Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Giải pháp giúp giáo viên sáng tạo trong tổ chức hoạt động học phát triển thẩm mỹ cho trẻ 4 5 tuổi trường MN nga hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.2 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN SÁNG TẠO
TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC,
NHẰM PHÁT TRIỂN THẨM MĨ CHO TRẺ MẪU GIÁO
4 – 5 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA TRUNG

Người thực hiện: Vũ Thị Cúc
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường mầm non Nga Trung
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THANH HÓA NĂM 2017
1


2


A. MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Giáo dục thẩm mĩ trong trường mầm non là một trong năm lĩnh vực chủ yếu
nhằm bước đầu hình thành và phát triển ở trẻ những hiểu biết và kĩ năng cơ bản về
thẩm mĩ đối với môi trường thiên nhiên, với con người và xã hội. Giáo dục thẩm
mĩ trong trường mầm non là tạo môi trường giáo dục phát triển thẩm mĩ phù hợp
với trẻ lứa tuổi mầm non, những điều kiện cần thiết nhằm giúp trẻ có khả năng


cảm nhận vẻ đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống và trong tác phẩm nghệ thuật; có
khả năng thể hiện cảm xúc, sáng tạo trong các hoạt động âm nhạc, tạo hình. [1]
Với chương trình giáo dục mẫu giáo, mục tiêu của chương trình là nhằm giúp
trẻ từ 3 đến 6 tuổi phát triển hài hòa về mặt thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình
cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mĩ, chuẩn bị cho trẻ vào học ở tiểu học. Riêng với
mục tiêu về sự phát triển thẩm mĩ thì chương trình có mục tiêu giúp trẻ có khả
năng quan sát, so sánh, phán đoán, chú ý, ghi nhớ có chủ định. Có khả năng phát
hiện và giải quyết vấn đề đơn giản theo những cách khác nhau, ham hiểu biết và
khám phá tìm tòi các sự vật hiện tượng xung quanh, v.v... Sự chín muồi về nhận
thức đồng nghĩa với việc phát triển tính tích cực nhận thức, được thể hiện rõ ở trẻ
mẫu giáo 4 – 5 tuổi khi ở giai đoạn này, trẻ bắt đầu phát triển mạnh về tư duy, đặc
biệt là tư duy trực quan hình tượng – trước khi chuyển dần sang tư duy trừu tượng,
được biểu hiện rõ thông qua hoạt động trò chơi học tập của trẻ. Tính tích cực nhận
thức ở độ tuổi này được thể hiện thông qua việc trẻ quan tâm nhiều đến thế giới
muôn màu xung quanh mình, những mối quan hệ trong thế giới tự nhiên bằng
những câu hỏi ngộ nghĩnh, “ngây thơ”. Trẻ luôn muốn khám phá những điều mới
lạ, luôn tò mò với những điều mình chưa biết,….chính những yếu tố đó khiến trẻ
có thêm động lực tìm hiểu, tính tích cực nhận thức của trẻ lúc này được hình thành
và phát triển khá mạnh. Tính tích cực nhận thức là trạng thái tâm lý mang tính cá
nhân trong hoạt động nhận thức, là biểu hiện sự tích cực hoạt động của chủ thể đối
với đối tượng nhận thức. Giáo dục phát triển thẩm mĩ cho trẻ được tiến hành thông
qua nhiều hoạt động mà âm nhạc và tạo hình được coi là những hoạt động chiếm
ưu thế. Mục đích của giáo dục thẩm mĩ nhằm phát triển ở trẻ khả năng cảm nhận
và thể hiện cái đẹp; giáo dục trẻ mối quan hệ thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ. Từ đó,
hình thành ở trẻ thị hiếu và thái độ thẩm mĩ đúng đắn.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của giáo viên khi tổ chức hoạt
động học nhằm phát triển thẩm mĩ cho trẻ 4 – 5 tuổi cũng như mong muốn được
chia sẻ kinh nghiệm chỉ giáo viên sáng tạo trong tổ chức hoạt động học cho trẻ
mẫu giáo đạt hiệu quả nên tôi đã lựa chọn đề tài: “ Biện pháp chỉ đạo giáo viên
sáng tạo trong tổ chức hoạt động học nhằm phát triển thẩm mĩ cho trẻ mẫu

giáo 4 – 5 tuổi ở trường mầm non Nga Trung” để nghiên cứu.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
+ Tìm ra một số biện pháp chỉ đạo giáo viên thực hiện sáng tạo trong tổ chức
hoạt động học nhằm phát triển thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ở trường mầm
non Nga Trung .
+ Hướng dẫn giáo viên cách xây dựng tổ chức hoạt động học, làm đồ dùng đô
chơi….phục vụ cho việc phát triển thẩm mĩ cho trẻ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non
Nga Trung .
+ Nâng cao chất lượng phát triển thẩm mĩ cho trẻ 4 – 5 tuổi ở trường mầm
non Nga Trung .
3


III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tập trung nghiên cứu một số biện pháp chỉ đạo giáo viên sáng tạo trong tổ
chức hoạt động học nhằm phát triển thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi tại trường
mầm non Nga Trung
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành nhiệm vụ đề tài đặt ra. Tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tham khảo các tài liệu liên quan đến hoạt
động học phát triển thẩm mĩ cho trẻ.
- Phương điều tra, khảo sát: theo phiếu khảo sát trẻ và trao đổi trực tiếp.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp kết quả điều tra.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Hoạt động học của trẻ trong chế độ sinh hoạt hàng ngày được tổ chức dưới
sự định hướng và hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Nội dung hoạt động học được
tiến hành theo mục đích, kế hoạch, mang tính tích hợp và được dự kiến trong kế

hoạch tuần phù hợp với các lĩnh vực nội dung giáo dục trong chương trình theo
chủ đề. [4]
Hoạt động tạo hình và hoạt động âm nhạc là các dạng hoạt động nghệ thuật
được trẻ yêu thích và là các phương tiện giáo dục thẩm mĩ có hiệu quả. Đối với trẻ
mẫu giáo, nội dung giáo dục phát triển thẩm mĩ bao gồm: Khả năng cảm nhận và
thể hiện cảm xúc trươc vẻ đẹp của các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, cuộc
sống và các tác phẩm nghệ thuật (âm nhạc, tạo hình); một số kĩ năng trong hoạt
động âm nhạc, tạo hình và thể hiện sự sáng tạo khi tham gia các hoạt động này.
Đặc điểm cơ bản của hoạt động tạo hình ở trẻ 4 – 5 tuổi
Cùng với việc hoàn thiện dần các kĩ năng tạo hình, trẻ ở lứa tuổi này đã hiểu
được chức năng thẩm mĩ của các đường nét, hình khối. Trẻ có khả năng phân biệt
và điều chỉnh các nét vẽ, tạo ra nhiều hình thức khác nhau ( ô van, hình bán
nguyệt), qua đó mở rộng phạm vi các đối tượng miêu tả. Đồng thời, trẻ bắt đầu
nhận biết, phân biệt mầu sắc thật của đối tượng miêu tả như một dấu hiệu đặc thù
và thể hiện chúng trong tranh vẽ ( ví dụ: trẻ hiểu ông mặt trời nên được tô màu đỏ
hoặc vàng, mặt nước tô màu xanh….). Tri giác không gian và tư duy không gian
phát triển giúp trẻ có thể liên hệ giữa không gian ba chiều của khung cảnh hiện
thực với không gian hai chiều trên tờ giấy vẽ và biết cách sắp xếp xen kẽ giữa các
đối tượng miêu tả chính trên nền các thành phần thứ yếu ( Ví dụ: vẽ đường làng
thể hiện sự xen kẽ các kiểu nhà, cây cối.) [2]
Đặc điểm cơ bản của hoạt động âm nhạc ở trẻ 4 – 5 tuổi
Trẻ độ tuổi này đã thể hiện tính độc lập. Trẻ đặt ra các câu hỏi như: Vì sao?
Thế nào?......Trong tư duy trẻ bắt đầu nắm được mối quan hệ giữa các sự vật, hiện
tượng. Trẻ có thể xác định được các âm thanh cao, thấp, to nhỏ. Âm sắc (tiếng hát
của bạn hoặc tiếng đàn). Biết phân biệt tính chất âm nhạc: Vui vẻ, sôi nổi, êm dịu,
nhịp độ nhanh hay chậm…..Trẻ hiểu được yêu cầu của bài hát, sự phối hợp động
tác trong khi múa. Ở độ tuổi này giọng trẻ đã âm vang ( tuy chưa lớn) và linh hoạt
hơn. Khả năng phối hợp giữa nghe nhạc và hát cũng ổn định hơn. Hứng thú với
từng dạng hoạt động âm nhạc ở từng trẻ, khả năng thể hiện sự phân hóa rõ rệt, trẻ
thích hát, trẻ thích múa, trẻ thích chơi các dụng cụ âm nhạc….[2]


