Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bài thu hoạch tự bồi dưỡng thường xuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.43 KB, 9 trang )

UBND QUẬN BẮC TỪ LIÊM
TRƯỜNG TIỂU HỌC CỔ NHUẾ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Cổ Nhuế , ngày

tháng

năm

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CỦA CÁ NHÂN
NĂM HỌC 2016 – 2017
(Nội dung 2)
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Xuân
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Cổ Nhuế
A. NỘI DUNG BỒI DƯỠNG:
I. Chuyên đề 1: Tìm hiểu về phương pháp bàn tay nặn bột.
Số tiết: 10 tiết
1. Khái niệm
Phương pháp Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí
nghiệm tìm tòi- nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.
Bàn tay nặn bột chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí
nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt
ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay
điều tra...
Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, Bàn tay nặn bột luôn coi học


sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và
lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
2. Mục tiêu của phương pháp Bàn tay nặn bột?
Mục tiêu của phương pháp Bàn tay nặn bột là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám
phá và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học,
phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua
ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
3. Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu
Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu là một phương pháp dạy và học khoa
học xuất phát từ sự hiểu biết về cách thức học tập của học sinh, bản chất của nghiên
cứu khoa học và sự xác định các kiến thức cũng như kĩ năng mà học sinh cần nắm
vững.
a) Bản chất của nghiên cứu khoa học trong phương pháp bàn tay nặn bột

1


Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp bàn tay nặn bột là một vấn
đề cốt lõi, quan trọng. Tiến trình tìm tòi nghiên cứu của học sinh không phải là một
đường thẳng đơn giản mà là một quá trình phức tạp. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra
qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu
của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định
(giả thuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm
khác; nếu không phù hợp học sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí
nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng; rút ra kết luận và giải thích
cho vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này, học sinh luôn luôn phải động não, trao
đổi với các học sinh khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến
thức.
b) Lựa chọn kiến thức khoa học trong phương pháp bàn tay nặn bột
Việc xác định kiến thức khoa học phù hợp với học sinh theo độ tuổi là một vấn đề

quan trọng đối với giáo viên. Giáo viên phải tự đặt ra các câu hỏi như: Có cần thiết
giới thiệu kiến thức này không? Giới thiệu vào thời điểm nào? Cần yêu cầu học sinh
hiểu ở mức độ nào? Giáo viên có thể tìm câu hỏi này thông qua việc nghiên cứu
chương trình, sách giáo khoa và tài liệu hỗ trợ giáo viên để xác định rõ hàm lượng kiến
thức tương đối với trình độ, độ tuổi của học sinh và điều kiện địa phương.
c) Cách thức học tập của học sinh
Phương pháp BTNB dựa trên thực nghiệm và nghiên cứu cho phép giáo viên hiểu rõ
hơn cách thức mà học sinh tiếp thu các kiến thức khoa học. Phương pháp BTNB cho
thấy cách thức học tập của học sinh là tò mò tự nhiên, giúp các em có thể tiếp cận thế
giới xung quanh mình qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu
d) Quan niệm ban đầu của học sinh
Quan niệm ban đầu là những biểu tượng ban đầu, ý kiến ban đầu của học sinh về sự
vật, hiện tượng trước khi được tìm hiểu về bản chất sự vật, hiện tượng. Đây là những
quan niệm được hình thành trong vốn sống của học sinh, là các ý tưởng giải thích sự
vật, hiện tượng theo suy nghĩ của học sinh, còn gọi là các "khái niệm ngây thơ". Biểu
tượng ban đầu không phải là kiến thức cũ, đã được học mà là quan niệm của học sinh
về sự vật, hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi học kiến thức đó.
Tạo cơ hội cho học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu là một đặc trưng quan trọng của
phương pháp dạy học BTNB. Biểu tượng ban đầu của học sinh là rất đa dạng và phong
phú. Biểu tượng ban đầu là một chướng ngại trong quá trình nhận thức của học sinh.
Chướng ngại chỉ bị phá bỏ khi học sinh tự mình làm thí nghiệm, tự rút ra kết luận, đối
chiếu với quan niệm ban đầu để tự đánh giá quan niệm của mình đúng hay sai.
4. Những nguyên tắc cơ bản của dạy học dựa trên cơ sở tìm tòi - nghiên cứu

