Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 trường TH thị trấn vạn hà thiệu hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.31 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

1. MỞ ĐẦU

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

2.1. Cơ sở lý luận

3

2.2. Thực trạng vấn đề .

3

2.2.1. Thực trạng

3

2.2.2. Kết quả của thực trạng

4

2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng


5

2.3. Các giải pháp thực hiện

5

2.3.1. Tìm hiểu điều tra thực trạng về “Giải toán có lời văn” của

5

học sinh lớp 1A trường Tiểu học Thị trấn Vạn Hà.
2.3.2. Tìm hiểu và nghiên cứu về sách giáo khoa, mục tiêu, nội

5

dung và phương pháp dạy học giải toán có lời văn lớp 1.
2.3.3. Thực hiện soạn, giảng trong các tiết toán thuộc phần “Giải

5

toán có lời văn”
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục

15

3. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

15

1



1. MỞ ĐẦU.
- Lý do chọn đề tài:
Trong môn toán ở bậc tiểu học, giải toán có một vị trí rất quan trọng. Một
phần lớn thời gian học toán của học sinh dành cho việc học giải các bài toán. Kết
quả học Toán của học sinh cũng được đánh giá trước hết qua khả năng toán học.
Biết giải thành thạo các bài toán là tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá trình độ toán
học của mỗi học sinh.
Sở dĩ việc giải toán có vị trí quan trọng như trên là vì nó có những tác dụng to
lớn và toàn diện như sau:
Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các
kiến thức về Số học, về Đo lường, về các yếu tố Đại số, về các yếu tố Hình học đã
được học trong môn toán ở Tiểu học. Hơn nữa phần lớn các biểu tượng, khái niệm,
quy tắc, tính chất toán học ở tiểu học đều được học sinh tiếp thu qua con đường
giải toán, chứ không phải con đường lí luận.
Thông qua nội dung thực tế nhiều hình vẽ của các đề toán, học sinh sẽ tiếp thu
được những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để rèn luyện khả
năng áp dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống, làm tốt điều Bác Hồ căn dặn là
“ Học đi đôi với hành”.
Mỗi đề toán đều là một bức tranh nhỏ của cuộc sống, phải biết chọn lựa những
phép tính thích hợp, biết làm đúng các phép tính, biết đặt lời giải chính xác...Vì thế
quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan sát và giải quyết các
hiện tượng của cuộc sống.
Việc giải các bài toán sẽ giúp học sinh phát triển trí thông minh, óc sáng tạo,
biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, biết phân tích để tìm các số liệu.vv.. Nhờ
đó mà đầu óc các em sẽ sáng suốt hơn, tinh tế hơn; tư duy của các em sẽ linh hoạt,
chính xác hơn, cách suy nghĩ và làm việc của các em khoa học hơn.
Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn đề,
tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề,tự mình thực hiện các phép tính, tự mình

kiểm tra lại các kết quả. . . Do đó giải toán là một cách tốt để rèn luyện đức tính
kiên trì, tự lực vượt khó,cẩn thận chu đáo. Các dạng bài toán có lời văn của lớp
1chủ yếu giải bằng một phép tính cộng hoặc phép tính trừ . Bước đầu diễn đạt
bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực
hành.Tập phát hiện tìm tòi và chiếm lĩnh kiến thức mới, chăm chỉ, tự tin, hứng
thú trong học tập và trong thực hành Toán.Vì vậy trong một số giải pháp giúp
học sinh lớp 1 giải toán có lời văn, tôi xin đề cập nhiều hơn đến việc: Rèn kĩ
năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1.
- Mục đích nghiên cứu: Đề xuất một số kinh nghiệm rèn kỹ năng giải toán có lời
văn cho học sinh lớp 1.
- Đối tượng nghiên cứu: Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho
học sinh lớp 1 trường Tiểu học Thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu Hóa.
2