4


Căn cứ vào đặc điểm phát triển hoạt động thẩm mĩ của trẻ 4 – 5 tuôi, giáo
viên cần có một quan điểm xuyên suốt luôn luôn hướng vào trẻ, căn cứ vào khả
năng, nhu cầu của trẻ để tổ chức hoạt động học.
Để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng phát triển thẩm mĩ
nói riêng. Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT
ngày 25 tháng 7 năm 2009, ban hành quyết định về chương trình giáo dục mầm
non. Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào
lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực
và phẩm chất phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở
các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.
Trong các văn bản Pháp luật hiện nay ( điều 2, điều 22 Luât giáo dục Việt
Nam sô 38/2005/QH11); Chương trình giáo dục mầm non ( Ban hành theo thông
tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ giáo dục
và Đào tạo) đều cho rằng giáo dục phát triển thẩm mĩ cho trẻ mầm non là một nội
dung quan trọng trong quá trình giáo dục phát triển toàn diện trẻ mầm non. [3]
Bên cạnh đó trong tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cán bộ quản lý và giáo
viên mầm non năm học 2016 – 2017 có nội dung chuyên đề “ Hướng dẫn tổ chức
các hoạt động giáo dục phát triển thẩm mĩ cho trẻ mầm non ” đã được Sở Giáo dục
và Đào tạo Thanh Hóa, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Nga Sơn tổ chức triển
khai tài liệu từ năm học 2016 – 2017, nội dung phát triển thẩm mĩ qua hoạt động
học cho trẻ mầm non nói chung và trẻ 4 – 5 tuổi nói riêng. Đó là hoạt động dưới sự
định hướng và hướng dẫn trực tiếp của giáo viên trong đó sử dụng hiệu quả các
hoạt động có ưu thế nổi trội trong việc giáo dục phát triển thẩm mĩ cho trẻ như
hoạt động tạo hình, âm nhạc, kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch…
Để thực hiện tôt tổ chức hoạt động học nhằm phát triển thẩm mĩ cho trẻ mẫu

giáo 4 – 5 tuổi thì chúng ta phải nhận thức được rằng: Dưới 6 tuổi được coi là giai
đoạn khởi đầu – giai đoạn “ vàng ” trong quá trình phát triển của con người. Đây là
thời kì thuận lợi để giáo dục thẩm mĩ cho trẻ đặc biệt là trẻ 4 – 5 tuổi, tạo tiền đề
quan trọng cho việc giáo dục hình thành nhân cách con người trong tương lai. [3]
II THỰC TRẠNG.
1. Thuận lợi
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho giáo
viên phát huy khả năng sáng tạo trong giảng dạy.
- Các nhóm lớp được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất.
- Giáo viên được tham gia các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn do nhà
trường tổ chức.
- Đội ngũ cán bộ, giáo viên trẻ, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, được sự tín
nhiệm và ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh.
- Phụ huynh nhiệt tình, có trách nhiệm và ý thức phối kết hợp cùng giáo viên
trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
- 100% trẻ sinh hoạt bán trú tại trường, số trẻ được phân chia đúng theo chỉ
tiêu và độ tuổi. Tỷ lệ bé ngoan, bé chuyên cần đạt 95 – 98%
2. Khó khăn
- Trình độ chuyên môn của giáo viên chưa đồng đều. Năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên có mặt còn chưa đáp ứng những yêu cầu đổi mới
của giáo dục, đặc biệt là ở một số năng lực nghề nghiệp, ít chú ý đến phát triển tư
duy, năng lực sáng tạo, kĩ năng tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ mầm non.
5


- Giáo viên chưa chịu khó tìm tòi phương pháp mới để áp dụng vào việc tổ
chức hoạt động học của trẻ. Còn hạn chế việc cập nhật tin tức và ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy.
- Khả năng chú ý có chủ định của trẻ còn kém, trẻ hứng thú nhanh nhưng
cũng dễ chán, dễ quên ngay.

- Đồ dùng, học liệu để dạy trẻ chưa đa dạng, phong phú, hấp dẫn trẻ và độ bền
không cao.
3. Kết quả khảo sát đầu năm
* Khảo sát chất lượng giáo viên
( Số giáo viên mẫu giáo 4 – 5 tuổi là 4 giáo viên)
Nội dung khảo sát
Giáo án đầy đủ, rõ ràng, đúng nội dung,
phương pháp
Chuẩn Tỷ lệ %
bị cho Đồ dùng cho cô và cháu đầy đủ, thuận
tiện sử dụng
hoạt
động
Tỷ lệ %
học
Tổ chức giờ học hợp lí: Thời gian, đội
hình, vị trí lớp học
Tỷ lệ %
Nắm chắc yêu cầu kiến thức, kĩ năng của
hoạt động dạy
Tỷ lệ %
Nội
Đảm bảo yêu cầu kiến thức, kĩ năng của
dung
hoạt động dạy
hoạt
động
Tỷ lệ %
học
Hình thành kiến thức cho trẻ có hệ thống

chính xác, phù hợp
Tỷ lệ %
Thể hiện đúng phương pháp của hoạt
động
Tỷ lệ %
Sử dụng các phương pháp khác phù hợp
với hoạt động, phát huy được tính tích
cực của trẻ.
Phương Tỷ lệ %
Biết lồng tích hợp nội dung các môn học
pháp
vào hoạt động phù hợp
thực
hiện
Tỷ lệ %
Bao quát lớp, giải quyết các tình huống
sư phạm
Tỷ lệ %
Sử dụng đồ dùng và các phương tiện trực
quan đúng lúc có hiệu quả
Tỷ lệ %

Giỏi Khá

Trung
bình

Yếu

2


1

1

0

50

25

25

0

2

1

1

0

50

25

25

0


2

1

1

0

50

25

25

0

2

1

1

0

50

25

25


0

2

1

1

0

50

25

25

0

2

1

1

0

50

25


25

0

2

1

1

0

50

25

25

0

2

1

1

0

50


25

25

0

2

1

1

0

50

25

25

0

2

1

1

0


50

25

25

0

2

1

1

0

50

25

25

0
6


* Kết quả thể hiện trên trẻ
( Tổng số trẻ được khảo sát: 60 cháu)
Nội dung khảo sát

Trẻ cảm nhận và thể hiện cảm xúc
trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc
sống và các tác phẩm nghệ thuật.
Trẻ có kĩ năng trong hoạt động âm
nhạc và hoạt động tạo hình.
Trẻ thể hiện sự sáng tạo khi tham gia
các hoạt động âm nhạc, tạo hình.
Trẻ có nề nếp học tập

Đạt
Số lượng Tỷ lệ %

Chưa đạt
Tỷ
Số lượng
%

45

75

15

25

46

77

14


23

44

73

16

27

48

80

12

20

lệ

Kết quả: Tỷ lệ giáo viên xếp loại giỏi: 50%; Tỷ lệ giáo viên xếp loại khá và
trung bình: 50%. Tỷ lệ trẻ đạt là 75%; Tỷ lệ trẻ chưa đạt là 25%.
Đứng trước tình hình đó, tôi rất băn khoăn, trăn trở phải làm gì? Làm như thế
nào để chỉ đạo giáo viên sáng tạo trong tổ chức hoạt động học phát triển thẩm mĩ
cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp
cụ thể như sau.
III - CÁC GIẢI PHÁP SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Chỉ đạo giáo viên tạo môi trường giáo dục cho trẻ hoạt động
1.1 Tạo môi trường hoạt động tạo hình phong phú

Trang trí tạo môi trường nghệ thuật để gây cảm xúc, gây ấn tượng cho trẻ về
nghệ thuật tạo hình. Tạo môi trường đẹp trong lớp là để khi trẻ đến lớp, ấn tượng
đầu tiên tác động vào trẻ là toàn bộ sự bài trí, cách sắp xếp trang trí lớp học của
trẻ. Trẻ quan sát xung quanh xem lớp mình có khác nhà mình không? Có đẹp hơn
nhà mình không?... Chính môi trường lớp học sẽ tạo ấn tượng khó phai trong trẻ.
Đây là tác động cần thiết để hình thành cảm xúc nghệ thuật cho trẻ. Vì vậy dựa vào
yêu cầu của chủ đề, căn cứ vào cấu trúc phòng học của lớp mình và đặc điểm tâm
lý của trẻ ở độ tuổi 4 – 5 tuổi mà tạo môi trường nghệ thuật xung quanh trẻ .
Các mảng chính trong lớp như mảng chủ đề, các tiêu đề của các góc, để gây
ấn tượng cho trẻ tôi đã chỉ đạo giáo viên sưu tầm, thiết kế các hình ảnh ngộ
nghĩnh đáng yêu, có màu sắc đẹp, bố cục hợp lý và có tên thật gần gũi với trẻ.
Ví dụ : Mảng chủ đề thường ở vị trí chính để trẻ dễ nhìn thấy. Nội dung của
mảng chủ đề thường được tổng hợp các hình ảnh về chủ đề: Có hình ảnh ngôi
trường, đu quay, cầu trượt ... có cô giáo cùng bé đi dạo ...
Các góc hoạt động như góc gia đình, trong đó có các hình ảnh mẹ và bé mặc
tạp dề nấu cơm, có đồ dùng công cụ chế biến. Hay góc xây dựng đặt tên : Kiến
trúc sư tí hon, công trình mơ ước ... có hình ảnh của trẻ hoặc các con vật đang di
chuyển các vật liệu, đang làm các bác thợ xây với những hình ảnh ngộ nghĩnh ở
phía trên mảng tường. Còn phía mảng tường tôi chỉ đạo giáo viên trang trí bằng
nhựa trong hoặc thảm gai, trong đó có các sản phẩm do chính tay trẻ làm để trang
trí cho góc đó. Nếu không có các chất liệu trên thì tôi chỉ đạo giáo viên hai lớp 4
-5 tuổi dùng ni lông, mặt sau của lịch tường.
Để phát huy tối đa tác dụng của môi trường hoạt động sau khi chuyển chủ đề,
tôi đã chỉ đạo giáo viên thay đổi nội dung chủ đề mới. Giáo viên cùng trẻ thảo luận
và đặt tên cho chủ đề mới và tên của góc chơi của mình. Nội dung của các góc tôi
chỉ đạo giáo viên giới thiệu cho trẻ về các sản phẩm bằng các ngôn ngữ nghệ thuật
7