2


Dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột hoàn toàn khác nhau giữa các lớp khác
nhau phụ thuộc vào trình độ của học sinh. Giảng dạy theo phương pháp BTNB bắt
buộc giáo viên phải năng động, không theo một khuôn mẫu nhất định. Giáo viên được

quyền biên soạn tiến trình giảng dạy của mình phù hợp với từng đối tượng học sinh,
từng lớp học. Tuy vậy, để giảng dạy theo phương pháp bàn tay nặn bột cũng cần phải
đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
a) HScần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học. Để đạt được
yêu cầu này, bắt buộc học sinh phải tham gia vào bước hình thành các câu hỏi.
b) Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học
c) Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏihọc sinhnhiều kĩ năng. Một trong các kĩ năng
cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích.
d) Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm màhọc
sinhcòn cần phải biết lập luận, trao đổi; biết viết cho mình và cho người khác hiểu.
e) Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi - nghiên cứu.
f) Khoa học là một công việc cần sự hợp tác.
5. Một số phương pháp tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
a) Phương pháp quan sát: Quan sát được sử dụng để:
- Giải quyết một vấn đề;
- Miêu tả một sự vật, hiện tượng;
- Xác định đối tượng;
- Kết luận.
b) Phương pháp thí nghiệm trực tiếp
Một thí nghiệm yêu cầu học sinh trình bày nên đảm bảo 4 phần chính:
- Vật liệu thí nghiệm;
- Bố trí thí nghiệm;
- Kết quả thu được
- Kết luận.
c) Phương pháp làm mô hình
d) Phương pháp nghiên cứu tài liệu

3



II. Chuyên đề 2: Xây dựng chương trình nhà trường phù hợp với tình hình địa
phương nhưng bám theo chương trình chuẩn của bộ giáo dục.
1. Mục đích
- Trao quyền chủ động cho các trường cụm trong thực hiện chương trình giáo
dục, chương trình dạy học theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Khắc phục những hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành qua điều
chỉnh cấu trúc chương trình, tinh giản nội dung dạy học, xây dựng các chủ đề dạy học
liên môn – tích hợp để góp phần nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục
trong các trường trong cụm.
- Tăng thời lượng cho các hoạt động thực hành, hướng dẫn học sinh NCKH và tổ
chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong thực hiện kế hoạch giáo dục.
- Đảm bảo tính phù hợp với các đối tượng học sinh các trường trong cụm.
- Bồi dưỡng năng lực dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển
phẩm chất, năng lực học sinh cho đội ngũ CBQL, giáo viên các trường.
2. Nguyên tắc xây dựng kế hoạch giáo dục
1. Nâng cao được kết quả thực hiện các mục tiêu giáo dục của chương trình giáo
dục phổ thông hiện hành; học sinh được cung cấp kiến thức, kỹ năng theo chuẩn
chương trình giáo dục phổ thông; được hình thành, phát triển các phẩm chất, năng lực.
2. Đảm bảo tính lôgic của mạch kiến thức và tính thống nhất giữa các môn học
và các hoạt động giáo dục.
3. Tổng thời lượng của các môn học và các hoạt động giáo dục không ít hơn thời
lượng quy định trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành; hoàn thành kế hoạch
theo biên chế thời gian năm học.
4. Đảm bảo tính phù hợp, khả thi đối với đối tượng và điều kiện cụ thể của các
trường trong cụm.
3. Xây dựng kế hoạch giáo dục theo định hướng phát triện năng lực của học sinh
3.1. Rà soát nội dung trong chương trình, sách giáo khoa để loại bỏ những kiến
thức cũ, lạc hậu đồng thời bổ sung cập nhật những thông tin mới phù hợp. Xử lý để
không còn những nội dung kiến thức trùng nhau ở từng môn học và giữa các môn học
trong phạm vi cấp học. Điều chỉnh, thay thế nội dung, bài tập, câu hỏi trong sách giáo

khoa không phù hợp với mục tiêu chương trình hoặc yêu cầu vận dụng kiến thức quá
sâu, không phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý lứa tuổi học sinh; những nội dung
trong sách giáo khoa chưa hợp lý, những nội dung không phù hợp với địa phương của
nhà trường.
3.2. Cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học của từng môn học trong chương trình
theo định hướng phát triển năng lực của học sinh, có thể chuyển một số nội dung dạy
học thành nội dung các hoạt động giáo dục và bổ sung nội dung các hoạt động giáo
dục khác vào chương trình hiện hành; xây dựng kế hoạch dạy học, phân phối chương
trình mới của các môn học, hoạt động giáo dục phù hợp với đối tượng học sinh và điều
kiện thực tế nhà trường.

