Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Quy trinh dạy một bài tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.6 KB, 11 trang )

CHUYÊN ĐỀ NGỮ VĂN
Tổ: Văn Mĩ Nhạc
Năm học:2008 - 2009
QUY TRÌNH DẠY MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN
BẬC T.H.C.S
I./ Đặt vấn đề:
1) Lí do chọn đề tài:
Bộ môn Ngữ văn bậc THCS có ba phân môn: Văn, Tiếng Việt và Tập làm
văn.Thực chất, Tập làm văn là phần thực hành của hai phân môn Văn và Tiếng
Việt. Các môn học ở bậc THCS đều có phần thực hành nhưng trong đó hai môn
Toán và Ngữ văn có yêu cầu thực hành cao (ta hay gọi làm toán, làm văn).
Trong thực tế, bộ môn Toán có điều kiện thực hành nhiều hơn bộ môn Ngữ văn.
Ở phân môn Tập làm văn, mỗi kiểu bài, dạng bài được thực hành trong một bài
viết.Sau tiết trả bài, khi rút ra được những ưu khuyết điểm cho dạng bài đó thì
HS đã chuyển qua học dạng bài khác. Vì vậy, để dạy cho học sinh viết tốt một
bài tập làm văn, thầy giáo và học sinh cần thực hiện tốt các yêu cầu sau đây:
+ Về phía học sinh:
- Phải có vốn kiến thức cơ bản về Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn.
- Phải có vốn kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm đối với những vấn đề có
liên quan đến bài làm của học sinh, gợi được sự hứng thú trong quá trình viết.
+ Về phía người thầy:
Để giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn, người thầy có một vai trò hết sức
quan trọng trong việc tổ chức, hướng dẫn học sinh làm bài.Thực chất, đây là cả
một quá trình cần có sự đầu tư công phu bắt đầu từ khâu ra đề, hướng dẫn, chấm
chữa, nhận xét bài làm của học sinh cho đến khâu trả bài.
2) Thực trạng tình hình:
Qua tìm hiểu thực tế, việc thực hiện quy trình dạy một bài tập làm văn của
giáo viên vẫn còn một số thiếu sót nhất định ở nhiều khâu khác nhau:
a. / Ra đề:
+ Đề ra vượt quá khả năng hoặc còn xa lạ đối với học sinh.Ví dụ: Thuyết
minh về một loài cây, loài vật mà các em chưa thấy, chưa biết.


+ Đề ra quá cụ thể không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của học sinh
gây lúng túng, khó xử cho các em trong quá trình làm bài.Ví dụ: Với đề bài
“Hãy tả một buổi làm việc ban đêm của bố”, nhiều học sinh không làm bài được
vì những em đó không có bố, hoặc bố không làm việc vào ban đêm.
b. / Hướng dẫn làm bài:
+ Nhiều giáo viên quan niệm kiểm tra cũng như thi nên đề tập làm văn
cũng phải hoàn toàn bí mật và trong khi giám sát cũng phải hết sức nghiêm túc
theo kiểu “cán bộ coi thi không giải thích gì thêm” nên học sinh không được
hướng dẫn, định hướng trước khi làm bài.
1
+ Cũng có trường hợp, giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm bài bằng một
dàn bài mang tính áp đặt làm mất đi sự sáng tạo của các em trong quá trình làm
bài.
c. / Chấm chữa, phê bài của học sinh:
Trong khâu này, tình trạng giáo viên chấm bài qua loa, không chữa, không
phê, hoặc phê ngắn gọn, chung chung vẫn còn.Hoặc vẫn có tình trạng giáo viên
chữa quá nhiều, đỏ cả bài làm của học sinh, lời phê chưa có tính chất động viên
làm giảm sút tinh thần học tập của học sinh.
d. / Trả bài cho học sinh:
Có một số giáo viên không soạn kĩ tiết trả bài nên tác dụng của tiết này
không cao. Giáo viên chỉ nhận xét qua loa chiếu lệ rồi trả bài, chưa có những tác
dụng tích cực, hỗ trợ những kiến thức cơ bản cho học sinh giúp các em viết tốt
hơn những bài tập làm văn tiếp theo.
Để khắc phục những tồn tại trên và thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn, trong đó có đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá, tổ
Văn Mĩ Nhạc trường THCS TT Phú Bài triển khai chuyên đề “Quy trình dạy
một bài Tập làm văn bậc THCS” giúp các em có thể viết tốt hơn bài tập làm văn
của mình.
II./ Quy trình dạy một bài Tập làm văn:
Để dạy tốt phân môn tập làm văn, người giáo viên, ngoài việc truyền thụ,