để tích lũy cho trẻ có vốn hiểu biết về nghệ thuật, say mê nghệ thuật. Từ đó kích

thích lòng ham muốn tham gia sáng tạo sản phẩm nghệ thuật để trang trí .
Ví dụ : Ở góc tạo hình :
Tôi chỉ đao giáo viên giới thiệu cho trẻ biết " đây là ngôi nhà nghệ thuật của
chúng mình . Chúng mình hãy cùng chọn một cái tên thật hay để đặt cho nó nhé,
nào ai có ý kiến ? cô gợi ý các tên như sau: họa sĩ nhí, bé khéo tay, bé làm họa sĩ,
họa sĩ tí hon ..." Cho trẻ thảo luận và lựa chọn nếu trẻ nào nghĩ được tên khác hay
hơn cô có thể chọn làm tên góc hoạt động .
Bây giờ ngôi nhà này đã có tên rồi : Cô giới thiệu với chúng mình đây là hình
ảnh hai bạn Gấu đang tập vẽ tranh, bạn Thỏ đang nặn ... tranh này do cô tự làm lấy,
chúng mình thấy như thế nào? còn đây là bức tranh vẽ về ngôi nhà mơ ước của bạn
Tuấn năm trước học ở đây, còn đây là tranh dán hình ngôi nhà của bạn Thùy Linh,
còn đây là con gà, con vịt, quả cảm... bây giờ cô muốn mỗi bạn hãy làm thật nhiều
những sản phẩm để trang trí cho ngôi nhà của chúng mình đẹp hơn nhé. Cô muốn
trong lớp mình ai cũng có sản phẩm để được trang trí lên từng ngôi nhà nhỏ của
chúng mình để cô thay các tranh vẽ của bạn cũ, chúng mình có đồng ý không? Từ
lời gợi mở như vậy đã kích thích trẻ tạo ra sản phẩm mới .
Để gây hứng thú cho trẻ trong góc tạo hình. Tôi đã chỉ đạo giáo viên chuẩn bị
mảng cung cấp kiến thức, các nguyên vật liệu phù hợp và phong phú về chủng
loại. Ví dụ : Giấy màu, tranh ảnh cũ, màu nước, đất nặn ...
Nguyên vật liệu tôi chỉ đạo giáo viên luôn để ở trạng thái mở để trẻ dễ sử
dụng khi vào hoạt động. Bên cạnh đó tôi cũng chỉ đạo 4 giáo viên khối 4 – 5 tuổi
chuẩn bị một bức tranh hay sản phẩm tạo hình mà giáo viên đã cung cấp hoặc sắp
cung cấp trên hoạt động học để làm mảng cung cấp kiến thức cho trẻ, thu hút sự
chú ý của trẻ trong các giờ đón và trả trẻ, giờ hoạt động góc, kết hợp với lời gợi ý
trẻ vào góc chơi, từ đó giúp trẻ củng cố và làm quen kiến thức, giúp trẻ tăng thêm
vốn kiến thức, kỹ năng trong giờ hoạt động học.
Không chỉ có góc tạo hình mới phát huy khả năng tạo hình cho trẻ . Cụ thể :
+ Góc khám phá khoa học: trong góc khám phá khoa học luôn có nội dung cung
cấp cho trẻ về toán và khám phá khoa học ... thông qua các môn học đó, tôi đã chỉ
đạo giáo viên thiết kế lựa chọn các trò chơi, nội dung để củng cố, cung cấp cho trẻ,

từ đó giáo viên có thể lồng ghép, rèn luyện kỹ năng tạo hình cho trẻ, kỹ năng cầm
bút và kỹ năng tô màu .
+ Góc sách : Là một góc yên tĩnh nhất, khi vào góc sách trẻ được xem các loại
sách, tô vẽ, làm tranh truyện, kể chuyện sáng tạo, cùng cô kể về các đồ dùng liên
quan tới chủ đề đang thực hiện .
Ví dụ : Giáo viên hướng dẫn trẻ tô tranh truyện, hướng dẫn cách tô màu cho bức
tranh thêm đẹp.
Như vậy, ở mỗi góc chơi, nhóm chơi chỉ có một nhóm trẻ hoặc một cá nhân
tham gia hoạt động sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên muốn rèn trẻ tiếp thu
chậm hoặc củng cố kỹ năng cho trẻ, từ đó giúp trẻ phát triển hơn về kỹ năng tạo
hình.
Nếu diện tích phòng học chật, tôi chỉ đạo giáo viên tận dụng không gian bên
ngoài như hiên của phòng học làm nơi trưng bày sản phẩm của trẻ . Giáo viên bố
trí mỗi trẻ có một ô để cài sản phẩm để nhận xét, đánh giá của trẻ, để trẻ tự tay cầm
ra ô của mình cài vào. Ở đây trẻ được quan sát toàn bộ sản phẩm của mình và của
bạn. Trẻ có thể tự so sánh bài tập của ai đẹp hơn, xấu hơn, nếu bài của bé xấu thì
bé phải cố lên, lần sau phải làm cho đẹp hơn để bằng bạn hoặc làm đẹp hơn để có
8


bài trang trí trong các góc. Từ kết quả đó sẽ kích thích lòng ham muốn say mê học
tạo hình của trẻ .
Ngoài ra tôi còn chỉ đạo giáo viên trang trí xen kẽ trồng cây xanh, sắp xếp đồ
dùng đồ chơi cho hợp lý để tạo môi trường thực sự phù hợp với tâm lý của trẻ để
trẻ hứng thú tham gia hoạt động tạo hình.
1.2 Tạo môi trường hoạt động âm nhạc phong phú
Chỉ đạo giáo viên vẽ tranh, sưu tầm tranh ảnh từ họa báo, lịch….có nội dung
về hoạt động âm nhạc, nội dung bài sắp học để trang trí hoặc làm đồ dùng giảng
dạy.
Trang trí góc âm nhạc thật sinh động và thay đổi theo chủ đề để gây sự thu hút

đối với trẻ. Góc âm nhạc là nơi trẻ có điều kiện thể hiện khả năng âm nhạc của
mình. Trẻ có thể làm quen, ôn luyện, củng cố và vận dụng phát triển những kĩ năng
âm nhạc qua các trò chơi, hoạt động phát triển khả năng sáng tạo của trẻ. Tại đây
trẻ tự hát, hay tự vận động theo nhạc, biểu diễn một mình hay theo nhóm một cách
hứng thú và sáng tạo.
Bên cạnh đó tôi cũng chỉ đạo giáo viên tham mưu với nhà trường để mua
thêm đàn Oogar, đàn ghi ta điện, đàn bầu, sáo....Vận động, phối hợp với phụ huynh
để mua các dụng cụ như loa đeo thắt lưng, micro bluetooth, đèn led….
Tận dụng diện tích phòng học, phòng âm nhạc tôi đã chỉ đạo giáo viên bố trí
sắp xếp các học liệu, dụng cụ hợp lí đẹp mắt như: các đồ dùng, đồ chơi âm nhạc có
thể sắp xếp theo từng nhóm riêng ( nhạc cụ thật – nhạc cụ đồ chơi; nhạc cụ gõ –
thổi - gãy) hoặc sắp xếp theo trật tự tùy ý nhưng phải đảm bảo gọn gàng đẹp mắt
và thuận tiện khi giáo viên và trẻ lấy ra sử dụng.
Khi thực hiện các hoạt động âm nhạc, trọng tâm là dạy múa minh họa, phòng
âm nhạc có các thiết bị như đàn oocgan, quạt múa, gương soi…..để trẻ hứng thú
hoạt động. Đồng thời trong quá trình thực hiện, trẻ có thể nhìn vào gương điều chỉ
động tác của mình, từ đó, trẻ hoạt động tích cực, hào hứng, sôi nổi, thoải mái hiệu
quả hơn.
Ví dụ: Khi dạy trẻ hát bài “ Màu hoa”, chủ đề thế giới thực vật
+ Tôi đã chỉ đạo giáo viên trang trí xung quanh lớp bằng các loại hoa.
+ Ở góc chơi, tôi cũng đã chỉ đạo giáo viên chuẩn bị các loại hoa ( do giáo
viên cắt sẳn, tự làm). Khi kết thúc bài, trẻ về các góc chơi vừa nghe hát vừa dán
hoa, xếp vườn hoa, từ đó trẻ được củng cố tai nghe, hát theo bạn giúp trẻ thuộc lời
nhanh hơn, hứng thú hơn.
Tóm lại việc tạo môi trường hấp dẫn cho trẻ là một việc rất quan trọng góp
phần nâng cao chất lượng hoạt động học phát triển thẩm mĩ cho trẻ .
2. Chỉ đạo giáo viên tổ chức hoạt động học phát triển thẩm mĩ cho trẻ 4 –
5 tuổi.
Để giáo dục phát triển thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trường mầm non
Nga Trung, thông qua hoạt động học, cần dựa vào ưu thế của mỗi hoạt động để

khai thác nội dung giáo dục thẩm mĩ một cách phù hợp.
2.1 Hoạt động âm nhạc
Âm nhạc là một trong các hoạt động nghệ thuật ở trường mầm non được trẻ
yêu thích. Đây là phương tiện có hiệu quả để giáo dục thẩm mĩ cho trẻ 4 – 5 tuổi.
Hình thức dạy học trong hoạt động học giữ vai trò quan trọng trong sự phát
triển trí tuệ của trẻ. Thời gian tổ chức hoạt động học chiếm rất ít thời gian trong
sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Chính vì vậy, ở mỗi hoạt động học âm nhạc tôi luôn
chỉ đạo giáo viên cần phải sáng tạo tổ chức các hình thức phong phú, hấp dẫn để
thu hút trẻ vào hoạt động một cách nhẹ nhàng và đạt hiệu quả cao.
9