4


3.3. Xây dựng các chủ đề liên môn: Chủ đề liên môn bao gồm các nội dung dạy
học chưa được xây dựng trong chương trình các môn học hiện hành, cụ thể:
- Chủ đề liên môn bao gồm các nội dung dạy học giống nhau, có liên quan chặt
chẽ với nhau (có thể đang trùng nhau) trong các môn học của chương trình hiện hành,
có thể là chủ đề liên môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên hoặc lĩnh vực khoa học xã
hội và nhân văn. Xét nội dung của chủ đề liên môn, điều kiện về giáo viên... Mỗi chủ
đề liên môn được bổ sung vào kế hoạch dạy học của một môn học nào đó do nhà
trường quyết định.
- Chủ đề liên môn với nội dung giáo dục liên quan đến vấn đề thời sự của địa
phương, đất nước (Ví dụ: Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, An toàn giao
thông, Sử dụng năng lượng hiệu quả...); chú trọng giáo dục đạo đức và giá trị sống, rèn
luyện kỹ năng sống, hiểu biết xã hội, thực hành pháp luật; tăng cường các hoạt động
nhằm giúp học sinh vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết các vấn đề thực tiễn;
các chủ đề liên môn được bổ sung vào kế hoạch dạy học và hoạt động giáo dục của
nhà trường.
- Trên cơ sở kế hoạch dạy học đã được phê duyệt tổ, nhóm bộ môn, giáo viên có

thể thiết kế tiến trình dạy học cụ thể cho mỗi chủ đề mà không nhất thiết phải theo
bài/tiết trong sách giáo khoa. Mỗi chủ đề có thể được thực hiện ở nhiều tiết học, mỗi
tiết học có thể chỉ thực hiện một hoặc một số bước trong tiến trình sư phạm của bài
học. Các nhiệm vụ học tập có thể được thực hiện ở trong hoặc ngoài giờ lên lớp. Ngoài
việc tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp, cần chú trọng
giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở ngoài lớp học và ở nhà.
III. Chuyên đề 3: Xây dựng nội dung đổi mới: Giúp học sinh tự tin khi thể
hiện bài hát
1. Mục đích:
Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật nhằm phản ánh hiện thực khách quan bằng
những hình tượng có sức biểu cảm của âm thanh. Ở nhà trường tiểu học mục tiêu của
môn học là thông qua việc giảng dạy một số vấn đề sơ giảng về nghệ thuật âm nhạc,
nhằm hình thành và phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc của học sinh, tạo một “trình
độ văn hoá âm nhạc” nhất định, từ đó góp phần đào tạo có chất lượng những lớp người
có ích cho xã hội.
Từ mục đích của môn học chúng ta hiểu rằng: Môn âm nhạc ở trường tiểu học
không nhằm đào tạo những người làm nghề âm nhạc chuyên nghiệp, những diễn viên,
những nhạc sĩ mà mục đích chính là thông qua môn học này để tác động vào đời sống
tinh thần của các em nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh.
Muốn làm được điều đó nhất thiết các em phải được tiếp cận với âm nhạc đích
thực, bản thân các em phải là người trực tiếp tham gia ca hát. Tuy môn âm nhạc trong
trường tiểu học là một môn học riêng lẻ. Song mục đích của nó nhằm trang bị cho các
em những kiến thức kĩ năng giúp khơi dậy sự say mê sáng tạo trong hoạt động âm

5


nhạc, làm cho đời sống tinh thần của các em thêm phong phú, tạo điều kiện để các em
tham gia vào các hoạt động khác của nhà trường

2. Yêu cầu:
Thực hiện nhiệm vụ năm học về đổi mới phương pháp dạy – học theo hướng phát
huy tích cực của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học ở Tiểu học nói chung, môn
Âm Nhạc nói riêng.
Phương pháp dạy học mới là phương pháp dạy học nhằm phát huy những yếu tố
tích cực của phương pháp dạy học truyền thống, phát huy, thay đổi cách thức, phương
pháp học tập của học sinh giúp học sinh tư duy độc lập, tích cực sáng tạo trong nhận
thức, vận dụng kiến thức trong cuộc sống.