hướng dẫn cho học sinh kiến thức, phương pháp làm từng kiểu bài, dạng bài
còn phải chú ý nhiều khâu: từ khâu ra đề đến khâu trả bài cho học sinh.
1) Ra đề:
Thông thường, khi ra đề, giáo viên chọn một trong hai cách: lấy các đề có
sẵn trong sách giáo khoa hoặc giáo viên tự ra đề. Mỗi cách đều có những ưu
điểm và những hạn chế riêng:
* Giáo viên lấy các đề có sẵn trong sách giáo khoa:
+ Ưu điểm: Đây là những đề chuẩn, sát hợp với yêu cầu của kiến thức;
học sinh có điều kiện tham khảo, định hướng nội dung, phương pháp làm bài,
làm cho bài viết của các em đúng hướng, đúng trọng tâm.
+ Hạn chế: Thường dễ gây sự nhàm chán, học sinh có sự chuẩn bị theo lối
học tủ.
* Giáo viên tự ra đề:
+ Ưu điểm: Tránh được sự nhàm chán nói trên và tình trạng học sinh học
tủ, chuẩn bị theo những bài văn mẫu thường gặp.
+ Hạn chế: Nếu không cẩn thận đề ra có thể sẽ không sát với yêu cầu kiến
thức, phương pháp làm bài.
Nói chung, khi ra một đề tập làm văn, giáo viên phải chú ý đến một số yêu
cầu sau:
a./ Tính sát hợp:
Đề ra phải sát hợp với nội dung chương trình, phù hợp với điều kiện học
tập của trường, tình hình thực tế của địa phương, của học sinh.Đề ra phải vừa
sức, chú ý những yêu cầu cần đạt về nội dung, phương pháp làm bài, bảo đảm
cho nhiều em có thể làm được. Để tránh tình trạng học sinh không làm bài được,
giáo viên nên ra đề mở hoặc cho học sinh chọn một trong hai đề để làm. Ví dụ:
2
Ở lớp 8, 9 thay vì cho học sinh thuyết minh về một loài cây cụ thể thì có thể cho
các em thuyết minh về một loài cây đặc sản ở quê em; ở lớp 6, 7 thay vì cho học
sinh kể ( tả, biểu cảm ) về bố, mẹ thì có thể yêu cầu các em kể ( tả, biểu cảm ) về
một người thân trong gia đình.

b./ Tính giáo dục:
Khi ra một đề tập làm văn ở bất kì kiểu bài nào, người giáo viên phải chú ý
đến tính giáo dục:
+ Đối với kiểu bài tự sự: Tính giáo dục nằm ngay trong cốt truyện, trong chủ
đề. Ví dụ đối với đề kể về một việc làm tốt, qua nội dung câu chuyện, học sinh
thấy được những việc cần làm mà nhân điển hình; đối với đề kể về một lỗi lầm
thì qua nội dung câu chuyện, các em phải thể hiện được sự ăn năn, hối hận để
khắc phục, hướng đến cái thiện, cái tốt.
+ Đối với kiểu bài miêu tả: Tính giáo dục nằm ở đối tượng miêu tả. Ra đề tả
cảnh trường em trong lúc cơ sở vật chất của trường đang xuống cấp trầm trọng
thì khó có thể giáo dục cái đẹp và lòng yêu mến trường được.
+ Đối với kiểu bài nghị luận: Tính giáo dục đặt ra rất rõ trong vấn đề nghị
luận. Vấn đề nghị luận phải hướng đến chân, thiện, mĩ và qua bài làm, các em
phải biết phân biệt đúng - sai, tốt - xấu, những việc nên làm hoặc cần tránh.
+ Đối với kiểu bài biểu cảm: Tính giáo dục nằm ở đối tượng biểu cảm.Tình
cảm trong văn biểu cảm phải là tình cảm đẹp, thấm nhuần tư tưởng nhân văn.
Bài làm phải thể hiện được tình yêu thương con người, yêu mến thiên nhiên, yêu
Tổ quốc, ghét những thói tầm thường, độc ác.
+ Đối với kiểu bài thuyết minh: Tính giáo dục nằm ở đối tượng và phương
pháp thuyết minh. Ví dụ thuyết minh về một danh nhân văn hóa, hoặc phương
pháp làm một món ăn, một đồ chơi…
+ Đối với kiểu bài hành chính công vụ cũng cần phải chú ý đến tính giáo
dục.Thông qua yêu cầu nội dung văn bản cụ thể để giáo dục cho học sinh tính
trung thực , hướng học sinh đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
c./ Tính bảo mật:
Những đề kiểm tra học kì, thi tốt nghiệp (nếu có) thì cần có sự bảo mật
tuyệt đối. Nhưng đối với những tiết kiểm tra trên lớp, giáo viên nên định hướng
một số nội dung trọng tâm hoặc một số đề có thể ra. Một số kiểu bài như miêu
tả, thuyết minh cần tổ chức cho học sinh có sự chuẩn bị chu đáo như quan sát,
tìm hiểu trước, không nên yêu cầu miêu tả hoặc thuyết minh những đối tượng

