Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Kinh nghiệm dạy văn bản nhật dụng trong trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.06 KB, 14 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Môn Ngữ Văn là môn học có vị trí rất quan trọng trong chương trình Giáo
dục phổ thông, môn học chủ lực góp phần giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình
cảm và quá trình tư duy của học sinh. “Văn học là nhân học” – học văn là học
cách làm người, học đạo làm người. học văn giúp con người có ý thức tự tu
dưỡng, biết yêu thương, quý trọng cuộc sống, quý trọng con người và van vật,
biết hướng tới cái đẹp, cái cao cả, tình cảm nhân văn như: lòng nhân ái, lẽ phải,
sự công bằng; biết căm ghét và chống lại cái á, cái xấu…hình thành những phẩm
chất cao quý vô cùng cần thiết cho con người hiện đại. Vậy mà thật nghịch lý
khi môn Ngữ Văn lại đang rơi vào thân phần “Ông đồ”.
Xuất phát từ thực tế đó, để hướng người học có thái độ tích cực hơn, xác
định rõ trách nhiệm của bản thân hơn đối với cộng đồng. Cùng với những đổi
mới đồng bộ về giáo dục, chương trình Sách giáo khoa Ngữ Văn THCS đã được
xây dựng và biên soạn lại từ năm 2002 theo tư tưởng tích cực hóa hoạt động học
tập của học sinh theo tinh thần tích hợp. Các văn bản được lựa chọn theo tiêu chí
kiểu văn bản, tương ứng với kiểu văn bản là thể loại tác phẩm chứ không phải là
sự lựa chọn theo lịch sử văn học về nội dung. Chương trình Sách giáo khoa như
vậy tránh gây sự nhàm chán cho học sinh.
Ngoài yêu cầu về tính tư tưởng, phù hợp tâm lý lứa tuổi bậc học, chương
trình còn đảm bảo tính cập nhật cao những vấn đề đời sống đang diễn ra, có ảnh
hưởng trực tiếp đến con người và cần phải có tác động tích cực từ chính con
người, nhằm khích lệ thái độ sống và trách nhiệm ở học sinh. Và như vậy văn
bản nhật dụng (everyday text) được đưa vào chương trình như một sợi dây kéo
gần khoảng cách sách vở và đời sống.
Tuy nhiên, việc tiếp cận với Văn bản nhật dụng đối với học sinh THCS
còn nhiều bỡ ngỡ. trong khi đó đại bộ phận giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn
chưa có cách hướng dẫn học sinh khai thác loại văn bản này một cách hợp lý và
khoa học, thậm chí họ chưa thực sự tâm huyết, chưa chịu đầu tư, tìm tòi để xây
dựng giờ dạy chất lượng, dẫn đến tình trạng sự tiếp nhận của học sinh chỉ dừng
lại ở mức “cưỡi ngựa xem hoa”, học sinh chưa thực sự hứng thú với Văn bản


nhật dụng.
Xuất phát từ thực tế đó, bản thân tôi luôn trăn trở tìm ra cho mình hướng
đi hiệu quả trong giảng dạy môn Ngữ Văn nói chung, trong việc tổ chức cho học
sinh biết cách khai thác tốt nhất những Văn bản nhật dụng nói riêng. Và sau
nhiều năm áp dụng trong quá trình lên lớp của mình ở trường THCS Yên
Trường, tôi cũng đã đạt được một số kết quả như mong muốn khi dạy các Văn
bản nhật dụng. Vì lẽ đó, tôi mạnh dạn đưa ra đây một số kinh nghiệm nho nhỏ
của bản thân về “Cách dạy Văn bản nhật dụng trong trường THCS” để bạn bè
đồng nghiệp cùng tham khảo và góp ý.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Về mặt lý luận: Nghiên cứu tài liệu, chương trình sách giáo khoa,
nghiên cứu về phương pháp bộ môn, phương pháp dạy văn bản nhật dụng cũng
1


như tinh thần đổi mới phương pháp môn học để không ngừng nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ của bản thân.
- Về mặt thực tiễn: Dựa trên cơ sở vai trò và tầm quan trọng của văn bản
nhật dụng là tính thời sự, cập nhật với đời sống hiện tại và thực trạng giảng dạy
của giáo viên, thực trạng học tập của học sinh trường THCS Yên Trường nói
riêng (khi trực tiếp đứng lớp), học sinh các trường THCS trên địa bàn huyện Yên
Định nói chung (khi đi làm công tác kiểm tra, dự giờ thăm lớp), tôi đề xuất một
số biện pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy của giáo viên, góp phần
tạo hứng thú, nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Thông qua đó để bàn
bạc và đưa ra hướng giải quyết một số khúc mắc về kiến thức cũng như phương
pháp dạy học, giúp bản thân và đồng nghiệp có thêm kinh nghiệm để dạy tốt hơn
phần văn bản nhật dụng, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình Ngữ văn THCS
hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Là những văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS và

những vấn đề liên quan.
- Học sinh khối lớp 8, trường THCS Yên Trường.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát: Sử dụng các giác quan để thu thập dữ liệu, số
liệu, bao gồm:
+ Quan sát toàn diện và quan sát chi tiết.
+ Quan sát trong một thời điểm hay trong suốt một quá trình.
+ Quan sát thăm dò hoặc đi sâu.
+ Quan sát phát hiện hoặc kiểm nghiệm.
+ Quan sát thông qua dự giờ đồng nghiệp.
- Phương pháp so sánh: Phân loại, đối chiếu kết quả trước và sau khi áp
dụng những kinh nghiệm vừa tìm tòi.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: bằng cách nêu tình huống có vấn đề
thật rõ ràng, mạc lạc rồi đi phân tích thật kĩ càng nhưng ngắn gọn; sau đó đúc
kết, tổng hợp lại vấn đề một cách khúc triết nhất.
Bên cạnh đó là các phương pháp sử dụng trong quá trình dạy học:
- Phương pháp kích thích học sinh: Phát huy tối đa tính chủ động của học
sinh bằng sử dụng hỗ trợ các kỹ thuật dạy học tích cực.
- Phương pháp tích hợp: Tích hợp nhiều kỹ năng, tích hợp kiến thức liên
môn, tích hợp giữa kiến thức hàn lâm và thực tiễn ứng dụng
- Phương pháp đàm thoại: Bằng hệ thống câu hỏi gợi mở ở nhiều mức độ
khác nhau, giáo viên dẫn dắt để giúp học sinh tự khám phá và tự chiếm lĩnh kiến
thức một cách tối ưu nhất.
Ngoài ra tôi còn sử dụng nhiều phương pháp hỗ trợ khác như: đọc tài liệu,
thống kê, thăm dò ý kiến học sinh, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, thảo
luận nhóm bộn môn, tham khảo ý kiến đồng nghiệp có chuyên môn tốt và có bề
dày kinh nghiệm, có nhiều thành công trong giảng dạy môn Ngữ văn.

