Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt giải toán có lời văn qua rèn kĩ năng tự đặt được đề toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.97 KB, 20 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp
đất nước. Sự phát triển của kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức với những thách
thức của hội nhập quốc tế cũng đòi hỏi mỗi quốc gia phải có chiến lược phát triển
con người riêng cho mình.
Đảng và Nhà nước ta đã đặt nhiệm vụ giáo dục lên hàng đầu, coi giáo dục là
quốc sách, đề ra chủ trương nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài. Trong đó, việc phát triển tài năng và bồi dưỡng nhân tài để tạo nguồn trí tuệ
phục vụ cho đất nước là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Công việc đó phải tiến hành
ngay ở bậc Tiểu học, vì bậc Tiểu học là bậc nền tảng, có ý nghĩa quyết định đối với
sự hình thành, phát triển của công dân tương lai, để họ sẵn sàng tiếp cận với nền
khoa học tiên tiến của nhân loại và đi vào khám phá thế giới.
Môn Toán cũng như những môn học khác đã cung cấp những tri thức khoa
học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển các năng lực
nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người.
Môn Toán ở trường Tiểu học là môn học độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong
chương trình học của học sinh.
Các bài toán trong sách giáo khoa Tiểu học nói chung được chọn lọc, sắp xếp
có hệ thống, phù hợp với trình độ kiến thức và năng lực của học sinh. Trong đó
mạch kiến thức giải toán được sắp xếp xen kẽ với mạch kiến thức cơ bản. Giải toán
ở bậc Tiểu học, học sinh vừa thực hiện nhiệm vụ củng cố kiến thức toán học đã lĩnh
hội, đồng thời vận dụng kiến thức ấy vào giải các bài toán gắn liền với thực tiễn.
Học sinh tự giải được các bài toán có lời văn là một yêu cầu cơ bản của dạy học
toán.
Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng các em học sinh làm tính có lời
giải còn nhiều lúng túng, khó khăn khi giải một bài toán có lời giải. Kể cả những
học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt vẫn còn sai sót trong lập luận để tìm cách giải
bài toán, nhất là trong ghi lời giải. Đứng trước thực tế đó, là người giáo viên không
cho phép tôi bỏ qua mà phải suy nghĩ, điều tra và tìm biện pháp khắc phục.
Để học sinh “Học một biết mười”, phát huy các hoạt động học tập tích cực


chủ động, sáng tạo của học sinh thì cần phải tập cho học sinh thói quen:
Chưa tự bằng lòng mỗi khi giải quyết xong bài toán hoặc tìm đúng đáp số,
ngay cả trong trường hợp đã thử lại cẩn thận, soát lại đầy đủ. Điều đó có nghĩa là:
Các em cần tiếp tục suy nghĩ để tìm hiểu sâu hơn nhằm khai thác bài toán đó theo
một hướng, một cách làm độc đáo, hiệu quả hơn.

1


Vậy, làm thế nào để tất cả đối tượng học sinh không những ở thành phố mà
cả miền núi – nơi mà điều kiện có nhiều khó khăn và sách tham khảo chưa được
phong phú, đa dạng – phát huy được sự sáng tạo, thông minh và khả năng suy nghĩ
linh hoạt để khai thác bài toán có hiệu quả? Đặc biệt là trong quá trình dạy học theo
chuẩn kiến thức kĩ năng như hiện nay là dạy sát, phù hợp đối tượng học sinh, nhất
là những học sinh có năng lực học toán.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi đã chọn đề tài: Một số biện pháp giúp
học sinh lớp 5 học tốt “Giải toán có lời văn” qua rèn kĩ năng tự đặt được đề toán
mà theo tôi, là cách giúp các em phát triển tư duy và khai thác bài toán có hiệu quả
rất tốt. Mặt khác, nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập, để các em có điều
kiện trở thành những học sinh giỏi về môn Toán, vật lý, Hóa học, về Sinh học….ở
các bậc phổ thông trung học và đại học sau này.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
- Góp phần vào việc đổi mới dạy học tích cực nói chung và dạy học tích cực
trong môn Toán nói riêng.
- Nâng cao trình độ, phương pháp về nội dung dạy học giải toán có lời văn (ở
lớp 5) cho bản thân. Cùng đồng nghiệp nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, góp phần
nâng cao hiệu quả dạy và học.
- Giúp học sinh đổi mới cách học theo tinh thần chủ động, tích cực, giúp học
sinh có điều kiện học tập tốt hơn, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học.
Từ đó nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ở môn Toán ở trường Tiểu

học.
- Sáng kiến kinh nghiệm này sẽ là một đóng góp nhỏ trong số tài liệu tham
khảo của giáo viên trong công tác dạy và học Toán.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học mảng kiến thức về giải toán có
lời văn ở lớp 5B trường Tiểu học Xuân Sơn – Năm học 2014 – 2015.
- Đưa ra các biện pháp giúp học sinh học tốt giải toán có lời văn qua kĩ năng
tự đặt được đề toán.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Đọc các tài liệu giáo
trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Tham khảo sáng kiến, kinh nghiệm của
đồng nghiệp.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Tìm hiểu thực
trạng việc dạy giải toán có lời văn lớp 5 ở trường đang công tác. Thu thập thông tin
và khảo sát thực tế ở một lớp đã dạy.
- Phương pháp thống kế, xử lí số liệu.
2