quá xa lạ với các em.
d./ Tính chính xác:
Đề bài tập làm văn phải được ghi đúng từ, đúng chính tả, ngữ pháp, dấu
câu.Trong tiết kiểm tra, nếu học sinh không được phát đề thì giáo viên phải ghi
lên bảng; sau khi học sinh chép xong, giáo viên nên cho học sinh dò lại từng câu
chữ, chú ý cho các em những từ ngữ quan trọng.
Nói tóm lại, khi ra một đề tập làm văn, giáo viên cần phải nắm chắc yêu
cầu của bài viết (về hình thức và nội dung), nắm được ý đồ ra đề của sách giáo
khoa để chọn một đề bài thích hợp, bảo đảm các yêu cầu nêu trên.
2) Hướng dẫn và giám sát việc làm bài của học sinh:
a./ Hướng dẫn:
3
Trong tiết kiểm tra viết bài tập làm văn định kì trong chương trình ( không
kể bài kiểm tra học kì, các cuộc thi ), trước khi học sinh bắt tay vào làm bài, giáo
viên nên có những hướng dẫn chung, giúp các em có những định hướng cơ bản
để làm bài. Nội dung hướng dẫn có thể là:
+ Xác định yêu cầu của đề (hình thức, nội dung, phạm vi giới hạn…)
+ Nhắc lại quy trình làm bài.
+ Gợi ý dàn bài chung .
b. / Giám sát việc làm bài:
Trong quá trình học sinh làm bài, giáo viên cần có sự quán xuyến chung.
Không nên đi lại và nhắc nhở quá nhiều làm cho học sinh mất tập trung.Cũng
không nên ngồi một chỗ quá lâu hoặc làm việc riêng.Cần chú ý một vài đối
tượng học sinh yếu để động viên, nhắc nhở, có thể gợi một vài ý nhỏ để học sinh
định hướng cách làm bài.Gần cuối giờ, giáo viên nên thông báo thời lượng còn
lại để học sinh chủ động làm bài, có thời gian kiểm tra lại bài.

3) Chấm bài:
Chấm bài là một công việc quan trọng và vất vả nhất của người giáo viên
nhằm đánh giá đúng kết quả làm bài của các em.Khâu chấm bài phải trải qua