2



PHẦN II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến:
Nói đến văn bản nhật dụng trước hết là nói đến tính chất nội dung của văn
bản. Đó là những văn bản được lựa chọn theo đề tài, gắn với những vấn đề rất
thời sự và cập nhật với đời sống hiện đại như: môi trường, dân số, di tích văn
hóa, danh lam thắng cảnh; các tệ nạn xã hội như: ma túy, thuốc lá, lao động trẻ
em; các vấn đề tương lai như: bảo vệ môi trường, chống chiến tranh, bảo vệ
quyền lợi bà mẹ và trẻ em, vấn đề hội nhập và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc…
Mỗi văn bản nhật dụng như một trang nhật ký ghi chéo lại sự phátb triển và tồn
tại của bức tranh cuộc sống xã hội mang tính thời đại. Văn bản nhật dụng có thể
dùng tất cả các thể loại cũng như các kiểu văn bản để truyền tải nội dung. Hệ
thống văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa Ngữ văn THCS cũng không nằm
ngoài đặc điểm đó. Có thể là một văn bản thuyết minh (Cầu Long Biên – chứng
nhân lịch sử; Ca Huế trên sông Hương; Động Phong Nha); văn bản biểu cảm
(Bức thư của thủ lĩnh da đỏ, Mẹ tôi, Cổng trường mở ra); văn bản nghị luận
(Đấu tranh cho một thế giới hòa bình, Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền
được bảo vệ và phát triển của trẻ em). Hoặc cũng có thể tồn tại dưới dạng những
bài viết mang tính phóng sự, những văn bản thuyết minh khoa học (Thông tin về
ngày trái đất năm 2000, Ôn dịch, thuốc lá); hoặc lại mang nội dung câu chuyện
như một văn bản tự sự (Cuộc chia tay của những con búp bê)…Có thể thấy rằng,
những văn bản nhật dụng này góp phần đắc lực trong việc hình thành ý thức
công dân đối với cộng đồng của mỗi con người, hướng con người sống có trách
nhiệm hơn với bản thân và xã hội, đánh thức những hành động thiết thực và tích
cực ở học sinh. Từ việc tiếp nhận kiến thức, các em sẽ có nhận thức và hành
động đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của lịch sử phát triển, đáp ứng mục tiêu đề
xướng của UNESCO đối với nền giáo dục hiện đại là: “Học để biết, học để làm
việc, học để chung sống và học để phát triển bản thân”. Văn bản nhật dụng
giải quyết một phần không nhỏ yêu cầu đó. Mỗi tác phẩm đều đặt ra những vấn
đề đủ để học sinh cảm nhận được cuộc sống xung quanh đã, đang và sẽ tồn tại,

diễn ra như thế nào? Tương lai loài người sẽ đi đến đâu? Tôi thiết nghĩ giáo viên
cần phải thức tỉnh được điều đó ở học sinh – tức phải truyền tải được đúng tinh
thần và mục tiêu của văn bản nhật dụng.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thẳng thắn, chúng ta thấy rằng việc dạy
văn bản nhật dụng của hầu hết giáo viên ngữ văn THCS hiện nay phần lớn là
chưa hiệu quả. Bởi đa số thầy cô chưa có sự đầu tư vào bài giảng, chưa tìm ra
cách dạy hiệu quả nhất trong việc giúp học sinh khai thác các văn bản nhật
dụng. Thậm chí nhiều thầy cô còn xem nhẹ kiểu loại văn bản này, cho rằng
không có tính văn chương, thiếu tính hình tượng, không hấp dẫn học sinh….nên
thấy không cần phải mất nhiều thời gian và trí tuệ. Hơn nữa, từ trước đến nay,
trong hệ thống lý luận dạy học, các nhà nghiên cứu giáo dục, các thầy cô giáo
chưa từng đặt vấn đề phương pháp dạy học văn bản nhật dụng thành một nội
dung nghiên cứu riêng lẻ như các kiểu loại văn bản khác. Cũng chưa có một tài

3


liệu chính thống nào dành cho cách khai thác, tiếp cận và truyền đạt văn bản
nhật dụng.
Từ những cơ sở trên, bản thân tôi đã mạnh dạn tìm ra một hướng đi cho
mình mà bản thân cảm thấy phù hợp với bản thân, đạt hiệu quả trong quá trình
dạy học văn bản nhật dụng. Tôi cũng thấy những điều mình trăn trở là cần thiết,
việc tìm ra hướng đi khi dạy văn bản nhật dụng cũng mang tính lâu dài, gắn với
nghiệp giảng dạy và trách nhiệm của mỗi thầy cô dạy Văn. Và tôi bắt đầu có
được những kết quả khả quan, đôi khi ngoài sức mong đợi sau mỗi giờ lên lớp
của mình. Từng bước nâng cao hiệu quả trong giảng dạy văn bản nhật dụng nói
riêng, đối với môn Ngữ văn nói chung, góp phần khơi gợi lòng say mê đích thực
của học sinh một cách tự nhiên nhất như chính sự vốn có của môn học này.
2. Thực trạng của việc giảng dạy văn bản nhật dụng trong chương trình
Ngữ văn THCS:

a. Về phía học sinh:
Hiện nay, Văn bản nhật dụng tuy không còn mới với giáo viên và học
sinh. Song học sinh vẫn không mấy thiết tha khi tiếp cận với kiểu loại văn bản
này. Năm học 2015 -2016, bản thân tôi được phân công giảng dạy Ngữ văn hai
lớp: 8A và 8B, trường THCS yên Trường, đa số các em ngoan, có ý thức học tập
tốt. Song bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại ảnh hưởng không nhỏ đến việc học
của các em nói chung như: còn nhiều học sinh cá biệt do địa bàn dân cư phức
tạp (Yên Trường là trung tâm thương mại của cả huyện, sự phát triển về kinh tế
kéo theo xuất hiện vô vàn các loại hình dịch vụ tiêu cực lôi kéo lớp trẻ tham
gia), nhiều phụ huynh đi làm ăn xa, các em ở với ông bà nên việc giáo dục, uốn
nắn có nhiều hạn chế. Bên cạnh đó còn có những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng môn học như: phần lớn học sinh xem nhẹ và không thích học môn
Văn, học sinh khá giỏi thì đầu tư vào các môn tự nhiên và các môn “chìa khóa
tương lai”, thậm chí ngay cả những học sinh có năng khiếu văn chương thực sự
vẫn lựa chọn các môn được cho là “thời thượng” kể cả các môn học đó quá sức
với các em. Phần lớn học sinh lại quan niệm văn bản nhật dụng khô khan, mang
tính chất như một bản tin, đọc để biết chứ đầu tư nhiều thời gian vào đó chỉ vô
bổ…
b. Về phía giáo viên:
Qua dự giờ đồng nghiệp tại trường cũng như một số đồng nghiệp trường
khác trong huyện, tôi nhận thấy phần lớn các thầy cô coi văn bản nhật dụng là
một thể loại như truyện, ký…nên hướng học sinh vào khai thác cốt truyện, nhân
vật, tình huống, các yếu tố nghệ thuật đi kèm…mà bỏ qua đặc điểm chính của
văn bản nhật dụng là vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản. Có giáo viên liên hệ
được với thực tiễn đời sống thì lại khiên cưỡng, gò ép do vốn kiến thức hạn chế,
thiếu kỹ năng tích hợp khiến học sinh khó tiếp nhận. Nhiều thầy cô còn cho rằng
văn bản nhật dụng thiếu tính văn chương nên không có hứng thú đầu tư và lên
lớp theo kiểu “hết tiết thì hết bài”. Đặc biệt thầy cô chưa vận dụng linh hoạt
phương pháp bộ môn cũng như các kỹ thuật dạy học tích cực, chưa phát huy


4


được vai trò chủ đạo của người học, chưa kích thích được tính chủ động của
người học nên học sinh còn thiếu tập trung, không hứng thú.
Bên cạnh đó, việc sử dụng, phối kết hợp các phương tiện và đồ dùng dạy
học chưa hợp lý và thành thạo, có tiết dạy thì nghèo nàn, gần như dạy chay; lại
có tiết dạy quá ôm đồm trong sử dụng phương tiện và đồ dùng. Điều đó làm cho
học sinh không có một tâm thế tiếp nhận ổn định khi đón nhận các tiết học văn
bản nhật dụng.
c. Nguyên nhân của thực trạng:
Ngoài những hạn chế chủ quan từ phía học sinh và giáo viên thì phải kể
đến một số nguyên nhân khách quan tác động trực tiếp đến chất lượng môn học
và kiểu loại văn bản nhật dụng trong chương trình:
- Thứ nhất: Chưa có một tài liệu nào đưa ra định hướng cụ thể về phương
pháp cho việc giảng dạy văn bản nhật dụng.
- Thứ hai: Đa số các nhà trường THCS còn thiếu thốn về trang thiết bị,
phương tiện phục vụ cho dạy và học.
- Thứ ba: Kinh phí cho tham quan thực tế và tổ chức các hoạt động ngoại
khóa, sân khấu hóa…để biến kiến thức hàn lâm thành kỹ năng thực thụ cho học
sinh còn vô cùng eo hẹp, thậm chí không thể có để thực hiện được.
- Thứ tư: Có quá nhiều bất cập cũng như áp lực về thời gian, công việc
cũng như các chế độ chính sách dành cho nhà giáo (thầy cô có hàng trăm gánh
lo mà gánh lo nặng nhất là “cơm áo”, nhất là giáo viên diện hợp đồng). Tất cả
đều ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý và điều kiện công tác, khiến tâm huyết với
nghề của thầy cô cũng bị chùng xuống, để rồi rất nhiều những bài giảng văn “có
lửa” đang dần lụi tàn. Một số thầy cô vẫn say nghề thì bị xã hội “quay lưng” lại
với môn Văn.
Bản thân tôi vì nhận thức được điều đó, và cũng không muốn học sinh của
mình không mấy tha thiết với môn Văn, nên tôi đã cố gắng đầu tư rất nhiều cho

chuyên môn cũng như dành nhiều thời gian cho việc xây dựng bài dạy đối với
các văn bản nhật dụng, phần kiến thức được xem là mới trong chương trình. Tôi
nghĩ mình cũng đã có được thành công nào đó trong dạy văn bản nhật dụng như
những thành công tôi đã có được trong giảng dạy Văn của mình.Vì vậy mà sau
khi tổng kết năm học 2013- 2014, tôi đã làm công tác khảo sát đối với học sinh
hai lớp 6A và 6B, là hai lớp tôi trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn bằng một câu
hỏi trắc nghiệm rất đơn giản: “Em có thích học các văn bản nhật dụng trong
chương trình Ngữ văn 6 không?” với hai mức độ để học sinh lựa chọn:
A. Có
B. không
Thật bất ngờ khi kết quả tôi thu được như sau:
Lớp
Sĩ số
Số
HS Số HS chọn Số
HS Ghi chú
chọn “Có” “Không”
không có
lựa chọn
6A
25
5
13
7
6B
25
6
11
8