- Phương pháp nghiên cứu :
Khi tiến hành nghiên cứu, tôi thường sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu, lí luận.
+ Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập thông tin.
+ Phương pháp thống kê xử lí số liệu.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Trong các mạch kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì mạch kiến
thức “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và
càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp 1. Bởi vì đối với học sinh lớp 1: Vốn từ,
vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu còn rất hạn chế. Thực tế hiện nay cho thấy, các em
thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Các em chưa biết phân tích đề toán
để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về ,
thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, trình bày thiếu chính xác, thiếu

khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán, học toán và giải toán một
cách máy móc nặng về dập khuôn, bắt chước.
Thực tế qua những năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 1. Tôi nhận thấy học
sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác.
Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép
tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được câu lời giải đúng
hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đưa ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học
sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy học sinh thực hiện các phép
tính ấy để tìm ra đáp số. Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1 là một khó khăn lớn đối với
mỗi giáo viên trực tiếp giảng
dạy ở lớp 1 nhất là những bài đầu dạy toán có lời văn, ngay ở việc giúp các em đọc
đề, tìm hiểu đề...Một số em chỉ mới đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa
trả lời được các câu hỏi của giáo viên nêu: Bài toán cho biết gì?.. Đến khi giải bài
toán thì đặt câu lời giải chưa đúng. Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về
phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp
dụng, truyền đạt của những người thầy.
Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm
góp phần nâng cao kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 1 nói riêng và trong môn
toán 1 nói chung. Để từ đó các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời
văn khó và phức tạp ở các lớp trên.
2.2.Thực trạng vấn đề
2.2.1. Thực trạng: Qua thực tế giảng dạy và dự giờ lớp 1 ở Trường Tiểu học
Thị trấn Vạn Hà - Thiệu Hoá - Thanh Hóa cũng như qua thực tế giảng dạy ở lớp
1 một số trường tôi nhận thấy.
a. Đối với giáo viên:
3


* Thuận lợi:
- Đa số giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Phần lớn giáo viên là

người địa phương nên có điều kiện bám trường, bám lớp yêu nghề mến trẻ. Giáo
viên có điều kiện để trau dồi thêm kiến thức, cách tổ chức để giờ học sôi nổi, có
hiệu quả.
- Do có sự đổi mới về nội dung, cách sắp xếp kiến thức trong sách giáo khoa
mà giáo viên dễ xây dựng các hoạt động dạy học nhằm đạt mục tiêu. Nội dung các
bài toán được cập nhật hoá phù hợp với thực tiễn nên giáo viên cũng dễ chuyển tải
đến học sinh.
- Sự quan tâm chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường, tạo mọi điều kiện thuận
lợi nhất cho giáo viên đạt được mục tiêu giảng dạy của mình.
*Hạn chế:
- Giáo viên chưa chuẩn bị tốt cho các em khi dạy những bài nhìn hình vẽ viết
phép tính thích hợp. Đối với những bài này hầu như học sinh đều làm được nên
giáo viên tỏ ra chủ quan, ít nhấn mạnh hoặc không chú ý lắm mà chỉ tập trung vào
dạy kĩ năng đặt tính, tính toán của học sinh mà quên mất rằng đó là những bài toán
làm bước đệm, bước khởi đầu của dạng toán có lời văn sau này.
b. Đối với học sinh:
*Thuận lợi: Đi học là niềm vui của trẻ. Bước vào lớp Một các em háo hức mong
muốn được tìm tòi, khám phá những điều mới lạ. Đến trường được làm quen với
nhiều bạn mới, trong môi trường mới. Đó là điều kiện giúp các em dễ tiếp thu kiến
thức.
- Các bài toán được trình bày với nhiều hình thức khác nhau, giúp các em
hứng thú học tập phát huy được tính sáng tạo của mình.
* Khó khăn: Do học sinh mới bắt đầu làm quen với dạng toán này lần đầu, tư duy
của các em còn mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác ở giai đoạn
này một số em còn chưa đọc thông, viết thạo, các em đọc còn đánh vần nên khi đọc
xong bài toán rồi nhưng các em không hiểu bài toán nói gì, thậm chí có những em
đọc đi đọc lại nhiều lần nhưng vẫn chưa hiểu bài toán .
2.2.2. Kết quả của thực trạng
Qua việc khảo sát kĩ năng giải toán có lời văn ở lớp 1B trường Tiểu học Thị
trấn Vạn Hà vào thời điểm cuối năm học 2014- 2015 với đề bài sau:

