Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Biện pháp để dạy tốt mục 4 “sao chép công thức” trong tiết 28 bài 5 thao tác với bảng tính (SGK tin học dành cho THCS – quyển 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.15 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------2
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:...............................................................2
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:......................................................3
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:..................................................3
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:.............................................3

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM------------------------3
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:.....................................................................3
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:............................4
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:............................5
IV. KẾT QUẢ:...........................................................................18

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ--------------------------------------------19
I. KẾT LUẬN:............................................................................19
II. KIẾN NGHỊ:..........................................................................20

TÀI LIỆU THAM KHẢO-----------------------------------------------21


A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Tôi nhận thức được rằng một trong những mục đích của việc dạy học là
làm cho học sinh nắm vững cơ sở khoa học một cách tự giác, tích cực, sáng tạo.
Học sinh càng được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động thì các phẩm
chất và năng lực càng sớm được hình thành và phát triển hoàn thiện. Tính năng
động và sáng tạo là những phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại, phải
được hình thành ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Mỗi môn học đều có đặc
trưng riêng, mỗi loại tiết học: tiếp nhận kiến thức (lý thuyết, bài tập, thực hành,
ôn tập tổng kết…) đều có đặc thù riêng nhưng cuối cùng đều phải đạt được mục


đích như đã nói ở trên.
Tin học là một môn khoa học công nghệ, từ những kiến thức thực tế được
áp dụng, sử dụng máy tính điện tử để có một kết quả đó là sản phẩm sau khi
thực hành. Để học sinh có thể áp dụng được kiến thức trong việc thực hành thì
người giáo viên phải có một giờ dạy lý thuyết tạo được hứng thú, hiểu bài sâu
sắc, hình thành được tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo, vận dụng linh hoạt cho
học sinh; điều đó đòi hỏi người giáo viên Tin học phải hết sức nỗ lực. Từ việc
tìm tòi tư liệu giảng dạy, thiết kế bài giảng tỉ mỉ, chu đáo, chuẩn bị đồ dùng trực
quan, sinh động… và đặc biệt người giáo viên phải làm chủ được kiến thức của
bài dạy, phải hiểu rõ bài dạy hôm nay là gì, có những nội dung gì cần truyền đạt
và có thể linh động “thêm”, “bớt” hoặc “thay đổi” ngôn từ hay cách trình bày
để học sinh dễ hiểu nhất và có thể vận dụng tốt ở các tiết thực hành. Ngoài ra
máy chiếu là một đồ dùng không thể thiếu trong bộ môn Tin học, đối với các bộ
môn khác có thể thay thế bằng các phương tiện như tranh phóng to, bằng bảng
phụ, bằng các bộ thí nghiệm… nhưng đối với Tin học thì bộ thí nghiệm đó chính
là máy tính và máy chiếu để học sinh quan sát và thực hành. Có nghĩa là để có
một giờ dạy lý thuyết Tin học đạt hiệu quả cao thì người giáo viên cần phải có
những đầu tư, thực sự tâm huyết với công việc của mình.
Từ thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi đã rút ra những kinh nghiệm áp dụng
có hiệu quả vào giảng dạy mục 4 “Sao chép công thức” trong tiết 28 bài 5: Thao
tác với bảng tính. Đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài: Biện pháp để dạy tốt
2


mục 4 “Sao chép công thức” trong tiết 28 bài 5: Thao tác với bảng tính (SGK
Tin học dành cho THCS – Quyển 2).
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

- Đề ra các biện pháp về sao chép các ô có công thức chứa địa chỉ để học
sinh có thể dễ dàng hiểu được mục đích của việc sao chép công thức và sự tiện

lợi của chúng khi áp dụng vào thực hành.
- Hướng dẫn học sinh để các em hiểu và nắm cách làm một cách nhanh
nhất và hiệu quả nhất.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

- Học sinh khối 7 trường THCS Xuân Sơn gồm 2 lớp 7A và 7B.
- SGK Tin học 7 (SGK Tin học dành cho THCS – Quyển 2): Tái bản lần
thứ bảy, tám (sách mới) và tái bản lần thứ sáu trở về trước (sách cũ), mục “sao
chép công thức” trong bài 5: Thao tác với bảng tính.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

- Giáo viên nghiên cứu SGK Tin học 7 và các tài liệu khác có liên quan.
- Học hỏi phương pháp giảng dạy của đồng nghiệp và rút ra phương pháp
phù hợp cho bản thân.
- Vấn đáp, kiểm tra chất lượng học sinh sau giờ học.
- Vận dụng để làm các bài tập, kiểm tra và vận dụng kiểm nghiệm thực tế
khi thực hành.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:

Như tôi đã trình bày ở trên, giáo viên phải biết tích lũy kiến thức, kết hợp
tốt các phương pháp, sử dụng triệt để các phương tiện phù hợp để đem lại kết
quả tốt nhất trong việc dạy và học. Đó còn là một cách giúp học sinh tiếp cận
kiến thức phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và linh hoạt; điều đó còn thể
hiện được cái “tâm” của người giáo viên trong sự nghiệp giáo dục trồng người.
Việc thực hiện bài giảng một cách công phu, khoa học, bằng các dẫn
chứng sống động, cụ thể, dễ hiểu và thiết thực là một điều không phải dễ dàng
đối với nhiều giáo viên. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời
gian chuẩn bị trong khi số tiết của mỗi giáo viên trong tuần là khá lớn, các công
việc khác nhiều.