B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Giải toán là mức độ cao nhất của tư duy, đòi hỏi mỗi học sinh phải biết huy
động gần như hết vốn kiến thức và hoạt động giải toán. Mỗi bài toán, mỗi biểu
thức, mỗi lời văn đều có nội dung kiến thức lôgíc của nó được thể hiện bằng các
ngôn ngữ Toán học (các thuật toán) và có mối quan hệ chặt chẽ trong một bài toán
dạng Toán.
Nội dung của việc giải toán gắn chặt với nội dung của số học và số tự nhiên,
các thập số thập phân, các đại lượng cơ bản và các yếu tố đại số, hình học các
chương trình. Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực
hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một

cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kĩ năng thực hành cần
thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng kĩ năng đó trong cuộc
sống. Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực
tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư
duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phải phân biệt cái
gì đã cho và cái gì cần tìm. Suy luận, nêu lên những phán đoán, rút ra những kết
luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra.
Ngoài ra, môn Toán là môn học rất cần thiết để học sinh học các môn học
khác, nhận thức thế giới xung quanh, từ đó hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.
Môn Toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ,
phương pháp suy luận lôgíc, thao tác tư duy cần thiết để nhận thức thế giới hiện
thực như: Trừu tượng hóa, khái quát hóa, khả năng phân tích tổng hợp, so sánh , dự
đoán, chứng minh.
Môn Toán còn góp phần giáo dục lí trí và những đức tính tốt như: Trung
thực, cần cù, chịu khó, ý thức vượt khó khăn, tìm tòi, sáng tạo và nhiều kĩ năng tính
toán cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho
con người lao động trong thời đại mới.
Do vậy trong dạy học giải toán người giáo viên cần giúp học sinh phát hiện,
giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích tổng hợp rút ra quy tắc ở dạng khái
quát. Để giúp học sinh học tốt người giáo viên cần nghiên cứu kĩ vị trí, tác dụng
của từng bài toán trong mỗi bài học, trong mỗi phần của chương trình để giảng dạy
cho hợp lí.
Song mỗi lớp, mỗi trường, mỗi địa phương khác nhau lại có những đặc điểm
riêng. Để nâng cao tay nghề, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, hiệu quả
giảng dạy môn Toán, tôi đã nghiên cứu rèn luyện khả năng đặt đề thêm, nhanh
những bài toán mới phù hợp với chương trình thực tiễn của học sinh lớp 5 để giảng
dạy và rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh vào buổi học tăng buổi.

3



Bước vào năm học mới, song song với việc ổn định tổ chức, tôi tiến hành
khảo sát môn Toán của lớp. Qua đó nhận thấy học sinh giải toán rất yếu, lời giải và
lí luận không chặt chẽ, rất ít học sinh đạt điểm tối đa trong bài toán giải. Vậy các
em yếu về giải toán là do nguyên nhân nào? Phải xác định được chúng ta mới tìm
ra biện pháp khắc phục. Tôi nhận thấy rằng học sinh giải toán yếu là do những
nguyên nhân sau:
+ Học sinh không nắm được yêu cầu của bài toán.
+ Không phân biệt được cách giải của từng dạng toán.
+ Không đọc kĩ đề
+ Không biết cách đặt đề toán.
Để giải quyết những nguyên nhân trên, tôi đã tự suy nghĩ tìm ra được những
kinh nghiệm đặt một số đề toán từ những đề toán đã cho nhằm nâng cao kĩ năng
giải toán cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM.
1. Vài nét về nhà trường:
Trường Tiểu học mà tôi đang công tác trên địa bàn một xã có điều kiện kinh
tế, văn hóa – xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Dân số đông, có hai làng theo Đạo,
nêm công tác giáo dục còn gặp khó khăn.
Song những năm gần đây công tác giáo dục đã được sự giúp đỡ, quan tâm
của các cấp: Đảng ủy – UBND xã và Hội cha mẹ học sinh cho nên phong trào học
tập và chất lượng học tập ngày càng có nhiều chuyển biến rõ rệt.
Đồng thời Ban giám hiệu nhà trường cũng thường xuyên quan tâm, chăm lo
và tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để giáo viên yên tâm công tác nhât là công
tác chuyên môn nghiệp vụ.
Đối với các em học sinh: phần lớn đều ngoan, lễ phép, chuyên cần siêng
năng trong học tập.
2. Thực trạng:
Đầu năm học 2014 – 2015 tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 5B

với tổng số học sinh 27 (nam 12, nữ 15). Sau khi nhận lớp tôi tiến hành khảo sát.
Qua khảo sát thực tế, tôi thấy rất nhiều học sinh còn yếu về kỹ năng tự đặt đề toán,
không biết cách thay đổi các số liệu đã cho, các đối tượng trong đề toán, tăng đối
tượng trong đề toán hay thay đổi câu hỏi của bài toán bằng câu hỏi khó hơn hoặc
đặt một đề toán ngược lại với đề toán đã cho….Khảo sát xong tôi bắt tay vào việc
lập kế hoạch để giúp các em khắc phục những thiếu sót trên, đồng thời qua việc
làm này tôi cũng nhằm mục đích dạy tăng cường Tiếng Việt trong học Toán cho các
em học sinh lớp tôi phụ trách.

4


Xuất phát từ yêu cầu học tập của các em và những trăn trở của bản thân đã
thôi thúc tôi tiến hành áp dụng cách làm này trong quá trình dạy học, đặc biệt là khi
dạy các dạng bài luyện tập, bài ôn tập ở buổi học tăng buổi.
3. Kết quả của thực trạng.
Qua thực tế khảo sát đầu năm học, tôi thấy các em còn lúng túng nhiều trong
việc tự đặt đề toán. Cụ thể:
Đặt đề toán mới bằng cách
Thay đổi các số liệu đã cho
Thay đổi các đối tượng trong đề toán
Thay đổi các quan hệ trong đề toán
Tăng số đối tượng trong đề toán
Thay đổi câu hỏi của bài toán bằng