5


Sau khảo sát này, tôi vô cùng bất ngờ và bắt đầu tư duy lại toàn bộ quá
trình làm việc của mình. Tôi bắt đầu nhận ra những nguyên nhân khách quan và
những hạn chế của bản thân từ đó. Tôi đã khắt khe với mình hơn, thường xuyên
dự giờ đồng nghiệp hơn và trăn trở để tìm ra hướng đi tốt nhất khi dạy văn bản
nhật dụng. Bởi ngay từ đầu tôi đã nhận thức được rằng, nếu giáo viên giúp học
sinh tiếp cận đúng hướng những văn bản nhật dụng, thì có thể hình thành ở các
em rất nhiều kỹ năng sống cần thiết, kéo gần hơn khoảng cách sách vở với đời
sống để các em thực sự trở thành những con người năng động, thích nghi được
với mọi hoàn cảnh sống và có những tác động tích cực nhất tới sự phát triển của
xã hội, ngày càng nâng cao nhận thức và trách nhiệm của bản thân trong nhịp
sống của “thế giới phẳng”. Vậy nên tôi đã quyết tâm tìm tòi và đầu tư một cách
nghiêm túc nhất đối với các văn bản nhật dụng, từng bước vận dụng vào bài
giảng có kiểm nghiệm, có so sánh và rút kinh nghiệm…Hai năm học gần đây, tôi
đã bắt đầu nhìn thấy thành công của mình, tìm ra được hướng đi riêng cho mình
một cách khoa học hơn.
3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy văn bản nhật dụng ở trường
THCS:
a. Công tác chuẩn bị:
Chúng ta đều biết rằng, bất kỳ một công việc gì dù lớn hay bé, dù đơn
giản hay phức tạp, muốn thành công đều phải chú trọng ngay từ khâu chuẩn bị.
Có chuẩn bị tốt mới thực thi tốt được. Dạy học cũng vậy, nhất là dạy Văn, mà lại
là văn bản nhật dụng. Sự chuẩn bị của cả thầy và trò quyết định rất lớn đến chất
lượng giờ học. Một giáo viên dù giỏi đến mấy thì khi dạy một bài cũng cần có
sự đầu tư. Bởi nội dung kiến thức của một bài không chỉ là những con chữ sách
giáo khoa mà còn phụ thuộc vào phương pháp, hướng đi, các phương tiện đi
kèm, hệ thống câu hỏi khoa học, hợp lý, kiến thức tham khảo của giáo viên…và
đặc biệt là sự chuẩn bị bài trước ở nhà của học sinh. Muốn học sinh chuẩn bị bài

có chất lượng trong điều kiện môn văn đang mất dần chỗ đứng và không còn
dành được sự ưu ái của các em, thì cái “uy” và cái “tâm” của người thầy phải
luôn được phát huy tới mức tối đa trong cách dẫn dắt, khích lệ học sinh qua từng
giờ học và sau mỗi tiết học, nhất là phải tận tâm tận lực hướng dẫn học sinh
phần hướng dẫn học, làm bài tập và chuẩn bị bài mới ở nhà.
Và để công tác chuẩn bị cũng như tất cả những hoạt động của thầy cô
được truyền tải tới học sinh một cách tự nhiên, không khiên cưỡng, đòi hỏi thầy
cô phải không ngừng có ý thức bổ sung, nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề
nghiệp. Nhất là đối với việc dạy Văn bản nhật dụng thì việc cập nhật kiến thức,
thông tin nhanh, đầy đủ và chính xác càng cần thiết hơn bao giờ hết.
Qua đây, tôi cũng muốn nói tới tình yêu và lòng say nghề của giáo viên
Ngữ văn hiện nay. Hầu như ngày càng thấy ít đi những thầy cô giáo dạy văn say
với những cuốn sách “gối đầu giường”, những cuốn tài liệu tích lũy phần kiến
thức lý thú, bổ ích; những buổi đọc sách đến quên thời gian…dù đâu đó vẫn còn
nhưng ít lắm và hiếm lắm. Bởi vậy, tôi muốn bày tỏ mong muốn: mỗi giáo viên
Ngữ văn hãy dành nhiều thời gian đọc sách, bởi đọc và tích lũy kiến thức là
6


không bao giờ đủ để có thể chuẩn bị cho những bài dạy ấn tượng trong lòng học
trò.
b. Có cách khởi động giờ học thu hút, độc đáo, sáng tạo gây hứng thú cho
học sinh:
Thực ra, khởi động và dẫn dắt vào bài mới hấp dẫn là cần đối với tất cả
các giờ dạy Văn. Song riêng với văn bản nhật dụng thì càng trở nên cần thiết
hơn bao giờ hết. Nó giúp học sinh có sự chú ý ngay từ đầu đối với những văn
bản vốn dĩ không nặng về tính văn chương, trữ tình này.
Vào bài là khâu rất nhỏ trong một tiết dạy, lại không nằm trong trọng tâm
bài dạy, nhưng lại ở vào vị trí mở đầu, có tác dụng đặt nền móng và gắn bó với
các hoạt động còn lại. Nó gây hứng thú và kích thích ham muốn chinh phục và