3


Để thực hiện được điều đó trước tiên giáo viên phải làm chủ nội dung
giảng dạy, xác định đúng mục tiêu của bài, từ đó có kế hoạch sửa đổi (nếu có) tất nhiên phải đảm bảo nội dung kiến thức của bài dạy và không làm thay đổi
hay lệch lạc nội dung kiến thức của bài - Bằng cách thay đổi ngôn từ, cách thực
hiện để học sinh dễ hiểu, nắm bắt bài nhanh chóng và áp dụng linh hoạt vào để
làm bài tập và áp dụng vào các bài thực hành. Với bộ môn Tin học học sinh
không chỉ hiểu lí thuyết mang máng mà phải hiểu sâu, hiểu rõ để có thể vận
dụng vào thực hành và biết được mục tiêu, mục đích của nội dung mà mình học.
Vì vậy, người giáo viên phải có cách truyền đạt cho học sinh dễ hiểu nhất chứ
không nhất thiết thực hiện theo cách ở SGK; cũng có thể “thêm”, “bớt”, hay “cải
tiến” nội dung để bài học tường minh và dễ hiểu, dễ làm. Làm được điều này
đòi hỏi người giáo viên phải có niềm đam mê thực sự với công việc, sự sáng tạo,
nhạy bén và thực sự yêu nghề; nhưng trong thực tế không phải giáo viên nào
cũng làm được điều này, một phần do thời gian chuẩn bị bài của giáo viên quá
nhiều, mặt khác một phần do một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề
nên bài dạy còn rườm rà, mang tính áp đặt, không có sự cải tiến, đổi mới nên
chất lượng giờ dạy chưa cao.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:

1. Thực trạng của học sinh:
- Ở lứa tuổi THCS, cơ thể các em đang ở tuổi dậy thì, đang trong thời kì
phát triển tâm sinh lí nên nhiều em chưa có ý thức vươn lên trong học tập, không
tập trung cao độ trong các giờ học. Vì thế các em chỉ học được những gì cơ bản
nhất chứ chưa có sự đầu tư, tìm tòi tri thức mới, chưa thực sự “hiểu” và “cảm”
được nội dung bài. Nếu phương pháp dạy học của giáo viên đơn điệu không hấp
dẫn sẽ tạo ra sức ỳ lớn cho học sinh.
- Có rất nhiều học sinh cho rằng đây là môn học phụ không cần đầu tư

học nhiều, chỉ cần giỏi Toán, Ngữ văn là đủ; nhiều cha mẹ cho rằng phân môn
học này không cần thiết nên thiếu sự quan tâm đôn đốc. Chính vì thế mà chất
lượng học chưa cao.
2. Thực trạng của giáo viên.
- Giáo viên chưa được thường xuyên tham gia các hội thảo góp phần vào
việc rèn luyện kỹ năng đổi mới phương pháp dạy học.
- Lượng kiến thức truyền thụ cho học sinh nhiều và còn mới. Rất nhiều
giáo viên cũng đã có sự đầu tư, chú ý đến bài giảng điện tử (trình chiếu trên máy
chiếu) nhưng chưa thực sự có sự “cải tiến”, bài giảng trình bày rườm rà và đôi
khi là việc lạm dụng máy chiếu… Chính vì thế mà chất lượng dạy và học chưa
4


cao, chưa thực sự phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, học sinh
chưa có sự sáng tạo trong công việc và đặc biệt là việc vận dụng kiến thức lí
thuyết vào tiết thực hành - có nghĩa là tiêu chí “áp dụng” của học sinh chưa đạt
hiệu quả cao.
3. Nguyên nhân:
- Học sinh THCS là lứa tuổi ham vui ham chơi. Các em chưa biết lo vào
việc học, lười suy nghĩ, chưa có sự đầu tư trong công việc.
- Nhà trường chưa có một phòng máy tính đầy đủ và kết hợp với máy
chiếu cho giáo viên tin học để giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh vận
dụng lí thuyết vào thực hành một cách có hiệu quả nhất.
- Điều kiện kinh tế của địa phương nơi tôi đang giảng dạy còn rất nhiều
khó khăn, các gia đình học sinh hầu như chưa có máy tính tại nhà; cho nên
những gì các em học được và làm được chủ yếu là ở trường.
- Chính vì những vấn đề đã nêu trên mà tôi nhận thấy rằng chất lượng học
tập của học sinh đối với bộ môn tin học của nhà trường đạt kết quả chưa cao.
Học sinh chưa vận dụng lí thuyết vào thực hành một cách có hiệu quả, nhiều em
làm được nhưng chỉ mang máng hiểu chứ chưa hiểu sâu, hiểu rõ được vấn đề.