Số học sinh
đặt đề
thành thạo
SL
%

3
11,1
3
11,1
3
11,1
2
7,4

Số học sinh
biết đặt đề
SL
4
4
4
3

%
14,8
14,8
14,8
11,1

Số học sinh
chưa đặt
được đề
SL
%
20
74,1

20
74,1
20
74,1
22
81,5

một câu hơi khó hơn
Đặt ra các bài toán ngược với bài toán

2

7,4

3

11,1

22

81,5

vừa giải

2

7,4

3


11,1

22

81,5

III. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Giải pháp chung:
- Công tác nghiên cứu, tham khảo các tài liệu của giáo viên.
- Công tác tiến hành điều tra khảo sát, phân loại đối tượng học sinh.
- Tổ chức trao đổi, thảo luận với tổ chuyên môn, đồng nghiệp.
- Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng, dạy
học sát đối tượng để giúp học sinh: Biết tự lập đề toán là một biện pháp rất tốt để
nắm vững cách giải các bài toán cùng loại. Nhờ đó học sinh sẽ nắm vững hơn mối
quan hệ giữa các đại lượng và những quan hệ bản chất trong mỗi loại bài toán.
Chính vì vậy mà học sinh hiểu bài toán sâu sắc hơn rất nhiều.
- Hướng dẫn học sinh biết tự lập đề toán là một biện pháp rất tốt để nắm
vững cách giải các bài toán cùng loại. Nhờ đó học sinh sẽ nắm vững hơn mối quan
hệ giữa các đại lượng và những quan hệ bản chất trong mỗi loại bài toán. Chính vì
vậy mà học sinh hiểu bài toán sâu sắc hơn rất nhiều.
Trong năm học qua, mỗi khi dạy học xong một dạng toán mới, tôi thường
giao bài tập cho học sinh tự ra các đề toán khác tương tự với bài toán vừa giải bằng
cách:
1. Thay đổi các số liệu đã cho trong đề toán.
2. Thay đổi các đối tượng trong đề toán.
5


3. Thay đổi các quan hệ trong đề toán.
4. Tăng số đối tượng trong đề toán.

5. Thay đổi câu hỏi của bài toán bằng một câu hỏi khó hơn.
6. Đặt các bài toán ngược với bài toán giải.
2. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
2.1. Thay đổi các số liệu đã cho trong đề toán.
Cách đặt đề toán dạng này có vai trò to lớn trong việc rèn luyện kỹ năng,
củng cố và khắc sâu kiến thức cho học sinh, giúp các em có khả năng giải thành
thạo các dạng toán đã học.
a. Các bước tiến hành:
a. Bước 1: Xác định các số liệu cơ bản của bài toán. (Giáo viên có thể cho
học sinh xác định các số liệu liên quan đến đề toán bằng cách gạch dưới các số
liệu đó).
Bước 2: Đưa số liệu mới vào thay số liệu cũ ban đầu.
Bước 3: Kiểm tra tính hợp lý và chính xác của số liệu mới thay.
b. Ví dụ:
“Một hộp bóng có

1
1
số bóng màu đỏ, số bóng màu xanh, còn lại là bóng
2
3

màu vàng. Tìm phân số chỉ số bóng màu vàng”
(Bài 3 trang 10; SGK Toán 5)
Trong bài toán này, học sinh thấy hai số liệu quan trọng là
Bây giờ các em thay ( Chẳng hạn ) hai phân số
mới là

1
1


2
3

1
1

bằng hai phân số
2
3

2
1

thì sẽ có đề toán:
3
5
2
1
“Một hộp bóng có số bóng màu đỏ, số bóng màu xanh, còn lại là bóng
3
5

màu vàng. Tìm phân số chỉ số bóng màu vàng”
Vậy là ta đã được bài toán mới.
Song, khi thay đổi các số liệu trong đề toán, học sinh thường dễ mắc sai lầm
ở chỗ: Không chú ý đến tính hợp lý của bài toán mà chỉ cốt làm sao bài đặt ra và
giải được bài toán. Cho nên, giáo viên cần gợi ý, nhắc nhở các em: Trong khi thay
đổi số liệu, không phải muốn thay đổi số liệu thế nào cũng được.
Chẳng hạn, xét 2 phân số trên ta thấy tổng của 2 phân số đó phải bé hơn 1 vậy nên

chỉ có thể thay các phân số

1
1

trong đề toán ban đầu bằng các phân số sao cho
2
3

tổng của chúng bé hơn 1. Nếu khi ta thay bằng những phân số mà tổng của chứng

6


lớn hơn 1 thì bài toán sẽ vô lý ở chỗ: Tổng của số bóng màu đỏ và số bóng màu
xanh đã nhiều hơn toàn bộ số bóng có trong hộp.
Điều mấu chốt ở đây là khi học sinh thay đổi các số liệu trong đề toán, người
giáo viên phải luôn lưu ý các em cần phải xem xét đến tính hợp lý các dữ kiện
trong bài toán để chúng không bị mâu thuẫn và đảm bảo tính hợp lý và lô gíc của
chúng.
2.2. Thay đổi các đối tượng trong đề toán:
Việc thay đổi các đối tượng trong đề toán có phần nâng cao hơn và khó hơn
song nó là một cách rất tốt giúp học sinh phát triển tư duy, óc sáng tạo trong quá
trình học toán và cách xác định dạng toán để giúp các em biết cách đưa về các dạng
toán cơ bản trong các bài toàn khó sau này.
a. Các bước tiến hành.
Bước 1: Xác định các đối tượng ban đầu của đề toán
Bước 2: Tìm các đối tượng mới cho đề toán
Bước 3: Thay đối tượng cũ bằng đối tượng mới – Thay số liệu cũ bằng số
liệu mới (Nếu các đối tượng mới không phù hợp với số liệu cũ).

