Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Biện pháp nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12, TP hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 81 trang )

CHƢƠNG 1 : TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Chương này giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu bằng cách vẽ một
bức tranh tổng thể về những nội dung sẽ trình bày: (1) Lý do tác giả chọn đề tài
tuân thủ thuế của doanh nghiệp tại Chi cục thuế quận 12 làm đề tài nghiên cứu;
(2) Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu của đề tài; (3) Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu của đề tài; (4) Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu của mình; (5) Những
đóng góp của đề tài; (6) Kết cấu của đề tài.
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, kết quả số thu ngân
sách hàng năm tại các cơ quan thuế từ Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương cho đến các Chi cục Thuế quận, huyện là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của cơ quan thuế. Nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ
và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên trên thực tế, một số người nộp
thuế vẫn có quan niệm xem việc nộp số tiền thuế vào ngân sách Nhà nước là sự
mất đi một số tiền nhất định, thực hiện việc nộp thuế chỉ là nghĩa vụ không thể
tránh né được nếu có cơ hội không nộp thuế hoặc giảm bớt được số tiền thuế
phải nộp mà không bị xử lý thì họ có thể sẽ không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Cục Thuế TP.HCM nói chung và Chi Cục Thuế quận 12 nói riêng phải đối
mặt với một trong những thách thức lớn trong công tác quản lý thuế là làm thế
nào để hạn chế thất thoát nguồn thu thuế và nhờ đó nâng cao mức độ tuân thủ
thuế. Mức tuân thủ thấp ảnh hưởng nhất định đến tăng trưởng và phát triển kinh
tế. Chi cục thuế quận 12 đang thực hiện cơ chế quản lý thuế mới, người nộp thuế
tự khai, tự nộp thuế với chủ trương tăng cường tính chủ động, tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật trong thực hiện nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp, trong đó
doanh nghiệp được chủ động và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của mình theo
quy định của pháp luật. Mục đích của cơ chế này nhằm để doanh nghiệp tự kê
khai, tự tính toán số thuế phải nộp, tự nộp thuế cho ngân sách nhà nước theo
đúng thời hạn luật quy định và tự chịu trách nhiệm về việc kê khai, nộp thuế của
1



mình; cơ quan quản lý thuế không can thiệp trực tiếp vào việc kê khai, nộp thuế
của doanh nghiệp trừ trường hợp phát hiện ra các sai sót, vi phạm hoặc có dấu
hiệu không tuân thủ thuế. Tuy nhiên, trong trường hợp động cơ tuân thủ của
doanh nghiệp kém cùng với năng lực quản lý của cơ quan thuế cũng yếu kém,
không thể phát hiện các hành vi gian lận thuế của doanh nghiệp, cơ chế tự khai
tự nộp sẽ không phát huy được hiệu quả. Chính vì vậy, nền tảng của quản lý
thuế hiện đại là hướng đến và phát huy cao nhất tính tự giác tuân thủ pháp luật
của doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra hàng đầu trong công tác quản lý thuế hiện nay tại Chi Cục
thuế quận 12 là làm thế nào để người nộp thuế tự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
của mình đúng theo pháp luật quy định, có như vậy công tác quản lý thuế mới
mang lại hiệu quả.
Xuất phát từ vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao hành
vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12, TP. Hồ Chí Minh” làm
luận văn thạc sỹ kinh tế.
1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Mục tiêu của đề tài:
Mục tiêu tổng quát của đề tài là xác định và lượng hóa các yếu tố liên
quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12. Trên cơ
sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh
nghiệp trên địa bàn quận 12. Cụ thể:
- Xác định các yếu tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh
nghiệp trên địa bàn quận 12.
- Điều chỉnh thang đo các yếu tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của
doanh nghiệp trên địa bàn quận 12.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh
nghiệp trên địa bàn quận 12.
Câu hỏi nghiên cứu:
2



Một là, yếu tố nào liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp
trên địa bàn quận 12?
Hai là, thang đo nào được sử dụng để đo lường các yếu tố tác động liên
quan đến hành vi tuân thủ thuế?
Ba là, giải pháp nào là cần thiết để nâng cao hành vi tuân thủ thuế của
doanh nghiệp trên địa bàn quận 12?
1.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hành vi tuân
thủ thuế của các doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu của đề tài được thực hiện trong phạm
vi sau đây:
- Về không gian: Các doanh nghiệp trên địa bàn quận 12, TP.Hồ Chí
Minh.
- Về thời gian:
Nghiên cứu định tính: Thực hiện thảo luận nhóm cùng đại diện các doanh
nghiệp kê khai thuế trên địa bàn quận 12 trong tháng 12/2015.
Nghiên cứu định lượng: Thực hiện khảo sát doanh nghiệp kê khai thuế
trên địa bàn quận 12 trong tháng 2/2016.
1.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Quy trình nghiên cứu:
Quy trình nghiên cứu của tác giả sẽ được thực hiện qua 2 giai đoạn bao
gồm nghiên cứu định tính và định lượng. Dữ liệu thu thập được xử lý bằng phần
mềm SPSS for Window 20.0.
Trong bước thứ nhất, tác giả tập hợp cơ sở lý luận (bao gồm hai nội dung
nghiên cứu cơ bản): (i) Tập hợp cơ sở lý luận về hành vi tuân thủ thuế của các
doanh nghiệp; (ii) Thực hiện tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm để thiết kế
dàn bài thảo luận nhóm với doanh nghiệp kê khai thuế phục vụ cho nghiên cứu
3



