Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Xây dựng quy trình tiết trả bài tập làm văn cho học sinh trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.07 KB, 17 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG XƯƠNG
TRƯỜNG THCS QUẢNG NHAM

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI

XÂY DỰNG QUY TRÌNH TIẾT TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

Người thực hiện: Lê Hữu Hiền
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Quảng Nham
Sáng kiến kinh nghiệm thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HÓA, NĂM 2016
1


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
..........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................1
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
.............................................................................1
2. NỘI DUNG CHÍNH ........................................................................................3
2.1. Cơ sở lí
luận........................................... .......................................................3
2.2. Thực trạng của vấn đề .................................................................................3


2.3. Những giải pháp cụ thể.................................................................................5
2.3.1. Việc chấm bài của giáo viên .....................................................................5
2.3.1.1. Chấm bài – nghệ thuật và kĩ thuật .......................................................5
2.3.1.2. Các yêu cầu khi chấm bài ......................................................................5
2.3.2.Tổ chức thực hiện tiết trả bài ....................................................................6
2.3.2.1. Hoạt động 1: Nêu những yêu cầu chính của bài làm ..............................7
2.3.2.2. Hoạt động 2: Xây dựng dàn bài mẫu ......................................................7
2.3.2.3. Hoạt động 3: Tổng kết tình hình làm bài của học sinh ...........................7
2.3.2.4. Hoạt động 4: Trả bài cho học sinh ..........................................................7
2.3.2.5. Hoạt động 5: Sửa lỗi điển hình ...............................................................7
2.3.2.6. Hoạt động 6: Đọc bài văn tiêu biểu ........................................................8
2.3.2.7. Hoạt động 7: Củng cố, dặn dò ................................................................8
2.2.3. Giáo án tiết dạy thực nghiệm....................................................................8
2.4. Hiệu quả của vấn đề nghiên cứu ...............................................................12
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ............................................................................14
3.1. Kết luận .......................................................................................................14
3.2. Kiến nghị .....................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................15

2


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Giáo sư Phan Trọng Luận trong cuốn Phương pháp dạy học văn từng có ý
kiến: “Có một điều khá phổ biến ở học sinh phổ thông là khi làm bài văn xong
không thể tự mình rút kinh nghiệm. Tự mình đánh giá xem bài làm chỗ nào
được chỗ nào chưa được. Hiện tượng học sinh bất ngờ về số điểm thường xảy ra
luôn. Có học sinh làm bài xong thấy lòng nhẹ nhõm cứ nghĩ mình viết trôi chảy,
ý tứ không nghèo nàn thế mà điểm lại thấp. Có học sinh thấy mình làm bài vất

vả không thỏa mãn thế nhưng điểm lại cao. Có nhiều cách lý giải hiện tượng
này, nhưng có một nguyên nhân chính, đó là sự non kém về ý thức làm bài của
học sinh hay nói cho đúng hơn đó là sự non kém về văn hóa làm văn”.
Từ ý kiến trên và thực tế giảng dạy tôi nhận thấy công việc chấm trả bài
chiếm một vị trí khá quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học văn.
Tuy nhiên công việc này đang gặp khá nhiều khó khăn.
Nhiều giáo viên chưa thực sự nhận thức được tầm quan trọng trong tiết trả
bài tập làm văn, vì vậy chưa có sự chuẩn bị nghiêm túc cho tiết học này.
Học sinh đón nhận tiết học với tâm lý chỉ cần biết bài làm được bao nhiêu
chứ chưa ý thức được đây là một tiết học rèn luyện kĩ năng vô cùng thiết thực.
Hiện nay vẫn chưa có tài liệu hướng dẫn chi tiết cho tiết trả bài tập làm
văn, ngay cả cuốn Chuẩn kiến thức kĩ năng cũng chưa đề cập đến vấn đề này.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu Xây dựng quy trình
tiết trả bài Tập làm văn cho học sinh Trung học cơ sở là một hướng đi vừa mang
ý nghĩa khoa học, vừa mang ý nghĩa thực tiễn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Từ thực tiến giảng dạy, người nghiên cứu muốn đi tìm những giải pháp
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn, trong đó có tiết trả bài
Tập làm văn.
- Chỉ ra được thực trạng của vấn đề chấm, trả bài Tập làm văn ở nhà
trường hiện nay.
- Thấy được nguyên nhân và nêu được giải pháp cho vấn đề.
- Góp thêm tư liệu cho bản thân trong việc nghiên cứu giảng dạy môn
Ngữ văn trong nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức thực hiện tiết trả bài viết ở môn Tập làm văn dành cho học sinh
trường THCS Quảng Nham, Quảng Xương, Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Xây dựng quy trình tiết tả bài Tập làm văn cho học
sinh Trung học cơ sở, người nghiên cứu sử dụng các phương pháp sau:


3


- Phương pháp thống kê, phân loại: được sử dụng để thống kê, phân loại
các bài viết và kết quả làm bài của học sinh.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: được sử dụng để đối chiếu, so sánh kết
quả bài làm của học sinh sau những tiết chấm trả bài.
- Phương pháp phân tích, thẩm bình: được sử dụng khi phân tích, đánh
giá, thẩm bình các vấn đề của bài viết, từ đó nâng cao chất lượng cảm thụ văn
chương ở học sinh.

