Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.86 KB, 19 trang )

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Nhiều năm qua tôi được phân công giảng dạy lớp 5, bản thân tôi
nhận thấy: Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, yêu cầu đặt
ra khi giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải
đọc nhiều, viết nhiều, bài làm phải trả lời chính xác với phép tính, với
các yêu cầu của bài toán đưa ra, nên thường vướng mắc về vấn đề trình bày
bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết thiếu, viết từ thừa.
Một sai sót đáng kể khác là học sinh thường không chú ý phân tích theo
các điều kiện của bài toán nên đã lựa chọn sai phép tính. Qua thực tế giảng
dạy cho HS lớp 5, có khoảng 70% - 85% học sinh chưa thành thạo về giải
toán có lời văn. Với những lý do đó, trong học sinh tiểu học nói chung và
học sinh lớp năm nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn rất quan
trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải
nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán
một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác
giúp các em có phương pháp suy luận toán logic thông qua cách trình bày,
lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em
hứng thú, say mê học toán.
Từ những căn cứ đó tôi đã chọn đề tài "Một số biện pháp rèn kĩ
năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5" để nghiên cứu với mục
đích xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy học giải toán có
lời văn nói riêng và môn toán lớp 5 nói chung.
II. Mục đích nghiên cứu

III. Kết quả cần đạt

IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5


- Đối tượng: Học sinh lớp 5.
- Thời gian áp dụng: Năm học 20 - 20 và năm học 20 - 20
(Trong học kì I).
- Giả thuyết khoa học: Nếu sáng kiến này áp dụng thành công thì sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy học giải toán có lời văn cho học sinh
lớp 5, góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục học sinh trong nhà
trường. Nếu thành công, rất mong được áp dụng cho trong tất cả các lớp ở
trường tôi và các trường bạn.
2
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
PHẦN 2 - NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Việt Nam chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Trong công cuộc kiến thiết đó nước nhà rất cần những con người lao
động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, thực sự uyên bác về
khoa học, tinh thông, lão luyện về khoa học kĩ thuật để đủ sức khám phá,
đề xuất, sáng tạo cái mới, cải thiện những cái đã có, tạo ra bước ngoặt về
sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” với mục tiêu: “Nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Hiện nay chúng ta đang thực
hiện đổi mới nhiều vấn đề liên quan đến dạy và học với mục đích là nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Đặc biệt đối với bậc Tiểu
học được xác định “là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân”
(Điều 2 - Luật giáo dục). với mục tiêu cơ bản là: “nhằm giúp học sinh hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức,
trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
trung học cơ sở”. (Điều 23 - Luật Giáo dục) Mục tiêu đó được cụ thể hóa
trong từng môn học, từng lớp học, từng hoạt động của cả bậc học.
Cùng với các môn học khác, môn Toán của tiểu học có vị trí và tầm

quan trọng rất lớn. Môn Toán là một môn học được xem như công cụ để
học các môn học khác, là "chìa khóa" mở cửa cho tất cả các ngành khoa
học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới.
Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự
nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng
dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn
Toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng
hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập
3
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng
bằng lời, bằng viết, các suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương
pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo cho học sinh tiểu
học.
Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một
vị trí quan trọng. Bởi học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt,
huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác
nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều
kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó,
phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời
văn là một trong những biểu hiện năng động nhất cho hoạt động trí tuệ
của học sinh.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
1. Một số đặc điểm tình hình nhà trường, giáo viên và học sinh:
* Thuận lợi:
- Trường có một khu vực chính 16 lớp và một khu vực lẻ có 2 lớp.
Nhìn chung cơ sở vật chất, khuôn viên, các điều kiện và phương tiện dạy
học ngày càng được cải tạo, tăng trưởng, từng bước đáp ứng được nhu cầu
giảng dạy, giáo dục hiện nay.
- Trường là một đơn vị có thành tích đáng tự hào trong công tác giáo