định tính nhằm xác định các yếu tố liên quan đến việc tuân thủ thuế của các
doanh nghiệp kê khai thuế trên địa bàn quận 12.
Trong bước thứ hai, tác giả tiến hành kiểm định thang đo và các giả thuyết
trong mô hình nghiên cứu trên cỡ mẫu khảo sát là 300 mẫu theo phương pháp
lấy mẫu thuận tiện. Dữ liệu thu thập được sử dụng để đánh giá thang đo bằng
công cụ phân tích độ tin cậy, phân tích nhân tố khám phá EFA và hồi quy tuyến
tính OLS để đo lường các nhân tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hành vi tuân thủ
thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12.
Mẫu nghiên cứu:
Giai đoạn nghiên cứu định tính: Tác giả thực hiện nghiên cứu định tính
thông qua thảo luận nhóm với 10 người là kế toán trưởng của các doanh nghiệp
kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận 12.
Giai đoạn nghiên cứu định lượng: Tác giả sẽ thực hiện khảo sát trên cỡ
mẫu là 300 mẫu. Đối tượng khảo sát: Doanh nghiệp kê khai thuế trên địa bàn
quận 12 theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện.
Kỹ thuật xử lý dữ liệu:
Dữ liệu sau khi thu thập từ doanh nghiệp kê khai thuế trên địa bàn quận 12,
các bảng câu hỏi sẽ được xem xét và loại đi những bảng không đạt yêu cầu. Sau
đó dữ liệu sẽ được mã hóa và làm sạch bằng phần mềm SPSS for Windows 20.0.
Kế tiếp, dữ liệu thu thập được sử dụng để đánh giá thang đo bằng công cụ
phân tích độ tin cậy (Reliability Analysis) thông qua hệ số Cronbach Alpha,
phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratary Factor Analysis), và hồi quy
tuyến tính để kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu.
1.5.

ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

4



- Đề tài xác định được các yếu tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của
doanh nghiệp trên địa bàn quận 12, TP.HCM;
- Đề tài giúp nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp kê khai
thuế trên địa bàn quận 12, TP.HCM;
- Đề tài là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên và các nhà nghiên
cứu trong lĩnh vực thuế.

1.6.

KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI: Đề tài được kết cấu thành 05 chương

Chƣơng 1: Tổng quan đề tài nghiên cứu
Tác giả sẽ trình bày lý do chọn đề tài; mục tiêu, đối tượng, phạm vi
nghiên cứu của đề tài; phương pháp nghiên cứu của đề tài; đóng góp của đề tài
và kết cấu của đề tài.
Chƣơng 2: Cơ sở lý luận về tuân thủ thuế
Tác giả trình bày cơ sở luận về hành vi tuân thủ thuế bao gồm: Mô hình lý
thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về hành vi tuân thủ thuế của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó, đề xuất mô hình và các giả thuyết nghiên cứu của mình.
Chƣơng 3: Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sẽ trình bày về phương pháp nghiên cứu được sử dụng để đo
lường các yếu tố liên quan đến việc tuân thủ thuế của các doanh nghiệp tại Chi
Cục Thuế quận 12.
Chƣơng 4: Kết quả nghiên cứu
Tác giả sẽ trình bày về thực trạng hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp
tại Chi cục Thuế Quận 12; kết quả khảo sát các hành vi tuân thủ thuế của các
doanh nghiệp.
Chƣơng 5: Kết luận và biện pháp nhằm cải thiện việc tuân thủ thuế của các

doanh nghiệp tại Chi Cục Thuế quận 12, TP. Hồ Chí Minh.

5


Tác giả trình bày gợi ý một số biện pháp nhằm nâng cao hành vi tuân thủ
thuế của doanh nghiệp; hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo.