4


2. NỘI DUNG CHÍNH
2.1. Cơ sở lí luận
Trong hệ thống chương trình giáo dục phổ thông, chỉ có môn Ngữ văn
mới được bố trí tiết trả bài, trong một năm học số tiết trả bài ở môn Ngữ văn là
từ 8 đến 9 tiết- kể cả tiết trả bài ở phân môn Văn và Tiếng Việt, đó là một thời
lượng rất đáng kể đủ để nói lên tầm quan trọng của việc chấm và trả bài cho học
sinh, nhất là ở các tiết trả bài viết thuộc phân môn Tập Làm Văn. Trong thực tế
dạy học, nhiều thầy cô giáo cũng đã chọn cho mình giải pháp riêng nhưng nhìn
chung, các giải pháp là không thống nhất.
- Tài liệu “Những vấn đề cơ bản về chương trình và sách giáo khoa mới”
(Đỗ Ngọc Thống) nêu ra quy trình trả bài là bước đầu tiên trong giờ trả bài. Điều
này là khó thực hiện bởi vì về mặt tâm lí nó có ảnh hưởng đến các bước khác
trong tiết trả bài. Thực tế cũng không có giáo viên nào thực hiện như thế vì hiệu
quả tiết trả bài chưa cao.
- Tài liệu “Phương pháp dạy học tập làm văn” (Giáo trình ĐHSPchương trình cũ) lại nêu lên bước trả bài là bước cuối cùng trong tiến trình một

tiết trả bài viết môn Tập làm văn.
- Gần đây nhất là tài liệu BDTX “Một số vấn đề đổi mới PPDH môn NV
THCS” (Nguyễn Thuý Hồng và Nguyễn Quang Ninh chủ biên) ở phần “ Kiểu
bài trả bài tập làm văn” chỉ nêu ra một giáo án minh hoạ, không có những quy
định cụ thể về quy trình tiết trả bài.
Tiết trả bài viết trong môn Ngữ văn không chỉ đánh giá kết quả học tập
của học sinh mà cốt lõi của vấn đề là giúp các em thấy được những tồn tại trong
bài viết, từ đó các em tự sửa các loại lỗi trong bài viết để bài viết lần sau tốt hơn.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Trong thực tế, nhiều giáo viên chưa ý thức được sâu sắc vai trò của giờ trả
bài làm văn với ý nghĩa cần và vốn có của nó. Nhiều giờ trả bài chưa đạt hiệu
quả về nhiều mặt cả về chuyên môn, về quy trình, về tâm lí, cụ thể như sau:
- Việc chuẩn bị cho giờ trả bài chưa chu đáo. Sự thiếu chu đáo đó bắt đầu
từ khâu chấm bài đến việc tổ chức tiết trả bài trên lớp.
- Nhiều thầy cô giáo chấm bài chỉ ghi điểm vào vở bài làm của học sinh
mà không có những nhận xét, sửa chữa cần thiết. Đồng thời cũng có những thầy
cô chấm bài viết của học sinh với thái độ bực dọc, thiếu trân trọng. Theo tôi, cả
hai khuynh hướng ấy đều nên tránh.
- Nhiều khi chúng ta không coi tiết trả bài là một tiết học thực sự nên việc
thực hiện các quy trình vẫn còn nhiều hạn chế, thậm chí là không có một quy
trình mang tính khoa học và sư phạm.

5


- Giờ trả bài nhiều khi thu gọn vào việc làm dàn bài mẫu. Có khi giáo viên
dành hết thời gian của tiết trả bài vào việc hướng dẫn dàn bài mà quên đi các
yêu cầu khác quan trọng hơn.
- Về quy trình tổ chức hoạt động trong tiết trả bài cũng có nhiều vấn đề
cần bàn. Tìm ra tiếng nói chung đôi khi cũng rất khó, thậm chí là những tranh