dục - đào tạo trong mấy năm gần đây. Từ năm đến năm liên tục đạt
danh hiệu trưưòng tiên tiến cấp huyện và được công nhận đạt chuẩn quốc
gia mức I năm 20 và được kiểm tra công nhận lại vào tháng năm 2008.
- Tập thể giáo viên trường tôi là một tập thể sư phạm vững mạnh và
đoàn kết, thực sự tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao, tất cả
4
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
vì học sinh thân yêu. Tổng số cán bộ giáo viên là 30 người đều đạt chuẩn
và trên chuẩn.
- Đa số các em là con em nông dân, thật thà chất phác và chăm học.
- Nhận thức của địa phương, phụ huynh về giáo dục ngày càng đổi
mới.
* Khó khăn:
- Mấy năm học gần đây tôi được phân công dạy lớp 5. Học sinh lớp
tôi phần lớn là con nông dân, ngoài việc làm ruộng bố mẹ hay đi làm ăn xa
để kiếm thêm thu nhập nên một số em phải ở nhà với ông bà. Điều kiện
kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên các em chưa thực sự được bố
mẹ quan tâm đúng mức, tất cả mọi việc học của con đều phó mặc cho nhà
trường. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Nhất là với
môn Toán số lượng học sinh yếu còn nhiều, chất lượng học tập chưa cao,
có những học sinh không hiểu được đề bài toán nên làm cho có, dẫn đến
kết quả của bài toán sai khá nhiều.
Để thực hiện được vấn đề này, tôi đã tìm hiểu và nắm rõ tình hình
học sinh lớp tôi ngay khi được phân công. Trước tiên tôi xem sổ chủ nhiệm
năm học trước đồng thời tôi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học
trước để nắm rõ hơn. Sau đó tôi cho học sinh kiểm tra lại để phân loại từng
đối tượng học sinh.
2. Số liệu thống kê:
Đầu mỗi năm học tôi luôn tự khảo sát chất lượng môn Toán của lớp
mình với kết quả như sau: năm học 20 - 20 (vì tỉ lệ học sinh yếu môn

Toán chịu ảnh hưởng rất lớn ở phần bài tập giải toán có lời văn).
Năm học

khảo sát
Số
HS
Giỏi Khá TB Yếu
5
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
SL % SL % SL % SL %
20 - 20 27 3 8 8 8
20 - 20 25 2 8% 7 28% 7 28% 9 36%
* Nhận xét: Qua số liệu thống kê cho thấy số học sinh đạt loại giỏi
rất ít, số học sinh đạt trung bình và yếu khá cao. Điều đó cho thấy học sinh
chưa nắm vững về cách giải toán có lời văn.
3. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 5:
Trong mạch kiến thức giải toán có lời văn bao gồm nhiều dạng bài:
dạng toán đơn, dạng toán hợp, dạng toán điển hình, dạng toán có nội dung
liên quan đến hình học, Đa số các dạng toán đơn thì HS làm được, song
các bài toán từ 2 phép tính trở lên thì đa số học sinh yếu không làm được
bởi một số nguyên nhân sau:
- Kĩ năng đọc đề, phân tích đề của HS còn hạn chế. Học sinh đọc đề
vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng tâm của đề toán
không chịu phân tích đề toán khi đọc đề.
- Kĩ năng nhận dạng toán, nắm các bước giải trong từng dạng toán
còn lúng túng. Khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá vấn đề và tư
duy của học sinh còn hạn chế khi gặp những bài toán phức tạp. Hầu hết,
các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các em thường
gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận một
chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ.

