“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
A. MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
Học môn Tiếng Việt, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối
thiểu cần thiết giúp các em hòa nhập với cộng đồng và phát triển cùng sự
phát triển của xã hội. Cùng với môn Toán và các môn khác, những kiến thức
của môn Tiếng Việt sẽ là những hành trang trên bước đường đưa các em đi
tìm hiểu khám phá nghiên cứu kho tàng tri thức vô tận của loài người. Mỗi
bài văn là một sản phẩm không lặp lại của từng học sinh trước một đề bài.
Do đó có thể nói, việc học văn làm văn giúp các em bộc lộ rõ nét nhất, trọn
vẹn nhất những suy nghĩ riêng, tính sáng tạo, thể hiện chân thực về con
người mình. Vì thế việc dạy và học Tập làm văn luôn cần có sự đổi mới. Bản
thân tôi đang là giáo viên đứng lớp giảng dạy, đón nhận đưa kỹ năng sống
vào môn Tập làm văn nên cần nỗ lực phấn đấu đảm nhiệm chức trách của
mình với học sinh.
Năm học 2015 -2016, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm giảng dạy lớp 4,
tôi nhận thấy một số học sinh viết câu sai ngữ pháp, dùng từ chưa phù hợp
với hoàn cảnh và đặc biệt là thiếu ý. Mặt khác học sinh Tiểu học còn ham
chơi, khả năng tập trung chưa cao, chưa có những quan sát tinh tế, năng lực
ngôn ngữ chưa phát triển tốt, chưa thực sự biết cách diễn đạt điều muốn tả.
Các em còn khá e ngại, rụt rè, ngại phát biểu dẫn đến hiệu quả học tập chưa
cao. Vì thế việc đổi mới phương pháp dạy học tập làm văn theo hướng phát
huy tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh là hết sức cấp thiết.
Tuy nhiên, dạy Tập làm văn như thế nào cho phù hợp với trình độ học sinh
lớp 4. Điều đó khiến tôi tìm tòi, suy nghĩ để tìm biện pháp giúp học sinh học
Tập làm văn tốt nhất. Tôi xin đề xuất: "Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của
phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo hướng phát huy tính tích cực trong
hoạt động nhận thức của học sinh".
2. Mục đích nghiên cứu.
* Giúp học sinh: - Rèn kĩ năng quan sát tìm ý, lập dàn ý.
-Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát,
mạch lạc; Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình yêu mến, gắn bó biết trân trọng những gì xung quanh
- Học sinh tự tìm tòi, phát hiện, chủ động chiếm lĩnh kiến thức; ứng dụng
thành thạo các tri thức đã lĩnh hội được vào trong cuộc sống; biết làm tốt một
bài văn miêu tả; có tiền đề tốt để viết văn miêu tả lớp 5.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo.
- Điều tra khảo sát thực tế.
- Sử dụng các phương pháp khác: Phân tích ngôn ngữ, so sánh đối chiếu,
thống kê và xử lý các số liệu thu được.
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
1
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
B- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 4.
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của
môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến
thức tổng hợp từ nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử
dụng cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về
Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn.
Việc đổi mới phương pháp dạy môn Tập làm văn, thể loại văn miêu tả ở
lớp 4 cho chúng ta thấy trong việc thừa kế cái cũ, cái vốn có đòi hỏi phải là
một sự sáng tạo. Với các phân môn khác của Tiếng Việt trong việc đổi mới
nội dung và phương pháp dạy học chỉ rõ quy trình các bước lên lớp rất cụ thể
rõ ràng. Còn với phân môn Tập làm văn, các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra quy
trình chung nhất cho mỗi loại bài, chủ yếu vẫn là sự sáng tạo của giáo viên
khi lên lớp. Còn việc học thì sao? Ngoài sách giáo khoa Tiếng Việt thì hiện
nay có rất nhiều loại sách tham khảo cho học sinh, giúp cho học sinh có cái
nhìn đa dang, phong phú hơn. Song những cuốn sách tham khảo của phân
môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn mẫu hoàn chỉnh nên khi làm
văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi còn sao chép y nguyên
bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ của các em không
phong phú mà còn đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. Chính vì vậy dạy Tập
làm văn theo hướng đổi mới ở Tiểu học nói chung và lớp 4 nói riêng là việc
làm cần thiết để giúp học sinh học môn Tiếng Việt tốt hơn và cũng là cũng để
nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới nhằm khích lệ học sinh tích cực, sáng
tạo, chủ động trong học tập, biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản,
văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện
để hỗ trợ cho việc dạy tập làm văn được tốt.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ DẠY PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 4
1. Thực trạng chung về vấn đề dạy phân môn Tập làm văn lớp 4.
Toàn trường có 10 lớp với 253 học sinh, trong đó khối 4 có hai lớp với 39
học sinh. Nhìn chung các em đều là con em nông thôn, nhiều em gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa các em phải ở nhà với ông bà. Bởi
vậy sự quan tâm đến việc học hành của các em chưa sát sao. Khả năng tiếp
thu bài của các em còn nhiều hạn chế. Song với môn Tập làm văn, chương
trình mới được đưa ra quá trừu tượng, khó đối với học sinh nói chung, học
sinh Trường Tiểu học Thọ Lộc nói riêng. Bởi phân môn học này mang tính
tổng hợp kiến thức giữa tất cả các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và
câu, Kể chuyện. Các phân môn này đều có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Đặc biệt
là để học tốt phân môn Tập làm văn cần có sự hỗ trợ tích cực của tất cả các
phân môn khác nó đòi hỏi học sinh phải có khả năng tư duy, sáng tạo và khả
năng diễn đạt trước lớp mới học tốt môn học này ...
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
2
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
Mặt khác, phân môn Tập làm văn lớp 4 có nhiều thể loại. Mỗi thể loại bài
là một mạch kiến thức khác nhau mà việc tiếp thu bài của học sinh còn hạn
chế, ít động não, sử dụng câu chưa phù hợp, vốn từ nghèo, ít đọc sách nên
việc viết văn đối với học sinh là rất khó, bài viết khô khan.
2. Thực trạng việc giảng dạy Tập làm văn của giáo viên:
a- Thuận lợi:
- Sự chỉ đạo, chuyên môn của phòng giáo dục, trường, tổ chuyên môn có vai
trò tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập
làm văn.
- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo đã có nhiều giáo viên thành
công khi dạy Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: Ti vi, đài, sách, báo... giáo viên
tiếp cận với phương pháp đổi mới khi dạy Tập làm văn thường xuyên hơn.
b- Khó khăn:
Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người
giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú cần phải có vốn sống thực
tế, người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy.
Biết gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các
em nói viết thành văn bản, ngôn ngữ quả không dễ.
3. Thực trạng việc học phân môn Tập làm văn của học sinh.
a- Thuận lợi:
- Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung
phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị
dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi các em.