nhiều thao tác: xây dựng đáp án - thang điểm, đọc bài, sữa lỗi, phê , ghi điểm…
Mỗi thao tác cần có những yêu cầu riêng.
a./ Xây dựng đáp án, thang điểm:
Đáp án thực chất là những yêu cầu cơ bản về nội dung và hình thức của
bài tập làm văn.
+ Về hình thức: Thông thường có những yêu cầu:
- Kiểu bài, dạng bài, yêu cầu khác.
- Bố cục, liên kết.
- Chính tả, ngữ pháp, chữ viết.
+ Về nội dung: Chỉ nên định hướng những ý chính cần đạt, không nên có
những yêu cầu quá cụ thể, làm mất khả năng sáng tạo của học sinh.
Trên cơ sở đáp án, giáo viên xây dựng cho mình một thang điểm phù hợp.
Hiện nay có hai cách xây dựng thang điểm:
+ Thang điểm theo loại: Giỏi (9- 10đ), khá (7- 8đ), trung bình (5- 6đ), yếu
(3-4đ), kém ( 0- 2đ). Mỗi loại đề ra những yêu cầu cơ bản về nội dung và hình
thức.
+ Thang điểm theo bố cục: Mở bài (? đ), thân bài (? đ), kết bài (? đ). Mỗi
phần cũng đề ra những yêu cầu cơ bản về nội dung và hình thức.
Dù là xây dựng thang điểm theo kiểu nào thì cái đích cuối cùng là điểm số
phải đánh giá đúng năng lực làm bài của học sinh thể hiện qua hai mặt nội dung
và hình thức.
b./ Đọc bài và sửa lỗi:
Trước khi chấm từng bài, giáo viên có thể đọc lướt qua một số bài để nắm
tình hình chung. Nên sắp xếp thời gian chấm cho một đề bài hoặc của một lớp,
tránh tình trạng rảnh khi nào chấm khi đó làm cho việc chấm bài khó đều tay
hơn.
4
Khi chấm bài, giáo viên nhất thiết phải dùng mực đỏ.Trong quá trình
chấm phải sửa chữa lỗi và phát hiện, tuyên dương những ưu điểm của bài làm.
Tất cả những điểm khen chê đều phải được đánh dấu bằng kí hiệu hoặc nhận xét

ngắn gọn ở bên lề, không nên chữa đè lên bài làm của học sinh.Có thể quy ước
một số kí hiệu về lỗi như sau:
- ct : chính tả.
- np: ngữ pháp.
- dt : dùng từ.
- dđ: diễn đạt còn vụng về, lủng củng.
- …
Những ưu điểm nổi bật cùng với những tồn tại trong bài làm của học sinh
cần được tập hợp lại thành một bảng tổng hợp để tiện cho giáo viên nhận xét,
đánh giá, sửa lỗi hoặc tuyên dương khi trả bài. (Xem phụ lục ở cuối bảng ).
c./ Phê bài và ghi điểm:
Đây là một thao tác cực kì quan trọng, có tính chất quyết định việc đánh giá
bài làm của học sinh.Giáo viên căn cứ vào lời phê để lượng hóa bằng điểm cho
chính xác.Chú ý có sự kết hợp và thống nhất giữa chữa, phê và ghi điểm. Nếu
không chữa mà phê thì lời phê cũng không có tác dụng mấy.Chữa quá nhiều đến
mức đỏ cả vở thì học sinh cũng cảm thấy bức xúc, xấu hổ, không còn hứng thú
để làm những bài khác nữa.Trong lúc chấm chữa bài làm của các em, giáo viên
nên tránh những bực bội, cáu gắt không cần thiết.Khi chấm chữa cần ghi, phê
cẩn thận, súc tích giúp các em vừa đánh giá được bài làm của mình vừa rút ra
được những kinh nghiệm cho những bài viết sau.
Trên cơ sở kết quả bài làm thể hiện qua việc nhận xét, chữa, phê bài, giáo
viên đối chiếu với thang điểm để ghi điểm cho học sinh. Điểm số phản ánh kết
quả làm bài của học sinh, vì vậy giáo viên cần cân nhắc kĩ khi hạ bút ghi điểm
cho các em.
d. / Trả bài:
+ Khâu chuẩn bị:
- Cần chuẩn bị bài soạn tiết trả bài một cách đầy đủ: mục tiêu cần đạt,
những ưu điểm chính, những lỗi cơ bản về từng mặt và hướng khắc phục sửa
chữa, những bài làm, những đoạn văn hay.
- Có thể phát bài cho học sinh trước tiết trả bài 1- 2 ngày để học sinh xem

trước.
+ Một số trình tự chính trong tiết trả bài:
- Chép đề, tìm hiểu và nêu yêu cầu của đề.
- Nhận xét ưu khuyết điểm cơ bản trong bài làm của các em về nội dung
và hình thức.
- Phân tích và chữa lỗi.
- Xây dựng dàn bài mẫu.
- Đọc bài văn, đoạn văn hay.
- Trả bài (nếu chưa trả trước)
- Giải đáp thắc mắc, động viên, nhắc nhở học sinh các bài làm sau.
5

×