- Dưới đây là kết quả thu được sau khi khảo sát từ học sinh lớp 7A, 7B
trường THCS nơi tôi đang công tác khi chưa áp dụng sáng kiến này vào giảng
dạy sau khi học xong mục 4: “Sao chép công thức” trong bài 5: Thao tác với
bảng tính (SGK Tin học dành cho THCS - Quyển 2):
Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu - kém

%

SL

%

SL

%

9

27,3

17

51,5


4

12,1

7

22,6

16

51,6

6

19,4

Lớp

Số
HS

SL

%

SL

7A

33


3

9,1

7B

31

2

6,5

Từ những thực trạng trên trong năm học 2015-2016 này tôi đã áp dụng
sáng kiến vào giảng dạy đối với lớp 7B (lớp có chất lượng yếu kém nhiều hơn so
với lớp 7A) như tôi sẽ trình bày ở dưới đây.
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

1. Tìm hiểu nội dung và mục tiêu của mục cần dạy, có kế hoạch
“thêm”, “bớt”, “sửa đổi” các ngôn từ khó hiểu hoặc “cơ cấu” các phần trong
bài.
5


* Mục tiêu của phần “Sao chép công thức” trong bài 5: Thao tác với
bảng tính là:
- Học sinh thực hiện được thao tác sao chép và di chuyển nội dung các ô
tính có chứa công thức.
- Hiểu được quan hệ về vị trí tương đối giữa ô nguồn và ô đích, giữa địa
chỉ trong công thức ở ô nguồn và địa chỉ trong công thức ở ô đích sau khi sao

chép và di chuyển vào.
- Vận dụng vào tiết thực hành và hiểu được kết quả trả về sau khi làm bài
tập thực hành một cách có hiệu quả.
* Mục 4 “Sao chép công thức” gồm 2 nội dung chính:
(1) Sao chép nội dung các ô có công thức.
(2) Di chuyển nội dung các ô có công thức.
Trong từng nội dung giáo viên nêu rõ cho học sinh có ba nhiệm vụ cần
thực hiện (căn cứ vào mục tiêu) đó là:
- Biết cách thực hiện thao tác sao chép (hoặc di chuyển) nội dung các ô có
công thức.
- Biết cách xác định địa chỉ trong công thức ở ô đích (sau khi được sao
chép hoặc di chuyển công thức chứa địa chỉ từ ô nguồn vào) thay đổi như thế
nào so với địa chỉ trong công thức ở ô nguồn.
- Biết áp dụng nội dung đã học vào thực hành có hiệu quả.
(1) Sao chép nội dung các ô có công thức:
* Đối với thao tác thực hiện sao chép nội dung các ô có công thức, giáo
viên có thể chỉ ra cho học sinh thực hiện bằng hai cách:
+ Cách 1: Sử dụng các nút lệnh Copy
và Paste
để sao chép (làm
tương tự như cách sao chép nội dung ô tính đã học ở mục 3 “Sao chép và di
chuyển dữ liệu” trong cùng bài). Phần này giáo viên chỉ cần nói qua vì đã học ở
trên.
+ Cách 2: Sử dụng chuột để sao chép (nếu các ô trong khối đích nằm ở
cùng cột hoặc cùng hàng với ô nguồn) bằng cách:
Nháy chuột vào ô có công thức cần sao chép (ô nguồn có công thức
chứa địa chỉ ô).
Đưa trỏ chuột xuống góc dưới phía bên phải của ô đó, khi trỏ chuột
biến thành dấu cộng mảnh (+) rồi kéo thả chuột xuống dưới hoặc sang bên phải
so với ô nguồn.

6


Khi giáo viên đưa ra cách 2 để học sinh thực hành, các em sẽ thấy sự
thuận tiện rất nhiều khi sao chép các ô có nội dung chứa công thức bằng cách
thứ 2 này vì nếu đã sao chép công thức thì các ô đích thường nằm trên cùng
hàng hoặc cùng cột so với ô nguồn, ta sẽ thấy thao tác này thực hiện nhanh hơn
rất nhiều.
* Đối với cách xác định địa chỉ ô tính trong công thức ở ô đích sau khi
sao chép công thức (công thức sẽ điều chỉnh như thế nào nếu sao chép các ô có
công thức chứa địa chỉ từ ô nguồn và ô đích).
- Phần này là một phần khó nhất trong bài, học sinh rất khó hình dung và
khó hiểu khi đọc sách giáo khoa, đòi hỏi người giáo viên phải có một cách “giải
thích” tường minh nhất, cách “dạy” dễ hiểu nhất cho học sinh. Mặt khác, khi
làm việc với chương trình bảng tính thì thao tác “sao chép công thức” là không
thể thiếu đối với người dùng (Ví dụ: Khi tính điểm trung bình cho học sinh khối
7 có một kiểu công thức được lặp đi lặp lại để tính cho tất cả các học sinh trong
khối, nếu ta không sao chép công thức mà gõ đi gõ lại công thức sẽ rất mất thời
gian). Vì vậy để thực hiện thao tác sao chép công thức một cách có hiệu quả thì
học sinh không chỉ biết cách làm mà còn phải hiểu được “bản chất” của nó để áp
dụng cho phù hợp: Khi nào thì sao chép? sao chép vào vị trí nào? Vì sao có lúc
ta sao chép kết quả lại không được như ý muốn?... đây là những câu hỏi được
đặt ra khi thực hành. Nếu học sinh không hiểu được vấn đề thì dẫn đến việc học
của học sinh chưa đạt yêu cầu.
- Ta xét ví dụ trong sách giáo khoa:
+ Ví dụ 1 (Ví dụ SGK):
Cho trang tính như hình dưới đây, trong ô C6 có công thức: =A3+50 (1)
-> kết quả trong ô C6 là 250

7



Nếu sao chép nội dung ô C6 vào ô D4, kết quả trong ô đích D4 là 150
Nháy chuột tại ô D4, ta thấy trong ô đó có công thức: =B1+50

(2)

Vậy, sau khi sao chép từ ô C6 vào ô D4, địa chỉ ô trong công thức đã thay đổi từ
A3 thành B1