Đề bài: Nhà Mai nuôi 26 con gà, mẹ bán đi 12 con gà. Hỏi nhà Mai còn lại bao
nhiêu con gà?
Kết quả như sau:
Lớp Sĩ HS viết đúng HS viết đúng HS viết đúng HS giải đúng
số câu lời giải
phép tính
đáp số
cả 3 bước
1B
26 SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
13

50

17

65.4

14

53.8

13


50
4


2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng
Nguyên nhân chính là do một số học sinh chưa có kĩ năng diễn đạt nói, diễn
đạt viết, khả năng tư duy chậm và tính toán còn kém, đặc biệt chưa biết diễn đạt
được đâu là "giả thiết", đâu là "kết luận"; chưa biết gạt bỏ những từ ngữ, câu
chữ để diễn đạt nội dung mà không có "tính chất toán học" dẫn đến hiểu sai nội
dung bài toán nên lựa chọn lời giải và phép tính không đúng cũng là điều dễ
hiểu. Vậy làm thế nào để học sinh có kĩ năng giải bài toán một cách chắc chắn
chính xác?
2.3. Các giải pháp thực hiện:
Với những trăn trở trên, bước sang năm học 2015-2016 tôi đã nghiên cứu,
học hỏi đồng nghiệp để tìm ra một số giải pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao
hiệu quả dạy giải toán và rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1.
Được sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của ban giám hiệu nhà trường, tôi đã tiến
hành giảng dạy và hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng giải toán có lời văn lớp 1
thông qua các trình tự sau:
-Tìm hiểu, điều tra thực trạng về “Giải toán có lời văn” của học sinh Lớp 1A
năm học 2015-2016 tại trường Tiểu học Thị trấn Vạn Hà.
-Tìm hiểu và nghiên cứu về: Sách giáo khoa, mục tiêu, nội dung và phương
pháp dạy học giải toán có lời văn lớp 1
-Thực hiện soạn, giảng trong các tiết toán thuộc phần: “Giải toán có lời văn".
2.3.1.Tìm hiểu, điều tra thực trạng về "Giải toán có lời văn" của học sinh Lớp
1A trường Tiểu học Thị Trấn Vạn Hà.
Sau khi nhận lớp tôi đã phân chia đối tượng học sinh theo các mức độ (giỏi,
khá, trung bình) và có kế hoạch cụ thể cho từng đối tượng trong từng tiết, trong
từng giai đoạn.

2.3.2. Tìm hiểu và nghiên cứu về Sách giáo khoa, mục tiêu, nội dung và
phương pháp dạy học giải toán có lời văn lớp 1
Nội dung giải toán có lời văn chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn chuẩn bị cho học
giải bài toán ở học kì 1 và giai đoạn chính thức ở học kì 2. Nội dung dạy học giải
toán có lời văn xen kẽ với các mạch kiến thức số học và hỗ trợ cho các đại lượng
khác. Ví dụ: Trong học kì 1 (giai đoạn chuẩn bị): Các tình huống dẫn ra các bài
toán có lời văn từ các tranh vẽ, phần lớn là ý nghĩa của phép cộng, phép trừ. Các
phép tính giải là phép cộng, phép trừ trong phạm vi 10. Đến học kì 2, nội dung giải
toán phản ánh ý nghĩa của phép cộng, phép trừ trong phạm vi 100 (có hai chữ số
không nhớ). Khi học về độ dài đoạn thẳng với độ dài là xăng- ti -mét, học sinh
được giải các bài toán liên quan đến các yếu tố hình học và đại lượng.
2.3.3. Thực hiện soạn, giảng trong các tiết toán thuộc phần "Giải toán có lời
văn"
Mức độ 1: Ngay từ đầu học kỳ I các bài toán được giới thiệu ở mức độ nhìn hình
vẽ - viết phép tính. Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua hình vẽ, suy nghĩ
5


chọn phép tính thích hợp.
Thông thường sau mỗi phép tính ở phần luyện tập có một hình vẽ gồm 5 ô
vuông cho học sinh chọn ghi phép tính và kết quả phù hợp với hình vẽ. Ban đầu để
giúp học sinh dễ thực hiện sách giáo khoa ghi sẵn các số và kết quả :
Ví dụ 1: Bài 5a trang 46