- Chưa biết lập kế hoạch giải bài toán.
- Kĩ năng đặt lời giải, kĩ năng tính toán của học sinh còn gặp nhiều
khó khăn. Một số em biết tìm ra phép tính đúng nhưng khi đặt lời giải thì
còn lúng túng và có khi đặt lời giải cho bài toán chưa hợp lý.
- Học sinh chưa được luyện tập thường xuyên, nên thường nhầm lẫn
giữa các dạng toán.
6
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
- Đa số giải toán có lời văn thường tập trung ở các đối tượng học
sinh khá giỏi nên thói quen của các đối tượng HS trung bình và yếu là bỏ
qua các bài toán giải hoặc làm cho có, không có động não suy nghĩ. Từ
thói quen lười suy nghĩ dẫn đến hiệu quả thấp.
- Trí nhớ của các em chưa thoát khỏi tư duy cụ thể nên còn ngại khó
khi gặp các bài toán phức tạp. Từ đó dẫn đến kết quả học tập của các em
chưa cao.
- Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài,
dẫn đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan.
Ngoài ra, còn có những trường hợp học sinh hiểu bài nhưng còn lúng túng
trong cách trình bày nhất là với các bài toán giải có lời văn phức tạp.
- Thực tế trong một tiết dạy 35 phút, vừa dạy bài mới, vừa làm bài
tập và các bài toán có lời văn thường ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu
đề, nêu câu trả lời không được nhiều nên học sinh chưa khắc sâu kiến thức,
chưa nắm được mẹo để giải bài toán.
- Một số học sinh gia đình còn khó khăn nên chưa quan tâm đúng
mức đến việc học của con em mình dẫn đến kết quả học tập còn thấp.
- Một số học sinh chưa ý thức việc học của mình.
Từ những thực trạng trên tôi mạnh dạn cải tiến nội dung, phương
pháp giảng dạy như sau:
III. Mô tả nội dung
1. Công tác chuẩn bị tiết dạy giáo viên:

- Công tác chuẩn bị của giáo viên thể hiện rõ qua việc soạn giáo án,
phương pháp lên lớp, đồ dùng dạy học. Muốn giảng dạy tốt thì trước khi
lên lớp giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài, hiểu rõ ý đồ của sách
giáo khoa, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tốt nhất nhằm
phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Cụ thể trong giáo
7
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
án phải thể hiện rõ hoạt động của thầy và hoạt động của trò, phải chú ý đến
các đối tượng học sinh để đưa ra các tình huống, câu hỏi hợp lí cho từng
đối tượng khá - giỏi, trung bình, yếu.
- Trong khâu chuẩn bị bài giáo viên cũng cần chú ý đến việc chuẩn
bị đồ dùng dạy học làm sao phát huy được sự sáng tạo, kích thích óc tưởng
tượng và tư duy của học sinh. Mỗi tuần nên chuẩn bị tối thiểu 2 giáo án
dạng trình chiếu.
2. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung về các bước giải
các bài toán có lời văn:
Điều tôi trăn trở nhất là làm thế nào để các em thấy được niềm vui,
sự say mê khi giải toán có lời văn. Các em không chỉ hiểu mà phải làm bài
theo nhiều cách khác nhau. Biết vận dụng vào thực tế một cách có hiệu
quả. Vì vậy tôi xem xét kỹ và giúp đỡ các em từng bước cụ thể.
2.1. Tìm hiểu đề:
- Việc tìm hiểu nội dung đề toán thường thông qua việc đọc bài toán
dù bài toán cho dưới dạng lời văn hoàn chỉnh hoặc bằng dạng tóm tắt (sơ
đồ). Tập cho học sinh có thói quen tự tìm hiểu bài toán. Tránh tình trạng
vừa đọc xong đã bắt tay vào giải bài toán ngay mà phải xác định được dữ
liệu đã cho và cái phải tìm và ghi vào vở nháp 2 yêu cầu cơ bản ấy. Nếu
trong bài toán có thuật ngữ nào mà học sinh chưa hiểu rõ, giáo viên cần
hướng dẫn để học sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa của từ đó trong bài
toán đang làm, chẳng hạn từ “tiết kiệm”, “năng suất”, “sản lượng”…
Ví dụ 1: Một lớp học có 28 học sinh, trong đó số học sinh nam bằng