cãi không có hồi kết.
- Có khi giờ trả bài chỉ là những giây phút căng thẳng chờ đợi để biết
điểm số bài làm để rồi sau đó là một không khí ồn ào, phân tán trong lớp học.
Những giờ học như thế học sinh không thu hoạch được bao nhiêu kiến thức và
những điều bổ ích cho những bài viết tiếp theo.
- Trường THCS Quảng Nham đóng trên địa bàn mà bao đời nay cuộc
sống của người dân gắn liền với biển. Ngôn ngữ địa phương rất đậm nét trong
giao tiếp hàng ngày. Vì vậy tiết trả bài Tập làm văn lại càng có ý nghĩa quan
trọng hơn vì đó là cơ hội rất tốt để các em nhận ra những hạn chế của mình trong
sử dụng ngôn ngữ và rèn luyện kĩ năng diễn đạt.
Tuy nhiên, nói đến trả bài là phải nói đến chấm bài và ghi điểm, thiết nghĩ
đó cũng không phải là các nội dung ngoài đề tài này. Cũng cần nói thêm rằng
tiết trả bài là một tiết học nên nó cũng phải đảm bảo các yêu cầu của một tiết học
theo hướng đổi mới, tích cực. Cụ thể là phải đảm bảo các nguyên tắc :
- Thực sự thể hiện sự đổi mới về phương pháp: giáo viên chỉ là người định
hướng, gợi mở cho học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức. Dưới sự hướng dẫn
của thầy, trò phải nhận ra được những sai sót, hạn chế của mình và có hướng
khắc phục. Trong tiết dạy giáo viên cũng phải căn cứ vào tình hình cụ thể của
lớp và nội dung bài học để có phương án sử dụng các kĩ thuật dạy học cho phù
hợp.
- Phân loại học sinh: trong bài dạy cũng như thiết kế bài học, giáo viên
phải phân loại học sinh nhằm đảm bảo cho tất cả các đối tượng trong lớp đều có
cơ hội thể hiện ý kiến của mình, giúp các em mạnh dạn hơn trong giao tiếp.
- Học sinh thực sự hiểu bài: đây là một tiêu chí khá quan trọng. Suy cho
cùng mục đích cuối cùng của bất kì bài học nào cũng nhằm giúp học sinh hiểu
bài, từ đó các em mới có thể giải quyết được các yêu cầu mà môn học đề ra và
mới có thể hướng tới những sản phẩm hoàn chỉnh có chất lượng hơn.
- Giờ học phải thân thiện: giáo viên phải xây dựng được bầu không khí
thực sự thoải mái, tạo sự gắn kết giữ thầy và trò cũng như giữa các thành viên
trong lớp.

- Tích hợp kiến thức liên môn, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Tôi đã tiến hành khảo sát đối với học sinh khối 6 (6A3, 6A5) và khối 9
(9A3), trước khi áp dụng sáng kiến kết quả như sau:
Nhóm hs
Nhóm hs
Lớp
Số bài
Nhóm lỗi
tr.b - yếu
Khá - giỏi
khảo sát
SL
%
SL
%
Chính tả
84
30,4
29
10,5
6A3,
276
Dùng từ, đặt câu
111
40,2
29
10,5
6



6A5

Viết đoạn văn
140
50,7
57
20,7
Xây dựng bố cục bài làm
139
50,4
28
10,1
Chính tả
31
24,6
19
15,1
9A3
126
Dùng từ, đặt câu
42
33,3
25
19,8
Viết đoạn văn
51
40,5
21
16,7
Xây dựng bố cục bài làm

37
29,4
16
12,7
2.3. Những giải pháp cụ thể
Mỗi thầy cô giáo dạy học môn Ngữ Văn cần ý thức được rằng giờ trả bài
là một giờ học sinh động và có tác dụng nhiều mặt. Đây là giờ học được xây
dựng thực sự từ lao động trực tiếp của học sinh, từ vốn liếng nhiều mặt của các
em: vốn ngôn ngữ, vốn tri thức, vốn sống kết hợp với kĩ năng diễn đạt ở dạng
văn bản viết. Qua giờ học này, các em dễ nhận ra mặt mạnh và yếu; mà nhất là
mặt yếu, mặt hạn chế của mình để rút kinh nghiệm trong học tập và rèn luyện kĩ
năng làm văn ngày một tiến bộ hơn.
Như đã trình bày trên, muốn thực hiện tiết trả bài nghiêm túc, có hiệu quả
về mặt chuyên môn, chúng ta phải bắt đầu từ bước chấm bài.
2.3.1. Việc chấm bài của giáo viên
2.3.1.1. Chấm bài - nghệ thuật và kĩ thuật
a. Nói đến nghệ thuật là nói đến cách chấm bài. Có người chấm nhanh
nhưng vẫn chính xác, có người chấm chậm, đọc kĩ mà vẫn đánh giá không đúng
về bài làm của học sinh. Ngoài ra, còn là quan điểm, thái độ của nguời chấm đối
với bài làm.
b. Nói đến kĩ thuật là nói đến chuyên môn nghiệp vụ, tính khoa học trong
việc chấm bài thể hiện qua đáp án, biểu điểm cụ thể, vì vậy đòi hỏi phải công
bằng và chính xác không có sự sai lệch lớn trong cùng một lớp cũng như giữa
các thầy cô giáo trong cùng tổ chuyên môn.
Hiện tượng đánh giá không đúng bài làm của học sinh không phải là
hiếm. Có khi chênh nhau trong cùng một thang điểm, có khi độ chênh lại vượt ra
ngoài thang điểm. Thậm chí nhiều thầy cô giáo cho rằng độ chênh giữa các bài
làm tương đương về chất lượng có thể lên đến 1 hoặc 2 điểm là điều có thể cho
phép! Quan niệm dễ dãi ấy dẫn đến việc tùy tiện trong chấm bài Tập làm văn
của học sinh.