Bước 4: Kiểm tra sự chính xác, tính hợp lý các số liệu, đối tượng vừa thay
trong đề toán.
b. Ví dụ:
“Quãng đường AB dài 180 km. Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc 54km/
giờ, cùng lúc đó một xe máy đi từ B đến A với vận tốc 36 km/ giờ. Hỏi kể từ lúc bắt
đầu đi sau mấy giờ ô tô gặp được xe máy?
(Bài 1a, trang 144 SGK Toán 5).
Ở bài toán này, nếu học sinh đổi 2 đối tượng “ô tô” thành “xe đạp”, “xe máy”
thành “Người đi bộ” thì sẽ có bài toán:
“Quãng đường AB dài 180 km. Một người đi xe đạp từ A đến B với vận tốc
54km/ giờ, cùng lúc đó một người đi bộ từ B đến A với vận tốc 36 km/ giờ. Hỏi kể
từ lúc bắt đầu đi sau mấy giờ hai người gặp nhau?
Tuy nhiên, xét các dữ kiện đề toán trên ta thấy chưa ổn vì:
+ Vận tốc của người đi xe đạp và đi bộ như vậy là quá nhanh.
Vì thế, giáo viên cần cho học sinh thay đổi cả số liệu đề toán cho hợp lý:
“Quãng đường AB dài dài 18 km. Một người đi xe đạp từ A đến B với vận
tốc 6 km/ giờ, cùng lúc đó một người đi bộ từ B đến A với vận tốc 3 km/ giờ. Hỏi
kể từ lúc bắt đầu đi sau mấy giờ hai người gặp nhau?
Như vậy, bài toán mới đã được hoàn chỉnh.
Ta cũng có thể đổi “ Quãng đường AB” thành một quãng đường nối hai địa
danh nào đó cụ thể mà các em biết để tạo ra một bài toán mới. Chẳng hạn:
“Xe máy và ô tô đi ngược chiều nhau cùng khởi hành một lúc từ Thành phố
Hà Nội và Thanh Hóa cách nhau 180 km. Vận tốc của xe máy đi từ Hà Nội là 36
7


km/ giờ, của ô tô đi từ Thanh Hóa là 54 km/giờ. Hỏi sau mấy giờ thì hai xe gặp
nhau ?”
* Bây giờ nếu đổi.
- Xe máy thành chiếc xe tải

- Ô tô thành chiếc xe du lịch
- “Đi ngược chiều gặp nhau” thành tình huống “chạy ngược chiều nhau”,
đồng thời sửa các số liệu một chút cho phù hợp với thực tế, ta có đề toán sau:
“ Một chiếc xe tải và một chiếc xe du lịch chạy ngược chiều nhau cùng khởi
hành một lúc cách nhau 300 km. Vận tốc xe tải là 40 km/ giờ, xe du lịch chạy với
tốc độ 60 km/ giờ. Hỏi sau thời gian bao lâu thì chúng gặp nhau?”
Bài toán mới đặt đề như vậy là xong.
Với dạng toán tương đồng này thì giáo viên cần lưu ý các em, khi thay đổi
các đối tượng của đề toán, cũng phải chú ý đến số liệu trong bài làm sao cho phù
hợp và đảm bảo tính khoa học, lô gíc.
2.3. Thay đổi các quan hệ trong đề toán:
Đây là dạng thay đổi ở mức độ khó hơn nên khi giáo viên cho các em đặt đề
bài toán theo cách này nhằm mục đích: giúp học sinh có dịp củng cố về tính chất
của các phép tính, về quan hệ giữa các đại lượng, mối tương quan của các dữ kiện
trong bài toán. Từ đó, các em sẽ nắm vững hơn cấu trúc của bài toán, dạng toán
giúp các em giải được nhiều dạng toán có mức độ khó hơn.
a. Các bước tiến hành:
Bước 1: Tìm quan hệ mấu chốt trong bài toán đã cho
Bước 2: Thay quan hệ khác ngược lại với quan hệ cũ
Bước 3: Kiểm tra mức độ chính xác, hợp lý của bài toán mới.
b. Ví dụ: Tôi đưa ra đề toán:
“Lớp 5A và lớp 5B nhận chăm sóc một vườn cây có tổng cộng 50 cây. Nếu
chuyển

1
số cây của lớp 5A sang để lớp 5B chăm sóc thì số cây chăm sóc của cả 2
6

lớp 5A và 5B sẽ bằng nhau. Hỏi lúc đầu mỗi lớp nhận chăm sóc bao nhiêu cây?”
Trong bài toán trên có một số quan hệ toán học chính như sau:

+ Tổng số cây mà lớp 5A và 5B chăm sóc là 50 cây. (1)
+ Chuyển

1
số cây mà lớp 5A chăm sóc sang lớp 5B thì số cây 2 lớp chăm
6

sóc bằng nhau (2)
Thay đổi các quan hệ toán học trên ta sẽ có bài toán mới:
Chẳng hạn:
* Nếu thay “quan hệ tổng” bằng “quan hệ hiệu” ở (1) và giữ nguyên (2) ta có
bài toán:
8


“Lớp 5A và lớp 5B nhận chăm sóc một vườn cây hiệu số cây là 50 cây. Nếu
chuyển

1
số cây của lớp 5A sang để lớp 5B chăm sóc thì số cây chăm sóc của cả 2
6

lớp 5A và 5B sẽ bằng nhau. Hỏi lúc đầu mỗi lớp nhận chăm sóc bao nhiêu cây?”
- Đối với cách đặt đề toán này, tôi khắc sâu cho học sinh hiểu rằng: việc thay
đổi các quan hệ trong đề toán ở đây chính là thay: Tổng ⇔ Hiệu; tăng ⇔ giảm,
thêm ⇔ bớt….
2.4. Tăng số đối tượng trong đề toán:
Dạng toán này cũng là một trong các dạng toán khó dành cho việc dạy phân
loại đối tượng học sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Việc tăng số dối tượng trong
đề toán là một biện pháp rất tốt để học sinh giải các bài toán cùng loại. Nhằm phát

triển tư duy của các em trong quá trình học toán tránh nhàm chán.
a. Các bước tiến hành:
Bước 1: Xác định đối tượng ban đầu của đề bài.
Bước 2: Thêm vào đề bài các đối tượng mới tương đương với số đối tượng
đã cho.
Bước 3: Thêm số liệu vào các đối tượng mới cho phù hợp.
Bước 4: Kiểm tra độ chính xác của mức độ, dữ kiện, số liệu mới.
b. Ví dụ:
Cuối năm 2000 số dân của một phường là 15.625 người. Cuối năm 2001 số
dân của phường đó là: 15.875 người.
a. Hỏi từ cuối năm 2000 đến năm 2001 số dân của phường đó tăng thêm bao
nhiêu phần trăm?
b. Nếu từ cuối năm 2001 đến cuối năm 2002 số dân của phường đó cũng
tăng thêm bấy nhiêu phần trăm thì đến cuối năm 2002 số dân của Phường đó là bao
nhiêu người?
(Bài 3 trang 79 SGK Toán 5).
- Với bài toán này giáo viên cần yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài và nêu được
bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu ta tìm gì?
Học sinh nêu và giải được:
Bài giải
a) Từ cuối năm 2000 đến năm 2001 số người tăng thêm là:
15875 – 15625 = 250 (người)
Tỉ số phần trăm số dân tăng thêm là:
250: 15625 = 0,016
0,016 = 1,6%
b) Từ cuối năm 2001 đến cuối năm 2002 số người tăng thêm là
15875 × 1,6 : 100 = 254 (người)
Cuối năm 2002 số dân của phường đó là:
9