- Các em đã được học chương trình thay sách từ lớp 1, đặc biệt là ở lớp 2,
lớp 3 các em đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập làm văn
như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả.
Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 4- thể loại văn
miêu tả đạt kết quả cao.
b- Khó khăn:
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên,
mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến
việc tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành
độc lập. Cụ thể là: Các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính
sáng tạo trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn,
cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình.
Ví dụ: Phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
- Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài miêu
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
3
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
tả, nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài
làm của các em còn viết theo một lối mòn khuôn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm
xúc và nghèo hình ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu
từ, các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa….
Tóm lại: Mặc dù học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn Luyện
từ và câu nhưng khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi trên,
kết hợp với việc chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật, vốn từ lại nghèo
nàn nên bài văn miêu tả của các em còn khô khan, lủng củng, nghèo cảm
xúc. Bài văn trở thành một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả.
Từ thực tế trên ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng
môn Tập làm văn lớp 4 đầu năm học 2015-2016.
Đề bài: Tuổi thơ ai cũng có những đồ chơi yêu thích đã từng gắn bó với
mình như một người bạn: Một bộ xếp hình nhiều màu sắc, một chiếc ô tô có
dây cót, một chú thỏ nhồi bông dễ thương, một cô búp bê biết khóc.... Em
hãy tả lại một trong những đồ chơi đó.
Kết quả cụ thể như sau:
Lớp
Số học sinh
4A
20
Hoàn thành
SL
TL
13
65%
Chưa hoàn thành
SL
TL
7
35%
Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt, câu văn chưa
có hình ảnh, vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, ý văn nghèo
nàn, câu văn lủng củng, do vậy chất lượng bài viết của các em chưa cao. Học
sinh quan sát đồ vật khi tả không theo một trình tự hợp lý, chưa biết tìm ra
những đặc điểm riêng để phân biệt đồ vật này với đồ vật kia. Tỷ lệ học sinh
đạt yêu cầu còn nhiều. Kết quả này cũng thể hiện phương pháp giảng dạy của
giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ học.
III - CÁC GIẢI PHÁP DẠY MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 4.
Từ thực trạng việc dạy học phân môn Tập làm văn nói chung và việc
dạy học làm văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng tôi thấy cần thiết để có những biện
pháp sáng tạo trong văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng dạy học
ở Tiểu học.
Biện pháp 1: Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học
sinh để từ đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp
khi lên lớp.
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài
phải giàu cảm xúc, tạo nên cái "hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo
viên phải luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn
nhiên, một tấm lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện.
Đối với loại bài này, tôi hướng dẫn học sinh biết cách quan sát các đồ
vật, con vật gần gũi mà các em thường thấy ở xung quanh. Vào lớp, tôi cho
học sinh thi đua cá nhân, nhóm tìm nhanh các đồ vật có thể tả. Sau đó gợi ý
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
4
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
cho các em cách lập dàn ý một đoạn, một bài hoàn chỉnh và yêu cầu mỗi em
phải tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép khi quan sát một đồ vật, một con
vật và có nhiệm vụ giúp các em hệ thống lại các ý đã quan sát để lập thành
dàn bài chi tiết đạt yêu cầu, có hệ thống.
Đối với các em chưa hoàn thành, tôi cho các em trình bày phần mở bài
và kết luận. Thường thì học sinh còn hạn chế tiếp thu vấn đề tôi gọi trong lúc
này là để các em có thể trình bày ngắn gọn các ý khi sai sót, ngoài những nụ
cười cởi mở giáo viên chỉ nên nhẹ nhàng sửa sai và động viên cho các em
này.
Ở phần thân bài, tôi thường phân nhóm 4 cho các em thảo luận theo dàn ý
chi tiết, các em nối tiếp, hỗ trợ nhau thực hiện:
+ Phần bao quát chung.
+ Phần chi tiết từng bộ phận.
+ Phần hoạt động liên quan.
Ví dụ: Tả về đồ vật: “Tả chiếc cặp sách”.
Yêu cầu thảo luận phần thân bài sau đây:
+ HS1: Tả bao quát, hình dạng, màu sắc, chất liệu của cặp?
+ HS2: Tả chi tiết từng bộ phận của đồ vật: Các bộ phận bên ngoài của cặp?
(mặt cặp, nắp cặp, quai xách, dây đeo, khóa); Xoa lên da cặp em có cảm giác
gì?(trơn, nhẵn, ram ráp,...) .....
+ HS3: Tả bên trong cặp có mấy ngăn ? Mỗi ngăn đựng gì?
+ HS4: Em có thích cái cặp của em không? Tại sao? Em dùng cặp, giữ gìn
cặp như thế nào?
Sau khi thảo luận xong một nhóm học sinh trình bày:
+ HS1: Cặp hình chữ nhật, làm bằng vải giả da, màu tím, nắp màu đen. Dài
hơn hai gang tay của em, rộng khoảng một gang rưỡi. Cặp có nhiều màu rất
đẹp.
+ HS2: Ở phía trên cặp có quai xách thật êm tay. Sau lưng là hai quai đeo.
Hai ổ khóa bằng sắt, mỗi khi đóng hoặc mở nghe “tách, tách” rất vui tai.
Ngoài mặt cặp có in hình chú chó đốm rất đẹp.
+ HS3: Phía bên trong có ba ngăn. Ngăn lớn đựng sách, ngăn thứ hai đựng
bảng con, đồ dùng khác …, ngăn thứ ba nhỏ nhất đựng bút, thước, và các đồ
dùng như: áo đi mưa, chai nước, …
+ HS4: Chiếc cặp giúp em đựng sách vở không bị rơi rớt và không bị mưa
ướt.
Biện pháp 2: Tạo động cơ học văn miêu tả cho học sinh.
Công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn là tạo ra được động cơ,
nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết).
Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn bậc Tiểu học, mở rộng vốn sống, rèn
luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách
cho học sinh. Trong đó, học văn miêu tả góp phần phát triển tư duy hình
tượng của trẻ được rèn luyện phát triển nhờ biện pháp so sánh, nhân hóa...
khi miêu tả. Nhưng làm thế nào để thực hiện được những nhiệm vụ trên mà
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
5
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
không biến các em thành những “thợ” viết văn? Vậy ta cần kích thích các em
yêu văn và có nhu cầu viết văn. Trước hết hãy tạo tình huống khiến các em
háo hức khám phá điều thú vị trong đối tượng miêu tả. Ví dụ: Tôi hướng dẫn
cho học sinh quan sát bức tranh cây phượng đang ra hoa đỏ rực và hỏi: Quan
sát tranh em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà thơ Xuân Diệu đã ví "như
muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau."