Theo tôi chúng ta phải dần dần thay đổi cách nghĩ như trên bởi vì thực
chất đó là sự không công bằng, thiếu chính xác, thiếu khoa học và không tôn
trọng thành quả lao động của học sinh.
2.3.1.2. Các yêu cầu khi chấm bài
a. Xác định các tiêu chí đánh giá bài làm của học sinh
Tiêu chí này được xây dựng trên cơ sở yêu cầu của đề bài về nội dung
kiến thức và rèn luyện kĩ năng viết văn bản, phương pháp làm bài.
Sở dĩ phải xây dựng tiêu chí đánh giá cho từng bài TLV vì mỗi bài văn là
một bước thể hiện yêu cầu giáo dục rèn luyện được chương trình hóa theo từng
kiểu bài nhất định.

7


Thực ra các tiêu chí này cũng đã được mỗi giáo viên xây dựng khi chấm
bài nhưng có thể cách xây dựng từng tiêu chí, từng thang điểm ở mỗi thầy cô
giáo là không thống nhất dẫn đến việc đánh giá học sinh có thể là không đồng
đều ở cùng một trình độ. Việc thống nhất tiêu chí chấm bài (hướng dẫn chấm) có
thể tránh được tình trạng chấm bài theo cảm tính.
b. Chấm bài
Giáo viên cũng cần căn cứ vào những yếu tố phổ biến nhất của học sinh
trong cùng một lớp để tiếp tục rèn luyện cho các em. Những yếu tố này được
giáo viên bộ môn đúc kết qua các bài làm trước, nhờ đó mà giáo viên có thể thấy
được sai sót phổ biến để tiếp tục sửa chữa không chỉ trong một bài làm mà cả
trong quá trình dạy học.
Bên cạnh đó, mỗi bài làm cũng tập trung vào một số trọng điểm rèn luyện
nhất định. Như vậy là bên cạnh việc chú ý lỗi phổ biến, ta cũng phải tập trung
vào việc rèn luyện các yêu cầu kiến thức, kĩ năng cụ thể. Đối với từng bài làm
cụ thể của học sinh, giáo viên lại phải theo dõi những chỗ yếu nhất để tiếp tục
uốn nắn, rèn luyện. Chấm một bài văn vừa là chấm theo yêu cầu chung cho cả

lớp, đồng thời lại còn chú ý đến yêu cầu riêng ở từng học sinh.
c. Về thái độ của giáo viên khi chấm bài
- Chấm bài văn không nên chấm theo kiểu thủ - vĩ nghĩa là chỉ đọc phần
mở bài và kết bài để đánh giá và cho điểm.
- Không nên chấm theo định kiến và ấn tượng với học sinh. Điều này dễ
dẫn đến việc không thấy được sự tiến bộ của học sinh yếu, cái hay của học sinh
trung bình - khá, sự chủ quan của học sinh khá - giỏi.
- Không nên tỏ rõ sự chê bai trên bài làm học sinh. Thay vào đó là những
lời nhận xét đánh giá, chỉ ra chỗ sai cụ thể. Có thể dung kí hiệu đã được quy ước
để nhắc nhở, những kí hiệu này cũng giúp ho giáo viên dễ dàng tổng hợp những
sai sót để nhận xét, đánh giá chung về bài làm của cả lớp trong một lượt làm bài.
d. Về lời phê
- Chấm bài xong phải ghi lời nhận xét cụ thể. Lời nhận xét phải thể hiện
hai phần: khen và chê. Phải thấy được sai sót tiêu biểu nhất, phải thấy được các
em có tiến bộ hay chưa để có hướng phấn đấu ở bài làm sau.
- Lời phê trong bài làm phải ân cần, chu đáo. Tránh những lời nhận xét
chung chung, ít bổ ích, chỉ mang tính xếp loại như: còn yếu, khá, thường, giỏi
… Tránh những lời phê thiếu trân trọng, thiếu tính khích lệ. Có ý kiến cho rằng
xem lời phê trên bài văn học sinh có thể thấy được người thầy dạy văn đó như
thế nào- nói như vậy thiết nghĩ rằng không phải là quá lời.
e. Về ghi điểm
Thường thì gíao viên có thể ghi điểm sau khi đã đọc, nhận xét tổng hợp về
bài làm, có đối chiếu với những bài làm trước.
Điểm số là kết quả cuối cùng của bài làm, của việc chấm bài. Điểm số tất
nhiên phải tuân theo những tiêu chí đánh giá được đặt ra nhưng cũng cần xem
xét theo tình hình chung của cả lớp và đặc thù của một số học sinh cần được
quan tâm đúng mức.
8