15875 + 254 = 16129 (người)
Đáp số: a) 1,6%
b) 16129 người
Bài toán nêu trên các đối tượng ban đầu là: “từ cuối năm 2000 đến năm
2001”. Đối tượng thứ 2 là: “từ cuối năm 2001 đến cuối năm 2002” .Nếu học sinh
đưa vào một đối tượng nữa là “Từ cuối năm 2002 đến cuối năm 2003” ….thì bài
toán trở thành:
Cuối năm 2000 số dân của một phường là 15.625 người. Cuối năm 2001 số
dân của phường đó là: 15.875 người.
a. Hỏi từ cuối năm 2000 đến năm 2001 số dân của phường đó tăng thêm bao
nhiêu phần trăm?
b. Nếu từ cuối năm 2001 đến cuối năm 2002 số dân của Phường đó cũng
tăng thêm bấy nhiêu phần trăm thì cuối năm 2002 số dân của Phường đó là bao
nhiêu người?
c. Nếu cuối năm 2002 đến cuối năm 2003 mà số dân của Phường đó vẫn tăng
như vậy thì đến cuối năm 2003 số dân của Phường đó là bao nhiêu người?
* Hoặc: Nếu thêm vào đối tượng nữa là: “Từ cuối năm 2000 đến cuối năm
2003” thì nội dung bài toán sẽ là:
Cuối năm 2000 số dân của một phường là 15.625 người. Cuối năm 2001 số
dân của phường đó là: 15.875 người.
a. Hỏi từ cuối năm 2000 đến cuối năm 2001 số dân của Phường đó tăng thêm
bao nhiêu phần trăm?
b. Nếu từ cuối năm 2001 đến cuối năm 2002 số dân của Phường đó cũng
tăng thêm bấy nhiêu phần trăm thì đến cuối năm 2002 số dân của Phường đó là bao
nhiêu người?
c. Nếu cuối năm 2002 đến cuối năm 2003 mà số dân của Phường đó vẫn tăng
như vậy thì cuối năm 2003 số dân của phường đó là bao nhiêu người?
d. Từ cuối năm 2000 đến cuối năm 2003 số dân của Phường đó tăng bao
nhiêu người?

2.5. Thay đổi câu hỏi của bài toán bằng một câu hỏi khó hơn.
Đặt đề bằng cách thay đổi câu hỏi của bài toán bằng một câu hỏi khó hơn
chính là tạo khả năng suy nghĩ linh hoạt cho học sinh. Giúp học sinh có dịp tiếp
xúc và thử sức với những yêu cầu cao hơn, và có dịp suy nghĩ đến những khía cạnh
khác nhau của bài toán.
a. Các bước tiến hành.
Bước 1: Giải bài toán ban đầu
Bước 2: Thay câu hỏi của bài toán ban đầu bằng câu hỏi khó hơn.
Bước 3: Tìm cách giải cho bài toán mới bằng cách đưa về dạng toán đã học.
10


Bước 4: Kiểm tra mức độ chính xác của câu hỏi, dữ kiện mới.
b.Ví dụ: Tuổi của con gái bằng

1
1
tuổi mẹ, tuổi của con trai bằng tuổi mẹ.
4
5

Tuổi của con gái cộng với tuổi của con trai là 18 tuổi. Hỏi mẹ bao nhiêu tuổi?
(Bài 1 trang 180 SGK Toán 5)
Học sinh nêu được bài toán cho biết gì và yêu cầu ta cần tìm gì.
Học sinh giải được bài toán.
Bài giải
1
tuổi mẹ tức là bằng
4
1

Tuổi của con trai bằng tuổi mẹ tức là bằng
5

Tuổi của con gái bằng

5
tuổi mẹ
20
4
tuổi mẹ
20

Xem tuổi con trai là 4 phần bằng nhau
Tuổi con gái là 5 phần bằng nhau như vậy
Vậy tuổi mẹ là 20 phần bằng nhau như thế
Ta có sơ đồ:
Tuổi con trai:
18 tuổi
Tuổi con gái:
Tuổi mẹ:

…………………….
20 phần
Tuổi mẹ là: 18 : (4 + 5) x 20 = 40 (tuổi)
Đáp số: 40 tuổi

* Nếu ta thay câu hỏi của bài toán bằng câu hỏi: “Biết năm nay là năm 2014
hãy tính năm sinh của mẹ và năm sinh của con” thì sẽ được bài toán:
“Tuổi của con gái bằng


1
1
tuổi mẹ, tuổi của con trai bằng
tuổi mẹ. Tuổi
4
5

của con gái cộng với tuổi của con trai là 18 tuổi. Biết năm nay là năm 2014, hãy
tính năm sinh của mẹ?
Bài toán này khó hơn bài toán lúc đầu một chút, vì muốn giải được nó, trước
hết học sinh phải tính được tuổi của mẹ hiện nay (mẹ: 40 tuổi) sau đó mới lấy 2014
trừ đi 40 thì mới ra đáp số.
* Tuy nhiên nếu thay câu hỏi của bài toán bằng câu hỏi sau:

11


“Tính xem sau đây bao nhiêu năm thì tuổi mẹ bằng tổng số tuổi của hai con”
thì sẽ được bài toán khó hơn lúc đầu khá nhiều:
“Tuổi của con gái bằng

1
1
tuổi mẹ, tuổi của con trai bằng tuổi mẹ. Tuổi
4
5

của con gái cộng với tuổi của con trai là 18 tuổi. Tính xem sau đây bao nhiêu năm
thì tuổi mẹ bằng tổng số tuổi của hai con?”
Để giải được bài toán này trước hết học sinh phải tính được tuổi mẹ và tuổi

con hiện nay theo dạng “Tìm hai số biết hiệu và tỉ số”
Tuổi mẹ: 40
Tuổi con gái: 10
Tuổi con trai: 8
Tiếp theo là giải bài toán để tìm ra đáp số mới của bài toán là: “22 năm sau”
* Muốn thay câu hỏi cũ bằng câu hỏi mới khó khăn thì trước tiên học sinh
phải xác định được mục đích của câu hỏi ban đầu để đi tới giải đúng. Từ câu hỏi cũ
ban đầu đó mà nâng lên câu hỏi khác khó hơn. Sau khi học sinh đặt được các đề
toán mới, các em cần suy nghĩ để tìm cách giải. Luyện tập được thói quen tốt về
phương diện này, các em có điều kiện học tốt ở các môn học khác.
2.6. Tự đặt bài toán ngược với bài toán đã giải.
Học sinh biết tự đặt các bài toán ngược với bài toán đã giải sẽ giúp em rèn
luyện trí thông minh, óc sáng tạo và cách suy luận đúng đắn, hợp lý.
a. Các bước tiến hành.
Bước 1: Xác định những dữ kiện đã cho biết của bài toán
Bước 2: Thay một trong những điều đã cho đó bằng đáp số của bài toán
Bước 3: Đặt câu hỏi vào những điều đã cho thì được một bài toán ngược
Bước 4: Kiểm tra tính chính xác của dữ kiện vừa thay thế.
b.Ví dụ:
“Một gia đình công nhân sử dụng tiền lương hàng tháng như sau:
lương để chi tiền ăn của gia đình và tiền học của các con,

3
số tiền
5

1
số tiền lương để trả
4


tiền thuê nhà và tiền chi tiêu các việc khác, còn lại là tiền để dành.
a) Hỏi mỗi tháng gia đình đó đề dành được bao nhiêu phần trăm số tiền
lương?
b) Nếu số tiền lương là 4.000.000 đồng một tháng thì gia đình đó để dành
được bao nhiêu tiền mỗi tháng?
(Bài 3, trang 161 – SGK Toán 5)
Bài toán đã cho là:
3
số tiền lương để chi cho tiền ăn của gia đình và tiền học của các con (1)
5

12


1
số tiền lương để trả tiền thuê nhà và tiền chi tiêu các việc khác (2)
4

Số tiền lương một tháng là 4.000.000 đồng. (3)
Bài toán cần tìm là:
Mỗi tháng gia đình đó để dành được bao nhiêu phần trăm số tiền lương?
Số lương là 4.000.000 đồng một tháng thì gia đình đó mỗi tháng để được bao
nhiêu tiền?
Học sinh giải được bài toán như sau:
Bài giải
Phân số chỉ số tiền lương gia đình đó chi tiêu hàng tháng là:
3
1
17
+

=
(số tiền lương)
5
4
20

a. Tỉ số phần trăm số tiền lương gia đình đó để dành là:
20 17
=
20 20
3
=
20

3
(số tiền lương)
20
15
= 15%
100

b. Số tiền mỗi tháng gia đình đó để dành được là:
4 000 000 : 100 × 15 = 600 000 (đồng)
Đáp số: a) 15% số tiền lương
b) 600 000 đồng
Các đáp số là: Mỗi tháng để dành được 15% số tiền lương (4)
Mỗi tháng để dành được 600 000 đồng (5)
* Nếu đổi chỗ (3) cho (5)
Bài toán ngược thứ nhất:
“ Một gia đình công nhân sử dụng tiền lương hàng tháng như sau:

lương để chi cho tiền ăn của gia đình và tiền học của các con,

3
số tiền
5

1
số tiền lương để trả
4

tiền thuê nhà và tiền chi tiêu các việc khác, còn lại là tiền để dành.
a) Hỏi mỗi tháng gia đình đó để dành được bao nhiêu phần trăm số tiền
lương?
b) Nếu số tiền lương để dành được là 600 000 đồng một tháng thì tiền lương
mỗi tháng của gia đình đó là bao nhiêu?
* Nếu đổi chỗ (3) cho (1) ta có:
Bài toán ngược thứ 2:

13


“Một gia đình công nhân sử dụng tiền lương hàng tháng như sau:

1
số tiền
4

lương để trả tiền thuê nhà và chi tiêu các việc khác, 15 phần trăm số tiền lương là
tiền để dành, số tiền lương còn lại để chi tiền ăn của gia đình và tiền học của các
con.

a) Hỏi mỗi tháng gia đình đó dùng bao nhiêu phần trăm số tiền lương để chi
cho tiền ăn của gia đình và tiền học của các con?
b) Nếu số tiền lương là 4.000.000 đồng một tháng thì số tiền để chi cho tiền
ăn của gia đình và tiền học của các con là bao nhiêu tiền mỗi tháng?
* Nếu đổi (3) cho (2) ta có:
Bài toán ngược thứ 3:
“ Một gia đình công nhân sử dụng tiền lương hàng tháng như sau:

3
số tiền
5

lương để chi cho tiền ăn của gia đình và tiền học của các con, 15 phần trăm số tiền
lương là để dành, số còn lại để trả tiền thuê nhà và chi tiêu các việc khác.
a) Hỏi mỗi tháng gia đình đó trả tiền thuê nhà và tiền chi tiêu các việc khác
hết bao nhiêu phần trăm số tiền lương?
b) Nếu số tiền lương là 4.000.000 đồng một tháng thì gia đình đó trả tiền
thuê nhà và tiền chi tiêu các việc khác hết bao nhiêu tiền mỗi tháng?
Như vậy từ một bài toán trong SGK ta đã có thêm 3 bài toán mới bằng cách
đặt đề ngược với bài toán ban đầu. Song không phải cách giải bài toán này hoàn
toàn giống nhau. Mà mỗi bài được đảo ngược ấy khi các em làm sẽ phát hiện ra
được những vấn đề mới. Cách đặt đề này nói ngắn gọn rằng nó tương tự những
dạng “Toán chuyển động đều” ở lớp 5, từ quy tắc “Muốn tính quãng đường ta lấy
vận tốc nhân với thời gian”
s=v×t
Đảo ngược lại có câu hỏi sau:
“Nếu biết thời gian và quãng đường ta có tính được vận tốc không? Ta lấy
quãng đường chia cho thời gian”
v=s:t
Nếu biết vận tốc và quãng đường ta có tính được thời gian không ? ta lấy

quãng đường chia cho vận tốc”
t = s: v
- Bằng những câu hỏi đảo ngược học sinh tự khám phá ra cách làm để tìm
được hai dạng toán mới dưới dạng tổng quát là:
v=s:t
t = s: v

14


Qua các ví dụ trên ta thấy: Dạy toán theo quan điểm “động” như vậy sẽ là
cách rất tốt giúp học sinh “Học một biết mười” mà mỗi giáo viên chúng ta đều
hướng tới.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG.
Năm học 2014 – 2015 qua quá trình áp dụng kinh nghiệm: Một số biện pháp
nhằm giúp học sinh lớp 5 học tốt “Giải toán có lời văn” qua rèn kĩ năng tự đặt
được đề toán ở lớp 5B – Trường Tiểu học hiện tôi đang công tác với tổng số học
sinh 27 em, tôi thấy: Từ chỗ các em còn lúng túng chưa đặt được đề toán mới thì
hết một năm học, học sinh lớp tôi phần lớn đã tự đặt được đề toán. Những bài toán
mà học sinh tự đặt giúp các em củng cố được những kiến thức cơ bản ở sách giáo
khoa. Đồng thời đã phát huy được sự thông minh, sáng tạo và năng lực học tập của
các em.
Kết quả thu được như sau:
Đặt đề toán bằng cách
Thay đổi các số liệu đã cho
Thay đổi các đối tượng trong đề toán
Thay đổi các quan hệ trong đề toán
Tăng số đối tượng trong đề toán
Thay đổi câu hỏi của bài toán bằng

một số câu hỏi khó hơn
Đặt các bài toán ngược với bài toán
vừa giải

Số học sinh
đặt đề
thành thạo
SL
%
19
71,1
15
56,3
14
51,9
14
51,9
6
22,2
6

22,2

Số học sinh
biết đặt đề
SL
8
8
6
6

12

%
28,9
28,9
22,2
22,2
44,5

12

44,5

Số học sinh
chưa đặt
được đề
SL
%
0
0
4
14,8
7
25,9
7
25,9
9
33,3
9


33,3

Qua bảng trên ta thấy:
- Chất lượng lớp cuối năm học cao hơn lớp ở đầu năm học.
- Tỉ lệ số học sinh đặt đề toán thành thạo ở cuối năm học cũng cao hơn lớp ở
đầu năm.
Qua khảo sát chất lượng về các yêu cầu trọng tâm, học sinh đã đạt được:
- Học sinh nắm vững cách lập đề toán, từ đó nắm vững cách giải bài toán
cùng loại, nắm vững hơn mối quan hệ giữa các đại lượng và những quan hệ bản
chất trong mỗi loại bài toán. Chính vì vậy, học sinh đã hiểu bài toán sâu sắc hơn rất
nhiều.

15


- Nhận dạng được các dạng toán một cách nhanh chóng và vận dụng giải linh
hoạt, sáng tạo.
- Nhưng cũng còn một số em diễn đạt chưa mạch lạc, tính cẩn thận khi trình
bày bài làm chưa tốt.
Từ kết quả đã đạt được ở lớp mình, tôi mạnh dạn đề xuất với Ban giám hiệu
tổ chức thực hiện áp dụng các biện pháp trên trong dạy học toán ở khối 5. Kết quả
đã cho thấy có sự tiến bộ rõ rệt. Từ kết quả đó, tôi nhận thấy dạy học giải toán có
lời văn ở lớp 5 không những chỉ giúp cho học sinh củng cố vận dụng các kiến thức
đã học mà còn giúp phát triển tư duy, sáng tạo trong học toán và biết vận dụng thực
hành vào thực tiễn cuộc sống.