2/5 số học sinh nữ. Hỏi lớp học đó có bao nhiêu em nữ, bao nhiêu em
nam? (Bài 1- trang 22 - Luyện tập chung)
- Dữ liệu đã cho: Lớp học có 28 học sinh, trong đó số học sinh nam
bằng 2/5 số học sinh nữ.
- Yêu cầu phải tìm: Số học sinh nam, số học sinh nữ của lớp học đó.
8
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
* Tuy nhiên, trong quá trình giải toán không phải tất cả các đề bài
đều cho dữ liệu trước và yêu cầu phải tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa ra
câu hỏi trước rồi mới cho dữ liệu.
Ví dụ 2: Tính chu vi một mảnh đất hình chữ nhật, biết chiều dài gấp
2 lần chiều rộng và hơn chiếu rộng 15m. (Bài 2- trang 22 - Luyện tập
chung)
- Dữ liệu đã cho: Chiều dài gấp 2 lần chiều rộng và hơn chiếu rộng
15m.
- Yêu cầu cần tìm: Chu vi mảnh đất hình chữ nhật.
* Học sinh phải phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất, những gì
không thuộc về bản chất của đề toán để hướng sự chú ý của mình vào
những chỗ cần thiết, cụ thể.
Ví dụ 3: Một trường có 639 học sinh, trong đó có 1/3 số học sinh là
đội viên. Nhân ngày 15 tháng 5 có thêm 72 em nữa được kết nạp vào Đội.
Hiện nay có tất cả bao nhiêu em đã vào Đội?
- Dữ liệu đã cho: 1/3 của 639 học sinh, thêm 72 học sinh.
- Yêu cầu phải tìm: Số đội viên có tất cả.
2.2. Tóm tắt đề:
Trong giải toán có lời văn, tóm tắt đề toán cũng là một việc rất cần
thiết và quan trọng. Vì có tóm tắt được đề toán các em mới biết tìm ra mối
quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm để tìm ra cách giải bài toán.
Mỗi bài toán đều có nhiều cách tóm tắt khác nhau, tuy nhiên các em
cần lựa chọn cách tóm tắt sao cho phù hợp với nội dung từng bài để dễ

hiểu, đơn giản và ngắn gọn nhất. Có những bài toán nên tóm tắt bằng lời
song cũng có nhiều bài toán nên tóm tắt sơ đồ hoặc vừa tóm tắt bằng sơ đồ
vừa tóm tắt bằng lời cũng vẫn dễ hiểu như nhau.
9
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
Ví dụ 1: Một thùng đựng 28,75 kg đường. Người ta lấy từ thùng đó
ra 10,5 kg đường sau đó lại lấy ra 8 kg đường nữa. Hỏi trong thùng còn
bao nhiêu ki- lô- gam đường? (Bài 3- trang 54 - Trừ hai số thập phân)
Tóm tắt bằng lời:
Trong thùng có: 28,75kg đường
Lần đầu lấy ra: 10,5 kg đường
Lần sau lấy ra: 8 kg đường
Còn lại:….kg đường?
Ví dụ 2: Một người thợ dệt, ngày thứ nhất dệt được 28,4m vải, ngày
thứ hai dệt nhiều hơn ngày thứ nhất 2,2m vải, ngày thứ ba dệt hơn ngày thứ
hai 1,5m vải. Hỏi cả ba ngày người đó dệt được bao nhiêu mét vải? (Bài 4-
trang 52 - Luyện tập).
Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ngày thứ nhất: 28,4m
Ngày thứ hai: 2,2m ? m vải
Ngày thứ ba: 1,5m
Phần tóm tắt đề tôi yêu cầu học sinh tự làm vào vở và kiểm tra từng
em. Sau khi tóm tắt xong, yêu cầu học sinh nhìn vào tóm tắt đọc lại một
bài toán hoàn chỉnh đúng theo ý đề đã cho.
3. Phân tích bài toán để tìm cách giải:
Cũng như tất cả các môn học khác, để làm được bài thì học sinh cần
xác định xem bài yêu cầu chúng ta làm gì? Vì thế sau khi cho học sinh
nhìn tóm tắt đọc lại đề bài giáo viên nên nêu câu hỏi: Bài toán hỏi gì? để
học sinh suy nghĩ.
10