khám phá tri thức bài học, tạo tâm thế hào hứng, đánh thức và bồi dưỡng tinh
thần tự giác học tập ở học sinh. Không phải ngẫu nhiên mà Lê-nin từng nói:
“Không có ham muốn của con người, thì trước nay chưa hề có và cũng
không thể có sự tìm tòi của con người đối với chân lý”. Dẫn vào bài là khúc
dạo đầu, là “món khai vị” nên càng “ngọt ngào” bao nhiêu, càng hứa hẹn sự
thành công của bài học bấy nhiêu.
Tuy nhiên lời dẫn cần súc tích, khái quát, lời gọn, ý sâu, lấy ít dẫn nhiều,
nói ít gợi nhiều, tránh dài dòng (trong khoảng 2 phút). Về ngôn ngữ phải trong
sáng, tinh tế, giàu hình ảnh. Còn lại cách “diễn” của thầy cô đòi hỏi cũng phải
linh hoạt, sáng tạo và lôi cuốn học sinh bằng nhiều kỹ năng.
Ví dụ:
Với văn bản “Động Phong Nha” trong chương trình Ngữ văn 6, đối
tượng học sinh lớp 6 các em còn đang rất hồn nhiên, trong sáng, chúng ta có thể
dẫn dắt vào bài học bằng nhiều ngôn từ mang không khí cổ tích phù hợp với
cảnh quan hang động, nhằm kích thích trí tò mò và sự hứng thú của học sinh
như: Hẳn rằng tất cả các bạn trong lớp ta, không ai lại chưa từng một lần đọc
và nghe kể những câu chuyện cổ tích thần tiên vô cùng thú vị và hấp dẫn
đúng không nào? Vậy lúc này đây các em có muốn được dạo quanh chốn
bồng lai tiên cảnh như trong mỗi câu chuyện cổ tích diệu kỳ đó không? Bài
học hôm nay cô sẽ cùng các em đi khám phá không gian thơ mộng đó, nó
hiện hữu ngay trong cuộc sống thực của chúng ta thôi, ngay trên dải đất hình
chữ S thân yêu này!
Hay với văn bản “Thông tin về ngày Trái đất năm 2000” trong chương
trình Ngữ văn 8. Đây là văn bản mang phong cách báo chí, nặng về tính thông
tin tuyên truyền. Cụ thể là nêu lên thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp
về vấn đề môi trường sống của con người hiện nay. Qua đó thể hiện một thông
điệp, tác động đến ý thức mỗi người trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường
chung. Vì vậy cách vào bài cũng cần sử dụng ngôn ngữ kêu gọi, thúc giục hành
động, nhằm lôi cuốn và đánh thức trách nhiệm của học sinh ngay từ đầu giờ học:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam ta kết thúc với ba triệu người chết,

hai triệu người bị thương, ba trăm nghìn người mất tích, hàng trăm nghìn
người nhiễm chất độc da cam, nhà cửa, làng mạc bị tàn phá nặng nề…đó là
7


tội ác trời không dung, đất không tha của chính quyền và quân đội Hoa Kỳ.
Vậy đã bao giờ chúng ta tự hỏi, bản thân mình đã sống và hành động đúng
với trách nhiệm một công dân thực thụ chưa? Chúng ta từng gây ra tội ác gì
không? Chúng ta luôn lớn tiếng kết tội người khác, mà đã bao giờ chịu thừa
nhận mình còn có những việc làm, những hành động tưởng rằng rất nhỏ,
nhưng lại đang vô tình gây ra tội ác dai dẳng và hệ lụy vượt thời gian? Bài
học hôm một lần nữa các em sẽ nhận ra những sai lầm của con người hiện
đại, đồng thời thức tỉnh trách nhiệm của mỗi người đối với môi trường sống
của nhân loại qua văn bản “Thông tin về ngày Trái đất năm 2000”.
c. Tích hợp liên môn:
Bài dạy đối với một văn bản không đơn thuần chỉ là một bản đề cương
cung cấp kiến thức cho học sinh mà phải là một bản thiết kế các hoạt động, thao
tác giúp học sinh biết tự chinh phục và khám phá tri thức, phát triển năng lực cá
nhân và hoàn thiện nhân cách người học theo mục tiêu môn học.
Từ trước đến nay, khi nói đến tính chất Văn-Sử-Triết bất phân là ta nói
đến hiện tượng đặc thù của văn học trung đại, bởi nó liên quan đến quy luật văn
hóa và quan niệm về văn chương lễ nghĩa của thời đó. Nó là sản phẩm của một
trình độ tư duy nghệ thuật có sự gắn kết chặt chẽ giữa tư duy lý luận và tư duy
hình tượng. Văn học gần như đồng hóa với văn hóa, với học thuật nói chung.
Chữ “Văn” trong luận đề “Tiên học lễ, hậu học văn” có nghĩa rộng như thế:
“Văn dĩ tải đạo”, “Văn dĩ quán đạo”, “Văn dĩ minh đạo”, “Thi ngôn chí”…
như Nguyễn Đình Chiểu từng viết:
“Văn chương ai cũng muốn nghe
Phun châu, nhả ngọc báu khoe tinh thần”
Ra đời trong cái nôi của xã hội hiện đại, sự xuất hiện của các văn bản nhật

dụng vừa mang tính đổi mới so với chương trình cũ, vừa cuốn hút học sinh yêu
và thích viết văn, khám phá văn chương hơn nếu giáo viên có cách truyền tải
đúng tinh thần. Vì sao vậy? Rõ ràng những văn bản nhật dụng chứa đựng nội
dung vô cùng gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống của con người và cộng đồng
xã hội hiện đại, hướng con người quan tâm đến những vấn đề toàn cầu như: môi
trường, dân số, di tích văn hóa, danh lam thắng cảnh, các tệ nạn xã hội, vấn đề
hội nhập và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc…Vì lẽ đó mà văn bản nhật dụng tự
nhiên thôi chứa đựng trong nó tính chất đặc trưng của văn học trung đại: VănSử-Triết bất phân. Tính chất này thể hiện rất rõ và tồn tại như một “vốn lẽ dĩ
ngẫu”. Văn bản nhật dụng khó có thể chỉ ra rành rọt đâu là hình tượng văn học,
đâu là bức tranh đời sống? Có chăng là ở những đề tài có tính chất rất thời sự và
cập nhật với cuộc sống hiện đại mà văn bản đề cập tới.Vì vậy tích hợp liên môn
càng không thể thiếu khi dạy các văn bản nhật dụng.
Tích hợp liên môn xuất phát từ yêu cầu phát triển năng lực toàn diện của
người học, giúp học sinh biết vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề
thực tiễn. Văn bản nhật dụng chứa đựng trong nó kiến thức tổng hợp, từ lĩnh vực
đạo đức, lối sống cho đến giáo dục pháp luật, chủ quyền quốc gia, môi trường,
dân số…đó cũng chính là kiến thức liên quan đến nhiều môn học cần được lồng
8