Học sinh sẽ phân tích tìm đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó
của cây hoa với muôn ngàn cánh bướm thắm đậu khít nhau. Qua đây cũng
rèn luyện cho các em óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích,
kích thích các em suy luận. Hướng dẫn học sinh viết văn miêu tả phải gắn
liền với việc hình thành những kĩ năng sống khác. Như rèn các em biết giữ
gìn đồ vật, tổ chức cho học sinh trồng, chăm sóc và bảo vệ cây... Học sinh
được trau dồi vốn sống, biết suy nghĩ, có những cảm xúc, tình cảm. Từ đó,
mới luyện các em cách thể hiện suy nghĩ, tình cảm bằng ngôn ngữ nói, viết.
Khi ra đề Tập làm văn. Tôi luôn chú ý đề bài yêu cầu viết về những gì gần
gũi thân thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em
muốn nói, viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu. Trong tiết kiểm tra viết
(sách Tiếng Việt 4 Tập 2 – Trang 92) có 4 đề bài gợi ý. Tôi đã đưa ra các đề
khác nhằm gợi cảm xúc cho các em trước khi viết bài.
Ví dụ: Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.
Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.
Đề 3: Hãy tả một loài hoa mà em yêu thích.
Đề 4: Tả một vườn rau(hoa) gần nơi em ở.
Khi học sinh đã có hứng thú học văn miêu tả, ta tiếp tục duy trì điều
đó trong suốt quá trình học tập và tiếp tục rèn các kĩ năng khác theo yêu cầu
khi viết văn. Ngoài ra, bên cạnh yêu cầu duy trì chủ đề để đạt mục đích giao
tiếp, bài văn phải có sự phát triển, chủ đề phải được triển khai. Giáo viên cần
chỉ ra các hướng cho học sinh viết bài: viết theo trình tự thời gian, không
gian hay từ toàn thể đến bộ phận... Các bài văn miêu tả của học sinh phải thể
hiện được tình cảm, cảm xúc. Điều này chi phối kĩ thuật viết đồng thời đòi
hỏi dạy viết văn miêu tả phải được bắt đầu từ việc hình thành tình cảm đối
với đối tượng được miêu tả.
Biện pháp 3: Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn
miêu tả.
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối
tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là
sự sao chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là
kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự
miêu tả thể hiện được cái riêng biệt của mỗi người. Nhà văn Phạm Hổ cho
rằng: "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn với cái chân thật".
Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng
tạo của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết
"bịa" một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, tôi đã uốn nắn
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
6
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng. Mặt khác,
tôi cần giúp các em nắm được trong văn miêu tả, ngôn ngữ sử dụng phải là
ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh, … và các
thể loại văn khác.
Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường
mình cần đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi
chọn lọc từ ngữ, sẽ gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy
chất lượng bài làm của các em sẽ tốt hơn. Tôi lưu ý học sinh cần phải thực
hiện yêu cầu sau:
* Đảm bảo yêu cầu quan sát đối tượng miêu tả:
- Quan sát tổng thể đối tượng, chú ý cả ở trạng thái động và tỉnh. Quan
sát bằng tất cả các giác quan: thính giác, thị giác, xúc giác, cảm giác.....
- Nếu tả cảnh: cần quan sát tỉ mỉ từng phần(bộ phận) của cảnh theo
trình tự hợp lí (Ví dụ: Từ ngoài vào trong, từ bộ phận chủ yếu đến các bộ
phận thứ yếu), hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian (Ví dụ: sáng, trưa,
chiều, tối).
3.1. Tả theo trình tự không gian
Từ quan sát toàn bộ đến quan sát từng bộ phận hoặc ngược lại. Tả từ
xa đến gần, từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trái qua phải … hoặc
ngược lại. Trình tự này thường được vận dụng khi miêu tả loài vật, cảnh vật,
đồ vật, cây cối, tả cảnh nói chung.
a. Tả từ dưới lên trên:
Ví dụ: "Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn cả cành
khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành”.
( Rừng hồi xứ Lạng, Tô Hoài )
Tác giả quan sát và tả rất tinh tế về cây hồi, rồi quả hồi và cuối cùng là lá
hồi theo trình tự dưới lên trên. Dùng lối miêu tả tĩnh với những tính từ
( thẳng, cao, tròn xoe, giòn, dễ gãy …), dùng cách nói nhân hoá quả hồi phơi
mình làm cho sự miêu tả thêm gần gũi, sinh động.
b. Tả từ ngoài vào trong
Ví dụ: "Cái vành, cái áo đều làm bằng nan tre. Hai cái tai nó bằng tre
già màu nâu. Mỗi tai có một cái lỗ tròn xoe. Lúc nào, tai cũng tỉnh táo để
nghe ngóng. Cối có hai hàm răng bằng gỗ dẻ. U gọi là dăm. Răng có nhiều,
ken vào nhau".
(Cái cối tân, Tiếng Việt 4 tập 1)
c. Tả từ xa đến gần.
Ví dụ: "…Tôi vội ra khoang trước nhìn. Xa xa từ vệt rừng đen, chim
cất cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ trong lòng đất chui ra, bò li ti
đen ngòm trên da trời. Càng đến gần, những đàn chim bay đen kịt trời…
Mỗi lúc tôi càng nghe tiếng chim kêu náo động như tiếng xúc những rổ đồng
tiền…"
(Trích Đất rừng Phương Nam, Đoàn Giỏi)
3.2. Tả theo trình tự thời gian.
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
7
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
Quan sát diễn biến của thời gian từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, từ
mùa này sang mùa khác, từ tháng này sang tháng khác… Cái gì xảy ra trước
(có trước) thì miêu tả trước, cái gì xảy ra sau (có sau) thì tả sau. Trình tự này
thường được vận dụng trong bài văn tả cảnh vật, hiện tượng tự nhiên (tả
cảnh) hay tả cảnh sinh hoạt của người.
Ví dụ: "… Buổi chiều, xe dừng lại một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện
vàng hoe. Những em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng
hổ, quần áo sặc sỡ đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của
phiên chợ thị trấn, người ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt…"
( Đường đi Sa Pa, Nguyễn Phan Hách, TV4, tập 2 )
3.3. Tả theo trình tự tâm lý:
Thấy đặc điểm gì nổi bật, thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản
thân (buồn, vui, yêu, ghét…) thì tập trung quan sát trước, tả trước, các bộ
phận khác quan sát sau, tả sau… Trình tự này thường được vận dụng khi tả
đồ vật, tả loài vật, tả người. chỉ cần miêu tả những điểm nổi bật nhất, không
nhất thiết phải tả đầy đủ, chi tiết, như nhau tất cả các đặc điểm của đối tượng.
Ví dụ: "Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam. Hương vị nó hết sức đặc
biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa… Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm… Hoa đậu
từng chùm, màu trắng ngà… Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về
dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột…".