Đối chiếu với cách giải thích ở sách giáo khoa (sách mới - tái bản lần thứ
bảy, tám), xét bảng quan hệ giữa ô chứa công thức và ô có địa chỉ trong công thức:
Ô chứa công
thức

Ô có địa chỉ
trong công thức

Quan hệ giữa chúng

C6

A3

Ô A3 nằm bên trái ô C6 hai cột, phía trên ô
C6 ba hàng

D4

B1


Ô B1 nằm bên trái ô D4 hai cột, phía trên ô
C6 ba hàng

8


-> vị trí tương đối của ô C6 so với ô A3 trong công thức (1) và vị trí tương
đối của ô D4 so với ô B1 trong công thức (2) là như nhau.
Khi dạy đến phần này hầu hết học sinh đều thắc mắc rằng “ô chứa công
thức” và “ô có địa trong công thức” là như thế nào? Nếu giáo viên không có
cách giải thích “phù hợp” thì học sinh rất khó “hiểu” và “cảm” được phần này.
Điều tôi muốn nói ở đây cách giải thích “phù hợp” không có nghĩa là kiến thức
của người giáo viên phải cao, người giáo viên đó phải thật giỏi mà là người giáo
viên đó phải có những ngôn từ, cách giải thích “gần gũi” với học sinh, gợi ý cho
học sinh một cách học dễ hiểu nhất. Thay vào đó tôi gọi ô ban đầu chứa công
thức là ô nguồn, ô được sao chép công thức vào là ô đích; địa chỉ trong công
thức ở ô nguồn và địa chỉ trong công thức ở ô đích. Dưới đây là cách “giải
thích” của tôi để làm cho học sinh hiểu được địa chỉ ô trong công thức đã thay
đổi như thế nào khi sao chép công thức từ ô nguồn vào ô đích, cách xác định địa
chỉ trong công thức ở ô đích ra sao?
-> ta xét bảng quan hệ giữa ô nguồn và ô đích và địa chỉ trong công thức
ở ô nguồn và địa chỉ trong công thức ở ô đích như sau:
Ô nguồn

Ô đích

C6

D4


Địa chỉ trong công Địa chỉ trong công
thức ở ô nguồn
thức ở ô đích
A3

B1

Quan hệ giữa địa chỉ ô đích và địa
chỉ ô nguồn:

Quan hệ giữa địa chỉ trong công thức
ở ô đích và địa chỉ trong công thức ở
ô nguồn:

Ô D4 nằm bên phải ô C6 một cột, phía
trên ô C6 hai hàng.

Ô B1 nằm bên phải ô A3 một cột, phía
trên ô A3 hai hàng.

Ta thấy rằng quan hệ giữa địa chỉ ô đích với địa chỉ ô nguồn và địa chỉ
trong công thức ở ô đích với địa chỉ trong công thức ở ô nguồn là như nhau (đều
nằm bên phải một cột và nằm phía trên hai hàng).
Từ ví dụ trên ta thấy: Tại ô nguồn C6 chứa công thức = A3+50
Ta viết:
-> ô đích

C6 = A3+50


(1)

D4 = ? (xác định địa chỉ trong công thức thay đổi ở đây?)
9


Ta gọi : Nếu địa chỉ ô đích có số cột nằm bên phải so với số cột của địa chỉ ô
nguồn thì cộng, ngược lại nếu số cột của địa chỉ ô đích nằm bên trái số cột của
địa chỉ ô nguồn thì trừ đi. Tương tự như thế nếu địa chỉ ô đích có số hàng nằm
bên dưới so với số hàng của địa chỉ ô nguồn thì cộng vào, nếu nằm bên trên so
với địa chỉ ô nguồn thì trừ đi.
Ở ví dụ trên, ô D4 nằm bên phải ô C6 một cột nên số cột cộng 1, nằm bên trên ô
C6 hai hàng nên số hàng trừ đi 2. Ta đi tìm công thức như sau:
C6
+1 -2
D4

=
A3
+1 -2
=

B1

+ 50
+ 50

Như vậy sau khi sao chép ô C6 = A3 + 50 vào ô D4, tại ô D4 công thức
thay đổi là:
D4 = B1 + 50

(2)
Giáo viên lưu ý cho học sinh : Khi sao chép nội dung các ô có công thức
chứa địa chỉ thì địa chỉ ô tính trong công thức sẽ được thay đổi, còn các phép
toán và các số cụ thể trong công thức vẫn giữ nguyên.
- Ta xét các ví dụ khác :
+ Ví dụ 2 (Bài tập 3a – SGK) : Trong ô E10 có công thức =A1+B3.
Công thức sẽ được điều chỉnh như thế nào nếu : Sao chép ô E10 vào ô G12
Ở đây tôi hướng dẫn học sinh lập bảng phân tích bài toán bằng hai cách
để so sánh:
Cách 1: Bản thân đã áp dụng
Ô nguồn

E10 = A1 + B3

Cách 2: Thực hiện theo SGK

Ô có địa chỉ
Địa chỉ trong Ô chứa công thức
trong
công thức
công thức
E10 = A1 + B3
ở ô nguồn
Ô chứa công thức

Ô đích

G12 = ?

Xác định địa chỉ

trong công thức
ở ô đích?

G12 = ?

Xác định ô có địa chỉ
trong công thức?...