- Ở bài này chỉ yêu cầu học sinh viết dấu cộng vào ô trống để có :
1 + 2 = 3
Ví dụ 2: Bài 4a trang 49 :

- Đến bài này nâng dần mức độ , học sinh phải viết cả phép tính và kết quả
4

+
1
=
5
Ví dụ 3:Bài 4a trang 77:

6


Ở bài này yêu cầu tăng dần, học sinh có thể nhìn từ một tranh vẽ và diễn đạt bằng
hai cách
Cách 1: Có 8 hộp thêm 1 hộp , tất cả là 9 hộp.
8
+
1
=
9
Cách 2: Có 1 hộp đưa vào chỗ 8 hộp , tất cả là 9 hộp.
1 +
8
=
9
Tương tự bài 4b trang 77:

Cách 1:
7

+

2


=

9

2
+
7
Ví dụ 4: Bài 3 trang 85:

=

9

Cách 2:

Học sinh quan sát và cần hiểu được: Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó
rụng 2 quả . Còn lại trên cành 8 quả.
10 2
=
8
Ở đây giáo viên cần động viên các em diễn đạt, trình bày miệng ghi đúng
phép tính .
Tóm lại tư duy toán học được hình thành trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của học
sinh.
Khi dạy các bài toán phần này cần hướng dẫn học sinh quan sát tranh để phát
hiện "tình huống" nêu trong bài toán và nêu bài toán rồi viết phép tính thích hợp.
7



Chú ý động viên các em nêu được nhiều đề toán, viết được nhiều phép tính để tăng
cường khả năng diễn đạt cho học sinh.
Mức độ 2: Đến cuối học kì I học sinh đã được làm quen với tóm tắt bằng lời:
Bài 3b trang 87:
Có : 10 quả bóng
Cho : 3 quả bóng
Còn :.... quả bóng?
10 3
=
7
Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần thoát
ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học sinh phải
đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời, chọn
phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải.
Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có thể
động viên học sinh khá giỏi làm nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ
hay một tình huống sách giáo khoa.
Mức độ 3: - Dạy bài học :" Bài toán có lời văn" ( tiết 81 trang 115)
nhằm giúp học sinh biết được thế nào là bài toán có lời văn, cấu tạo bài toán gồm
mấy phần? (phần giả thiết - bài toán cho biết gì? phần kết luận - bài toán hỏi gì?).
Học sinh có hiểu được ý nghĩa của bài toán, phân tích được nội dung bài toán, các
em mới có cách giải bài toán phù hợp. Đó cũng là quá trình cần thiết để rèn kĩ năng
giải toán có lời văn.
Để hiểu được cấu tạo bài toán có lời văn, trong sách toán 1 có ra các mức độ ,
yêu cầu từng bước, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh hơn, chẳng hạn:
+Ở bài 1 và bài 2 yêu cầu học sinh quan sát tranh để điền các "con số"
thích hợp vào chỗ chấm trong phần giả thiết của bài toán (câu hỏi ở phần kết luận
cho sẵn).
+ Ở bài 3 yêu cầu học sinh quan sát tranh để ghi câu hỏi (kết luận của bài
toán) vào chỗ chấm (phần giả thiết cho sẵn).