2.3.2. Tổ chức thực hiện tiết trả bài
Đây là phần trọng tâm của tiết học. Một giờ trả bài cũng cần được chuẩn
bị chu đáo trên giáo án theo một tiến trình sư phạm cần thiết. Qua thực tế dạy
học bộ môn, chúng tôi đúc rút quy trình tối ưu sau đây để tiết trả bài có thể đạt
được hiệu quả cao nhất.
2.3.2.1. Hoạt động 1: nêu những yêu cầu chính của bài làm.
- Căn cứ vào những dữ kiện về đề bài, về tình hình làm bài của học sinh,
giáo viên xác định các yêu cầu cụ thể về kiến thức, tư tưởng, kĩ năng, phương
pháp.
- Những yêu cầu đó phải được giáo viên công bố để định hướng cho học
sinh đánh giá kết quả làm bài của cả lớp và của bản thân học sinh.
2.3.2.2. Hoạt động 2: xây dựng dàn bài mẫu.
- Mục đích của việc xây dựng dàn bài mẫu là để cả lớp rút kinh nghiệm về
nội dung và phương pháp làm bài.
- Từng học sinh qua đó có thể tự mình rút kinh nghiệm chỗ được, chỗ
chưa được của mình qua bài làm.
- Nên dành thời gian cho học sinh thắc mắc về dàn bài mẫu.
- Có thể cho học sinh chép dàn bài mẫu để học tập và tự sửa bài ở nhà.
2.3.2.3. Hoạt động 3: tổng kết tình hình làm bài của học sinh.
Khi tổng kết về tình hình làm bài của học sinh cần nêu được:
- Tinh thần, thái độ của học sinh khi làm bài.
- Những ưu điểm và nhược điểm chính.
- Những cá nhân đáng biểu dương.
- Những hiện tượng đáng chú ý.
- Kết quả chung của cả lớp và của cá nhân tiêu biểu.
Khi tổ chức hoạt động này giáo viên nên có thái độ khen nhiều hơn chê.
Nếu là chê cũng nên ân cần, nhẹ nhàng để các em học sinh yếu khỏi có mặc cảm
về sự yếu kém của bản thân trong học tập bộ môn Ngữ Văn.
2.3.2.4. Hoạt động 4: trả bài cho học sinh.
- Sau khi học sinh đã nắm được yêu cầu bài làm và sơ bộ đánh giá bài làm

của mình, giáo viên mới trả bài cho học sinh.
- Trước khi trả bài, giáo viên cũng cần chuẩn bị tư tưởng chung cho cả
lớp.
- Đây là bước mà học sinh nôn nóng nhất bởi tâm lí học sinh bao giờ cũng
mong muốn biết điểm số của bài làm.
- Sau khi trả bài, giáo viên nên dành thời gian cho học sinh đọc lại bài làm
của mình cũng như của các bạn trong nhóm: xem lại những chỗ thầy cô giáo phê
hoặc lưu ý bằng mực đỏ. Đây là công việc cần thiết để học sinh chuyển sang
một hoạt động khác quan trọng hơn là sửa lỗi trong bài làm của mình, của bạn.
2.3.2.5. Hoạt động 5: sửa lỗi điển hình.
Đây là một trong những hoạt động quan trọng của tiết trả bài bởi mục đích
cao nhất của giờ sửa bài là phát hiện và khắc phục tồn tại của bản thân học sinh
9


trong làm văn và rút kinh nghiệm để sửa chữa trong các bài làm sau. Như trên
chúng tôi đã trình bày, muốn sửa bài chu đáo thì ở khâu chấm bài, giáo viên phải
chuẩn bị thật chu đáo, phải ghi chép thật cụ thể các lỗi tiêu biểu để việc định
hướng sửa bài có hiệu quả hơn. Việc sửa lỗi nên tập trung vào các mặt sau đây:
a. Sai sót về nội dung và phương pháp làm bài:
- Lỗi lạc đề: chưa hiểu đề nên sai lạc về nội dung và phương pháp.
- Lỗi lệch đề: chưa xác định đúng trọng tâm yêu cầu bài làm.
- Lỗi lậu đề: bỏ sót một số yêu cầu cần thực hiện trong đề bài.
b. Sai sót về hình thức bài làm:
- Nhóm lỗi về dùng từ, lỗi chính tả.
- Nhóm lỗi về viết câu văn, diễn đạt ý.
- Nhóm lỗi về đoạn văn, bố cục.
- Nhóm lỗi về trình bày bài làm ...
Khi hướng dẫn sửa lỗi nêu trên, giáo viên cần chuẩn bị các dẫn chứng cụ
thể lấy từ bài làm của học sinh. Tránh nói chung chung thiếu tính cụ thể sẽ