2.1.1 Hoạt động dạy hát: Tôi đã chỉ đạo giáo viên sáng tạo trong việc giới
thiệu bài
Việc tạo cảm xúc gây hứng thú cho trẻ vào hoạt động học âm nhạc nhằm thu
hút sự tập trung hứng thú, háo hức được hát, múa cùng cô, được sử dụng đồ dùng
âm nhạc sẽ giúp trẻ cảm nhận được tác phẩm âm nhạc một cách dễ dàng hơn.
Để giúp giáo viên sáng tạo trong phần giới thiệu bài, tôi chỉ đạo giáo viên giới
thiệu bài với nhiều hình thức khác nhau như:
* Lời giới thiệu ngắn gọn nhưng thật truyền cảm để trẻ có được cảm xúc và
ấn tượng tốt đẹp với bài hát.
Ví dụ 1: Khi dạy hát bài ‘Mẹ đi vắng’ chủ đề gia đình, giáo viên giới thiệu bài
bằng cách kể chuyện: “Có một bạn nhỏ trong khi mẹ đi vắng đã sang nhà bạn của
mình chơi, nhưng trong khi chơi thì bạn luôn nhớ về mẹ của mình. Các con có biết
khi nhớ mẹ bạn nhỏ đã làm gì? Muốn biết bạn nhỏ đã làm gì mời các con cùng
lắng nghe bài hát “ Mẹ đi vắng ” của tác giả Trịnh Công Sơn!’
Ví dụ 2: Khi dạy hát bài “ Ba em là công nhân lái xe” chủ đề nghề nghiệp,
giáo viên giới thiệu: “ Các con ạ, trong xã hội mọi người làm nhiều ngành nghề
khác nhau, nghề nào cũng cao quý và cũng đáng trân trọng. Có rất nhiều nhạc sĩ đã
sáng tác thành công những bài hát hay để ca ngợi về các nghề. Hôm nay cô sẽ hát

tặng các con một trong số những bài hát đó là bài “Ba em là công nhân lái xe” của
chú Lê Văn Lộc”.
* Ngoài ra tôi còn chỉ đạo giáo viên sử dụng các hình thức cuốn hút khác như:
đọc thơ, chơi trò chơi hoặc dùng tranh ảnh, đồ vật có nội dung phù hợp để giới
thiệu và dẫn dắt trẻ vào nội dung bài hát.
Ví dụ 1: Dạy bài hát “ Đàn vịt con” chủ đề Thế giới động vật, giáo viên cho
trẻ chơi trò chơi “ Con gì nó kêu?”. Giáo viên cho trẻ nghe và đoán tiếng kêu của
một số con vật thuộc nhóm động vật sống trong gia đình ( con vịt, con gà trống,
con chó, con mèo...).
+ Trò chuyện với trẻ về các con vật nuôi trong gia đình.
+ Cho trẻ quan sát hình ảnh đàn vịt con.
+ Vịt mẹ dẫn vịt con đi đâu?
+ Để biết trước khi đi Vịt mẹ dặn vịt con điều gì, các con lắng nghe bài hát “
Đàn vịt con ” do chú Mộng Lân sáng tác nhé.
Ví dụ 2: Dạy hát bài “ Đi trên vỉa hè bên phải” chủ đề Phương tiện giao
thông. Giáo viên cho trẻ đọc bài thơ “ Đi chơi phố”
+ Các con vừa đọc bài thơ gì?
+ Bài thơ muốn nhắc nhở các bạn nhỏ khi đi ra đường gặp đèn đỏ thì phải làm
thế nào?
+ Các con nhớ luôn đi bên phía tay phải đường và không đùa nghịch nhé. Có
một bài hát rất hay do cô Nguyễn Thị Thanh sáng tác cũng nhắc chúng ta đi bộ
đúng phần đường của mình. Hôm nay cô và các con cùng hát bài “ Đi trên vỉa hè
bên phải” nhé!
Ví dụ 3: Hát, vỗ tay theo tiết tấu chậm bài hát: “Chào ngày mới” chủ đề
trường mầm non. Giáo viên cho trẻ xem tranh vẽ về trường mầm non và một số
hoạt động trong ngày. Cô trò chuyện với trẻ:
+ Các con vừa xem bức tranh có những hình ảnh gì?
+ Bức tranh vẽ ai?
+ Cô giáo và các bạn đang làm gì?


10


- Đây là bức tranh vẽ cảnh trường mầm non trong một buổi sáng, khi các bạn
nhỏ được cha mẹ đưa đến trường và cô giáo đang tươi cười trìu mến đón các bạn
vào lớp. Các con thấy bức tranh này thế nào?
- Cô cũng rất thích bức tranh này vì bức tranh này rất giống khung cảnh
trường mầm non của chúng mình. Bức tranh làm cô vui hơn mỗi khi đến trường,
thêm yêu lớp, yêu trường và yêu các bạn nhỏ nữa đấy.
- Còn bây giờ cô lại có một bản nhạc về trường mầm non. Cô muốn các con
cùng nghe và đoán xem đó là giai điệu của bài hát nào nhé! ( Cô bật nhạc bài hát “
Chào ngày mới”)
Ví dụ 4: Dạy hát: “ Trồng cây” chủ đề Thực vât. Giáo viên cho trẻ chơi trò
chơi “ gieo hạt”. Sau khi chơi xong, cho trẻ đến ngồi xung quanh cô.
- Trò chuyện với trẻ:
+ Khi gieo hạt xuống đất sẽ có điều gì xảy ra?
+ Từ hạt mầm cho chúng ta cái gì? ( Cho nhiều loại cây)
+ Con biết những loại cây xanh gì? ( Cây cho bóng mát, cây cho quả, cây cho
hoa, cây cho gỗ)
+ Muốn cây được xanh tốt thì chúng ta phải làn gì? ( Chăm sóc cây, không bẻ
cành.....)
- Để nhớ lời dạy của Bác Hồ:
Mùa xuân là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.
Cô và các con sẽ cùng nhau đi trồng cây để chào đón mùa xuân đến qua bài
hát “ Trồng cây”, nhạc và lời của chú Hoàng Hà nhé!
* Bên cạnh các hình thức trên, tôi còn chỉ đạo giáo viên tiếp tục nghiên cứu để
sáng tạo tổ chức các hình thức khác phong phú hơn và hấp dẫn hơn như: Tổ chức
hoạt động học theo chương trình Hội thi, trò chơi....
Ví dụ 1: Dạy hát “Ngôi nhà mới”

Nội dung kết hợp
Nghe hát: “ Tổ ấm gia đình”
Trò chơi âm nhạc: Nghe tiếng hát tìm đồ vật
Giáo viên tổ chức chương trình “ Đồ rê mí”. Chương trình gồm có ba phần thi
+ Phần một: Bé tập làm ca sĩ ( Dạy hát: “Ngôi nhà mới” )
+ Phần hai: Nghe thấu đoán tài (Nghe hát: “ Tổ ấm gia đình”)
+ Phần ba: Nghe tiếng hát tìm đồ vật ( Trò chơi âm nhạc)
Giáo viên dẫn dắt, giới thiệu nội dung bài: “ Các con ơi! Chương trình “ Đồ rê
mí” đang bắt đầu tuyển chọn ca sĩ, chúng mình có muốn tham gia không? Cô bật
mí cho chúng mình một điều, đó là chương trình này được tổ chức tai trường mầm
non Nga Trung đấy! Và những bài hát đăng kí dự thi là các bài hát thuộc về chủ đề
Gia đình”
- Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng ta lớn lên thành người. Ai trong chúng ta
cũng có một gia đình, mọi người trong gia đình luôn yêu thương, quan tâm đến
nhau.
- Chương trình “ Đồ rê mí” xin được bắt đầu! Chương trình gồm có ba phần
thi: + Phần một: Bé tập làm ca sĩ ( Dạy hát: “Ngôi nhà mới” )
+ Phần hai: Nghe thấu đoán tài (Nghe hát: “ Tổ ấm gia đình”)
+ Phần ba: Nghe tiếng hát tìm đồ vật ( Trò chơi âm nhạc)
- Nào, chúng mình cùng bước vào phần thi thứ nhất, đó là phần thi “ Bé tập
làm ca sĩ”.
11


- Đến với phần thi này, các con sẽ được tập hát bài “Ngôi nhà mới” của nhạc
sĩ Mộng Lân. Để hát tốt bài này, các con cùng lắng nghe cô hát mẫu nhé.
Ví dụ 2: Hát, vận động minh họa: “Về thăm quê em”
Nội dung kết hợp: Nghe hát “ Làng quan họ quê tôi”
Giáo viên tổ chức chương trình giao lưu “ Sắc màu dân ca”. Gồm có ba phần
chơi.

+ Phần thứ nhất: Giai điệu dân ca ( dạy hát: Về thăm quê)
+ Phần thứ hai: Tài năng nghệ sĩ (vận động minh họa: “Về thăm quê em” )
+ Phần thứ ba: Khúc hát dân ca (Nghe hát “ Làng quan họ quê tôi” )
Ở ví dụ này, giáo viên bước ra sân khấu và giới thiệu như sau:
“ Quê hương tôi
Quê hương quan họ
Hội xuân đến rồi
Đến hẹn lại lên
Trống đã giục, người ơi đi trẩy hội
Nón ba tầm, váy áo tứ Thân
Xin gửi lòng mình theo câu hát
Trống rộn ràng ta trẩy hôi xuân”
- Nào các chị em ơi! Chúng mình cùng đi trẩy hội nào! ( Cô bật nhạc bài hát “
Trẩy hội xuân” – dân ca quan họ Bắc Ninh)
- Trẻ đi thành từng đội từ ngoài vào và đi thành vòng tròn giao duyên, sau đó
về vị trí đội của mình.
- Cô giới thiệu chương trình giao lưu “Sắc màu dân ca” và các liền anh, liền
chị đến từ ba làng quan họ:
+ Đội 1: Làng Diềm Xá
+ Đội 2: Làng Bồ Sơn
+ Đội 3: Làng Lim
Cô giới thiệu phần chơi thứ nhất mang tên “ Giai điệu dân ca”
- Cô hát dạo một đoạn nhạc cảu bài hát “ Về thăm quê” và hỏi trẻ: “ Đó là giai
điệu của bài hát gì?”
Hoạt động vận động theo nhạc:
- Tôi giúp giáo viên sáng tạo trong việc tạo tình huống hỏi ý tưởng biểu diễn
của trẻ.
Ví dụ 1: Đề tài Hát, vỗ tay theo tiết tấu chậm “ Chào ngày mới”
Sau khi cho trẻ nghe giai điệu và đoán đúng tên bài hát “ chào ngày mới ”,
giáo viên cho cả lớp hát cùng với nhạc một lần. Giảng nội dung bài hát và cho cả

lớp hát lại bài hát. Sau đó giáo viên hỏi ý tưởng của trẻ về cách vận động:
+ Bạn nào có ý tưởng để biểu diễn bài hát này được hay hơn, và hấp dẫn hơn
nào?
+ Có bạn nào còn nhớ cách vỗ tay theo tiết tấu chậm?
Ví dụ 2: Vận động “ Gà trông thổi kèn” giáo gợi hỏi ý tưởng của trẻ:
+ Với giai điệu vui tươi của bài hát này, chúng ta sẽ vận động như thế nào cho
phù hợp?
+ Ai có thể kể tên các cách vận động cho cô và cả lớp nghe?
Như vậy, với cách diễn đạt hấp dẫn cùng hình thức thể hiện phong phú đã tạo
được hứng thú giúp trẻ yêu thích tác phẩm âm nhạc.
2.1.2 Hoạt động nghe nhạc, nghe hát
12