+ Ở bài 4 yêu cầu học sinh quan sát tranh để ghi các "con số" thích hợp vào
chỗ chấm trong phần giả thiết của bài toán và câu hỏi (kết luận của bài toán) vào
chỗ chấm để được bài toán hoàn chỉnh.
Mức độ 4: Để hình thành cách giải bài toán có lời văn, sách giáo khoa đã nêu một
bài toán, phần tóm tắt đề toán và giải bài toán hoàn chỉnh để học sinh làm quen .
(Bài toán- trang 117)
Giáo viên cần cho học sinh nắm vững đề toán, thông qua việc tóm tắt đề toán.
Quá trình tóm tắt là quá trình học sinh tìm ra những mối quan hệ toán học (được
diễn đạt bởi các từ như "thêm", "bớt", "tất cả", "còn"...) và những "con số" liên
quan đến phép tính giải mà các em phải lựa chọn thích hợp. Bài giải gồm 3 phần :
câu lời giải, phép tính và đáp số.
8


Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần tóm
tắt cần được luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác. Câu lời
giải trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như
nhau, tạo điều kiện cho học sinh diễn đạt câu trả lời theo ý hiểu của mình. Quy
ước viết đơn vị của phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ để thực hiện khi trình
bày bài giải.
Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành thạo
giải bài toán có lời văn bằng phép tính cộng. Giáo viên chỉ hướng dẫn cách làm
tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán. Ở lớp 1, học sinh chỉ giải
toán về thêm, bớt với 1 phép tính cộng hoặc trừ, mọi học sinh bình thường đều có
thể hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng nếu được giáo viên hướng
dẫn cụ thể.
Giáo viên dạy cho học sinh giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước
sau:
- Đọc kĩ đề bài: Bài toán cho biết những gì? Bài toán yêu cầu gì?
- Tóm tắt bài toán.

- Tìm được cách giải bài toán.
- Trình bày bài giải.
- Kiểm tra lời giải và đáp số.
Khi giải bài toán có lời văn giáo viên lưu ý cho học sinh hiểu rõ những dữ
kiện đã cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành ngôn
ngữ toán học, đó là phép tính thích hợp.
Ví dụ: Có một số quả cam, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là thêm
vào, phải làm tính cộng; nếu đem cho, biếu, bán, ăn, hay rụng thì phải làm tính
trừ,...
Giáo viên hãy cho học sinh tập ra đề toán phù hợp với một phép tính đã cho,
để các em tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào
các tình huống thực tiễn.
Ví dụ: Với phép tính: 3 + 4 = 7. Có thể có các bài toán sau:
- Bạn Hà có 3 quyển vở, chị An cho Hà 4 quyển nữa. Hỏi bạn Hà có mấy
quyển vở?
- Nhà Nam có 3 cây na, bố Nam trồng thêm 4 cây na. Hỏi nhà Nam có tất cả
mấy cây na?
- Có 3 con chim đậu trên cành, có thêm 4 con chim bay tới. Hỏi có tất cả bao
nhiêu con chim ?
- Có 3 con hươu đang ăn cỏ, có thêm 4 con hươu chạy tới. Hỏi có tất cả mấy
con hươu ?
Có nhiều đề bài toán học sinh có thể nêu được từ một phép tính. Biết nêu đề
bài toán từ một phép tính đã cho, học sinh sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn,chắc chắn
hơn, tư duy và ngôn ngữ của học sinh sẽ phát triển hơn.
9


- Tìm ra điểm yếu của học sinh:
• Học sinh biết giải toán có lời văn nhưng kết quả chưa cao.
• Số học sinh viết đúng câu lời giải đạt tỷ lệ thấp.

• Lời giải của bài toán chưa sát với câu hỏi của bài toán.
- Trong quá trình dạy các nội dung về giải toán có lời văn tôi đặc biệt chú ý
vào 1 số tiết chính sau đây:
Tiết 81 : Bài toán có lời văn
Bài toán: Có... bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn?
Yêu cầu học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi để điền vào chỗ chấm số 1
và số 3.
Bài 2: tương tự.
Qua tìm hiểu bài toán giúp cho học sinh xác định được bài toán có lời văn
gồm 2 phần: Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố. Câu hỏi (thông tin cần tìm). Từ đó
học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập.
Ví dụ : ở trang116:
Bài 3: Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?
- Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, học
sinh hoàn thành bài toán 4 trang 116: Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con
chim bay đến. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim?
Tiết 82: Giải toán có lời văn.
- Giáo viên nêu bài toán .
Học sinh đọc bài toán
+ Bài toán thuộc dạng toán gì?
Bài toán có lời văn.
+ Bài toán cho biết gì ?
Có 5 con gà , mua thêm 4 con gà
+ Bài toán hỏi gì ?
Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà ?
Dựa vào tranh vẽ và tóm tắt mẫu, giáo viên đưa ra cách giải bài toán mẫu:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 (con gà )
Đáp số: 9 con gà