không có tác dụng sửa lỗi cho học sinh.
Có thể tổ chức hoạt động nhóm nhỏ để học sinh cùng thảo luận, phát hiện
và nêu hướng giải quyết.
Sau khi giáo viên hướng dẫn sửa bài chung, cho học sinh trao đổi bài làm
trong nhóm để cùng đọc và rút kinh nghiệm. Có thể cho các em chấm bài nhau,
cùng chỉ ra các sai sót trong bài làm và ghi vào phiếu học tập hoặc vở bài tập.
Giáo viên cũng nên dành thời gian cho học sinh nêu lên những thắc mắc
về bài làm của mình, của các bạn trong nhóm, kể cả những thắc mắc về điểm số.
Giáo viên có thể chủ động đến với một vài em mà mình biết rằng những
em đó có những vấn đề cần thắc mắc hay thất vọng.
2.3.2.6. Hoạt động 6: đọc bài văn tiêu biểu.
Có thể đọc một vài đoạn văn hay, nêu một vài ý hay hoặc đọc cả bài văn
tiêu biểu tùy theo tình hình lớp học.
Sau khi đọc, có thể cho học sinh nhận xét, đánh giá về bài văn, đoạn văn
ấy để các em cùng học tập.
Khi thực hiện hoạt động này, không nên tập trung vào một số học sinh
giỏi của lớp mà còn chú ý vào cả những em trung bình, khá nhưng có tiến bộ
trong làm bài để khuyến khích, động viên học sinh.Giáo viên không nêu tên học
sinh có bài viết mà giáo viên đã đọc cho cả lớp nghe.
2.3.2.7. Hoạt động 7: củng cố, dặn dò.
- Củng cố cho học sinh về phương pháp thực hiện kiểu bài.
- Nhấn mạnh những yêu cầu quan trọng trong việc tạo lập văn bản.
- Tổng kết các lỗi sai phổ biến, cơ bản để rút kinh nghiệm.
2.2.3. Giáo án tiết dạy thực nghiệm
Ngữ văn 9 - tiết 115. TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 5
I. MỤC TIÊU:
1. Kiến thức: giúp học sinh củng cố kiến thức viết bài nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống..
10



2. Kỹ năng: học sinh tự đánh giá, bổ sung kỹ năng viết bài nghị luận xã hội và
sửa chữa lỗi sai (nếu có).
3. Thái độ: học sinh có thái độ học tập ghiêm túc, có ý thức học hỏi thầy cô và
bạn bè.
4. Phương pháp dạy học:
- Sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề thông qua phát vấn và hệ thống câu
hỏi gợi mở.
- Phương pháp thẩm bình.
- Phương pháp thống kê, phân loại.
II. CHUẨN BỊ
1. Chuẩn bị của GV: chấm bài, tổng hợp lỗi sai, đánh giá.
2. Chuẩn bị của HS: tự ôn lại kiến thức, làm lại bài kiểm tra ở nhà.
III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Ổn định tình hình lớp: (1’) kiểm tra sĩ số học sinh.
2. Kiểm tra bài cũ: không kiểm tra.
3. Giảng bài mới:
a. Giới thiệu bài: (1’) để giúp các em nhận ra nhận ra những thành công hay
thất bại trong bài viết Tập làm văn số 5 vừa rồi, hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu
tiết 115- Trả bài tập làm văn số 5.
b. Tiến trình bài dạy:
TG Hoạt động của GV
Hoạt động của
Nội dung
HS
Đề bài
1’ - GV ghi đề lên - HSY đọc lại đề
Trong trường ta hiện
bảng. Gọi HS đọc lại bài viết.
nay có không ít hiện tượng

đề.
học sinh chạy nhảy lên bàn
ghế làm hỏng bàn ghế hay
viết vẽ, bôi bẩn lên tường,
bàn học và không có ý thức
giữ gìn, bảo vệ của công.
Em hãy viết bài văn
nêu ý kiến của mình về hiện
tượng trên.
3’ Hoạt động 1: hướng
I. Xác định yêu cầu chung
dẫn xác định yêu
của đề
cầu chung của đề.
- Thể loại: nghị luận về một
? Hãy xác định thể - HSTB trả lời.
sự việc, hiện tượng đời sống
loại, yêu câu về nội
- Nội dung: bày tỏ nhận xét,
dung của đề
suy nghĩ về hiện tượng thiếu
? Thế nào là nghị
ý thức trong việc bảo vệ của
luận về một sự việc,
công trong học sinh.
hiện tượng đời sống.
II. Lập dàn ý đại cương
10’ Hoạt động 2: hướng
1. Mở bài: giới thiệu về
11



TG

Hoạt động của GV

Hoạt động của
HS

Nội dung

dẫn lập dàn ý.
? Với yêu cầu của - HSY trả lời.
đề, em sẽ viết phần
mở bài như thế nào?
? Các ý chính trong
phần thân bài?