Với hoạt động nghe nhạc, nghe hát tôi giúp giáo viên sáng tạo trong việc sử
dụng các trang phục phù hợp với nội dung bài hát nhằm tạo sự bất ngờ cho trẻ.
Ví dụ1: khi dạy chủ đề Thế giới thực vật, trọng tâm nghe bài hát “ cây trúc
xinh”( dân ca quan họ Bắc Ninh). Giáo viên đàn cho trẻ nghe một đoạn nhạc rồi
yêu cầu trẻ đoán, sau đó cô hát lên một lần giai điệu để trẻ cảm nhận. Có thể tạo
tình huống bất ngờ bằng cách cho trẻ xem máy chiếu về hình ảnh làng quê Bắc
Ninh có lũy trẻ xanh, mái đình, những cô gái quan họ e ấp và những trò chơi dân
gian. Sau đó cô bất ngờ xuất hiện trong trang phục áo tứ thân cùng múa và hát với
giai điệu bài hát cho trẻ xem. Lúc này, trẻ hòa nhịp với cô bằng cách đứng vòng
tròn và múa hát cùng cô. Với cách làm này sẻ tạo hứng thú cho trẻ.
Ví dụ 2: Khi cho trẻ nghe hát bài “Lí cây bông”, Khi cho trẻ nghe trên nền
nhạc, giáo viên vào thay trang phục áo bà ba. Cho trẻ tìm hiểu đặc trưng trang
phục vùng miền. Sau đó cô hát với trang phục và mời trẻ thể hiện minh họa cùng
cô. Cô hát múa, khuyến khích trẻ hưởng ứng.
Như vậy, với sự thay đổi trang phục khi tổ chức hoạt động nghe nhạc, nghe
hát đã giúp trẻ thích thú, hào hứng tham gia hưởng ứng cùng cô và giúp trẻ hiểu rõ

hơn về nội dung của bài nghe hát.
2.1.3 Hoạt động trò chơi âm nhạc
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non. Vì vậy, trò chơi âm nhạc là
hình thức tạo cho trẻ phát triển năng khiếu âm nhạc. Để hoạt động trò chơi âm
nhạc gây hứng thú cho trẻ tôi chỉ đạo giáo viên sưu tầm các trò chơi mới phù hợp
với đề tài.
Ví dụ 1: Đề tài: Nghe hát: Hoa trong vườn
Vỗ Tay theo nhịp bài hát: Màu hoa
Giáo viên cho trẻ chơi trò chơi: Giai điệu thân quen;
Ví dụ 2: Dạy hát: Bé chúc tết
Nghe hát: Vui xuân
Giáo viên cho trẻ chơi trò chơi: Ô cửa bí mật
Ví dụ 3: Hát vỗ tay theo tiết tấu: Mẹ đi vắng
Nghe hát: Cái bống
Giáo viên cho trẻ chơi trò chơi: Thử tài bé yêu
Ví dụ 4: Dạy hát kết ợp vận động minh họa: Đàn vịt con
Nghe hát: Gà gáy le te
Giáo viên cho trẻ chơi trò chơi: Hát theo tiếng kêu con vật
2.2 Hoạt động tạo hình
Hoạt động tạo hình có ưu thế nổi bật trong việc giáo dục phát triển thẩm mĩ
cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi. Chính vì vậy tôi đã chỉ đạo giáo viên sáng tạo trong tổ
chức hoạt động học như sau.
2.2.1 Hướng trẻ đến nhiệm vụ tạo hình: Tôi đã chỉ đạo giáo viên sáng tạo
trong việc giới thiệu bài
Để giúp giáo viên sáng tạo trong phần giới thiệu bài, tôi chỉ đạo giáo viên
giới thiệu bài với nhiều hình thức khác nhau như: trò chuyện, đàm thoại, đọc thơ,
câu đố, trò chơi, nghe nhạc....
Ví dụ 1: Đề tài “ Nặn một số loại quả” ( Mẫu).
+ Giáo viên cho trẻ đọc bài “ vè trái cây”. Trẻ đi theo nhịp tiếng phách cô gõ.
+ Giáo viên hỏi trẻ trong bài “ vè trái cây” có những loại quả gì?

Ví dụ 2: Xé, dán theo ý thích chủ đề thế giới Động vật, trước khi vào giờ học,
giáo viên tạo tình huống cho trẻ đi thăm quan trang trại. Cô và trẻ cùng bày trí một
13


khu trang trại thật đẹp có đủ các con vật gần gũi như: gà, vịt, trâu, bò, lợn….Cô
giáo đóng vai “ Bác chủ trang trại”, một trẻ làm trưởng đoàn dắt các bạn đến. Bác
chủ trang trại đó sẽ thuyết minh về các con vật nuôi sống có ích. Trẻ đi theo đoàn
ngắm nghía, nghe cô giải thích về từng con vật. Khi trẻ bắt đầu thực hiện xé – dán,
giáo viên gợi ý để trẻ tưởng tượng lại các con vật mà trẻ vừa nhìn thấy.
Ví dụ 3: Đề tài: Xé, dán đàn cá bơi ( Đề tài)
Giáo viên tổ chức chương trình “ Bé khéo tay hay làm”. Chương trình gồm có
ba phần:
+ Phần 1: Ô cửa bí mật (Quan sát ba tranh mẫu)
+ Phần 2: Cùng thi tài ( Trẻ thực hiện xé, dán đàn cá bơi)
+ Phần 3: Phần thi bình chọn ( Nhận xét sản phẩm)
Như vậy, với sự sáng tạo đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học của giáo
viên, tôi nhận thấy trẻ rất hứng thú tham gia vào hoạt động.
2.2.2 Sáng tạo khi trẻ thực hiện nhiệm vụ tạo hình
Tạo hình là một hoạt động đặc trưng, là “ mảnh đất mầu mỡ” để chỉ đạo giáo
viên phát huy sự chủ động, sáng tạo của mình. Với một đề tài nhưng tôi đã chỉ đạo
giáo có nhiều cách tổ chức giờ hoc tạo hình, tùy vào điều kiện và nhu cầu của trẻ
cũng như mục đích mà giáo viên có thể lựa chọn hình thức, chất liệu để tổ chức
hoạt động tạo hình cho trẻ.
Ví dụ: Trong chủ đề Gia đình.
Đề tài: Vẽ chân dung mẹ
Cho trẻ vẽ chân dung mẹ bằng màu nước khi trẻ của lớp biết cách sử dụng
bút lông, màu nước trước đó và lớp phải có màu nước.
Cho trẻ vẽ chân dung mẹ trên nhiều chất liệu: vẽ chân dung mẹ trên nền tranh
đất, vẽ trên chất liệu vải bố, lớp vải và khung để căng vải cho trẻ vẽ.

Cho trẻ vẽ chân dung mẹ bằng bút sáp và làm tóc cho mẹ bằng giấy màu và
làm áo cho mẹ bằng vải.
Đề tài: Làm bưu thiếp tặng bà, tặng mẹ
Tôi đã chỉ đạo giáo viên cho trẻ dùng ngón tay in thành những bông hoa tạo
thành bưu thiếp khi lớp có màu nước.
Cho trẻ dùng vỏ bào ( xin vỏ bào gỗ ở xưởng mộc) để tạo thành cánh hoa trên
bưu thiếp.
Cho trẻ dùng ống hút để thổi màu nước tạo thành những bông hoa trên bưu
thiếp.
Cho trẻ cắt những bông hoa trên tạp chí để xếp và tạo thành tấm bưu thiếp.
Cho trẻ dùng những vỏ lạc để dán tạo thành những bông hoa.
Như vậy, chỉ với một đề tài cùng với những nguyên vật liệu có sẵn thì tôi đã
chỉ đạo lựa chọn và hướng dẫn trẻ thực hiện phù hợp với khả năng và hứng thú của
trẻ, phù hợp với thực tiễn của lớp để lựa chon nguyên vật liệu cũng như cách thức
tổ chức giờ tạo hình hiệu quả.
Bên cạnh đó tôi cũng đã chỉ đạo giáo viên nắm bắt trình độ của học sinh để
biết phải rèn luyện kĩ năng và chọn nội dung nào để rèn luyện kĩ năng tạo hình đó
cho trẻ tiếp theo, tạo thành vòng tròn đồng tâm phát triển. Và nếu không có nguyên
vật liệu này thì thay thế bằng nguyên vật liệu khác hoặc thay đổi nội dung, kĩ năng
sao cho vẫn đạt được mục đích của lĩnh vực phát triển thẩm mĩ và vẫn có đủ đồ
dùng, học liệu để cho trẻ được thực hành, trau dồi các kĩ năng tạo hình.
Ví dụ 1: Chủ đề “ Những con vật ngộ nghĩnh”
Tôi chỉ đạo giáo viên xác định kĩ năng tạo hình trong chủ đề này là: Cho trẻ
làm quen với bút lông, màu nước, nhưng vì cơ sở vật chất khó khăn, lớp chỉ có sáp
14