Bài 1: ( trang117) - Học sinh đọc bài toán - phân tích đề bài - điền vào tóm tắt và
giải bài toán .
Tóm tắt:
An có
: 4 quả bóng
Bình có
: 3 quả bóng
Cả hai bạn có : ....quả bóng?
Bài giải
Cả hai bạn có là:
4+3=7( quả bóng )
Đáp số: 7 quả bóng
Bài 2:( trang 118)
10


Tóm tắt:
Có :
6 bạn
Thêm:
3 bạn
Có tất cả :... bạn?
Bài giải
Có tất cả là :
6+3=9( bạn )
Đáp số: 9 bạn
Qua 2 bài toán trên tôi rút ra cách viết câu lời giải như sau: Lấy dòng thứ 3
của phần tóm tắt + thêm chữ là:
Ví dụ: Cả hai bạn có là:
Có tất cả là:

Tương tự bài 3 trang 118 câu lời giải sẽ là:
Có tất cả là:
Tiết 84: Luyện tập
Bài 1 và bài 2 trang 121 tương tự bài 1,2,3 trang 117.Nhưng câu lời giải
được mở rộng hơn bằng cách thêm cụm từ chỉ vị trí vào trước cụm từ có tất
cả là:
Cụ thể là :
Bài 1 trang 121
Trong vườn có tất cả là:
Bài 2 trang 121
Trên tường có tất cả là:
Tiết 85 : Luyện tập
Bài 1 trang 122 :
Học sinh đọc đề toán – phân tích bài toán ( như trên )
Điền số vào tóm tắt.
Vài ba học sinh nêu câu lời giải khác nha.
Giáo viên chốt lại một cách trả lời mẫu:
Số quả bóng của An có tất cả là:
Tương tự : Bài 2: trang122
Số bạn của tổ em có là:
Vậy qua 2 bài tập trên học sinh đã mở rộng được nhiều cách viết câu lời
giải khác nhau, sau đó giáo viên chốt lại cách viết lời giải như sau:
Thêm chữ Số + đơn vị tính của bài toán trước cụm từ có tất cả là như ở tiết
82 đã làm .
Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài (cm) cần thêm chữ dài
vào trước chữ là.
Ví dụ cụ thể : Tóm tắt
Đoạn thẳng AB
: 5cm
Đoạn thẳng BC : 3cm

Cả hai đoạn thẳng : ... cm?
11


Bài giải
Cả hai đoạn thẳng dài là:
5+ 3 = 8 ( cm)
Đáp số : 8 cm
Tiết 86
Tiết 104
Hầu hết các bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung cấp
theo phân phối chương trình . Tuy nhiên, việc phân tích đề - tóm tắt- giải bài toán
phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn là các
mẫu lời giải cho các bài toán thêm là:
- Có tất cả là:
- Số ( đơn vị tính ) + có tất cả là:
- Vị trí ( trong, ngoài, trên, dưới, ...)+ có tất cả là:
- ... đoạn thẳng....+ dài là:
Tiết 105: Giải toán có lời văn(tiếp theo)
Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại
mấy con gà?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc – phân tích bài toán :
+ Bài toán cho biết gì?
Có 9 con gà. Bán 3 con gà.
+ Bài toán hỏi gì ?
Còn lại mấy con gà?
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tóm tắt- bài giải mẫu .Giáo viên giúp học
sinh nhận thấy câu lời giải ở loại toán bớt này cũng như cách viết của loại toán
thêm đã nêu ở trên chỉ khác ở chỗ cụm từ có tất cả được thay thế bằng cụm từ còn
lại mà thôi.

