâu sắc, cần được giáo dục cho con người ngay
từ tuổi thơ.
GDBVMT là quá trình giáo dục có mục đích, thông qua các hoạt động giáo
dục nhằm làm cho con người trong cộng đồng quan tâm đến các vấn đề của MT, có

sự hiểu biết về MT, có thái độ, kỹ năng và hành vi tốt trong việc BVMT.
GDBVMT cho trẻ 5-6 tuổi ở các lớp MGL được sử dụng lồng ghép trong các
hoạt động sẽ mang lại hiệu quả rất cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ
mầm non, là người phụ trách chuyên môn Mẫu giáo ở phòng Giáo dục tôi trăn trở
với tình hình thực tế ở địa phương mong muốn tìm ra một số biện pháp chỉ đạo đạt
hiệu quả, phù hợp với đặc điểm GDMN khu vực nông thôn. Tôi xin mạnh dạn trao
đổi cùng các bạn đồng nghiệp đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục Bảo vệ
môi trường cho trẻ 5-6 tuổi trên địa bàn huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa” làm
đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho
trẻ mầm non.
1


Giáo viên có những kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ mầm non có ý thức
bảo vệ môi trường, từ đó hình thành cho trẻ ý thức tốt về bảo vệ môi trường.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số biện pháp chỉ đạo “Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ 5-6 tuổi”
thông qua các hoạt động trên địa bàn huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi áp dụng một số biện pháp sau
Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra giáo dục
Phương pháp quan sát thực hành sư phạm
Phương pháp thống kê
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:

Xác định được tầm quan trọng của việc BVMT và GDBVMT, Đảng và Nhà
nước ta trong những năm qua đã có nhiều văn bản, chỉ thị, nghị quyết về vấn đề
BVMT như: Quốc Hội đã ra văn bản số 55/2014/QH13 ngày 23/6/2014 có hiệu lực
từ ngày 01/01/2015 thay thế cho Luật bảo vệ môi trường năm 2005 (1) và rất nhiều
các văn bản pháp quy khác về luật bảo vệ môi trường. Công văn số 854/BTNMTKH, ngày 18/5/2014 của Bộ Tài nguyên & Môi trường hướng dẫn xây dựng kế
hoạch bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2015 của các Bộ , ngành, để triển khai thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong các cơ sở giáo dục và nhiệm vụ “Đưa các
nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”, Bộ Giáo dục & Đào
tạo hướng dẫn các sở giáo dục và đào tạo, các đại học, trường đại học và cao đẳng,
các viện và trung tâm nghiên cứu trực thuộc Bộ (gọi tắt là các đơn vị) báo cáo đánh
giá tình hình thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường. Đây là một việc hết sức quan
trọng thể hiện quyết tâm lớn của Đảng ta trong việc tăng cường hơn nữa công tác
BVMT, đẩy mạnh sự nghiệp BVMT một cách hài hoà cùng với phát triển nhanh
kinh tế đất nước và giải quyết tốt các vấn đề xã hội đặt ra trong quá trình CNH,
HĐH (2).
Giáo dục mầm non nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, là cơ sở quan
trọng đặt nền móng ban đầu cho việc hình thành nhân cách con người Việt
Nam. Giai đoạn từ 0 - 6 tuổi là giai đoạn rất quan trọng trong cuộc đời mỗi con
người. Trong giai đoạn này, trẻ phát triển rất nhanh về mặt thể chất, nhận thức, tình
cảm. Các mối quan hệ xã hội, những nét tính cách, phẩm chất và các năng lực
chung,… nếu không được hình thành ở trẻ trong lứa tuổi này, thì khó có cơ hội
hình thành ở lứa tuổi sau.
GDBVMT ở trường Mầm non là cung cấp cho trẻ những hiểu biết ban đầu
về cơ thể, về môi trường sống của bản thân nói riêng và của con người nói chung,
biết giữ gìn sức khoẻ bản thân, có hành vi ứng xử phù hợp để BVMT, sống thân
thiện với MT, nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh về cơ thể và trí tuệ (Quyết
định số 1363/QĐ-TTg ngày 17/10/2001 của Thủ tướng chính phủ)(3).
2