ghép và cụ thể hóa trong các bài dạy. Và giáo viên cần xác định rõ các đơn vị
kiến thức đó thuộc bộ môn nào? Cách tích hợp, lồng ghép ra sao để tránh trùng
lắp hay dạy thay môn học khác ngoài mong muốn. Tích hợp liên môn là đề cập
đến kiến thức nhiều môn học trong một bài dạy nhưng không gượng ép, khiên
cưỡng, rời rạc mà phải thống nhất và thật tự nhiên, logic, nhằm biến giờ giảng
văn thành giờ dạy kỹ năng đọc hiểu thực chất cho học sinh, giúp các em có năng
lực đọc hiểu bất kỳ văn bản nào. Giáo viên có thể thông qua hệ thống câu hỏi
gợi tìm, những câu chuyện có liên quan, những bài viết mang tính thời sự,
những câu thơ, châm ngôn, danh ngôn…miễn vừa truyền tải nội dung bài học,
vừa mở rộng, khắc sâu kiến thức và hình thành được kỹ năng cho học sinh.

Giáo viên cũng cần lưu ý, khi xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp kiến
thức liên môn, thì nội dung câu hỏi phải kích thích được ham muốn khám phá
của học sinh. Khi câu hỏi đưa ra, học sinh phải chủ động và tích cực suy nghĩ,
tìm tòi và có hứng thú khám phá nội dung bài học. Muốn vậy, nội dung câu hỏi
phải thiết thực, gắn liền với bài học và đủ để học sinh phát huy tối đa khả năng
tư duy cũng như nhu cầu học tập của bản thân.
Ví dụ:
Khi dạy bài “Ca Huế trên sông Hương” trong chương trình Ngữ văn 8,
giáo viên có thể có những câu hỏi tích hợp mang tính gợi mở như: Em có cảm
nhận như thế nào về không gian của ca Huế? Từ đó giáo viên dẫn dắt đến
không gian văn hóa của ca Huế: Từ dáng mảnh mai, hiền dịu của người con gái
Huế đến không gian vừa như thực lại vừa như mơ của sóng nước Hương giang
mỗi khi điệu hò mái Nhì, mái Đẩy được cất lên, hoặc lắng đọng khó phai trong
một điệu Lý…tất cả rất đỗi mộc mạc nhưng đầy gợi cảm, lôi cuốn, lay động
lòng người, là biểu tượng đẹp của đất và người cố đô. Tiếp đến giáo viên có thể
đặt câu hỏi cho học sinh: Em có biết ca Huế còn được diễn ra trong không
gian như thế nào nữa không? Để giúp học sinh hiểu thêm, ca Huế còn có ca
Salon hay còn gọi là ca Huế thính phòng. Nhưng thực tế ca Huế Salon đang rất
thiếu tri kỉ và chỗ đứng của nó rất chật hẹp. Vậy nên “ca Huế trên sông Hương”
đã trở thành món “đặc sản” chiếm được cảm tình khán, thính giả gần xa. Giáo
viên cũng có thể đặt thêm câu hỏi: Hãy kể tên một số làn điệu đặc trưng của
các vùng miền trên đất nước ta mà em biết? Với câu hỏi này, học sinh sẽ kể tự
do theo hiểu biết của mình, nhưng nhất thiết giáo viên phải bổ sung làn điệu dân
ca địa phương Thanh Hóa (nếu học sinh không đề cập đến) và nhấn mạnh, mở
rộng, khắc sâu một chút về làn điệu quen thuộc của quê hương. Có thể cho học
sinh thể hiện bằng cách khích lệ các em biểu diễn trước lớp. Như vậy là chúng ta
đã có thể tích hợp được với kiến thức nhiều môn học như: Âm nhạc, Địa lý, Văn
hóa… nhằm hình thành ở học sinh những kiến thức cần thiết, đặc biệt là kiến
thức về văn hóa, âm nhạc của Huế nói riêng; một số đặc trưng của nền âm nhạc
truyền thống và văn hóa Việt nam nói chung. Qua đó thể hiện lòng tự tôn, tự hào

dân tộc và tình yêu quê hương xứ sở.
d. Tổ chức hoạt động nhóm học tập:

9


Ngoài việc giáo viên cần tổ chức linh hoạt giờ dạy bằng những phương
pháp phù hợp, thiết thực, có hiệu quả ra, thì kỹ năng vận dụng các kỹ thuật dạy
học tích cực như; khăn phủ bàn, học theo góc, động não, kỹ thuật mảnh ghép, sơ
đồ KWL…thì kỹ năng tổ chức hoạt động nhóm học tập cho học sinh là vô cùng
cần thiết khi dạy văn bản nhật dụng. Đây là hoạt động đòi hỏi sự đầu tư và
chuẩn bị nghiêm túc từ phía giáo viên và học sinh. Song hiệu quả đem lại sau
giờ học lại vô cùng lớn và chiếm ưu thế rất rõ. Tổ chức hoạt động nhóm giúp
học sinh hào hứng tham gia. Các em thể hiện tinh thần tự giác, tính hợp tác cao
trong học tập. Học sinh biết hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau khám phá, cùng nhau
tìm ra nội dung kiến thưc theo yêu cầu của thầy cô và bài học. Hơn nữa trong
một khoảng thời gian nhất định, nhiều đơn vị kiến thức sẽ được hoàn thành và
được thể hiện thông qua kết quả tổng hợp của mỗi nhóm.
Hoạt động nhóm giúp học sinh năng động và chủ động hơn, các em biết
tự chủ để phát huy tính độc lập sáng tạo, không phụ thuộc vào người thầy. Từ đó
sẽ tự nhiên hình thành rất nhiều phẩm chất và kỹ năng cần có của con người
hiện đại.
Tuy nhiên, để tổ chức nhóm học tập thành công thì giáo viên phải có kỹ
năng tổ chức và điều hành vững vàng các hoạt động của học sinh, biết điều
chỉnh kịp thời những biểu hiện chưa phù hợp ở học sinh trong quá trình hoạt
động nhóm. Một yêu cầu quan trọng nữa là cách lựa chọn đơn vị kiến thức, nội
dung kiến thức để tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm. Nội dung câu hỏi
đưa ra cho mỗi nhóm phải đảm bảo tính liên kết, hệ thống theo kiểu mỗi nhóm
là một mảnh ghép, một góc học tập, một đơn vị kiến thức thành phần để hoàn
thiện nội dung bài học chung nhất, khái quát nhất. Thường thì hoạt động nhóm