16


C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

I. KẾT LUẬN:
Trên đây là một quá trình tìm tòi, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn
giảng dạy với học sinh trong lớp. Trong quá trình thực hiện đề tài này, bản thân tôi
đã rút ra được một số bài học cho bản thân và đồng nghiệp:
1/ Muốn giúp học sinh giải được tốt các bài toán thì giáo viên phải rèn cho
học sinh kĩ năng đạt đặt các đề toán phù hợp với thực tế giảng dạy lớp mình.
2/ Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải luôn quan sát, kiểm tra và tiếp
nhận thông tin phản hồi từ học sinh để giúp học sinh đạt kết quả tốt hơn, đồng thời
kiểm tra khả năng đặt đề toán của mình.
3/ Giáo viên cần rèn luyện cho học sinh tích cực, chủ động, biết nêu vấn đề
và giải quyết vấn đề khi giải toán có lời văn. Điều đó sẽ giúp các em có hứng thsu
trong học toán, tạo cho các em tính kiên trì, nhẫn nại, ý chí vượt khó, đức tính cẩn
thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, suy nghĩ, óc sáng
tạo…
4/ Do đặc điểm tâm, sinh lí của học sinh tiểu học là ghi nhớ máy móc nên
chóng quên, hay bị “ngộ nhận” bởi những dấu hiệu bề ngoài. Vì vậy , người giáo
viên phải hướng dẫn các em phân tích kĩ đề bài. Từ đó giúp các em tìm ra phương
pháp giải các bài toán khó.
5/ Cần tổ chức lớp học sao cho mọi học sinh đều hoạt động một cách độc lập,
tích cực, sáng tạo để phát huy tối đa khả năng toán học của bản thân. Học sinh
không chỉ biết giải đúng mà còn phải giải nhanh, giải bằng nhiều cách. Đặc biệt là
biết đánh giá bài làm của bạn.
6/ Để tránh khô khan, nặng nề trong các giờ học toán, giáo viên có thể tổ
chức dưới nhiều hình thức nhằm gây hứng thú cho học sinh. Trong mỗi tiết học có
thể thi giải toán nhanh, đúng bằng các trò chơi như: hái hoa….hoặc tổ chức các
hoạt động ngoại khóa như các: Câu lạc bộ Toán học,…
Sau nhiều năm dạy học lớp 5 và quá trình nghiên cứu thực hiện, tôi rút ra
một số kinh nghiệm trên. Tôi thấy kết quả học tập môn Toán của học sinh lớp tôi
chủ nhiệm ngày càng tiến bộ nên chất lượng học tập cũng được nâng lên rõ rệt.
Đầu năm học thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn, tôi đem kinh nghiệm này

triển khai trong toàn khối. Qua mỗi đợt kiểm tra định kì chất lượng môn Toán của
học sinh có nhiều kết quả tốt, tôi thấy áp dụng phương pháp đặt đề toán, rèn luyện
kĩ năng giải toán cho học sinh, hầu hết các em giải được các bài toán ở dạng cơ
bản.

17


II. KIẾN NGHỊ
Từ thực tế giải dạy, tôi có một số đề xuất sau:
- Sau mỗi dạng toán mới, giáo viên nên giao bài tập cho học sinh để các em
làm bằng cách đặt các đề tương tự và giải. Để các em quen dần với việc tự đặt ra đề
toán, nhằm giúp trí tuệ các em được phát triển hơn.
- Để việc dạy môn Toán đảm bảo tính khoa học, tính chính xác và phát huy
được tính chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên cần tự học tự bồi dưỡng nâng
cao nghiệp vụ chuyên môn để có những phương pháp dạy học phù hợp nhất, học
sinh dễ dàng nhận thức nhất.
- Các cấp ngành giáo dục cần thường xuyên mở các hội thảo về đổi mới
phương pháp dạy học để giáo viên có điều kiện giao lưu, học hỏi lẫn nhau.
Do khuôn khổ của SKKN và thời gian còn hạn chế, điều kiện nghiên cứu và
trình độ của bản thân có hạn, chắc chắn sáng kiến kinh nghiệm này còn có những
thiếu sót, tôi rất mong sự đóng góp ý kiến và giúp đỡ các đồng nghiệp để sáng kiến
kinh nghiệm này có chất lượng và hoàn chỉnh hơn./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
HT:

Thanh Hóa, ngày 26 tháng 5 năm 2016

Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết SKKN

Hoàng Thị Dịu

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán 5 chương trình năm 2000 của tác giả Đỗ Đình Hoan
(Chủ biên), Nguyễn Áng, Vũ Quốc Huy, Đỗ Tiến Đạt, Đào Thị Lai, Đỗ Huy Triệu,
Lê Tiến Thành, Vũ Dương Thụy.
2. Sách giáo khoa Toán 5 – chương trình 165 tuần. Các tác giả: Phạm Văn
Hoàn, Đỗ Trung Hiệu, Đỗ Đình Hoan, Đào Nãi, Vũ Dương Thụy – NXBGD 1998.
3. Toán tuổi thơ – nhiều tác giả - NXBGD năm 2002.
4. 10 chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Toán 4 – 5: Tác giả Trần Diên Hiển
– NXBGD năm 1999.
5. Để học tốt toán 5 – tác giả: Hoàng Chúng (chủ biên), Đặng Huỳnh Mai,
Bùi Chí Hiếu, Nguyễn Đức Tấn, Nguyễn Bạch Tuyết, Trương Thanh Bình –
NXBGD năm 1998
6. 100 bài toán phân số lớp 4 – 5 – tác giả: Nguyễn Áng, Đỗ Trung Hiệu –
NXBGD năm 1996
7. Dạy học môn Toán ở Tiểu học – tác giả: Phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Phụ
Hy (chủ biên), Bùi Thị Hường, Nguyễn Thị Trang – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2000.
8. Phương pháp giải 45 bộ đề toán chọn lọc 4 – 5 – Tác giả: Đặng Tự Lập,
Vũ Thị Loan – NXB trẻ 1997.
9. Bài toán nâng cao lớp 5 – tác giả: Đào Nãi (chủ biên), Đỗ Trung Hiệu –

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2000.
10. Tuyển chọn 400 bài tập toán 5 – tác giả: Hoàng Phong, Huỳnh Thị Chiến,
Trần Huynh Thống – NXB Đà Nẵng 2000.

Môc lôc

19


A. MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
IV.Phương pháp nghiên cứu.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I.
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
II.
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
1.Vài nét về nhà trường.
2. Thực trạng.
3. Kết quả của thực trạng.
III.
Các giải pháp và tổ chức thực hiện.
1. Giải pháp chung.
2. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
2.1.
Thay đổi các số liệu đã cho trong đề toán.
2.2.

Thay đổi các đối tượng trong đề toán.
2.3.
Thay đổi các quan hệ trng đề toán.
2.4.
Tăng số đối tượng trong đề toán
2.5.
Thay đổi câu hỏi của bài toán bằng một câu hỏi khó hơn.
2.6.
Tự đặt bài toán ngược lại với bài toán đã giải.
IV.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
C. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
I.
Kết luận
II.
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.
II.
III.

Trang
1
1
2
2
2
3
3

4
4
4
5
5
5
6
6
7
8
9
10
12
15
17
17
18
19

20



×