GDBVMT cho trẻ ở trường MN hoàn toàn có thể thực hiện được, bởi lẽ giai
đoạn từ 3-6 tuổi là giai đoạn đặc biệt nhạy cảm của đời người. Chính trong giai
đoạn này diễn ra sự phát triển mạnh mẽ về trí tuệ và thể chất, hình thành dồn dập
các năng lực khác nhau, đặt nền móng cho những nét cá tính và các phẩm chất đạo
đức của nhân cách. Đây là thời kỳ quan trọng để hình thành cơ sở của thái độ đúng
đắn với thế giới xung quanh (với thiên nhiên, đồ vật và con người).
Nội dung bảo vệ môi trường gồm có: Hoạt động học có mục đích; quan sát
có mục đích, hoạt động vận động và họat động tự do của trẻ. Trẻ tham gia các hoạt
động qua quan sát sẽ khêu gợi ở trẻ ý thức tự tìm hiểu và phát hiện những thay đổi
trong cuộc sống hàng ngày, trong MT thiên nhiên, xã hội xung quanh, qua đó tích
luỹ được nhiều kiến thức về môi trường sống, về xã hội.
Khi tham gia các trò chơi vận động, trò chơi dân gian và sử dụng các trang
thiết bị hoạt động, trẻ biết tận dụng MT để rèn luyện thể lực, từ đó trẻ có ý thức tốt
trong việc bảo vệ sức khoẻ của bản thân. Thông qua các hoạt động có thể lôi cuốn
trẻ vào nhiều nội dung giáo dục phong phú, đặc biệt là nội dung GDBVMT cho trẻ
(4).
2. Thực trạng:
2.1. Thực trạng chung.
Thực tế việc tổ chức Hoạt động bảo vệ môi trường ở các trường mầm non ở
huyện Đông Sơn chưa được khai thác phong phú. Các hoạt động đôi khi còn bị cắt
xén tuỳ tiện, nội dung đơn điệu, hình thức nghèo nàn. Giáo viên chưa nhận thức
đầy đủ về tầm quan trọng của việc tổ chức hoạt động cho trẻ, chưa có sự đầu tư
trong việc lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức, khả năng sáng tạo hạn chế. Về
công tác quản lý chưa thực sự chú trọng trong chỉ đạo thực hiện, còn lơi là trong
kiểm tra, giám sát việc thực hiện của giáo viên.
Một thực tế nữa là: Việc quản lý trẻ của giáo viên chưa tốt, trẻ MN rất hiếu
động, sợ trẻ dễ tai nạn khi hoạt động, nhất là các hoạt động động như: HĐNT, hoạt
động góc...nên giáo viên ít cho trẻ cơ hội được hoạt động với thiên nhiên mà suốt
ngày chỉ cho trẻ hoạt động loanh quanh trong bốn bức tường của lớp học.
Môi trường trong ngoài lớp còn nghèo nàn, diện tích khuôn viên nhà trường

còn chật hẹp, CSVC trang thiết bị còn thiếu nhiều, dẫn đến khó khăn cho giáo viên
khi lựa chọn các nội dung cho trẻ quan sát, vui chơi.
2.2. Thuận lợi:
Đông Sơn là một huyện đồng bằng cận kề thành phố Thanh Hoá, là nơi sơn
thuỷ hữu tình, tuy là huyện đồng bằng những có đủ núi, sông, đồng ruộng mênh
mông, quang cảnh thiên nhiên đẹp, là huyện có tiềm năng phát triển kinh tế tương
đối mạnh trong tỉnh. 15/15 xã, thị trấn có trường mầm non.
Có 141 lớp cả NT và MG, gồm 4238 cháu đạt tỉ lệ ra lớp là 82,4%. 100% số
trường tổ chức bán trú, 100% số trẻ mẫu giáo ăn ở bán trú.
100% các trường đã có khu trung tâm, chỉ còn 01 trường có điểm lẻ, vì vậy
công tác chỉ đạo tập trung và các nề nếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục có điều
kiện thực hiện tốt.
3