(Sầu riêng, Mai Văn Thọ, TV4, tập 2)
Chú ý phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt đối tượng được tả với
đối tượng khác cùng loại. Tuy vậy trong quá trình hướng dẫn các em quan
sát, tôi phải đồng thời khéo léo gợi mở để các em huy động vốn sống, khả
năng tưởng tượng và cảm xúc để giúp cho việc quan sát được tốt hơn.
Muốn làm văn miêu tả trước hết các em phải biết có cái gì để viết, để
tả. Muốn tả đúng, tả hay phải quan sát. Tôi phải hướng dẫn các em tập quan
sát, cách quan sát để tìm ra cái mới cái riêng. Quan sát để thấy được màu sắc
khác nhau, hương vị khác nhau, đặc điểm, tính chất khác nhau. Từ đó có
những sáng tạo độc đáo, không giống nhau mà chân thật.
Ví dụ: + Quan sát ánh trăng: Khi vui em thấy trăng cười, mời gọi hay
nô đùa với em. Khi buồn, em lại thấy trăng trầm tư lặng lẽ, muốn chia sẻ.
+ Quan sát gió: Khi gió thổi nhẹ có em thấy vuốt ve, vỗ về, miên
man trên da thịt, có em lại thấy gió thầm thì trò chuyện, gió hát ru...
+ Quan sát cơn mưa mùa hạ: Có em thấy mây dày đặc hơn, quánh lại
với nhau và như hạ thấp xuống. Rồi đột nhiên: rào, rào...Mưa đổ xuống xối
xả. Có em thấy mây phía đông ùn ùn kéo đến.. Hạt mưa bắt đầu rơi, những
giọt nước mưa thật to lộp bộp rơi xuống mái nhà. Có em thấy mưa tuôn rào
rào, xối xả trên mái nhà mặt đường, muôn nghìn hạt mưa đổ xuống .
Trong quan sát, tôi cần hướng dẫn các em quan sát sự vật ở nhiều thời
điểm, hoàn cảnh, trạng thái, nhiều hoạt động khác nhau để tìm ra cái riêng,
cái mới trong văn miêu tả.
Ví dụ: Quan sát con vật: Quan sát con mèo ngủ, sưởi nắng, bắt chuột,
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
8
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
rình mồi, khi leo cây, để thấy được những nét khác nhau từ ánh mắt, bước đi,
cách vẫy đuôi, tiếng kêu...của nó, cụ thể hơn nữa bình thường con mèo kêu
meo meo nhưng khi đánh nhau, khi vồ chuột và cả khi sợ nó lại kêu ngao ...
gừ... Mèo ngủ cũng có nhiều cách ngủ, khi thì cắm đầu xuống giấu trong hai
chân trước, khi lại ngửa mặt, vênh râu lên. Trời nóng, lạnh, khi ốm, khoẻ
mèo có những chỗ ngủ, cách nằm ngủ khác nhau.
Biện pháp 4: Giúp học sinh tăng cường vốn từ và biết cách dùng từ đặt
câu, sử dụng các biện pháp và giải pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức
cần thiết.
Muốn viết một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có
vốn từ ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù
hợp. Chính vì vậy tôi giúp học sinh tăng cường vốn từ cho các em khi dạy
tập đọc, luyện từ và câu và cả trong khi dạy các môn khác hay trong những
buổi nói chuyện trong các tiết sinh hoạt.
Tôi hướng dẫn học sinh theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ
yêu cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử
dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình
ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.
* Khi làm một bài văn miêu tả con mèo chúng ta cần miêu tả:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng mọc.
Tôi hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu của bạn? Học sinh có thể nhận xét:
bạn đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một cái măng
ngọc.
Tôi cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái đuôi của
chú mèo sao cho sinh động hơn:
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu
nhìn và nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân
thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.
Như vậy cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú mèo
nhưng những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những
từ gợi tả, gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn, ta thấy miêu tả như
vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người
nghe.
Biện pháp 5: Giúp học sinh tích lũy vốn từ miêu tả và làm giàu trí tưởng
tượng của các em trong làm văn miêu tả.
Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu
văn có hình ảnh, học sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy,
tôi cần giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu
tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả: Tích luỹ vốn
từ - Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng
ngày; đọc sách, báo; xem, nghe truyền hình truyền thanh;
trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;… Ghi chép khi được
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
9
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể
như: Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt,
mơn mởn; khẳng khiu; xum xuê; rực rỡ; đo đỏ;… Các từ
thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,… Các
từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén,
oai vệ,… Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên
hình ảnh, âm thanh, … để miêu tả cho sinh động. Giúp học
sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng: Tưởng tượng trong miêu
tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn
chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình
dung về đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện
ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn. Tưởng tượng giúp ta
thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm
tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của
đối tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ
niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lòng người viết. Từ
tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả
bằng tình cảm, tình yêu của chính mình, thấy được tầm quan
trọng của đối tượng được tả đối với chính mình và cả với
những người xung quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một
cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp
của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng
miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn. Giáo viên
có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách: Không
trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối
tượng. Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt
động của đối tượng, những ảnh hưởng, tác động của đối
tượng đến sự vật xung quanh. So sánh đối tượng được miêu
tả với các đối tượng khác tương đồng. Phân tích, đánh giá cái
hay, cái đẹp có ở đối tượng. Nhân hoá hay tự nhiên hoá một
vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng. Dự đoán trước khả năng và
những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới. Liên tưởng
với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được
về đối tượng từ trước tới nay. Ghi chép lại những gì mình đã
tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của mình.
Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và
xây dựng bố cục bài văn. Bài tập luyện viết văn miêu tả là
những bài tập viết thành đoạn, bài. Khi học sinh thực hiện
viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách diễn
đạt( dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ, so sánh,
nhân hoá,…). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu
tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài văn chặt chẽ,
hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
10
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
thể”. Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh
ngôn bản và chứa đựng trong nó nhiều bài tập hình thành
những kĩ năng bộ phận( xác định yêu cầu nói, viết và tìm ý,
sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn
thành bài,…). Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ
yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn
hoàn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện các bài tập rèn
luyện kĩ năng viết, tôi giúp học sinh thực hiện tốt những yêu
cầu sau: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định nội dung
viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu cầu viết.
Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài.
Để giúp học sinh viết bài văn có bố cục ba phần chặt chẽ, rõ ràng. Bài
văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường thu hút
người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về vấn đề mà
người trình bày. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh xây dựng một đoạn
văn mở bài và kết bài là rất cần thiết.
a. Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài
trực tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở
bài theo cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất
và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ
một vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu
hát,… nhưng phải bám sát vào yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không
rườm ra. Giáo viên có thể cho học sinh làm việc nhóm đôi hoặc cá nhân tự
nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các bạn nhận xét. Chẳng hạn với bài
tả con mèo, một học sinh mở bài: "Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ mua được một
con mèo tam thể.Chú ta là thành viên thứ năm của gia đình em, nay đã được
bốn tháng.”