phù hợp với phần thảo luận, phần bài tập, phần đơn vị kiến thức chốt nội dung
bài học. cũng có khi tất cả các nhóm cùng tìm hiểu chung một đơn vị kiến thức.
Qua đó có thể nhận ra các hướng khai thác đa dạng, nhiều khía cạnh từ phía học
sinh, từ đó giáo viên có thể giúp học sinh tổng hợp được nội dung bài học hoàn
chỉnh nhất, khái quát nhất.
Ví dụ: Trong phần củng cố bài học của văn bản “Thông tin về ngày Trái
đất năm 2000”, tôi đã đưa ra cho học sinh của cả hai lớp 8A và 8B cùng một câu
hỏi thảo luận nhóm là: “Em đã và sẽ có những hành động thiết thực nào để
góp phần bảo vệ môi trường sống xung quanh?” Từ nội dung câu hỏi mở như
vậy, mỗi nhóm học sinh sẽ đưa ra được những việc làm thiết thực của bản thân,
đồng thời tư duy và lựa chọn ra được những việc sẽ làm để góp phần cải thiện
môi trường sống xung quanh một cách tích cực nhất. Thông qua đó, giáo viên có
thể đưa ra những nhận xét khích lệ những suy nghĩ, những việc làm đúng đắn
của học sinh, đồng thời định hướng thêm cho học sinh những hành động, những
việc làm bổ ích nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của học sinh, đánh
thức những hành động tích cực để các em góp phần làm cho môi trường sống
ngày càng trở nên thân thiện hơn với con người.
e. Kết hợp với các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:

10


Ngoài việc tìm ra các hoạt động, các hướng đi phù hợp, hiệu quả nhất đối
với bài dạy văn bản nhật dụng. Bản thân tôi còn luôn có ý thức phối hợp, lồng
ghép nội dung các bài học vào trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các hoạt
động ngoại khóa, các buổi lao động cũng như có thêm các buổi tổ chức cho học
sinh tham quan một số di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh xung quanh địa bàn.
Bất kỳ hoạt động nào tôi cũng đều có ý thức lồng vào những đơn vị kiến thức
Văn học nói chung, kiến thức của phần văn bản nhật dụng nói riêng để vừa khắc
sâu, biến kiến thức sách vở thành kiến thức của học sinh, vừa cụ thể hóa lý

thuyết hàn lâm thành ứng dụng thực tế, những kỹ năng thực hành thiết thực vào
đời sống. Ví như đợt tham quan khu di tích quốc gia đền Đồng Cổ (Yên Thọ)
đợt đầu xuân năm 2016, tôi đã hướng dẫn và giao cho học sinh tự lên kế hoạch,
từ việc quy định về địa đểm tập trung cho đến thời gian xuất phát, những yêu
cầu, những hoạt động trong chuyến tham quan. Học sinh của tôi đã làm rất tốt từ
khâu tổ chức dẫn đoàn cho đến việc tìm hiểu để giới thiệu, thuyết minh cho đoàn
về những điều cần biết về khu di tích, tổ chức dâng hương, tưởng nhớ công ơn
thần Đồng Cổ, làm vệ sinh khu di tích và tham gia trả lời những câu hỏi có liên
quan về lịch sử đền nói riêng, lịch sử văn hóa địa phương nói chung. Qua những
hoạt động này, tôi càng nhận thức rõ hơn vai trò và tầm quan trọng của các văn
bản nhật dụng trong trường THCS, và càng có hứng thú hơn trong việc giảng
dạy môn Ngữ văn cũng như các văn bản nhật dụng trong chương trình.
Cũng thật bất ngờ khi tôi làm một khảo sát đúng như hai năm trước đây
tôi đã làm. Vẫn là câu hỏi cũ nhưng có thêm “Vì sao” sau phần trắc nghiệm. Kết
quả đạt được như sau:
Lớp

Sĩ số HS

Số
HS Số HS chọn Số
HS Ghi chú
chọn “Có” “Không”
không có
lựa chọn
8A
26
24
0
2

8B
26
26
0
0
Phần câu hỏi “Vì sao?” tôi đã đón nhận được những câu trả lời thật lý thú,
ngoài sức tưởng tượng:
- Em Trịnh Vũ Thái Sơn lớp 8A: “Học văn bản nhật dụng, em có được
nhiều kiến thức tổng hợp. Và nhờ có cô hướng dẫn, em còn trở thành một hướng
dẫn viên du lịch, có cơ hội giới thiệu cho các bạn về sự giàu đẹp của quê hương.
Em thấy rất tự hào”.
- Em Vũ Thị Trang lớp 8A: “Nếu ai hỏi em thích học môn nào nhất, em
nói thích học môn Văn, nhất là những văn bản nhật dụng, không nặng về kiến
thức nhưng đem lại cho chúng em nhiều kỹ năng. Em rất vui vì mình là người có
bài hùng biện về chủ đề môi trường thành công nhất trong hội thi “ Phụ trách
sao đội giỏi” do huyện Đoàn tổ chức. Chắc chắn em sẽ dành nhiều thời gian cho
đọc sách và học văn”. Hiện em Vũ Thị Trang đang nằm trong đội tuyển Văn cấp
tỉnh vòng 1 của Phòng GD huyện nhà.