Cụ thể là :
Bài giải
Số gà còn lại là:
9-3=6( con gà)
Đáp số: 6 con gà.
Bài 1: trang148
Tóm tắt

: 8 con chim
Bay đi : 2 con chim
Còn lại :... con chim?
Bài giải
Số chim còn lại là:
8 - 2 = 6( con chim)
Đáp số : 6 con chim.
Bài 2: trang 149
Tóm tắt

: 8 quả bóng
12


Đã thả : 3 quả bóng
Còn lại : . . . quả bóng?
Bài giải
Số bóng còn lại là :
8 - 3 = 5( quả bóng)
Đáp số: 5 quả bóng
Bài 3: trang 149
Tóm tắt

Đàn vịt có : 8 con
Ở dưới ao : 5 con
Trên bờ: ... con?
Bài giải
Trên bờ có là:
8 – 5 = 3 ( con vịt )
Đáp số: 3 con vịt .
Tiết 106 :
Luyện tập Bài 1,2 ( Tương tự tiết 105 )
Tiết 107 :
Luyện tập Bài 1,2 ( tương tự như trên )
Nhưng bài 4( trang151) thì lời giải dựa vào dòng thứ 3 của phần tóm tắt bài toán:
Bài giải
Số hình tròn không tô màu là :
15 - 4 = 11( hình )
Đáp số: 11 hình tròn
Bài 3 (trang 151): Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng

Bài giải
Sợi dây còn lại dài là:
13 - 2 = 11( cm)
Đáp số : 11cm
Tiết 108: Luyện tập chung
Đây là phần tổng hợp chốt kiến thức của cả 2 dạng toán đơn thêm và bớt ở
lớp 1.
Bài 1: trang 152
a, Bài toán: Trong bến có .....ô tô, có thêm....ô tô vào bến. Hỏi.............................?
13



Học sinh quan sát tranh và hoàn thiện bài toán thêm rồi giải bài toán với câu
lời giải có cụm từ có tất cả
b, Bài toán : Lúc đầu trên cành có 6 con chim, có ....con bay đi. Hỏi .....................?
Học sinh quan sát tranh rồi hoàn thiện bài toán bớt và giải bài toán với câu lời
giải có cụm từ còn lại
- Lúc này học sinh đã quá quen với giải bài toán có lời văn nên hướng dẫn
cho học sinh chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là:
- Đọc kĩ câu hỏi.
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.
- Thay chữ bao nhiêu bằng chữ số.
- Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm
Cụ thể Bài 1( trang 152)
a,Câu hỏi là:
Hỏi có tất cả bao nhiêu ô tô?
Câu lời giải là:
Có tất cả số ô tô là :
b, Câu hỏi là: Hỏi trên cành còn lại bao nhiêu con chim?
Câu lời giải là: Trên cành còn lại số con chim là :
VD khác: Câu hỏi là: Hỏi hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
Câu lời giải là: Hai lớp trồng được tất cả số cây là/ Số cây hai lớp trồng được
tất cả là:
Câu hỏi là: Hỏi con sên bò được tất cả bao nhiêu xăng-ti-mét?
Câu lời giải là: Con sên bò được tất cả số xăng-ti-mét là:
Câu hỏi là: Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển sách?
Câu lời giải là: Lan còn phải đọc số trang nữa là/ Số trang Lan còn phải đọc
nữa là:
Trên đây là 2 mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở lớp 1.Tôi
đã đưa ra phương pháp để rèn kĩ năng từ dễ đến khó để học sinh có kĩ năng giải
toán mà không gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải.Tối thiểu học sinh có lực học
trung bình yếu cũng có thể chọn cho mình 1 cách viết đơn giản nhất bằng cụm từ:

Có tất cả là: Hoặc : Còn lại là:
Còn học sinh khá giỏi các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời giải
khác nhau nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu hỏi hơn.
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục.
Như trên đã trình bày, qua khảo sát chất lượng về giải toán có lời văn đối với
lớp 1B (lớp đối chứng) năm học 2014- 2015, nhìn chung chất lượng rất thấp. Song
qua thời gian nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng cũng như áp dụng những giải pháp
nói trên tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 1A vào cuối học kì II với cùng đề bài
sau:
Đề bài: Nhà Mai nuôi 26 con gà, mẹ bán đi 12 con gà. Hỏi nhà Mai còn lại bao
nhiêu con gà?
( Khả năng nhận thức của học sinh lớp 1B năm học 2014-2015 và học
14


sinh lớp 1A năm học 2015-2016 là như nhau)
Kết quả thu được:
Lớp Sĩ HS viết đúng HS viết đúng HS viết đúng HS giải đúng
số Câu lời giải
phép tính
đáp số
cả 3 bước
1A 26
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL

TL
24

92.3

26

100

26

100

24

92.3

Nhìn vào bảng tổng hợp trên ta thấy kết quả đáng mừng. Chất lượng tăng lên
rõ rệt, số lượng học sinh chưa nắm vững dạng toán này giảm đi đáng kể. Điều đó
chứng tỏ các biện pháp mà tôi vận dụng đã giúp học sinh
nắm chắc kiến thức hơn và vận dụng linh hoạt hơn trong quá trình luyện tập,
thực hành giải toán có lời văn lớp 1.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
* Kết luận:
Qua quá trình nghiên cứu đề tài, bản thân tôi đã học hỏi được rất nhiều điều bổ
ích và lý thú cho nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời đáp ứng được yêu cầu đặt ra
của thực tế giảng dạy môn toán ở tiểu học.
Quá trình dạy học môn toán ở tiểu học và riêng lớp 1 có hai hoạt động rõ ràng:
+ Hoạt động dạy của thầy (giữ vai trò chủ đạo)
+ Hoạt động học của trò (giữ vai trò tích cực, chủ động)

Hai hoạt động này phải diễn ra đồng bộ, tạo mối quan hệ mật thiết để đạt kết quả
cao.
Dạy toán là một hoạt động khó khăn, phức tạp về mặt trí tuệ một cách tích cực
linh hoạt,chủ động sáng tạo, đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên
dễ dàng phát hiện ra những nhược điểm và ưu điểm để giúp các em khắc phục và
phát huy.
Với một vài kinh nghiệm này, tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào
việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung và với dạng bài "Giải toán có lời
văn" trong môn Toán lớp 1 nói riêng. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp, bổ sung của hội đồng khoa học, của các đồng nghiệp để tôi hoàn thiện mình
hơn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
* Kiến nghị
Giáo viên:
- Phải yêu nghề, mến trẻ. Hết lòng vì học sinh thân yêu, phải chịu khó nghiên
cứu tài liệu, không ngừng học hỏi các bạn đồng nghiệp nhằm lựa chọn, vận dụng
các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Đồng
thời giáo viên phải biết vận dụng những kĩ năng, nghệ thuật giải toán để tạo ra
hứng thú học tập cho các em.

15


- Khi dạy dạng bài: Nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp - Cần cho học sinh
quan sát tranh, tập nêu bài toán và thường xuyên rèn cho học sinh thói quen nhìn
tranh vẽ nêu bài toán. Với những học sinh giỏi tập nêu câu lời giải (câu trả lời). Cứ
như vậy, trong một khoảng thời gian chuẩn bị như thế thì tới khi các em chuyển
sang học giải toán ở giai đoạn 2 các em sẽ tiếp cận một cách dễ dàng, đầy đủ, chính
xác và hình thành kĩ năng giải toán có lời văn một cách chắc chắn và bền vững
hơn.
Học sinh:

- Có đủ đồ dùng học tập
- Có ý thức tự giác học tập, tích cực chủ động tìm tòi, suy nghĩ theo sự hướng
dẫn của giáo viên.
Tổ chuyên môn: Sinh hoạt tổ chuyên môn thường xuyên, đưa ra những kinh
nghiệm hay cùng thảo luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Thanh Hoá, ngày 3 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Người viết
Lê Thị Huệ

16



×