Rõ ràng nhìn vào bảng phân tích trên ta thấy ở cách 1 tường minh và dễ
hiểu hơn rất nhiều so với cách 2 (trừu tượng và khó phân biệt, không rõ ràng cái
ta cần xác định).
Bây giờ ta xác định công thức được điều chỉnh ở ô đích. Lập bảng so sánh
hai kết quả của bước đi tìm công thức ở ô đích như sau :
10


Cách 1 : Bản thân đã áp dụng
E10
+2

=

A1

+2 +2 +2
G12

=

C3


+

Cách 2 : Thực hiện theo SGK
-9

B3

-4

+2 +2
+

E10 = A1 + B3
-3

D5

-7
-9
-4

Công thức cần tìm

G12 = C3 + D5
-3
-7

Công thức cần tìm
Ta thấy để đi tìm công thức được điều chỉnh sau khi sao chép từ ô nguồn

vào ô đích thì bằng cả hai cách tìm ở trên đều cho kết quả là như nhau, nhưng rõ
ràng ở cách 1 ta đi tìm dễ dàng và nhanh hơn rất nhiều. Học sinh sẽ dễ nắm bắt
và thực hiện đối với bài khác một cách nhanh chóng.
Từ đây giáo viên có thể rút ra kết luận như SGK (SGK Tin học dành cho
THCS quyển 2 cũ, tái bản lần thứ sáu trở về trước) như sau: “Khi sao chép một
ô có nội dung là công thức chứa địa chỉ, các địa chỉ được điều chỉnh để giữ
nguyên quan hệ tương đối về vị trí so với ô đích”. Ở đây ta có thể giải thích cho
học sinh hiểu: Có nghĩa là vị trí tương đối giữa địa chỉ trong ô nguồn so với ô
đích như thế nào thì vị trí tương đối giữa địa chỉ trong công thức của ô nguồn
so với địa chỉ trong công thức của ô đích cũng như thế.
+ Ví dụ 3: Giả sử trong ô F12 có công thức =B5+C8. Công thức sẽ
được điều chỉnh như thế nào nếu: Sao chép ô F12 vào ô G12.
Ta lập bảng phân tích bài toán như sau:
Ô nguồn

F12 = B5 + C8
Ô đích

G12 = ?

Địa chỉ trong
công thức
ở ô nguồn.

Xác định địa chỉ
trong công thức
ở ô đích?

Ta lập bảng các bước tìm công thức bằng hai cách để so sánh như sau:
11



Cách 1 : Bản thân đã áp dụng
F12
+1

=

B5

+

+0 +1 +0
G12

=

C5

Cách 2 : Thực hiện theo SGK
-7
-4

C8

F12 = B5 + C8
-3

+1 +0
+


-4

D8
-7
-4

Công thức cần tìm

G12 = C5 + D8
-3
-4

Công thức cần tìm
-> Qua các ví dụ trên ta thấy rõ ràng rằng để đi tìm công thức được điều chỉnh
sau khi sao chép thì ta thực hiện ở cách 1 dễ dàng hơn rất nhiều so với việc thực
hiện ở cách thứ 2. Bởi vì mục đích của việc sao chép công thức là giúp cho việc
tính toán nhanh mà không cần phải nhập đi nhập lại công thức đã được lập sẵn,
việc nhập đó nếu thực hiện hàng trăm lần sẽ rất mất thời gian mà thay vào đó là
ta sao chép công thức. Vậy để học sinh sao chép các ô có công thức có hiệu quả
thì học sinh phải hiểu được bản chất của vấn đề. Thông thường dữ liệu là thông
tin ta nhập vào các ô nằm ở bên trái và bên trên các ô chứa công thức mà ta lập,
khi sao chép thông thường ta cũng sao chép vào ô đích là các ô nằm bên dưới và
bên phải so với ô nguồn. Vì vậy việc xác định vị trí tương đối (khoảng cách)
giữa số cột và số hàng của ô đích so với ô nguồn được cộng vào sẽ dế dàng hơn
rất nhiều so với việc xác định vị trí này phải trừ lùi đi, nhất là việc trừ lùi cho
nhiều cột. Ở ví dụ 2 và ví dụ 3 ta thấy rất rõ điều này. Điều đó được thể hiện rõ
hơn qua ví dụ sau:
+ Ví dụ 4: Giả sử trong ô G3 có công thức =A3+B3. Công thức sẽ
được điều chỉnh như thế nào nếu: Sao chép ô G3 vào ô I4.

Ta lập bảng phân tích bài toán như sau:
Ô nguồn

G3 = A3 + B3
Ô đích

I4 = ?

Địa chỉ trong
công thức
ở ô nguồn

Xác định địa chỉ trong
công thức ở ô đích?

Ta lập bảng các bước tìm công thức bằng hai cách để so sánh như sau:
12


Cách 1 : Bản thân đã áp dụng
G3
+2

=

A3

+

+1 +2 +1

I4

=

C4

Cách 2 : Thực hiện theo SGK
+0
-6

B3

G3 = A3 + B3
-5

+2 +1
+

+0

D4
+0
-6

Công thức cần tìm

I4

= C4 + D4
-5

+0

Công thức cần tìm
=> Ở ví dụ 4 này, qua hai cách phân tích ở trên ta thấy ở cách 2 việc trừ
lùi đi 5,6 cột không phải là một việc làm dễ dàng, học sinh phải mất một khoảng
thời gian mới xác định được -> việc đi tìm công thức điều chỉnh sau khi sao
chép là rất khó khăn. Còn ở cách 1 học sinh có thể tính nhẩm cho công thức cần
tìm một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Giáo viên còn cần đưa ra ví dụ về việc đi tìm công thức nhưng bị lỗi
(không tìm được công thức ở ô đích), ta xét ví dụ 5 như sau:
+ Ví dụ 5 (bài tập 3c – SGK): Giả sử trong ô E10 có công thức
=A1+B3. Công thức sẽ được điều chỉnh như thế nào nếu: Sao chép ô E10
vào ô E3.
Ta lập bảng phân tích bài toán như sau:
Ô nguồn

E10 = A1 + B3
Ô đích

Địa chỉ trong
công thức
ở ô nguồn

Xác định địa chỉ trong
công thức ở ô đích?