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
- Tiếp đó yêu cầu học sinh suy nghĩ: Muốn trả lời được câu hỏi của
bài toán thì cần phải biết những gì? Trong những điều ấy cái gì đã biết, cái
gì chưa biết?
- Học sinh nêu ý kiến giáo viên chưa vội kết luận ngay mà nên
khuyến khích để các em tự làm bài theo ý hiểu của mình.
Ví dụ: Một người đã bán được 150 quả cam và quýt, trong đó số
cam bằng 2/3 số quýt. Tìm số cam, số quýt đã bán?
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích đề:
+ Bài toán cho biết gì? (Số cam và số quýt có tất cả là 150 quả, trong
đó số cam bằng 2/3 số quýt)
+ Bài toán hỏi gỉ? (Tìm số cam, số quýt đã bán)
+ Số cam và quýt là 150 quả nghĩa là gì? (Số cam cộng với số quýt
bằng 150 quả)
+ Số cam bằng 2/3 số quýt nghĩa là gì? ( Số quýt được chia làm ba
phần thì số cam chiếm 2 phần).
- Hãy vẽ đoạn thẳng biểu diễn số cam và số quýt (Một học sinh lên
bảng thực hiện, lớp làm nháp).
? quả
Số cam
150 quả
Số quýt
? quả
+ Muốn tìm số cam ta làm như thế nào? (Lấy 150 : (2 + 3) x 2 )
+ Muốn tìm số quýt ta làm như thế nào? (Lấy 150 - số cam)
- Sau khi phân tích xong đề toán học sinh sẽ tự rút ra được trình tự
giải dạng toán này như sau:
Bước 1: Vẽ sơ đồ
11
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5

Bước 2: Tìm tổng số phần bằng nhau
Bước 3: Tìm số bé bằng cách lấy tổng hai số chia cho tỉ số phần bằng
nhau và nhân với số phần bằng nhau của số bé.
Bước 4: Tìm số lớn bằng cách lấy tổng hai số trừ số bé vừa tìm được
2.4. Tổng hợp giải toán:
Yêu cầu các em dựa vào kết quả phân tích bài toán ở trên kết hợp với
những điều kiện đã chọn trong bài toán rối lần lượt thực hiện các phép tính
để đi đến đáp số của bài. Trong quá trình học sinh cả lớp làm bài, tôi luôn
kiểm tra những học sinh còn yếu kém trong lớp nhằm giúp học sinh củng
cố và hướng dẫn theo từng bước cụ thể để các em hiểu ra vấn đề và nắm
bài một cách chắc chắn.
Ví dụ: Một người bỏ ra 42.000 đồng tiền vốn mua rau. Sau khi bán
hết số rau người đó thu được 52.500 đồng. Hỏi:
a) Tiền bán rau bằng bao nhiêu phần trăm tiền vốn?
b) Người đó lãi bao nhiêu phần trăm? (Bài 3- trang 76 - Luyện tập)
- Giáo viên hỏi: Bài toán cho biết gì? (Số tiền vốn là 42.000 đồng, số
tiền sau khi bán rau là 52.500 đồng).
+ Bài toán hỏi gì? (Tiền bán rau bằng bao nhiêu phần trăm tiền vốn?
Người đó lãi bao nhiêu phần trăm?).
- Gọi 1 HS lên bảng tóm tắt bài toán và trình bày lời giải vào bảng
phụ, lớp làm vào vở.
Tóm tắt:
Tiền vốn: 42.000 đồng
Tiền bán: 52.500 đồng
a) Tìm tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn.
b) Tìm xem người đó lãi bao nhiêu phần trăm.
Bài giải:
a) Tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền vốn là:
12
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5