CSVC, trang thiết bị trong những năm gần đây đã được quan tâm hơn. Nhiều
trường có sân chơi đảm bảo yêu cầu, có từ 05 loại đồ chơi ngoài trời, đảm bảo diện
tích từ 3.500-7.000m2 trở lên, có ít nhất nhiều loại cây trong trường, có vườn thiên
nhiên của bé, vườn cổ tích. Có 14/16 trường chuẩn quốc gia, huyện có nhiều trường
có khuôn viên đẹp, bố trí các môi trường hoạt động ngoài lớp hợp lý, có nhiều cây
xanh bóng mát, vườn cổ tích đẹp phù hợp với hoạt động của trẻ.
85% các lớp mẫu giáo có môi trường hoạt động trong lớp đảm bảo yêu cầu
theo hướng mở, linh hoạt. Các thiết bị đồ dùng đồ chơi đầy đủ, đảm bảo phục vụ
các hoạt động của trẻ.
Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non đã được trẻ hoá, 100% có
trình độ trên chuẩn. Riêng giáo viên dạy lớp MGL là 70 cô, 100% đạt chuẩn trở
lên. 100% cán bộ quản lý có trình độ chuẩn trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ
quản lý. Chế độ của giáo viên ngày càng được nâng cao, do đó giáo viên yên tâm
công tác hơn.
Phong trào Giáo dục ở Đông Sơn đều và mạnh ở tất cả các xã, thị trấn.

Phòng giáo dục nhiều năm liên tục xếp loại A và là một trong các huyện dẫn đầu
toàn tỉnh.
2.3. Khó khăn:
Là huyện thuần tuý nông nghiệp nên đời sống của nhân dân gặp nhiều khó
khăn, do đó việc tuyên truyền, vận động phụ huynh hỗ trợ mua sắm trang thiết bị,
đồ dùng đồ chơi, xây dựng môi trường xanh, đẹp trong trường mầm non còn hạn
chế; mức học phí thấp nên đời sống giáo viên còn quá khó khăn.
CSVC của các trường MN có chuyển biến nhưng nhiều trường vẫn còn thiếu
các phòng chức năng và trang thiết bị hiện đại, môi trường xanh- sạch- đẹp ở các
trường MN chưa được quan tâm đúng mức. Một số đơn vị diện tích khu trung tâm
chưa được mở rộng thêm, các công trình phục vụ hoạt động giáo dục trẻ như vườn
thiên nhiên của bé, góc chơi cát nước, vườn cây, ao cá, quang cảnh sư phạm trong
trường chưa được cải thiện nhiều.
CBGV có trình độ chuẩn trở lên nhiều nhưng đa số trình độ đào tạo chắp vá
nên năng lực chuyên môn còn hạn chế, hoạt động ngoài trời chưa được giáo viên
chú trọng khai thác, thực hiện còn mang tính đối phó, nội dung còn nghèo nàn, đơn
điệu không kích thích được hứng thú của trẻ chơi, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra theo các chủ đề.
2.4. Khảo sát chất lượng đầu năm:
Trước khi áp dụng các biện pháp tôi tiến hành khảo sát với kết quả như sau
* CSVC, trang thiết bị phục vụ tổ chức Hoạt động ngoài trời: Khảo sát
16 trường và 35 lớp MGL vào tháng 8 năm 2016.

4


TT

Nội dung đánh giá


Xếp loại trường
T

K

TB

Xếp loại lớp
T

K

1

Số trường có từ 5 loại đồ chơi ngoài trời
trở lên.

10

6

24

11

2

Lớp có môi trường trong lớp sinh động,
phong phú theo hướng mở, linh hoạt, có
góc thiên nhiên, khám phá khoa học, góc

chơi cát nước....các góc đặt ở vị trí phù
hợp với tính chất hoạt động của từng
góc. Sắp xếp khoa học, thuận tiện với trẻ
khi sử dụng.

8

8

18

17

3

Số lớp có nhiều loại đồ dùng, đồ chơi,
tranh ảnh.... do cô và trẻ sưu tầm, tự làm
bằng phế liệu và các nguyên vật liệu sẵn
có ở địa phương

8

8

16

19

TB


5



×