màu; chưa có màu nước nên tôi đã chỉ đạo giáo viên cho trẻ làm quen với chất liệu
này vào dịp khác. Điều này có nghĩa là chúng ta phải thay đổi nội dung, kĩ năng
cần rèn luyện trong chủ đề và thay thế một kĩ năng khác như nặn với kĩ năng vuốt,

véo, vê, lăn tròn, xoay dọc qua việc nặn các con vật ngộ nghĩnh hoặc nặn các loại
thức ăn mà con vật thích ăn: con khỉ ăn chuối, con voi ăn mía, con gà ăn giun, con
chó ăn khẩu xương…..Tuy nhiên, với những giáo viên vẫn muốn mở rộng các chất
liệu sử dụng trong tạo hình thì tôi chỉ đạo giáo viên thay thế màu nước bằng những
chất liệu khác nhau như: dùng vôi làm màu trắng, dùng than củi tạo thành màu
đen, dùng phẩm hoa hiên tạo thành màu đỏ. Bút lông thì dùng đót, dùng tóc, dùng
lông gà để tạo thành.
Ví dụ 2: Đề tài Thuyền và Biển
Nếu trình độ của trẻ còn hạn chế thì tôi chỉ đạo cho giáo viên cho trẻ dán
thuyền trên biển, nếu trẻ đã có kĩ năng tốt về vẽ nhưng còn yếu về kĩ năng cắt dán
thì tôi chỉ đạo giáo viên chọn lựa đề tài: Cắt dán thuyền trên biển để rèn luyện
thêm kĩ năng này cho trẻ.
Nói như vậy không phải là tôi chỉ đạo cho giáo viên thích chọn loại hình nào
để dạy cũng được. Việc xác định nội dung để rèn luyện trẻ trong hoạt động học
được chú trọng hơn về kĩ năng trẻ còn yếu, còn hạn chế. Những kĩ năng khác vẫn
được củng cố, rèn luyện ở mọi lúc mọi nơi, trong hoạt động vui chơi, hoạt động
học khác, hoạt động chiều……
2.2.3 Sáng tạo khi nhận xét sản phẩm của trẻ
- Nhận xét sản phẩm: Giáo viên tổ chức cho trẻ đi thăm quan với những chủ
đề phù hợp với đề tài. Khuyến khích trẻ nói lên cảm nhận về sản phẩm của mình,
của bạn. Hướng trẻ vào vẻ đẹp về mầu sắc, bố cục, đường nét, hình dáng của sản
phẩm.
Ví dụ 1: Đề tài “ Nặn một số loại củ, quả ” ( Đề tài)
Cho trẻ mang các lẳng củ, quả của mình bày lên bàn.
Giáo viên tổ chức cho trẻ đi thăm quan “Siêu thị trái cây của bé”
Cho trẻ quan sát và nhận xét sản phẩm của mình và của bạn.
+ Con thấy bạn nặn lẳng củ, quả như thế nào? Bạn nặn được những loại củ,
quả gì?
+ Con thích lẳng củ, quả của ai? Vì sao con thích?
+ Con hãy giới thiệu sản phẩm của mình cho cô và các bạn xem nào?

2.3 Hoạt động phát triển ngôn ngữ ( thơ, truyện, làm quen tác phẩm văn
học)
Trong chương trình giáo dục mầm non, các hoạt động cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học( thơ, chuyện, đóng kịch....) có ưu thế nhiều hơn trong việc giáo
dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Tuy nhiên, một trong những chức năng
cơ bản không thể bỏ qua của hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
chính là giáo dục thẩm mĩ. Chính vì vậy ( bên cạnh hoạt động âm nhạc, tạo hình),
giáo dục phát triển thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi thông qua hoạt động giáo
dục phát triển ngôn ngữ ( đọc thơ, kể chuyện, xem tranh, đóng kịch....) là một hình
thức hiệu quả cần được khai thác, có thể tiến hành thông qua các hoạt động như:
- Ở mọi thời điểm và không gian phù hợp, tôi chỉ đạo giáo viên sáng tạo trong
việc cho trẻ xem sách tranh, truyện tranh, “đọc” chuyện cùng cô và các bạn. Chọn
những sách tranh, truyện tranh có màu sắc nổ bật, hấp dẫn thu hút trẻ, hình vẽ sinh
động, ngộ nghĩnh, phong phú về con người, các con vật, đồ vật và các hoạt động
quen thuộc, gần gũi với trẻ ( người thân, cây, hoa, nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi gần
gũi, nắng, mưa, gió thổi.....). Cho trẻ ngôi thật thư gãn thoải mái. Cô đọc diễn cảm,
15


bộc lộ cảm xúc, tình yêu cái đẹp qua giọng kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch, trò
chuyện với trẻ về các bức tranh và khuyến khích trẻ “kể”/nói về hình ảnh trong
tranh một cách đầy cảm xúc.
- Khi tổ chức hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ ( đọc thơ, kể chuyện...),
bên cạnh các mục tiêu giáo dục về phát triển ngôn ngữ, nhận thức, kĩ năng xã
hội....có liên quan đến hoạt động, tôi chỉ đạo giáo viên bổ sung mục tiêu giáo dục
phát triển thẩm mĩ cho trẻ ở khía cạnh khai thác vẻ đẹp của ngôn từ tiếng Việt, vẻ
đẹp trong lời nói, cử chỉ, hành động của các nhân vật trong chuyện.
Ví dụ 1: Khi dạy thơ: Bài “ Trăng ơi…từ đâu đến” của tác giả Trần Đăng
Khoa tôi chỉ đạo giáo viên không chỉ cho trẻ biết về trăng (trăng tròn, trăng bay),
mà còn cho trẻ biết yêu trăng qua cách gọi âu yếm “ Trăng ơi….”, cách suy đoán “

Bạn nào đá lên trời”
Ví dụ 2: Khi dạy truyện “ Cô con út” của ông mặt trời” tôi chỉ đạo giáo viên
giáo dục trẻ biết yêu quý “cô Trăng”, “ anh Đất”, biết được “ cô Trăng hay cười”,
còn anh Đất thì “ tỏa ngát hương thơm trong quả chín” .
Khi tổ chức hoạt động này, tôi chỉ đạo giáo viên cung cấp các từ biểu cảm cho
trẻ. Ví dụ: giáo viên sử dụng những từ biểu cảm để mô tả vẻ đẹp của con người, sự
vật, hiện tượng thiên nhiên: Cánh đồng lúa bao la bát ngát, xanh mơn mởn; Vẳng
đâu đây tiếng gà gáy trưa xao xác; .....
- Đọc/kể cho trẻ nghe những câu chuyện, bài thơ ngắn có nội dung phù hợp.
Tôi chỉ đạo giáo viên sáng tạo trong việc sử dụng những con rối, búp bê hoặc đồ
chơi để minh họa trong hoạt động kể chuyện cho trẻ. Giáo viên sử dụng ngôn ngữ
biểu cảm của bản thân kết hợp với điều khiển các động tác minh họa, cử chỉ điệu
bộ của con rối, qua đó giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp truyền thống của loại hình
nghệ thuật dân gian Việt Nam và thế giới, góp phần nuôi dưỡng và bồi dưỡng cảm
xúc thẩm mĩ cho trẻ.
- Cho trẻ tham gia đóng kịch qua đó giáo dục cho trẻ vẻ đẹp của nghệ thuật
truyền thống, giáo dục cho trẻ biêt sử dụng ngôn ngữ biểu cảm (bằng lời nói, cử
chỉ ....) trong giao tiếp.
3. Chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi và sử dụng đồ dùng, đồ chơi có
hiệu quả
Bất cứ hoạt động nào trong trường mầm non cũng gắn liền với đồ dùng trực
quan. Đây là điều rất cần thiết vì tư duy của trẻ mẫu giáo là tư duy trực quan hình
tượng. Trẻ khám phá thế giới xung quanh bằng mắt thấy, tai nghe; bằng cầm, nắm,
sờ ... những đồ dùng đồ chơi. Nếu không có đồ dùng, đồ chơi thì trẻ sẽ không thể
lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ, nhanh chóng. Hiện nay, khi thực hiện chương
trình giáo dục mầm non mới, điều khó khăn nhất đối với giáo viên là làm thế nào
để hoạt động thật đơn giản nhưng đạt hiệu quả cao. Vì vậy tôi luôn chỉ đạo giáo
viên phải biết tận dụng các nguyên vật liệu để làm ra nhiều đồ chơi cho trẻ sử
dụng, trải nghiệm.
Có thể nói việc sử dụng nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi là việc làm

thường xuyên của mỗi giáo viên. Điều đó không khó nhưng làm thế nào để đạt
hiệu quả mới là điều cần quan tâm. Vì vậy, trước khi làm, tôi đã chỉ đạo giáo viên
cần lưu ý những vấn đề sau
- Sưu tầm nguyên vật liệu phải thật đơn giản ( rẻ tiền, dễ tìm, an toàn)
- Nguyên vật liệu dễ thực hiện ( cả cô và trẻ đều có thể cùng làm).
- Những đồ dùng đó phải được sử dụng thật hiệu quả ( Sử dụng được cho
nhiều hoạt động khác nhau) cụ thể:
* Âm nhạc
16


- Sưu tầm nguyên vật liệu phải thật đơn giản như: tre, nứa, hộp nhựa, sắt tây,
thìa, đũa, vung xoong, nồi chảo…
- Nguyên vật liệu dễ thực hiện: Tôi đã chỉ đạo giáo viên sưu tầm tạo ra một số
đồ dùng đồ chơi cho trẻ sử dụng làm nhạc cụ gõ đệm:
+ Mõ dừa được đẽo, gọt từ vỏ bên trong của quả dừa già.
+ Mõ gỗ được làm từ các mẫu gỗ vụn rồi trang trí.
+ Phách tre được vót từ các đốt cây luồng.
+ Trống lắc được làm từ các võ lon bia kết hợp với hột hạt, xốp mầu.
- Tạo ra một số đồ dùng, đồ chơi cho trẻ sử dụng trong hoạt động múa.
+ Vành nón cũ được cuốn thêm giấy mầu tạo ra những chiếc vòng múa.
+ Xốp mầu, nan tre tạo ra những chiếc quạt múa.
+Nơ, hoa tay được làm từ vải vụn, giấy mầu, xốp mầu.
+ Mũ chóp, mũ các loại hoa, mũ các con vật bằng Bìa cứng, xốp mầu, giấy
mầu.
+ Trống cơm đượclàm từ hộp nhựa, ống tre, vải vụn ...
- Sử dụng đồ dùng, đò chơi có hiệu quả.
Ví dụ 1: Trong giờ học, trẻ được sử dụng những dụng cụ do chính trẻ tham
gia làm cùng cô ( tô màu, dán tạo thành mũ múa....) sẽ giúp trẻ thấy phấn khởi, tạo
được không khí hoạt động hào hứng, thoải mái, thu hút được kết quả tốt.