52.500: 42.000 = 1,25
1,25 = 125%
b) Tỷ số phần trăm của tiền bán rau và số tiền vốn là 125% nghĩa là coi
tiền vốn là 100% thì tiền bán rau là 125%. Do đó, số phần trăm tiền lãi là:
125% - 100% = 25%
Đáp số: a) 125%; b) 25%
* Như chúng ta đã biết, mỗi bài toán không chỉ một cách giải duy
nhất nên để phát huy thêm cách giải mới, tôi có thể nêu câu hỏi: Trên đây
là cách giải của bạn, ngoài cách giải này bạn nào có cách giải khác?
Sau đó tôi thu tất cả các bài giải của học sinh (theo cách khác trên
bảng) để kiểm tra và cho học sinh tham khảo trong tiết sinh hoạt tập thể.
* Cách giải khác của bài toán trên:
a) Tỷ số phần trăm của tiền bán rau và tiền vốn là:
52.500: 42.000 = 1,25
1,25 = 125%
b) Số tiền lãi sau khi bán rau là:
52.500 - 42.000 = 10.500 (đồng)
Số phần trăm tiền lãi là:
10.500 : 42.000 = 0,25 = 25%
Đáp số: a) 125%; b) 25%
2.5. Kiểm tra - thử lại:
Thông thường để có được đáp số đúng thì phải làm đúng các phép
tính trong bài giải. Muốn thế thì học sinh phải nắm vững các quy tắc tính
toán. Nhưng trong thực tế ngay cả những học sinh đã nắm vững các quy
tắc tính toán vẫn có thể phạm lầm lẫn, sai sót để tránh được những lầm
lẫn, sai sót đáng tiết ấy cần chú ý thử lại sau khi làm xong từng phép tính.
Ví dụ: Để kiểm tra xem tỷ số phần trăm của số tiền bán rau và số tiền
vốn có đúng là 125% không, các em lấy 125% nhân với số tiền vốn 42.000
13
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5

đồng. Nếu ra đúng kết quả là số tiền sau khi bán rau là 52.500 đồng thì kết
quả tìm được là đúng. Cụ thể: 125/100 x 42.000 = 52.500 đồng.
3. Đảm bảo phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh khi học giải
toán:
- Trong quá trình dạy giải toán cho học sinh lớp 5, giáo viên không
nên dẫn dắt quá sâu mà nên hướng dẫn tìm hiểu cách giải bằng những câu
hỏi khéo léo cho học sinh tự mày mò ra con đường để tìm ra phương pháp
giải toán.
- Tự sửa bài tập bằng cách đối chiếu với bài của các bạn trong nhóm,
bài sửa của lớp. Tự đánh giá bài làm của mình. Biết lắng nghe nhận ra
điểm đúng, điểm sai qua bài làm của bạn, biết so sánh và tự sửa được bài
làm một cách rõ ràng, sạch đẹp, khoa học.
- Học và nắm được các dạng bài, học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà
chu đáo, thi đua học tập giữa các bạn, các nhóm trong lớp. Nắm chắc các
tính chất, các quy tắc đã được học. Biết vận dụng các quy tắc để giải bài
một cách có hiệu quả.
- Biết tự đặt ra các câu hỏi để nhờ bạn, nhờ cô giáo giải đáp nhằm
làm rõ thêm kiến thức bài học.
4. Trong tiết học giáo viên cần chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh:
- Giáo viên phải phân loại được đối tượng học sinh trong lớp, đặc
biệt quan tâm đến học sinh yếu kém (chưa thành thạo về kĩ năng giải toán),
phải làm cho mọi học sinh trong lớp biết dựa vào đề toán để tóm tắt, phân
tích đề một cách chính xác, tìm được cách giải thích hợp. Giáo viên phải
nắm được khả năng của từng học sinh, từ đó giúp học sinh phát triển năng
lực, sở trường cá nhân.
- Trong giờ học giáo viên không nên chú ý đến đối tượng học sinh
yếu hoặc chú ý đến học sinh khá giỏi, mà cần có sự chú ý đến cả 3 đối
tượng nhằm khắc phục tình trạng nhằm chán, mất hứng thú trong giờ học
14
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5