11


- Em Trương Thị Ngọc Trang lớp 8B: “Đến bây giờ em đã hiểu hết câu
nói “Văn học là nhân học”, học văn chính là con đường hoàn thiện nhân cách và
phát triển bản thân toàn diện nhất. Những gì còn thiếu sót thì văn bản nhật dụng
sẽ lấp đầy cho em…”. Em Trương Ngọc Trang cũng nằm trong đội tuyển văn
cấp tỉnh vòng 1 của Phòng GD.
- Hay một em học sinh có học lực yếu cũng đã có câu trả lời rất bình dị
nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn với bản thân một cô giáo dạy văn như tôi: “Em đã
dám đứng trước đông người để nói một vấn đề, điều mà em không thể làm được

từ trước đến nay. Em cũng rất thích học các văn bản nhật dụng, vì em được biết
nhiều điều thú vị ở Việt Nam và cả trên thế giới nữa”.
Và rất nhiều, rất nhiều những câu trả lời vừa thú vị, vừa vô tư của học
sinh nhưng hầu hết đều có chung một tư tưởng thích được tiếp cận các văn bản
nhật dụng vì được biết nhiều, được tham gia nhiều hoạt động chung…để hiểu
hơn thế nào là kỹ năng sống, là cách vận dụng kiến thức bài học vào cuộc sống
một cách hiệu quả nhất mà không hề nặng nề.
4. Hiệu quả của quá trình tìm hiểu, giảng dạy môn Văn nói chung, văn bản
nhật dụng nói riêng:
Đối với hoạt động giáo dục: Việc nghiên cứu để giảng dạy có chất lượng
và đạt hiệu quả trong quá trình dạy văn bản nhật dụng góp phần nâng cao vị thế
của môn Ngữ văn trong nhà trường. Đồng thời giúp các em nhận thức được đầy
đủ hơn về vai trò của môn Ngữ văn trong quá trình học tập, giúp các em hào
hứng tham gia môn học hơn, tạo được niềm tin cho nhà trường và những thầy cô
giáo dạy Văn.
Đối với bản thân tôi, tình yêu môn Văn và thích học văn của học trò là
môn quà vô giá. Đặc biệt mỗi khi dạy đến bài về văn bản nhật dụng, tôi còn
được đồng nghiệp tham gia dự giờ và có những đánh giá động viên, khích lệ
cũng như những góp ý rất chân thành, khiến tôi càng có thêm động lực gắn bó
với môn dạy của mình. Và nếu được một lần nữa lựa chọn nghề nghiệp cho
mình, tôi vẫn chọn làm cô giáo dạy Văn.
Đối với đồng nghiệp và nhà trường: Giúp nâng cao chất lượng giáo dục
chung trong nhà trường, đặc biệt góp phần khẳng định chất lượng mũi nhọn
hàng năm khi môn Văn đang mất dần vị trí trong nền giáo dục nói chung. Bạn
bè đồng nghiệp cũng có một cách nhìn nhận nghiêm túc hơn về môn Văn và về
các văn bản nhật dụng trong chương trình. Từ đó giúp giáo viên dạy Văn trường
tôi và các trường lân cận cũng có những việc làm tích cực hơn trong quá trình
chuẩn bị, đầu tư cho một giờ dạy Văn nói chung, một tiết dạy văn bản nhật dụng
nói riêng.
PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1. Kết luận:
Với tuổi nghề không còn ít, nhưng cũng chưa phải là nhiều, nhưng bản
thân tôi nhận thức được rằng, từ khi những văn bản nhật dụng được đưa vào
chương trình Ngữ văn phổ thông nói chung, chương trình Ngữ văn THCS nói
riêng, cùng với sự đổi mới phương pháp trong giảng dạy bộ môn, môn Ngữ văn
12


thực sự trở thành một “mảnh đất” rộng để giáo viên có thể thỏa sức “gieo trồng”
lên đó biết bao ý tưởng và sự sáng tạo, đáp ứng với xu thế xã hội và nhịp sống
hiện đại. Nếu nói có một môn học tổng hợp nhất, phát triển con người toàn diện
nhất, thể hiện đầy đủ kỹ năng nhất đối với người dạy và người học thì đó chỉ có
thể là môn Ngữ văn. Vậy nên việc lựa chọn môn Ngữ văn chính là đầu tư cho
lực lượng nhân lực chất lượng cao trong tương lai. Môn Văn chính là cái nôi
hình thành và đào tạo ra những con người thực sự có phẩm chất trong sáng, lành
mạnh, đạt đến độ chân, thiện, mỹ nhất. Trong đó văn bản nhật dụng trở thành
một bộ phận không thể thiếu để có thể thực hiện đầy đủ mục tiêu môn học.
2. Kiến nghị:
- Nhà trường tạo mọi điều kiện về thời gian và kinh phí để giáo viên Ngữ
văn có được những hoạt động ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp, những
chuyến thực tế thiết thực, bổ ích nhất, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy
môn Ngữ văn trong trường THCS.
- Ngành Giáo dục nên phát động những cuộc thi như: Thi soạn giáo án
những tiết dạy văn bản nhật dụng, thi giảng những tiết văn bản nhật dụng…để
giáo viên Ngữ văn trên mọi địa bàn có thể cùng trao đổi, bàn bạc, tìm ra một
hường đi chung hiệu quả nhất trong quá trình dạy kiểu loại văn bản này, khi mà
chưa có một tài liệu chính thống nào đưa ra được định hướng cho phương pháp
dạy văn bản nhật dụng.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nho nhỏ cũng như những trăn trở của
bản thân trong quá trình dạy văn bản nhật dụng trong môn Ngữ văn THCS. Dù

đã đạt được những thành công bước đầu, nhưng thiết nghĩ đó chỉ là một cách
tiếp cận và truyền thụ mang tính chủ quan, mới chỉ dừng lại ở mức độ cá nhân là
chủ yếu. Vậy nên tôi mạnh dạn đưa ra đây rất mong được bạn bè đồng nghiệp
quan tâm, góp ý; mong các đồng chí lãnh đạo, các đồng chí chuyên viên trực
tiếp chỉ đạo chuyên môn có thêm những định hướng mang tính khoa học hơn để
đề tài tôi đưa ra thực sự trở thành mối quan tâm của đồng môn và thực sự có chỗ
đứng trong môn học.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Đỗ Thị Thu

Yên Định, ngày 23 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Lê Thị Sâm

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Văn.
2. Tham khảo ý kiến đồng nghiệp.

14




×