5’

? Kết bài nên viết
như thế nào cho hợp
lí?
Hoạt động 3: giáo
viên phát bài, nhận
xét kết quả bài viết
GV nhận xét ưu,
khuyết điểm của HS
khi viết bài.


hiện tượng thiếu ý thức
trong việc bảo vệ của công
của học sinh hiện nay nói
chung và học sinh trường
em nói riêng.
- HSTB trả lời
2. Thân bài:
- Mô tả những biểu hiện cụ
thể về hiện tượng thiếu ý
thức trong việc bảo vệ của
công trong học sinh.
- Phân tích nguyên nhân,
hậu quả của những hành vi
về hiện tượng thiếu ý thức
trong việc bảo vệ của công
trong học sinh.
- Bày tỏ thái độ, đưa ra
hướng khắc phục, giải quyết
tình trạng vi phạm trên.
- HSK trả lời
3. Kết bài: lời khuyên, nhắc
nhở mọi người nên có ý
thức bảo vệ của công.
III. Phát bài và nhận xét
ưu, khuyết điểm
1. Ưu điểm
- HS lắng nghe, - Đa số học sinh hiểu đề,
rút kinh nghiệm.
biết cách lập luận , đưa ra ý
kiến suy nghĩ và giải pháp

cho vấn đề
- Một số em viết văn khá
lưu loát, có phân tích chứng
minh thuyết phục… như bài
của em: Hà Anh, Trần
Chiến, Diễm Quỳnh, Lưu,
Bích Uyên,...
2. Khuyết điểm
- Các em có điểm dưới TB
vì nội dung bài viết sơ sài, lí
lẽ và trình tự lập luận chưa
thật chặt chẽ, dẫn dắt phân
tích còn xa đề.
- Một số em vẫn còn sai
12


TG

Hoạt động của GV

20’ Hoạt động 4: hướng
dẫn sửa lỗi
- GV chọn một số lỗi
sai tiêu biểu đọc để
cả lớp cùng sửa
(tránh nêu tên HS)

4’


Hoạt động 6: đọc
bài viết
Cho học sinh đọc 2
bài khá nhất để học
tập, 1 bài điểm TB

Hoạt động của
HS

Nội dung

chính tả, lỗi dùng từ, lỗi
- HS nhận bài.
diễn đạt…
IV. Sửa lỗi các loại
- HS theo dõi, sửa 1. Lỗi về thể loại
lại cho đúng.
Không có
- HS đọc bài, xem
lời nhận xét của
GV, sửa lỗi.
* Sửa chữa
2. Lỗi về diễn đạt, dùng từ
Hiện nay, nước ta - Hiện nay, nước ta đang
đang trong quá trong quá trình công nghiệp
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hóa, hiện đại hóa thì vấn đề giáo dục thế hệ
thì vấn đề giáo trẻ- thế hệ tương lai cho đất
dục thế hệ trẻ- thế nước. (câu chưa trọn vẹn ý)
hệ tương lai của

đất nước ý thức
bảo vệ của công là
hết sức cần thiết.
- Để xứng đáng là - Để đi đến thành công, mỗi
những chủ nhân học sinh chúng ta đều cần
tương lai của đất có những yếu tố vật chất cơ
nước, mỗi học bản để có thể bước lên. (câu
sinh chúng ta cần tối nghĩa)
nâng cao ý thức
trách nhiệm trong
việc trau dồi kiến
thức và rèn luyện
đạo đức.
- Ở các trường - Ở các trường học, ngoài
học, ngoài việc việc giáo dục nâng cao tri
giáo dục nâng cao thức cho học sinh thì việc
tri thức cho học giáo dục ý thức đạo đức
sinh thì việc giáo trong trường học. (diễn đạt
dục ý thức,đạo lủng củng, chưa rõ nghĩa)
đức là hết sức
quan trọng.
3. Sai chính tả
- tầm ngấm/ tầm ngắm
- rỗng toét/ rỗng tuếch
- cố gắn/ cố gắng
- lười biến/ lười biếng
13


TG


Hoạt động của GV

Hoạt động của
HS

rút kinh nghiệm
1’ Hoạt động 7: củng
cố
? Theo em để thành
công bài viết theo
yêu cầu của đề đã
cho cần phải viết
những gì và viết như
thế nào?
Thồng kê điểm:
Lớp Tổng 0-1,9đ 2- 3,4đ 3,5- 4,9đ 5- 6,4đ
số
HS SL % SL % SL % SL %
9A3 42
0 0 0 0 04 9, 09 21,4
5
4. Dặn dò HS chuẩn bị cho tiết học tiếp theo (1’)
- Về nhà sửa bài cho hoàn chỉnh.
- Chuẩn bị bài: Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)
2.4. Hiệu quả của vấn đề nghiên cứu
Sau khi áp dụng đề tài nghiên cứu, tôi thấy
quả về nhiều mặt, cụ thể như sau:

Nội dung


6,5-7,9đ
SL
24

%
57,
2

8-10đ

Ghi
chú

SL %
05 11,9

đề tài đã phát huy tính hiệu

Nhóm hs
Nhóm hs
Lớp
Số bài
Nhóm lỗi
tr.b - yếu
khá - giỏi
khảo sát
SL
%
SL

%
Chính tả
39
10,6
21
5,7
6A3,
368
Dùng từ, đặt câu
37
10,1
15
4,1
6A5
Viết đoạn văn
74
20,1
37
10,1
Xây dựng bố cục bài làm
74
20,1
11
3,0
Chính tả
16
9,5
8
4,8
9A3