Ví dụ 2: Với các dụng cụ gõ khác như: vỏ dừa, lon bia....Tôi chỉ đạo giáo viên
cho trẻ sử dụng luân phiên giữa các tổ trong giờ học để gây hứng thú cho trẻ, đồng
thời khi sử dụng các loại nhạc cụ đó, trẻ có thể đưa ra những nhận xét về âm thanh
của từng loại.
* Tạo hình
- Sưu tầm nguyên vật liệu phải thật đơn giản ( rẻ tiền, dễ tìm, an toàn, có ở địa
phương như thùng các tông xốp, đĩa video cũ, giấy báo có trang bìa quảng cáo,
chai nhựa, vỏ hộp sữa chua, hộp đựng cơm, vải vụn, chuỗi hạt, vỏ ốc, vỏ ngao, vỏ
điệp, ống chỉ, tăm tre, khối gỗ…….)
- Nguyên vật liệu dễ thực hiện ( cả cô và trẻ đều có thể cùng làm).
Ví dụ 1: Dùng đĩa video cũ cắt hình rẻ quạt, hình thoi, trang trí giấy decan cho
trẻ xếp hình con cá hoặc dùng bình nhựa làm ra một số đồ dùng trong gia đình
như: Nồi cơm điện, đồ uốn tóc hoặc dùng con ốc gạo xếp hình ngôi nhà, xếp thành
chữ cái. Giấy bìa báo vò thành từng nắm nhỏ đắp núi, làm cây, làm lá….Từ những
vải vụn làm thành con rối để cho trẻ chơi đóng kịch, may quần áo….
- Những đồ dùng đó phải được sử dụng thật hiệu quả ( Sử dụng xuyên suốt
được cho nhiều hoạt động khác nhau)
- Chuẩn bị đồ dùng phù hợp với chủ đề. Ví dụ chủ đề Tết – Mùa xuân thì tôi
chỉ đạo giáo viên chuẩn bị đồ dùng như: Lon nước yến, hộp giấy hình vuông, lá
chuối, cành cây khô, giấy màu, hồ dán, tranh ảnh về ngày tết, bài hát, bài thơ về
mùa xuân…..Khi trẻ chơi ở các góc trẻ có đủ đồ dùng để thực hiện một số nội
dung như làm bánh ngày tết, cắm hoa ngày têt, xem tranh ảnh về ngày tết, mùa
xuân; Tận dụng khối xốp để làm bánh sinh nhật cho những trẻ có ngày sinh trong
mùa xuân; Tận dung những cái quạt hư đem dán giấy lại để làm quạt cho những
lúc chơi đóng kịch, cũng từ những chiếc quạt đó có thể sử dụng khi múa hát.
Như vậy, để giúp trẻ tích cực tham gia vào hoạt động tạo hình thì tôi đã chỉ
đạo giáo viên phải làm tốt công tác chuẩn bị, phải chuẩn bị từ tranh ảnh, vật mẫu
đến các nguyên vật liệu phù hợp với hoạt động để cho tất cả mọi trẻ đều được
tham gia hoạt động. Có như vậy thì giờ hoạt động học của giáo viên mới đảm bảo,
từ đó sẽ được kết quả cao hơn .

17


Nhìn chung các đồ dùng, đồ chơi nêu trên được làm từ các nguyên vật liệu dễ
tìm, dễ kiếm, dễ làm, rẻ tiền, cả giáo viên và trẻ đều có thể tham gia làm. Giáo viên
làm phần chính, trẻ làm các phần phụ như: Cắt trang trí mũ, làm hoa dính nơ
những đồ dùng đồ chơi đó không những phục vụ cho hoạt động âm nhạc mà phục
vụ cho các hoạt động khác như: Khám phá khoa học, thể dục, hoạt động góc ....
Như vậy vận dụng biện pháp làm đồ dùng đồ chơi giúp giáo viên thu hút được sự
tập trung, hứng thú của trẻ vào các hoạt động. Trẻ được trải nghiệm với đồ dùng,
đồ chơi, nắm vững kiến thức, từ đó kết quả hoạt động học phát triển thẩm mĩ của
trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi luôn được cải thiện và chất lượng.
4. Chỉ đạo giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động học
Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy mang lại hiệu quả cao và
góp phần không nhỏ trong việc phát triển tư duy, kỹ năng sống và nhiều mặt khác
ở trẻ mầm non. Các giáo án điển tử đem đến cho trẻ có cái nhìn trực quan, sinh
động hơn về các hiện tượng tự nhiên, xã hội... mà một giáo án thông thường
không thể có được. Vì vậy tôi đã chỉ đạo giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin
phù hợp với từng hoạt động trong hoạt động học.
4.1 Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động âm nhạc
* Ứng dụng công nghệ thông tin giúp giáo viên sáng tạo trong việc giới thiệu
bài.
Ví dụ 1: khi dạy trẻ bài hát “ vui đến trường” – chủ đề trường mầm non, giáo
viên cho trẻ xem trên máy vi tính một số hình ảnh trường mầm non, cô giáo đón
học sinh; bố mẹ đưa con đến trường bằng xe đạp, xe máy....Qua đó, trẻ có thể
tưởng tượng ra không khí lớp học và tâm trạng phấn khởi khi được gặp bạn, gặp cô
giáo mỗi buổi sáng đến trường và trẻ được thể hiện bài hát “ vui đến trường ” bằng
chính những cảm xúc từ chính bản thân trẻ.
Ví dụ 2: Dạy trẻ vận động theo nhịp bài “ em tập lái ô tô”- chủ đề Phương tiện
giao thông, giáo viên cho trẻ xem trên máy vi tính một số hình ảnh về ngã tư

đường phố, một số loại biển báo, đèn tín hiệu, một số loại phương tiện giao thông
đường bộ và giáo dục trẻ hiểu được một số luật lệ an toàn giao thông. Sau đó, cho
trẻ làm các chú lái xe, vận động theo nhạc bài “em tập lái ô tô” để giáo dục trẻ
chấp hành đúng quy định giao thông.
4.2 Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tạo hình
* Ứng dụng công nghệ thông tin giúp giáo viên sáng tạo trong việc giới thiệu
bài.
Việc tạo hứng thú cho trẻ trước khi vào bài là một vấn đề quan trọng, dẫn đến
sự thành công và sáng tạo của trẻ trong suốt thời gian hoạt động. Hoạt động này
chiếm rất ít thời gian nhưng nó có vị trí không kém phần quan trọng, vừa lôi cuốn
được trẻ, vừa khéo léo giúp trẻ hình thành những vấn đề mà trẻ cần giải quyết.
Ví dụ 1: Với đề tài “ Vẽ ngôi nhà của bé” ( Đề tài). Chủ đề gia đình.
+ Giáo viên cho trẻ hát bài “ Nhà của tôi”.
+ Gợi ý trẻ trò chuyện về bài hát: “ Chúng mình vừa hát bài hát nói về cái
gì?”
+ Mỗi chúng ta ai cũng có một ngôi nhà để ở. Ngôi nhà là nơi xum họp của
các thành viên trong gia đình. Vậy ai có thể kể về ngôi nhà của mình cho cô và các
bạn cùng nghe? ( Cô hỏi 2 – 3 trẻ).
+ Cho trẻ xem hình ảnh về ngôi nhà.
+ Cô đã quay được hình ảnh rất nhiều ngôi nhà, chúng mình cùng hướng mắt
lên màn hình nhé! ( Cô cho trẻ xem các kiểu nhà).
18


Ví du 2: Đề tài “Vẽ ô tô” ( Đề tài), giáo viên cho trẻ xem đoạn phim về
phương tiện giao thông đường bộ.
- Con hãy cho biết trong đoạn phim vừa xem có những phương tiện giao
thông gì?
- Tiếng còi ô tô như thế nào?
- Ô tô là phương tiện giao thông đường gì?