- Tôi đưa ra câu hỏi: Đây là cách mở bài nào?( trực tiếp)
- Tôi nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn: "Nhà em
đã từ lâu không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính
gác cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật
hiền dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em.”
Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh mở bài như
sau:
“Ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ nó rễ phải đến trăm năm tuổi. Cả làng
gọi đó là cây đa ông Đài, vì ông Đài là người trồng ra nó, nhưng ông Đài là
ai thì cả làng không ai nhớ cả.”
Học sinh khác lại viết: "Từ bến đò phía xa em đã nhìn thấy làng em. Phải
qua một cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây số, em đã
nhìn thấy làng quê yêu dấu: Cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên bầu trời.
Mỗi lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa làng quê đang giơ tay vẫy
chào, đón đợi.”
Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
11
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
mở bài một cách hợp lý nhất.
b. Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại
rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người
viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm
xúc của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ
yếu các em thường làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai
nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên
phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài có mở rộng bằng cảm xúc
của mình một cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở, sau đó cho các em
nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết bài hay.
Ví dụ: Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm lặng của
dòng đời. Cô giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bến đò, hoặc đi xa về,
ngắm nhìn ba cây gạo, em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây gạo là hồn quê,
là tình quê vơi đầy.”
Để có một bài văn hay đúng thôi thì chưa đủ mà còn phải thấm đượm cảm
xúc của người viết. Song tình cảm không phải thứ gò ép bắt buộc, tình cảm
ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em. Bài văn
không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở
phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy tôi rất
chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường
xuyên liên tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây
dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa.
Biện pháp 7: Hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài v¨n:(lựa chọn
và sắp xếp ý để miêu tả)
Nội dung bài đầy đủ, phong phú là yêu cầu không thể thiếu được của một
bài tập làm văn tốt. Với yêu cầu này ta cần tiến hành qua các bước: tìm ý, lập
dàn bài chi tiÕt theo bố cục 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài), các từ ngữ
nối để liên kết câu chặt chẽ, trôi chảy. Từ ngữ miêu tả phải thích hợp, câu
văn có hình ảnh, biết sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá để bài văn hay
hơn.
- Khi làm bài viết, tôi hướng dẫn học sinh: Đọc kĩ, hiểu yêu cầu của đề bài.
+ Phân tích đề : Đề thuộc thể loại văn gì? Nội dung miêu tả ai? Con gì? Vật
gì? Cảnh ở đâu? Tả vào lúc nào? bộ phận nào?
- Biết dựa vào dàn ý đã xây dựng, các đoạn văn đã viết ở tiết trước để viết
thành một bài văn hoàn chỉnh.
Sau đó, học sinh bám sát yêu cầu của đề bài, huy động vốn thực tế (mà các
em đã được hướng dẫn quan sát qua khâu chuẩn bị) để lựa chọn được những
nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng, đầy đủ.
Sau khi đã thống kê toàn bộ ý đã tìm được lên vở nháp, tôi hướng dẫn học
sinh chọn lọc ý theo hệ thống câu hỏi: Theo em, những ý trên ý nào không
quan trọng cần lược bỏ? ý nào cần tả lướt qua bằng vài câu? Còn ý nào cần
tập trung tả kĩ, sâu hơn? Tại sao lại không tả hết toàn bộ tả một số cảnh và tả
kĩ như vậy nhằm mục đích gì?
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
12
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
a. Phần mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con
vật) bằng cách trực tiếp hay gián tiếp.
Trong bài tập làm văn phần mở bài là phần gây ấn tượng đầu tiên cho người
đọc. Các em có thể vào bài bằng một câu hay một đoạn nhưng cần phải bám
sát vào nội dung yêu cầu đã được xác định. Dựa vào mở bài của mỗi em mà
tôi góp ý, không gò bó, không áp đặt. Ví dụ: Khi tả con vật, các em có thể
vào bài: “ Đã lâu em được bố mẹ cho về quê chơi. Qua khỏi cổng làng, em
bước thơ thẩn trên con đường nhỏ dẫn tới đầm sen. Ở một góc đầm trống,
một đàn vịt bầu đang lặn hụp kiếm mồi. Từ đó giúp các em viết được bài văn
tốt mang tính nghệ thuật cao.
b. Phần thân bài: Ở phần này tôi hướng dẫn học sinh phát triển theo nhiều ý
khác nhau.
-Tả đồ vật: Ví dụ: Đề bài: “ Tả một đồ chơi mà em thích”. Tôi cho các em
làm theo các gợi ý sau:
a) Muốn miêu tả đồ vật, trước hết phải quan sát đồ vật đó là đồ vật gì? (búp
bê, gấu bông, cái chong chóng,..)
b) Quan sát theo một trình tự hợp lí.
+ Nhìn bao quát:
+ Quan sát từng bộ phận ( bên ngoài/ bên trong, bên trên/ bên dưới, đầu/
mình/ chân tay,..)
c) Hướng dẫn cho học sinh quan sát bằng nhiều giác quan.
- Dùng mắt để xem hình dáng, kích thước, màu sắc,...của đồ vật như thế nào.
- Dùng tay để biết đồ vật mềm hay rắn, nhẵn nhụi hay thô ráp, nặng hay
nhe.,...
- Dùng tai để nghe đồ vật khi được sử dụng có phát ra tiếng động không,
tiếng động ấy như thế nào.
- Cố gắng tìm ra những đặc điểm riêng của đồ vật, phân biệt nó với những đồ
vật khác, nhất là những đồ vật cùng loại.
- Tả cây cối: Từ gợi ý của các bài văn mẫu, biết lập dàn ý miêu tả một cây ăn
trái quen thuộc theo hai cách đẫ học: Tả lần lượt từng bộ phận của cây hoặc
tả lần lượt từng thời kì phát triển của cây. Từ đó học sinh phát triển ý thật tự
nhiên. Như vậy mỗi em có một ý, một vẻ khác nhau và đều đảm bảo đủ ý
chính. Tuy nhiên tôi cần hướng cho học sinh phát triển ý phong phú về nội
dung làm nổi bật yêu cầu của đề bài. Khi xây dựng phần thân bài, tôi cần lưu
ý học sinh: Khi tả có thể tả nhiều bộ phận nhưng không coi đó là chủ yếu mà
cần làm nổi bật đối tượng cần tả do đề bài yêu cầu. Tả cần chọn những nét
tiêu biểu, tránh liệt kê đầy đủ nhưng nặng về kể lể khô khan.
c. Phần kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ, ấn tượng về đối tượng miêu tả
theo kiểu mở rộng hoặc không mở rộng.
Có nhiều cách kết bài khác nhau cho một bài văn miêu tả nhưng đều phải
xuất phát từ nội dung chính mà các em vừa khai thác được ở phần thân bài.