E3 = ?

Ta lập bảng các bước tìm công thức bằng cách như sau:
E10

+0 -7
E3

= A1
+0 -7
=

A

+ B3
+0 -7
+

B

Không tìm được công thức

13


-> ta thấy ở trên không tìm được công thức do không xác định được địa
chỉ ô vì khi xác định chỉ số hàng (1 - 7 = -6) là số âm (không có ô tính có địa chỉ
mà chỉ số hàng là số âm) -> Giáo viên có thể cho học sinh nêu kết luận ở đây là
công thức bị lỗi sau khi sao chép công thức ở ô E10 vào ô E3.
Lưu ý học sinh: Việc chèn thêm hay xóa hàng hoặc cột làm thay đổi địa
chỉ của các ô tính. Khi đó địa chỉ ô tính trong công thức sẽ được điều chỉnh thích
hợp để công thức vẫn đúng.
(2) Di chuyển nội dung các ô có công thức:
* Đối với thao tác thực hiện di chuyển nội dung các ô có công thức,
giáo viên có thể chỉ ra cho học sinh cách thực hiện như sau:

Sử dụng các nút lệnh Cut và Paste
để di chuyển (làm tương tự như
cách di chuyển nội dung ô tính đã học ở mục 3 “Sao chép và di chuyển dữ liệu”
trong cùng bài).
Lưu ý học sinh: Khi di chuyển nội dung các ô có công thức thì các địa chỉ
trong công thức không bị điều chỉnh (nghĩa là công thức vẫn được giữ nguyên
sau khi di chuyển công thức từ vị trí này đến vị trí khác).
* Đối với cách xác định địa chỉ ô tính trong công thức ở ô đích sau khi
di chuyển công thức (công thức sẽ điều chỉnh như thế nào nếu di chuyển các ô
có công thức chứa địa chỉ từ ô nguồn và ô đích).
Xét ví dụ minh họa cho nội dung này:
+ Ví dụ 6 (Bài tập 3d - SGK): Trong ô E10 có công thức =A1+B3.
Công thức sẽ được điều chỉnh như thế nào nếu: Di chuyển ô E10 sang ô
G12.
Dựa vào lí thuyết phần này (công thức vẫn giữ nguyên sau khi di chuyển)
ta không cần xác định công thức mà có thể trả lời luôn là ô G12 sẽ chứa công
thức là =A1+B3 hay học sinh có thể viết:
G12=A1+B3.
Tóm lại: Sau khi học xong mục 4 “Sao chép công thức” học sinh không
phải chỉ biết thao tác thực hiện trên máy tính mà phải hiểu và xác định được
công thức được điều chỉnh như thế nào nếu sao chép hoặc di chuyển nội dung ô
tính có công thức chứa địa chỉ ngay cả khi học sinh không có máy tính để thực
hành tại nhà. Các em cũng có thể áp dụng vào thực hành một cách thành thạo dù
chỉ là giờ thực hành ít ỏi trên lớp.
2. Áp dụng nội dung đã học vào thực hành.
14


Nhiệm vụ của môn học này là học sinh phải hiểu và áp dụng lí thuyết vào
thực hành một cách thành thạo, phải hiểu được cũng một thao tác thực hành vì

sao lúc này cho kết quả này, lúc khác cho kết quả khác, có lúc lại bị lỗi?... Điểu
này đòi hỏi người học sinh phải hiểu bài sâu sắc chứ không thể mang máng hay
làm mà không hiểu vấn đề. Áp dụng kiến thức đã học ở trên (sao chép công
thức) vào thực hành học sinh phải hiểu được vì sao sau khi sao chép công thức
vào các vị trí ô đích khác nhau có lúc báo lỗi #REF!, có lúc báo lỗi #VALUE!,
có lúc kết quả là 0 và có lúc lại cho kết quả đúng. Điều này chính là việc học
sinh phải hiểu được “bản chất” của việc sao chép công thức chứa địa chỉ và
công thức thay đổi như thế nào sau khi sao chép. Giáo viên có thể cho học sinh
làm bài tập áp dụng để thấy được điều đó. Sau đây là các bài tập áp dụng cho
học sinh:
Bài tập 1: Cho bảng tính như hình dưới đây:

Tại ô D5 chứa công thức = B5+C5. Em hãy cho biết vì sao ta sao chép ô
D5 vào các ô D6, D7, D8, D9 cho kết quả đúng và vì sao sao chép ô D5 vào ô
A1 cho kết quả là #REF!, sao chép ô D5 vào ô F3 cho kết quả là 0 và sao chép ô
D5 vào ô E4 cho kết quả là #VALUE! ? (như hình trên).
Để trả lời được các câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải biết kết hợp các kiến
thức đã học để trả lời cho câu hỏi trên.
- Sao chép ô D5 vào các ô D6, D7, D8, D9. Áp dụng kiến thức đã học ở
trên, học sinh có thể dễ dàng xác định được công thức thay đổi sau khi sao chép
ô D5 vào các ô D6, D7, D8, D9 là:
+ Sao chép ô D5 vào ô D6, công thức ở ô D6 là: =B6+C6 (=8+5=13 ->
cho kết quả đúng)
15


+ Sao chép ô D5 vào ô D7, công thức ở ô D7 là: =B7+C7 (=8+4=12 ->
cho kết quả đúng)
+ Sao chép ô D5 vào ô D8, công thức ở ô D8 là: =B8+C8 (=10+5=15 ->
cho kết quả đúng)

+ Sao chép ô D5 vào ô D9, công thức ở ô D9 là: =B9+C9 (=10+6=16 ->
cho kết quả đúng)
- Sao chép ô D5 vào ô A1, tại ô A1 báo lỗi #REF! vì theo phân tích trên ta thấy:
D5
-3
-4
A1

=
-3

B5
-4

+ C5
-3 -4

=

Ta thấy không tìm được công thức ở ô A1 do không có ô nào nằm trước cột B và
trước cột C ba cột -> lỗi địa chỉ ô. Vậy máy báo lỗi #REF! (lỗi địa chỉ ô)
- Sao chép ô D5 vào ô F3, tại ô F3 cho kết quả là 0 vì theo phân tích trên
ta thấy:
D5
+2

-2
F3

=


B5

+2 -2
=

D3

+

C5

+2 -2
+

E3

Công thức tìm được ở ô F3 là: =D3+E3. Mà tại ô D3 và ô E3 không nhập dữ
liệu -> máy mặc định các ô này chứa giá trị là 0 nên kết quả của phép cộng
=D3+E3=0
- Sao chép ô D5 vào ô E4, tại ô E4 cho kết quả là #VALUE! vì theo phân
tích trên ta thấy:
D5
+1

-1
E4

=


B5

+1 -1
=

C4

+

C5
-1

+1
+ D4

Công thức tìm được ở ô E4 là: =C4+D4. Mà tại ô C4 và ô D4 chứa dữ liệu là
kí tự nên máy báo lỗi #VALUE! (lỗi giá trị tính toán).
Bài tập 2: Cho bảng tính như hình dưới đây:

16


Lập công thức tính “ĐTB” và “ĐTB các môn học” cho các bạn học
sinh lớp 7A như hình trên.
Đối với bài tập 2 này học sinh thấy rất rõ tầm quan trọng và ứng dụng của
việc “Sao chép công thức” vào thực hành. Nếu không “Sao chép công thức” thì sẽ
phải mất một khoảng thời gian rất dài để đi nhập công thức tính (nhất là khi danh
sách lớp ở đây lên đến 40 -> 50 em); nếu như vậy thì việc áp dụng chương trình bảng
tính để tính toán nhanh lại không đạt hiệu quả.
Nhìn vào bảng tính trên ta thấy, áp dụng công thức đã được học ở bài 4, học sinh

lập được hàm tính ĐTB cho bạn thứ nhất tại ô L4 như sau: =AVERAGE(C4:K4)
Để tính ĐTB cho bạn thứ 2 trở đi ta tính tương tự nên có thể sao chép
công thức ở ô L4 và các ô L5, L6, L7, L8, L9, L10, L11, L12, L13 và công
thức ở các ô này sau khi sao chép sẽ lần lượt là:
L5 =AVERAGE(C5:K5)
L10 =AVERAGE(C10:K10)
L6 =AVERAGE(C6:K6)
L11 =AVERAGE(C11:K11)
L7 =AVERAGE(C7:K7)
L12 =AVERAGE(C12:K12)
L8 =AVERAGE(C8:K8)
L13 =AVERAGE(C13:K13)
L9 =AVERAGE(C9:K9)
-> Sau khi sao chép công thức thì địa chỉ trong công thức đã thay đổi
nhưng lại đúng với công thức cần tính ĐTB cho các bạn học sinh trong lớp.
Tương tự như trên học sinh cần lập công thức tính ĐTB các môn học bằng
cách lập công thức tính ĐTB của môn Toán, sau đó sao chép để tính cho các môn
còn lại. Tại ô C14 công thức tính ĐTB môn Toán là: =AVERAGE(C4:C13)
17


Sao chép ô C14 vào các ô D14, E14, F14, G14, H14, I14, J14, K14, công
thức ở các ô này sẽ là:
D14 =AVERAGE(D4:D13)
H14 =AVERAGE(H4:H13)
E14 =AVERAGE(E4:E13)
I14 =AVERAGE(I4:I13)
F14 =AVERAGE(F4:F13)
J14 =AVERAGE(J4:J13)
G14 =AVERAGE(G4:G13)

K14 =AVERAGE(K4:K13)
Như vậy: Sau khi làm thực hành hai bài tập trên học sinh đã có thể nắm
được kiến thức một cách chủ động, linh hoạt và áp dụng kiến thức này để làm
các bài tập khác và thực hành một cách thành thạo và có hiệu quả cao.
IV. KẾT QUẢ:

Tôi đã sử dụng đề tài này vào giảng dạy tại lớp 7B trường THCS nơi tôi đang
công tác và nhận thấy:
- Tạo được sự hứng thú, tích cực, chủ động cho học sinh trong tiết học. Không
còn tình trạng học sinh lười suy nghĩ, không chú ý bài, các em giơ tay phát biểu ý
kiến xây dựng bài nhiều hơn, tiếp thu bài học và kiến thức nhanh hơn.
- Đa số các em hiểu bài và áp dụng tốt kiến thức lí thuyết vào các tiết thực
hành, các em không còn lúng túng khi phải xử lí các thao tác trong giờ thực hành.
- Bên cạnh đó, sau khi áp dụng sáng kiến này vào dạy mục 4 “Sao chép
công thức” trong tiết 28 bài 5: Thao tác với bảng tính (SGK Tin học dành cho
THCS – Quyển 2) đối với lớp 7B (lớp ban đầu có chất lượng thấp hơn) và so
sánh với lớp 7A (lớp ban đầu có chất lượng cao hơn nhưng dạy theo phương
pháp SGK) đã cho thấy chất lượng đại trà, chất lượng học tập của lớp 7B đã
được nâng lên và đồng đều hơn, không còn học sinh kém. Cụ thể được minh
chứng ở các bảng dưới đây:
+ Bảng 1: Lớp 7A – Chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Số
H
S

Giỏi

Khá

Trung bình


Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

Kết quả
khảo sát
ban đầu

33

3

9,1

9


27,3

17

51,5

4

12,1

Kết quả sau
khi học.

33

3

9,1

10

30,3

17

51,5

3


9,1

Qua bảng 1 ta thấy chất lượng của lớp 7A (không áp dụng sáng kiến vào
giảng dạy) không được cải thiện nhiều so với khảo sát ban đầu. Kết quả xếp loại
18


khá giỏi không được tăng lên đáng kể (loại giỏi không tăng; loại khá tăng từ
27,3% lên 30,3%; loại yếu chỉ giảm từ 12,1% xuống 9,1%).
+ Bảng 2: Lớp 7B – Áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Số
H
S

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%


SL

%

SL

%

Kết quả
khảo sát
ban đầu

31

2

6,5

7

22,6

16

51,6

6

19,4


Kết quả sau
khi học.

31

5

16,1

10

32,3

15

48,4

1

3,2

Qua bảng 2 ta thấy chất lượng của lớp 7B (sau khi áp dụng sáng kiến này
vào giảng dạy) đã được tăng lên rất nhiều. Kết quả xếp loại khá giỏi được tăng
lên (loại giỏi tăng từ 6,5% lên 16,1%; loại khá tăng từ 22,6% lên 32,3%; loại
yếu giảm từ 19,4% xuống còn 3,2%).
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:

Qua quá trình dạy môn tin học ở cấp THCS với đề tài trên. Việc tìm hiểu
nghiên cứu các nội dung bài học ở SGK đôi khi áp dụng vào thực hành, nhiều

thao tác tuy là đơn giản nhưng học sinh chưa làm được, còn nhiều lúng túng.
Như vậy, người giáo viên cần phải biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề (áp dụng
kiến thức lí thuyết vào thực hành thì điều gì sẽ xảy ra và cách khắc phục như thế
nào?) để tạo sự hứng thú trong học tập của học sinh, làm cho học sinh dễ hiểu
nhất, hiểu sâu, hiểu rộng vấn đề cần học. Mặt khác cần phải rèn luyện cho các
em kỹ năng vận dụng lý thuyết linh hoạt vào thực hành để tránh những sai lầm
tuy rất nhỏ nhưng rất quan trọng, và tránh tình trạng học sinh không làm được
hay làm được nhưng không hiểu vấn đề.
Tôi hy vọng đề tài này sẽ giúp ích cho các em học sinh THCS (đặc biệt là
khối 7) trong việc vận dụng lí thuyết để thực hành, không còn lúng túng, giúp
học sinh hứng thú, tích cực học tập hơn, đạt kết quả cao hơn trong việc dạy và
học.

19


Trên thực tế, việc ứng dụng sáng kiến này mới chỉ trong một phạm vi hẹp,
và vì thế chưa thể đánh giá được toàn diện và chính xác những ưu điểm và hạn
chế của nó trong việc dạy và học. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý chân
thành của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để tôi ngày càng có những tiết dạy
hoàn thiện hơn.
II. KIẾN NGHỊ:

Các cấp lãnh đạo, các ban ngành cấp trên và nhà trường tạo điều kiện cho
tôi có một phòng máy tính (khoảng 20 – 30 máy) để thực hành (có kết hợp máy
chiếu) để tôi thực hiện các tiết dạy lí thuyết cho học sinh vận dụng vào thực
hành một cách chủ động và đạt hiệu quả cao hơn.
Đối với mục 4 “Sao chép công thức” của bài này, lượng kiến thức nhiều,
để học sinh có thời gian luyện tập vận dụng vào thực hành một cách có hiệu quả;
tôi xin đề nghị các cấp lãnh đạo cấp trên đưa ra trong phân phối chương trình có

thêm 2 tiết thực hành cho phần này để học sinh có thời gian “nghiền ngẫm”,
“thẩm thấu” được kiến thức một cách có hiệu quả nhất.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 26 tháng 5 năm
2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
SGK Tin học dành cho THCS – Quyển 2 (tái bản lần thứ bảy, lần thứ tám)
SGK Tin học dành cho THCS – Quyển 2 (tái bản lần thứ sáu trở về trước)

21



×