Sau đó, giáo viên hướng dẫn trẻ vẽ, trẻ rất hứng thú và hoạt động tích cực
hơn.
Ví dụ 3: Khi cho trẻ vẽ vườn cây ăn quả, để sản phẩm của trẻ sáng tạo đòi hỏi
giáo viên phải cung cấp đầy đủ các biểu tượng, hình ảnh về sự vật, không chỉ là
tranh ảnh mà trẻ phải được trực tiếp quan sát các cây ăn quả thật. Giáo viên cho trẻ
quan sát qua phim ảnh, cho trẻ trực tiếp xem các loại cây ăn quả khác nhau. Từ đó
làm giầu hình ảnh, biểu tượng trong sản phẩm của trẻ.
Như vậy, ứng dụng công nghệ thông tin qua hoạt động học là một trong
những hình thức sáng tạo của giáo viên giúp trẻ hứng thú trong hoạt động học và
tạo cho trẻ trạng thái thoải mái, gần gũi với cuộc sống, trẻ được “ học mà chơi,
chơi mà học”.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Sau khi tiến hành thực nghiệm tại trường mầm non Nga Trung tôi đã thu được
những kết quả (học kỳ II) như sau:
1. Đối với hoạt động giáo dục
* Kết quả thể hiện trên trẻ
Đạt
Chưa đạt
Nội dung khảo sát
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số lượng
Số lượng
%
%
Trẻ cảm nhận và thể hiện cảm xúc
trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc
60
100
0

0
sống và các tác phẩm nghệ thuật.
Trẻ có kĩ năng trong hoạt động âm
58
97
2
3
nhạc và hoạt động tạo hình.
Trẻ thể hiện sự sáng tạo khi tham gia
58
97
2
3
các hoạt động âm nhạc, tạo hình.
Trẻ có nề nếp học tập
60
100
0
0
2. Đối với bản thân: Qua nghiên cứu đề tài, tôi thu được không ít bài học kinh
nghiệm về tổ chức hoạt động học phát triển thẩm mĩ cho trẻ 4 – 5 tuổi. Từ đó chỉ đạo
giáo viên có nhiều sáng tạo trong tổ chức hoạt động học phát triển thẩm mĩ phù hợp với
độ tuổi 4 – 5 tuổi.
3. Đối với đồng nghiệp
Giáo viên đã biết cách tổ chức hoạt động học phát triển thẩm mĩ với nhiều hình
thức sáng tạo khác nhau, giúp cho hoạt động học trở nên sinh động, hấp dẫn và đạt kết
quả cao.
Nội dung khảo sát
Chuẩn
bị cho

hoạt
động
học

Giỏi Khá

Giáo án đầy đủ, rõ ràng, đúng nội dung,
4
phương pháp
Tỷ lệ %
100
Đồ dùng cho cô và cháu đầy đủ, thuận 4
tiện sử dụng

Trung
bình

Yếu

0

0

0

0
0

0
0


0
0
19


Tỷ lệ %
100
0
0
0
Tổ chức giờ học hợp lí: Thời gian, đội
4
0
0
0
hình, vị trí lớp học
Tỷ lệ %
100
0
0
0
Nắm chắc yêu cầu kiến thức, kĩ năng của
3
1
0
0
hoạt động dạy
Tỷ lệ %
75

25
0
0
Nội
Đảm bảo yêu cầu kiến thức, kĩ năng của
dung
3
1
0
0
hoạt động dạy
hoạt
động
Tỷ lệ %
75
25
0
0
học
Hình thành kiến thức cho trẻ có hệ thống
3
1
0
0
chính xác, phù hợp
Tỷ lệ %
75
25
0
0

Thể hiện đúng phương pháp của hoạt
3
1
0
0
động
Tỷ lệ %
75
25
0
0
Sử dụng các phương pháp khác phù hợp
với hoạt động, phát huy được tính tích 3
1
0
0
cực của trẻ.
75
25
0
0
Phương Tỷ lệ %
Biết lồng tích hợp nội dung các môn học
pháp
3
1
0
0
vào hoạt động phù hợp
thực

hiện
Tỷ lệ %
75
25
0
0
Bao quát lớp, giải quyết các tình huống
3
1
0
0
sư phạm
Tỷ lệ %
75
25
0
0
Sử dụng đồ dùng và các phương tiện trực
4
0
0
0
quan đúng lúc có hiệu quả
Tỷ lệ %
100
0
0
0
4. Đối với nhà trường
Nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động học của giáo viên, từ đó chất lượng giáo

dục của nhà trường được nâng lên rõ rệt.
Nói tóm lại:
Nhìn vào bảng khảo sát cuối năm so sánh với kết quả khảo sát đầu năm ta
thấy sự khác biệt rõ ràng chất lượng giáo viên tổ chức hoạt động học phát triên
thẩm mĩ cho trẻ 4 – 5 tuổi và kết quả trên trẻ ở cuối năm. Mức độ đạt được cuối
năm so với đầu năm cao hơn rất nhiều. Tỷ lệ giáo viên đạt loại giỏi 75%, tỷ lệ giáo
viên đạt loại khá 25%, tỷ lệ giáo viên đạt trung bình và yếu còn 0%. Tỷ lệ trẻ đạt
97%, tỷ lệ trẻ chưa đạt còn 3% . Điều này chứng tỏ các biện pháp đưa ra có tác
dụng rất lớn trong việc giúp giáo viên sáng tạo trong tổ chức hoạt động học phát
triển thẩm mĩ cho trẻ 4 – 5 tuổi. Nâng cao chất lượng lĩnh vực phát triển thẩm mĩ
của trẻ 4 – 5 tuổi nói riêng và chất lượng giáo dục trường mầm non Nga Trung nói
chung.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Qua một năm tiến hành và áp dụng những biện pháp trên tại trường mầm non
Nga Trung, với những kết quả đạt được, tôi nhận thấy giáo viên nắm được những
20


vấn đề chung về giáo dục phát triển thẩm mĩ ; đặc điểm phát triển thẩm mĩ của trẻ
4 – 5 tuổi; tích cực sử dụng phương pháp dạy học tích cực với các hoạt động phù hợp
với trẻ trong các hoạt động giáo dục thẩm mĩ. Biết tổ chức các hoạt động giáo dục phát
triển thẩm mĩ cho trẻ thông qua các hoạt động mang tính nghệ thuật ( âm nhạc, tạo
hình.....). Quan tâm, hứng thú, và sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học phát triển
thẩm mĩ cho trẻ 4 – 5 tuổi. Giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và hứng thú hơn khi tham gia
hoạt động. Trẻ có nề nếp, thói quen tốt trong các giờ hoạt động. Tiếp nhận kiến
thức một cách thoải mái. Trẻ có khả năng cảm nhận vẻ đẹp trong thiên nhiên, cuộc
sống và trong tác phẩm nghệ thuật.
Có thể nói, giáo dục phát triển thẩm mĩ, là một nội dung quan trọng trong
công tác giáo dục phát triển toàn diện nhân cách của trẻ mầm non, tạo tiền đề cho

việc hình thành những công dân tương lai có tâm hồn “đẹp”, giàu lòng nhân ái,
giàu tình yêu thương. Những thế hệ công dân biết cảm nhận cái đẹp, bảo vệ và
sáng tạo ra cái đẹp cho cuộc sống. Đó là điều rất cần cho bất cứ trẻ nào, dù sau này
trẻ trở thành công nhân, nông dân, nhà bác học hay người nghệ sĩ, bởi điều cao cả
mà ai cũng cần hướng tới đó chính là giá trị ‘Chân – Thiện - Mĩ’.
II. KIẾN NGHỊ
1. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo
- Mở lớp bồi dưỡng chuyên đề phát triển thẩm mĩ cho giáo viên
- Tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm tổ chức hoạt động học phát
triển thẩm mĩ.
2. Đối với nhà trường
- Tăng cường mở lớp tập huấn nâng cao kiến thức âm nhạc, tạo hình cho giáo
viên.Tổ chức các hoạt động học để giáo viên được trao đổi kinh nghiệm giảng dạy.
- Nhà trường cần đầu tư thêm các dụng cụ, trang phục âm nhạc và phương
tiện nghe nhìn để giáo viên tổ chức tốt các hoạt động âm nhạc.
- Nhà trường bổ sung thêm một số đồ dùng, đồ chơi cho hoạt động tạo hình,
đặc biệt là tranh mẫu cho trẻ quan sát.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Nga Trung, ngày 9 tháng 3 năm 2017
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Tác giả

Vũ Thị Cúc

21



22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Module MN 25: Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực trong lĩnh vực
phát triển thẩm mĩ. Hoàng Công Dụng.
2. Module MN 5 Đặc điểm phát triển thẩm mĩ, những mục tiêu và kết quả
mong đợi ở trẻ mầm non về thẩm mĩ. Lí Thu Hiền
3. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cán bộ quản lý và giáo viên mầm non
năm học 2016 – 2017 ; Hoàng Minh Đức – Nguyễn Thị Mỹ Trinh (Đồng chủ
biên): - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
4. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non Mẫu giáo
nhỡ 4-5 tuổi ; TS. Trần Thị Ngọc Trâm- TS.Lê Thu Hương- PGS.TS. Lê Thị Ánh
Tuyết (Đồng chủ biên): - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 2009.

23


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Vũ Thị Cúc.
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó Hiệu trưởng – Trường mầm non Nga Trung,
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

TT

1.


Tên đề tài SKKN

Kích thích sự phát triển ngôn
ngữ cho trẻ 24 -36 tháng

2.

Làm quen với văn học cho trẻ
24 – 36 tháng tuổi

3.

Một số kinh nghiệm giáo dục
và bảo vệ môi trường cho trẻ

4.

24 – 36 tháng
Một số biện pháp chỉ đạo
nâng cao chất lượng cho trẻ 6

Cấp đánh giá xếp
loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Sở Giáo dục và
Đào tạo Thanh
Hóa

Sở Giáo dục và
Đào tạo Thanh
Hóa
Sở Giáo dục và
Đào tạo Thanh
Hóa
Sở Giáo dục và
Đào tạo Thanh
Hóa

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

C

2005 -2006

C

2006 -2007

C

2007 – 2008


C

2009 – 2010

C

2013 – 2014

-6 tuổi làm quen với tác phẩm
5.

văn học
Đổi mới công tác quản lý
nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục trẻ 5 – 6 tuổi ở

Sở Giáo dục và
Đào tạo Thanh
Hóa

trường Mầm non Nga Hải

24


MỤC LỤC
Nội dung
A. Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài

II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
I. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng
1 Thuận lợi
2 Khó khăn
3 Kết quả của thực trạng
III Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
1. Chỉ đạo giáo viên tạo môi trường giáo dục cho trẻ hoạt động
2. Chỉ đạo giáo viên tổ chức hoạt động học phát triển thẩm mĩ cho
trẻ 4 – 5 tuổi qua hoạt động Âm nhạc và hoạt động Tạo hình
3. Chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi và sử dụng đồ dùng, đồ
chơi có hiệu quả
4. Chỉ đạo giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
học
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
C. Kết luận, kiến nghị
I. Kết luận
II. Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2
2

3
3
3
4
5
5
8
14
16
17
19
19
19

25


×