-

-

3. Nội dung đổi mới. nhiệm vụ và giải pháp:
3.1. Thực trạng:
GV chưa mạnh dạn trong việc đổi mới phương pháp .
Một số Gv chưa mạnh dạn, tự tin để giao cho học sinh chủ động khai thác kiến thức
phát huy tính tích cực tự giác của các em.
Trong quá trình dạy học môn Âm Nhạc , GV còn lúng túng trong lựa chọn phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học.
HS xác định chuẩn mực trong sách vở với chuẩn
coi đây là môn học phụ, nên việc đầu tư cho tiết học Âm Nhạc còn nhiều hạn chế.
- Khâu lựa chọn phương pháp –Giúp hs tự tin khi thể hiện bài hát chưa được chú
trọng nên kết quả chưa cao.
-Việc học hát phần đa các em
, GV cần nắm vững chương trình nội dung bài dạy. Xác định đúng mục tiêu cần đạt,
vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, tổ chức các hình thức dạy học phong
phú nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Trên lớp GV phải hạn chế hỏi, đọc chuyện mức tối đa; cần tăng cường cho học sinh
hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm.

Tăng cường kĩ năng cho học sinh bằng nhiều hoạt động trên lớp, ngoài lớp.
Tăng cường các kĩ năng đóng vai, chơi trò chơi, múa hát, đọc thơ, kể chuyện,…
GV phải xác định phải dạy đủ các môn học theo quy định, không xem nhẹ môn học
nào.
GV thấy rõ việc đổi mới phương pháp dạy học cần tập trung vào các vấn đề sau:
a. Áp dụng hiệu quả các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới.
- Dạy học đảm bảo sự thống nhất hợp lí hai yêu cầu đồng loạt và cá thể.
- Dạy học hợp tác nhóm.
- Dạy học tự phát hiện.
-Sử dụng phương tiện thiết bị dạy học hiện đại trong đổi mới phương pháp dạy
học.

6


- Thực hiện tốt quy trình dạy học hòa nhập.
- GV phải lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học.
b. Hình thức thảo luận nhóm nhận xét hành vi đúng, sai trong phiếu và đọc kết quả cho
các nhóm nhận xét, bổ sung, sửa chữa , GV tổng kết và lựa chọn kết quả phù hợp nhất.
c.Hình thức trò chơi học tập.
-Tổ chức cho học sinh thành từng nhóm, thi tài cùng nhau xử lí tình huống nên đóng
vai.
-Tổ chức cho học sinh hái hoa dân chủ múa hát, đọc thơ, kể chuyện, diễn kịch.
d.

Hình thức sử dụng đồ dùng trực quan.
- Đối với học sinh tiểu học, các kiến thức cung cấp cho các em (nói chung) , kiến
thức về đánh giá và tự đánh giá, kể chuyện theo tranh, quan sát tranh, nhận xét về hành
vi của các nhân vật trong tranh đòi hỏi phải hết sức cụ thể, chính xác, rõ ràng, sinh

động, hấp dẫn sao cho phù hợp với tâm lí lứa tuổi các em. Vì vậy, trong một số bài học
đạo đức cần sử dụng đồ dùng trực quan như tranh ảnh minh họa để giúp học sinh tiếp
thu bài một cách dễ dàng hơn.
*Phương pháp thảo luận nhóm:
-GV giúp HS nắm vững yêu cầu của bài ( bằng câu hỏi) GV chia nhóm , các nhóm
cử nhóm trưởng, thư kí và quy định thời gian thảo luận- các nhóm thảo luận=> Đại
diện nhóm trình bày- HS nhận xét.
-GV nhận xét.
*Phương pháp trò chơi học tập.
-GV hướng dẫn cách chơi- Quy định thời gian chơi.
-HS chơi => HS nhận xét => GV nhận xét.
4. Kết quả đạt được:
90% học sinh trong lớp biết vận dụng kiến thức, hành vi đạo đức vào thực tế.