168
Dùng từ, đặt câu
15
8,9
7
4,2
Viết đoạn văn
30
17,9
15
8,9
Xây dựng bố cục bài làm
33
19,6
6
3,6
- Tất nhiên chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố và việc chấm trả bài một cách khoa học, sư phạm cũng góp phần nâng cao
chất lượng bộ môn. Học sinh có hứng thú hơn trong giờ học, hiệu quả sửa bài
cao hơn, chất lượng bài làm được nâng lên.
- Thông qua việc chấm bài và trả bài giáo viên có thể giúp học sinh nhận
ra những sai sót, những hạn chế của các em và giúp các em khắc phục trong
những bài viết tiếp theo. Qua việc chấm bài và trả bài, giáo viên có thể tự đánh

14


giá quá trình dạy học của mình và có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy bộ
môn Ngữ văn.
- Lao động chấm bài là một việc làm có thể hiện nhiệt tình, trách nhiệm

và tâm huyết của người giáo viên đối với nghề nghiệp cũng như đối với học
sinh. Có thể thấy cả tình cảm và cách ứng xử của giáo viên đối với học sinh
trong việc chấm bài và trả bài. Thậm chí có người đặt vấn đề nếu đó là bài làm
của con em chúng ta thì liệu chúng ta có ghi những lời phê nặng nề hoặc phê
phán những lỗi sai một cách gay gắt hay không? Theo tôi tính sư phạm và tính
nhân văn của người dạy học môn Ngữ văn thể hiện rất rõ trong việc chấm bài và
trả bài cho học sinh.

15


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Quy trình chấm bài, trả bài là quy trình kĩ thuật, tỉ mỉ, công phu gắn liền
với tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, tình yêu thương quý trọng
thành quả lao động sang tạo của giáo viên đối với học sinh. Việc thực hiện tiết
trả bài trong tổ bộ môn thống nhất theo quy trình trên có thể xem là tiêu chuẩn
để đánh giá xếp loại đối với tiết trả bài.
Đề tài đã và đang thực hiện thống nhất tại tổ bộ môn Ngữ văn trường
THCS Quảng Nham, Quảng Xương, Thanh Hóa, nhận được sự đồng thuận của
tập thể giáo viên trong đơn vị. Đề tài cũng góp phần tháo gỡ những tranh cãi của
đa số giáo viên bộ môn Ngữ văn khi thực hiện dạy học loại bài này.
Đề tài đã góp phần giải quyết một trong nhiều yêu cầu chuyên môn còn để
ngõ và có thể nghiên cứu thành một chuyên đề để bồi dưỡng giáo viên.
3.2. Kiến nghị
Đối với tổ chuyên môn: đề nghị tăng cường công tác dự giờ thăm lớp để
cán bộ giáo viên có điều kiện được học hỏi, trao đổi chuyên môn nghiệp vụ. Tổ
chức học tập các chuyên đề đã được nghiên cứu để công tác nghiên cứu khoa
học có giá trị thiết thực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Đối với nhà trường: cần tăng cường trang bị các thiết bị dạy học hiện đại

tạo điều kiện cho giáo viên có thể sử dụng các phương pháp, phương tiện và kĩ
thuật dạy học hiện đại, tạo hứng thú cho học sinh học tập bộ môn Ngữ văn.
Đề nghị Hội đồng bộ môn Ngữ văn của Phòng Giáo dục nghiên cứu, triển
khai tập huấn để tạo tính thống nhất toàn đội ngũ trong việc thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn, đồng thời phát huy hiệu quả của chuyên đề.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi về dạy trả bài Tập
làm văn cho các em nhằm đem lại hiệu quả cao trong học tập ở
phân môn này. Tôi rất mong được sự giúp đỡ, tham khảo và
đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và mong được sự giúp đỡ của
lãnh đạo các cấp.
Quảng Xương, ngày 13
tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
NGƯỜI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
16


ĐƠN VỊ

Lê Hữu Hiền

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thúy Hồng - Nguyễn Quang Ninh (2008) Một số vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học môn Ngữ Văn THCS, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội.
2. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2001), Phương pháp dạy học văn, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Nguyễn Huy Quát - Hoàng Hữu Bội (2001), Một số vắn đề về phương pháp

dạy học văn trong nhà trường, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội.
4. Bộ GD ĐT- Vụ giáo dục Trung học (2005), Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
cho giáo viên THCS chu kì III (2004- 2007), ( Môn Ngữ văn, Quyển 1), Nhà
xuất bản Giáo Dục, Hà Nội.
5. Ngữ văn lớp 9 tập II ( 2015), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

17



×