của mọi đối tượng học sinh vì thấy cô chỉ chỉ chú ý bạn mà không để ý gì
đến mình. Nếu trong giờ học giáo viên chỉ chú ý đến một đối tượng thì dần
dần chất lượng của lớp sẽ đi xuống hoặc là đối tượng học sinh yếu ngày
càng yếu, hoặc là đồi tượng học sinh khá giỏi tụt dần dẫn đến không bồi
dưỡng được mũi nhọn trong lớp. Vì vậy trong tiết học giáo viên cần quan
tâm đến cả ba đối tượng. Do đó, giáo viên phải khéo léo để làm sao cho
mọi học sinh trong lớp đề thấy mình được giáo viên quan tâm. Chỉ có như
vậy, tiết học mới đạt hiệu quả cao.
Chẳng hạn, một bài toán giáo viên cùng cho cả lớp tìm hiểu, tóm tắt,
xây dựng kế hoạch giải. Để những học sinh khá giỏi làm xong cách 1 thì
các em suy nghĩ cách giải 2, 3. làm như vậy thì mới phát huy hết khả năng
của từng em, tạo không khí học tập cho cả lớp tránh trường hợp học sinh
khá giỏi làm xong ngồi chơi ảnh hưởng đến các bạn khác trong lớp.
5. Sử dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp dạy học:
- Việc lựa chọn, phối hợp, vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học
ở từng tiết dạy Toán có những đặc điểm riêng, không thể áp dụng một cách
máy móc, đồng loạt. Không có phương pháp nào là “vạn năng”. Chỉ có sự
tìm tòi sáng tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới đạt được
thành công trong mỗi bài dạy. Giúp cho học sinh nhận ra các kiến thức đã
học hoặc một số kiến thức mới trong nội dung các bài tập đa dạng và
phong phú để các em tự khai thác, khám phá tìm tòi và lĩnh hội kiến thức
một cách nhẹ nhàng, thoải mái, lôgic, hợp lý, giúp học sinh tự luyện tập,
thực hành theo khả năng riêng của mình.
- Dựa vào đặc thù tâm lý học sinh mau chán nếu tiết học cứ đều đều.
Vì thế giáo viên cần luôn thay đổi không khí tiết học bằng những phương
pháp, hình thức tổ chức khác nhau cho tiết học sôi nổi, tạo không khí thoải
mái, xây dựng môi trường toán học tự nhiên, gắn liền với thực tế, tạo ra sự
hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh.
15
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5

- Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá
kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều
phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài
tập.
- Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu
dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi,
khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong
giờ học.
- Giáo viên khuyến khích học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá
kết quả bài làm của mình, của bạn. Tập cho các em có thói quen tìm nhiều
phương án và lựa chọn phương án hợp lý nhất để giải quyết vấn đề của bài
tập.
- Chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu
dương khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, tiến bộ, theo dõi,
khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia trong
giờ học.
- Trong giảng dạy phải lắng nghe, thấu hiểu tâm sinh lí của học sinh, động
viên khuyến khích kịp thời, nghiêm khắc kiên quyết phê bình thái độ lơ là
đối với nhiệm vụ học tập. Luôn tạo cho học sinh sự hứng thú, tính sáng
tạo, linh hoạt, tự tin trong làm bài.
- Giáo viên cần tổ chức và hướng dẫn chu đáo cho học sinh biết các
khái niệm như “Tổng”, “hiệu”, “tỉ”, “quãng đường”, “thời gian”, “vận
tốc”; thấy được mối liên quan giữa cái đã biết và cái phải tìm; biết cách
giải các dạng bài toán trong chương trình lớp 5.
- Tổ chức tốt hình thức học tập theo nhóm, tùy theo tính chất và nội
dung của bài học, tiết học mà có thể chia nhóm như sau: phân nhóm học
sinh có đủ trình độ (khá, giỏi, trung bình, yếu) để học sinh giúp đỡ lẫn
16
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
nhau hoặc nhóm theo trình độ (nhóm học sinh khá giỏi, nhóm học sinh