B. VẬN DỤNG THỰC TIỄN

7


I. Chuyên đề 1: Tìm hiểu về phương pháp bàn tay nặn bột
Qua việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột tôi thấy việc áp dụng
phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học là chỉ ra con đường để học sinh đến với
chân lí, kiến thức. Điều này gần giống với quá trình tìm ra kiến thức mới của các nhà
khoa học, vì đối với học sinh là quá trình nhân tạo có sự định hướng giúp đỡ của giáo
viên. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các
giả thuyết, các nhận định ban đầu của mình; đề xuất và tiến hành các thí nghiệm
nghiên cứu; đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác; nếu không
phù hợp, học sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí nghiệm hoặc thử
làm lại các thí nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng; rút ra kết luận
và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Vì vậy, khi áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn

bột” trong giảng dạy tôi tuân thủ theo 5 bước sau:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu của học sinh.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi (hoặc giả thuyết) và giải pháp (phương án) tìm tòi, nghiên
cứu.
Bước 4: Tiến hành thực hiện giải pháp tìm tòi, nghiên cứu.
Bước 5: Kết luận kiến thức.
Với tiến trình 5 bước của phương pháp “Bàn tay nặn bột” thì giáo án lên lớp của tôi
không thực hiện theo cách làm truyền thống mà chỉ ghi chú các bước cần thực hiện,
một số điểm mấu chốt cần lưu ý.
Trong điều kiện chương trình, sách giáo khoa hiện nay chưa thuận tiện cho việc
giảng dạy theo phương pháp “ Bàn tay nặn bột”, các tổ chuyên môn của tôi đã lựa
chọn các bài, các mục nhỏ trong bài phù hợp với phương pháp này, còn các mục khác
dạy theo phương pháp khác; nghiên cứu và thống nhất gộp các bài học có cùng chủ đề
hoặc có các chủ đề liên quan với nhau để dạy nhằm đảm bảo tính liên tục của kiến
thức. Bên cạnh đó, có thể chọn một chủ đề khoa học hoặc một số chủ đề có liên quan
với nhau trong các bài học ở sách giáo khoa để tập hợp thành một chủ điểm và dạy
theo phương pháp “ Bàn tay nặn bột” vào giờ hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động
ngoại khóa, giúp học sinh có thời gian và điều kiện làm thí nghiệm, trao đổi, thảo luận
nhiều hơn.
Cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác, việc ứng dụng phương pháp
“Bàn tay nặn bột” trong trường tiểu học không chỉ khuyến khích tư duy, hình thành
cho học sinh một thế giới quan khoa học và niềm say mê khoa học mà còn nâng cao
năng lực, phẩm chất cho học sinh, từng bước đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho
tương lai phát triển của đất nước, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và
Đào tạo theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW.

8



II. Chuyên đề 2: Xây dựng chương trình nhà trường phù hợp với tình hình địa phương
nhưng bám theo chương trình chuẩn của bộ giáo dục.
Sau khi tìm hiểu về việc xây dựng chương trình nhà bám theo chương trình chuẩn
của Bộ giáo dục và phù hợp với tình hình nhà trường. Bản thân tôi đã tiến hành cùng
tổ chuyên môn họp bàn và xây dựng nên chương trình của tổ và của riêng lớp tôi chủ
nhiệm phù hợp với chương trình nhà trường. Sau khi thực hiệnchương trình nhà
trường vào thực tế dạy học tôi thấy có rất nhiều thuận lợi đáng lưu tâm như sau:
- Nhà trường có thể hoàn toàn chủ động trong việc thực hiện chương trình giáo dục,
chương trình dạy học theo hướng tụ chủ và tự chịu trách nhiệm.
- Khắc phục những hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành qua điều
chỉnh cấu trúc chương trình, tinh giản nội dung dạy học, xây dựng các chủ đề dạy học
liên môn – tích hợp để góp phần nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục
trong các trường trong cụm.
- Tăng thời lượng cho các hoạt động thực hành, hướng dẫn học sinh NCKH và tổ
chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong thực hiện kế hoạch giáo dục.
- Đảm bảo tính phù hợp với các đối tượng học sinh các trường trong cụm.
III. Chuyên đề 3: Xây dựng nội dung đổi mới: Đổi mới về phương pháp dạy học Đạo
Đức.
Khi giảng dạy môn Đạo Đức tôi luôn cố gắng kết hợp nhiều phương pháp và hình
thức dạy học để tạo cảm hứng học tập cho học sinh và giúp học sinh dễ hiểu nội dung
bài hơn. Các hình thức tôi thường ưu tiên chọn lựa như: làm việc nhóm, sắm vai, xử lí
tình huống… Các em rất thích thú với những hình thức này, tích cực tham gia vào các
hoạt động của bài học vì vậy mà các em nắm kiến thức rất tốt. Hơn nữa tôi thường
xuyên gắn nội dung bài học gần thực tế để các em dễ vận dụng vào thực tiễn hơn.
Người viết

Nguyễn Minh Xuân

9




×