Để thực hiện tốt điều này chúng ta có thể gợi mở:
Ví dụ: Với đề bài"Tả một đồ chơi mà em thích", tôi hỏi: Em hãy nói tình
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
13
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
cảm của em với đồ chơi mà em thích. Tôi gợi mở cho học sinh nói theo ý của
mình, cảm nghĩ của mình qua bài văn miêu tả mà các em đã chuẩn bị sau đó
tôi chắt lọc, sửa sai(nếu cần).
Biện pháp 8: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài.
Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến
việc nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình nhất định, bắt đầu từ việc
lập kế hoạch đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng là khâu
kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm so với kế hoạch đó và cuối cùng là
khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm so với kết quả bỏ qua bất cứ
khâu nào trong các khâu trên, nhất là các khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra
đánh giá thì mới có thể biết được những ưu, khuyết điểm trong công việc đã
thực hiện, để điều chỉnh cho những việc tiếp theo.
Dạy tập làm văn cũng không nằm ngoài chu trình chung đó. Mỗi loại bài
thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực
hành ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm
túc thì mới có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút kinh
nghiệm thực hiện tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm tra,
đánh giá "nhằm mục đích giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung của
giáo viên và kết quả bài viết của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình giúp
học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài của
mình và của các bạn, từ đó học sinh có thể học hỏi những câu văn, đoạn văn
hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài không thể làm qua loa đại
khái, càng không thể bớt xén thời lượng.
Giáo viên luôn chủ động khâu chữa lỗi:
- Chữa lỗi về dùng từ: Tôi đưa câu văn mà học sinh dùng từ thiếu chính xác
cho học sinh đọc và phát hiện. Ví dụ qua đề bài: "Tả con vật mà em yêu
thích" có học sinh viết: "Chú gà trống vỗ cánh bạch bạch". Xét về góc độ
ngữ nghĩa, cú pháp thì câu hoàn toàn đúng. Song từ "lạch bạch" là từ tượng
thanh, chỉ cho ta nghe âm thanh khi chú gà trống vỗ cánh nhưng chưa toát
lên được vẽ oai vệ của gà trống. Vì vậy, tôi gợi mở để học sinh tìm từ thay
thế "phành phạch", vừa gợi tả âm thanh vừa cho thấy hình ảnh đôi cánh chú
gà trống vừa mạnh vừa khỏe. Sau đó học sinh viết lại câu. Nhận xét mức độ
miêu tả qua câu vừa viết.
- Chữa lỗi về câu: Lỗi về câu có nhiều dạng. Tôi lựa chọn từng loại sai để
sửa. Ví dụ: Khi viết bài văn tả bạn có học sinh viết: "Bạn Lan thương yêu."
Với trường hợp này tôi dùng câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện lỗi sai của
câu chưa đủ thông tin, chưa rõ nghĩa. Bạn Lan thương yêu ai?. Sau đó hướng
cho học sinh bổ sung. Chẳng hạn: "Bạn Lan yêu thương mọi người trong gia
đình."
Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài
soạn đã hướng dẫn, tôi đã thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm
chán. Sau phần nhận xét chung, tôi chữa lỗi cho học sinh theo từng loại lỗi
thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước.
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
14
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
Sau đó, tôi trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để
các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các
câu hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học sinh sẽ thấy rõ ưu,
nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại
đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp
học sinh tránh được những lỗi không đáng có trong thực hành viết văn và
trong cả giao tiếp hàng ngày.
Biện pháp 9: Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài khi dạy tập làm văn lớp 4.
Trong bất kỳ hoạt động nào việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng, chuẩn
bị cũng chính là kế hoạch cho công việc mình định làm, đó là việc làm đầu
tiên, tất yếu của mỗi hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của
người giáo viên, Bài soạn chính là bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay
được gọi là kế hoạch bài học.
Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng
thiết thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả
năng lực, phẩm chất của mình như năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu,
năng lực hiểu học sinh, năng lực ngôn ngữ…lòng yêu nghề, niềm tin sự nhiệt
tình và lòng đam mê nghề nghiệp. Giáo án có chất lượng phải chuyển hoá
được những kiến thức của sách vở đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự
nhiên tức là giáo án được thực hiện hoá qua bài giảng trên lớp giúp học sinh
hiểu bài tốt hơn.
Qua thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn đưa ra quy trình dạy tiết Tập làm văn
lớp 4 - thể loại văn miêu tả theo hướng đổi mới thể hiện qua kế hoạch bài
học như sau:
I. Mục đích yêu cầu :
- Nêu mục đích yêu cầu của bài học
II. Đồ dùng dạy học :
- GV chuẩn bị dồ dùng dạy học phù hợp với nội dung ,yêu cầu bài học
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu:
Hoạt động 1: Kiểm tra bài cu
Yêu cầu HS nhắc lại kiến thức cần ghi nhớ hoặc bài tập đã thực hành ở
tiết trước (hoặc GV nhận xét kết quả chấm bài)
Hoạt động 2: Giới thiệu bài: Dựa vào nội dung mục đích yêu cầu cụ thể, có
thể giới thiệu bằng nhiều cách khác nhau. Chú ý làm nổi bật mối quan hệ
giữa nội dung tiết học này với các tiết học khác (Tham khảo Giới thiệu bài
trong SGV)
Hoạt động 3: Hướng dẫn HS hình thành kiến thức và luyện tập.
2.1. Đối với loại bài hình thành kiến thức.
a) Hướng dẫn HS nhận xét
- Dựa theo câu hỏi, bài tập gợi ý ở mục I (Phần Nhận xét) trong SGK,
GV hướng dẫn HS nhận diện đặc điểm của loại văn thông qua việc khảo sát
văn bản, thảo luận, trả lời câu hỏi nhằm tự tìm ra những điểm cần ghi nhớ
(được diễn đạt súc tích ở mục II trong SGK)
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
15
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
- Trình tự thao tác:
+ Yêu cầu HS đọc mục Nhận xét trong SGK, khảo sát ngữ liệu (văn
bản) để trả lời từng câu hỏi gợi ý.
+ Hướng dẫn HS trao đổi, thảo luận nhằm rút ra những nhận xét về
đặc điểm loại văn bản (kiến thức cần ghi nhớ)
b) Hướng dẫn HS ghi nhớ
- GV yêu cầu HS đọc kĩ nội dung II (Ghi nhớ) trong SGK, sau đó nhắc
lại (không nhìn sách) để học thuộc và nắm vững.
c) Hướng dẫn HS luyện tập.
- Hướng dẫn HS thực hiện từng BT ở mục III (Luyện tập) trong SGK
theo trình tự:
+ Đọc và nhận hiểu yêu cầu của bài tập (GV có thể gợi ý thêm bằng
câu hỏi hoặc lời giải thích,...).
+ Thực hành kuyeenj tập theo từng yêu cầu của BT (có thể làm thử
một phần BT dưới sự hướng dẫn của GV, sau đó trao đổi, thảo luận theo cặp
hoặc theo nhóm...)