trung bình, nhóm học sinh yếu).
- Học sinh phải được hướng dẫn học tập bằng hình thức “học mà
chơi, chơi mà học”, thực hành để phát hiện kiến thức.
IV. Kết quả nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Phát huy tính
tích cực trong dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5”, tôi đã áp
dụng một số biện pháp vào thực tế giảng dạy, học sinh lớp tôi đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ. Những học sinh yếu toán (có lời văn) có sự
tiến bộ rõ rệt. Kết quả được thống kê như sau:
* Năm học 20 - 20 :
Thời
gian
TS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm 1-4
SL TL SL TL SL TL SL TL
Giữa
kì I
27 3 16% 9 36% 6 24% 7 28%
Cuối
kì I
27 5 20% 10 40% 6 24% 4 16%
Giữa
kì II
27 3 16% 9 36% 6 24% 7 28%
Cuối
kì II
27 5 20% 10 40% 6 24% 4 16%
* Năm học 20 - 20 :
Thời
gian
TS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5- 6 Điểm 1-4

SL TL SL TL SL TL SL TL
Giữa
kì I
25 3 16% 9 36% 6 24% 7 28%
17
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
Cuối
kì I
25 5 20% 10 40% 6 24% 4 16%
Thực tế giảng dạy cho tôi nhận thấy việc sử dụng phát huy tính tích
cực trong giải toán là một phương pháp rất tốt và khoa học, mang lại hiệu
quả cao. Đồng thời giúp học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, từng
bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và khả năng suy
luận logic, vận dụng tri thức và kĩ năng thực hành vào thực tiễn. Cũng
thông qua giải toán luyện cho học sinh những đức tính và phong cách làm
việc của người lao động như: ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán
có căn cứ, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch. Chất lượng học tập
môn toán của lớp tôi tăng dần, các học sinh yếu toán có lời văn ban đầu rất
sợ học toán nhưng dần dần học được và yêu thích học toán.
PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Với kết quả trình bày ở trên, có thể khẳng định việc phát huy tính tích
cực trong dạy học giải toán cho học sinh lớp 5 cơ bản đã thực hiện được
mục đích, nhiệm vụ của sáng kiến. Đồng thời nhận thức được vai trò, ý
18
SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
nghĩa của việc thực hiện giải toán (có lời văn) đối với việc phát triển tư
duy cho học sinh, rèn luyện cho các em kĩ năng tính toán.
Việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi nắm vững hơn về nội dung và
phương pháp dạy học toán ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Trên cơ

sở đó, bản thân cũng hiểu hơn về tính ưu việt của phương pháp dạy học
mới, thấy được sự cấp bách, vận dụng vào việc giảng dạy và cũng hiểu
được những khó khăn, vấp váp của học sinh lớp 5 khi học giải toán có lời
văn.
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng nhuần nhuyễn các phương
pháp dạy học toán và nhận thấy rằng:
- Hầu hết học sinh có năng lực, hứng thú học tập môn toán, kĩ năng
tính toán nhanh, chính xác, hiểu bài, đạt yêu cầu với tỉ lệ khá cao. Tỉ lệ giỏi
toán cao hơn các môn học khác.
- Trong tiết học, học sinh thường thể hiện năng lực sáng tạo, ham học,
tự tin, hứng thú khi tự mình tìm ra kiến thức mới, có tinh thần tích cực xây
dựng bài.
- Giáo viên áp dụng kiểu dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” khá
tích cực, sinh động và hiệu quả góp phần không nhỏ vào việc dạy học và
giáo dục các em – những mầm non tương lai của đất nước.
II. Kiến nghị
….
…………., ngày … tháng … năm 20…
Người viết
19

×