+ Nêu kết quả trước lớp để GV nhận xét, đánh giá nhằm củng cố kiến
thức và hình thành kĩ năng theo yêu cầu của bài học.
2.2. Đối với loại bài Luyện tập – thực hành.
Hướng dẫn HS thực hiện từng BT trong SGK như mục c của loại bài
Hình thành kiến thức, hoặc hướng dẫn HS lần lượt thực hiện từng nội dung
gợi ý trong SGK để luyện tập các kĩ năng TLV dưới hình thức nói, viết theo
đề bài cho trước.
VD: Ở các bài luyện tập thực hành theo đề bài TLV, GV cần thực hiện
các thao tác sau:
+ Yêu cầu HS đọc kĩ đề bài, xác định đúng nội dung yêu cầu của đề.
+ Hướng dẫn dựa vào Gợi ý trong SGK để thực hiện từng yêu cầu
(theo hình thức nói hay viết)
+ Tổ chức nhận xét, đánh giá kết quả thực hành nhằm trau dồi các kĩ
năng làm văn cho HS.
Hoạt động 4: Hoạt động nối tiếp.
- Giúp HS nhắc lại những điểm chính của nội dung bài học hoặc yêu cầu
luyện tập thực hành.
- Nhận xét đánh giá chung về kết quả tiết học (biểu dương bài làm hay, động
viên HS học tốt...)
Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức
phát triển của học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, người dạy phải gửi
cả tâm hồn mình vào bài dạy, thầy trò phải cùng đắm mình vào đối tượng
miêu tả theo một dòng cảm xúc, cùng hoà chung tình cảm để cùng tìm hiểu
về cảm nhận với niềm say mê, thích thú. Muốn vậy người giáo viên phải có
sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi lên lớp. Chuẩn bị đầy đủ về tâm thế, về nội
dung, phương pháp, đồ dùng, phương tiện dạy học, mục tiêu, ý nghĩa giáo
dục, khả năng, trình độ của học sinh. Phải tìm tòi, nghiên cứu để có được
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
16
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
những câu hỏi gợi mở phù hợp với trình độ học sinh, chuẩn bị cả những từ,
những câu văn thích hợp để sửa sai hoặc để làm mẫu cho học sinh. Nó đòi
hỏi giáo viên phải nỗ lực sáng tạo trong suốt quá trình dạy học. Chỉ có
nghiên cứu sáng tạo mới cho giáo viên có được những giờ dạy văn miêu tả
mới mẻ, hiệu quả cao. Nếu không có những sáng tạo mới trong dạy tập làm
văn nhất là văn miêu tả thì giờ dạy văn miêu tả chỉ là sự kiệt kê các chi tiết
của đối tượng miêu tả, giờ học sẽ gượng ép, gò bó, thiếu tâm hồn văn học.
Biện pháp10: Giúp học sinh học tốt các phân môn của môn Tiếng Việt.
Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân môn
thuộc môn Tiếng Việt. Vì vậy muốn dạy tốt phân môn Tập làm văn cần dạy
tốt các phân môn Luyện từ và câu, Chính tả,Tập đọc, Kể chuyện.
Khi dạy tập làm văn tôi hiểu rõ tính tích hợp thức giữa các phân môn
trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,
tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm
văn. Mối quan hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài
học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một
chủ điểm ở tất các các phân môn.
Ví dụ: Khi dạy phân môn Luyện từ và câu, học về câu kể Ai là gì ? học sinh
hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu câu này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ
đó học sinh biết đặt câu kể Ai là gì ? để giới thiệu hoặc nêu nhận định về một
con người, một vật...:
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.
Chích bông là con chim rất đáng yêu.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
- Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không
một phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là
chữ viết. Vì vậy muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kỹ năng
viết cho học sinh trong các giờ Chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng,
nhanh, viết đẹp và trình bày rõ ràng, sạch sẽ.
- Nếu như Tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, Chính tả rèn kỹ năng
viết cho học sinh thì phân môn Kể chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói khác
là kỹ năng sản sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi
dưỡng tình cảm, giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu,
vừa giúp học sinh học tập cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện.
Ví dụ:
Tuần 15 : Chủ điểm “ Tiếng sáo diều”
Tập đọc: Bài Cánh diều tuổi thơ - Tiếng việt 4 - Tập 1 –Trang 146
Tác giả đã miêu tả cánh diều bằng nhiều giác quan. Mắt nhìn cánh diều mềm
mại như cánh bướm; Tai nghe tiếng sáo diều vi vu....
Chính tả: Tiếng việt 4 - Tập 1 –Trang 147
Bài tập 3: Miêu tả một trong các đồ chơi hoặc trò chơi nói ở bài tập 2.
Bài tập này học sinh có thể miêu tả chiếc ô tô; tàu hoả, chong chóng ....
Kể chuyện : Kể chuyện đã nghe đã đọc -Tiếng việt 4 - Tập 1 –Trang 148
Bài tập 1: Hãy kể một câu chuyện mà em đã được đọc hay được nghe có
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
17
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
nhân vật là những đồ chơi của trẻ em.
Với đề bài này học sinh có thể kể những câu chuyện như “ Chú lính chì dũng
cảm-An-đéc –xen” ; “ Chú đất nung - Nguyễn Kiên ....”
Tóm lại: Các phân môn của Tiếng Việt tuy mỗi phân môn có nội dung
riêng, phương pháp riêng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau mà
luôn bổ sung cho nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học
những phân môn khác. Với phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành
tổng hợp của những phân môn khác, muốn học tốt Tập làm văn học sinh cần
học tốt các phân môn còn lại.
IV- HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC.
Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã nhận thấy vai trò và tầm quan
trọng của dạy môn Tập làm văn. Vì vậy tôi vận dụng linh hoạt ngay một số
biện pháp, hình thức dạy học theo hướng tích hợp các kiến thức liên quan với
nhau giữa các môn học. Thông qua dạy thử nghiệm theo hướng trên, tôi đã
thu được rất nhiều kết quả khả quan: học sinh tập hào hứng hơn, mạnh dạn
hơn, vốn từ của học sinh phong phú hơn câu văn giàu hình ảnh. Sau khi áp
dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp 4A tôi ra đề bài sau:
Đề bài: Tả một con vật lần đầu tiên em thấy trên hoạ báo hay trên truyền
hình phim ảnh (Tiếng Việt 4 trang 149)
Kết quả thu được như sau:
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Lớp Số học sinh
SL
TL
SL
TL
4A
20
20
100%
0
0%
Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả
sự lao động nỗ lực của cô và sự rèn luyện chăm chỉ của trò. Chất lượng học
văn của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài
văn gãy gọn, mạch lạc, các em đã biết viết văn miêu tả giàu hình ảnh, giàu
cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như:
Nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ…bài làm sinh động, cảm xúc chân
thật. Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của đối
tượng miêu tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn mẫu, không có bài
làm na ná như nhau. Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi, song trong giảng dạy
Tập làm văn thì kết quả như vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các biện
pháp trên mới chỉ được áp dụng khi dạy văn miêu tả lớp 4, nếu có thể thực
hiện từ khi dạy Tập làm văn miêu tả ở lớp 2, 3 thì tôi tin chắc rằng chất
lượng làm văn của các em sẽ khả quan hơn rất nhiều.
C- KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
18
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
I. KẾT LUẬN.
Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn bản
thân đã đúc kết những bài học kinh nghiệm sau: Đó là Giáo viên:
- Tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và nắm
chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần giúp các em hiểu rõ các
đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
- Luôn động viên, khen ngợi kịp thời các em học sinh yếu dù là tiến bộ nhỏ
nhất. Không áp đặt, không chê bai khi học sinh viết sai, viết thiếu ý hoặc
diễn đạt câu chưa đúng.
- Vì tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân môn
thuộc môn Tiếng Việt nên muốn dạy tập làm văn có chất lượng cần thiết phải
dạy tốt các phân môn còn lại.
- Giáo viên xác định được mục tiêu dạy học theo phương pháp mới, phát huy
được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học. Giáo viên
đóng đúng vai trò người tổ chức, hướng dẫn cho học sinh hoạt động. Luôn
động viên, khen ngợi kịp thời các em học sinh yếu dù là tiến bộ nhỏ nhất.
Không áp đặt, không chê bai khi học sinh viết sai, viết thiếu ý hoặc diễn đạt
câu chưa đúng.
- Xác định đúng đặc trưng bộ môn, vị trí, mục tiêu theo chuẩn kiến thức kỹ
năng.
- Hình thành phương pháp và kỹ năng quan sát gắn với từng kiểu bài để học
sinh có đủ ý. Sau đó giúp các em hình thành dàn ý chi tiết, mạch lạc, hợp lý
làm cơ sở cho học sinh viết đoạn, viết bài tốt.
- Cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, để khi thực hiện kế hoạch bài học
trên lớp giáo viên cần đọc cho học sinh nghe các câu văn, câu thơ có sử dụng
các biện pháp nghệ thuật, cung cấp cho các em những đoạn văn mẫu…giúp
các em mở rộng vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết và từ đó học tập vận dụng vào
bài làm của mình.
- Cần coi tiết trả bài như một khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp
theo. Trả bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học
sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót mắc phải trong bài viết để bài
viết sau sẽ hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn.
Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi
mới chương trình sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực
trong công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc nâng cao
chất lượng dạy học là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược
phát triển giáo dục. Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo
dục đó là đội ngũ giáo viên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên
phải không ngừng học hỏi, sáng tạo trong giảng dạy, đem hết khả năng và
niềm đam mê, lòng nhiệt tình cho công tác thì mới có được những kết quả
như mong muốn. Với việc dạy Tập làm văn, nhất là văn miêu tả lớp 4 thì
việc làm này càng cần thiết hơn bởi việc dạy Tập làm văn là rất khó, học sinh
lớp 4 tuy đã gần cuối cấp Tiểu học nhưng việc làm văn cũng mới dừng ở
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
19
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
mức độ "tập", nội dung chương trình lại hoàn toàn mới. Không phải ai sinh
ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn chương mà khả năng ấy phải
được bồi đắp dần qua năm tháng, qua trang sách và những bài giảng hàng
ngày của thầy cô. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học sinh thì chính mỗi
giáo viên phải định hướng, gợi mở cho các em phương pháp học tập như
những cây non được ươm trồng cần bàn tay con người chăm sóc, vun xới thì
nó sẽ trở nên tươi tốt. Với học sinh lớp 4, các em không thể vừa bắt tay vào
viết văn đã có được những dòng văn hay mà văn hay là kết quả của một quá
trình rèn luyện liên tục, bền bỉ, dẻo dai. Văn hay không thể có được ở những
học trò lơi là đèn sách. Với tinh thần đó, việc rèn kỹ năng làm văn vừa để
nhằm mục đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng cao ý thức tự rèn
luyện của học sinh. Đó chính là động lực thúc đẩy tôi hoàn thành bài tập
nghiên cứu khoa học này.
II. KIẾN NGHỊ.
Để giúp học sinh có thể viết văn miêu tả được tốt Giáo viên cần:
- Tích cực học tập, học hỏi để nâng cao trình độ tay nghề chịu khó sưu tầm,
nghiên cứu để tìm những hình thức tổ chức cũng như các biện pháp dạy học
phù hợp nhất với những tiết dạy.
- Kết hợp với phụ huynh để có biện pháp giáo dục các em một cách tốt nhất
giữa gia đình với nhà trường.
Trên đây là một số suy nghĩ tìm tòi của tôi trong quá trình dạy học sinh
thực hành tập làm văn. Do không có nhiều thời gian nghiên cứu và trình độ,
kinh nghiệm có hạn nên những vấn đề nêu trên không khỏi những sai sót. Rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Ban Giám hiệu, Hội
đồng khoa học các cấp để đề tài hoàn thiện hơn.
Tôi xin chânh thành cảm!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thọ Lộc, ngày 5 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
tôi viết, không sao chép nội dung
của người khác.
NGƯỚI VIẾT
Lê Thị Thanh
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
20
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
MỤC LỤC
Mục
A
1
2
3
4
B
I
II
III
Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Thực trạng vấn đề của sáng kiến kinh nghiệm.
Các giải pháp dạy môn Tập làm văn.
Biện pháp 1: Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của
học sinh để từ đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương
pháp phù hợp khi lên lớp.
Biện pháp 2: Tạo động cơ học văn miêu tả cho học sinh.
Biện pháp 3: Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản
của văn miêu tả.
Biện pháp 4: Giúp học sinh tăng cường vốn từ và biết cách dùng
từ đặt câu, sử dụng các biện pháp và giải pháp nghệ thuật khi
miêu tả là hết sức cần thiết.
Biện pháp 5: Giúp học sinh tích lũy vốn từ miêu tả và làm giàu trí
tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả.
Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và
kết bài
Biện pháp 7: Hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài văn.
Biện pháp 8: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài.
Biện pháp 9:Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài khi dạy tập làm văn
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
Trang
1
1
1
1
1
2
2
2
4
4
4
6
9
9
10
12
13
14
21
“Kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”
lớp 4.
Biện pháp10: Giúp học sinh học tốt các phân môn của môn
16
Tiếng Việt.
IV Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
18
dục.
C Kết luận và kiến nghị.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục 2015
2. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học Tập II. tác giả: GSTS Lê Phương Nga - Nguyễn Trí - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2005.
3. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - Tập I + II - Năm 2005 - Nhà xuất bản Giáo
dục.
4. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục- năm 2011
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2015 - 2016
22