6


CHƢƠNG 2 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUÂN THỦ THUẾ
2.1. LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI TUÂN THỦ THUẾ
2.1.1. Định nghĩa tuân thủ thuế
Tuân thủ thuế được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Andreoni & Ctg
(1998) nhấn mạnh tuân thủ thuế nên được định nghĩa là sự sẵn lòng của người nộp
thuế tuân theo pháp luật về thuế để đạt được trạng thái cân bằng kinh tế của một đất
nước.
Trong khi đó Jackson & Milliron (1986), Alm (1991) lại cho rằng tuân thủ
thuế là báo cáo tất cả thu nhập, thanh toán toàn bộ nghĩa vụ thuế bằng cách thực
hiện các điều khoản quy định của luật, pháp lệnh, hoặc phán quyết của tòa án.
Theo James & Alley (1999), “tuân thủ thuế theo cách hiểu đơn giản nhất là mức
độ người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ thuế được quy định trong luật thuế” [23].
Kirchler (2007) đưa ra một định nghĩa đơn giản hơn, tuân thủ thuế là một
thuật ngữ trung lập nhất miêu tả việc người nộp thuế sẵn sàng nộp tiền thuế
Theo góc độ rộng về tuân thủ thuế, Song & Yarbrough (1978) cho rằng do
khía cạnh hoạt động đáng chú ý của hệ thống thuế Hoa Kỳ là người nộp tự xác
định nghĩa vụ thuế của mính và tự nguyện tuân thủ thuế, điều này có thể hiểu là
khả năng người nộp thuế và sự sẵn lòng tuân thủ luật thuế được xác định bởi vấn
đề đạo đức, môi trường pháp lý, và các yếu tố tình huống khác tại từng thời gian

và địa điểm cụ thể. Với quan điểm một số cơ quan thuế cũng xem tuân thủ thuế
là khả năng và sự sẵn lòng của đối tượng nộp thuế thực hiện theo quy định của
pháp luật thuế; kê khai thu nhập chính xác mỗi năm và thanh toán đủ số tiền thuế
đúng thời gian quy định [41].
Ở góc độ chi tiết hơn, Singh và cộng sự (2003) cho rằng tuân thủ thuế là
hành động của một người nộp tờ khai thuế, công khai chính xác tất cả các khoản
thu nhập chịu thuế và thanh toán tất cả các khoản thuế phải nộp trong thời hạn
quy định mà không phải chờ đợi hành động của cơ quan thuế. Trên cơ sở đó,
7


tuân thủ thuế được tách biệt thành 2 quan điểm: tuân thủ quan điểm về quản lý
hành chính và tuân thủ theo quan điểm hoàn thành chính xác tờ khai thuế. Tuân
thủ theo quan điểm quản lý hành chính bao gồm đăng ký và thông báo với cơ
quan thuế tình trạng của người nộp thuế, nộp tờ khai thuế mỗi năm (nếu cần) và
tuân thủ khuôn khổ về thời gian thanh toán theo yêu cầu [9]. Nghĩa là, tuân thủ
thuế đòi hỏi người nộp thuế phải đạt được một mức độ trung thực nhất định, có
kiến thức thuế đầy đủ và khả năng sử dụng kiến thức này để hoàn thành tờ khai
thuế và các hồ sơ có liên quan kịp thời, chính xác và đầy đủ [30]. Cùng quan
điểm với Singh & Ctg (2003) cho rằng tuân thủ thuế trở thành một vấn đề chủ
yếu trong hệ thống tự khai thuế bởi vì tổng số tiền thuế phải nộp phụ thuộc rất
nhiều vào mức độ tuân thủ của người nộp thuế mặc dù không thể tránh khỏi việc
cơ quan thuế sẽ tìm kiếm thông tin từ những người nộp thuế khác trong khu vực
để giảm thiểu rủi ro xảy ra các trường hợp không tuân thủ, hoặc họ sẽ thường
xuyên thực hiện việc kiểm tra nhiều loại thuế khác nhau, và bằng những hình
thức khác chẳng hạn giáo dục kiến thức thuế nhằm tạo ra những tác động nhất
định đến việc tuân thủ thuế của người nộp thuế [41].
Một số tác giả khác đã xem xét tuân thủ thuế từ một góc độ khác.
Allingham & Sandmo (1972) mô tả tuân thủ thuế là một vấn đề “báo cáo thu
nhập thực tế” và cũng tuyên bố rằng hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế bị

ảnh hưởng bởi một số tình huống mà trong đó có thể người nộp thuế đưa ra
quyết định trong tình trạng không chắc chắn [10]. Tức là người nộp thuế có thể
sẽ được hưởng một khoản tiền thuế tiết kiệm được do khai báo thấp thu nhập
tính thuế hoặc đối với các khoản thu nhập không khai báo, họ sẽ bị phạt với một
tỷ lệ cao hơn so với khoản thu nhập được kê khai đầy đủ và chính xác về thời
gian. McBarnet (2001) đề nghị tuân thủ thuế nên được nhìn nhận trong 3 cách,
cụ thể là: cam kết tuân thủ_sẵn sàng nộp thuế mà không khiếu nại; tuân thủ có
điều kiện miễn cưỡng nộp tờ khai và nộp thuế; tuân thủ có sáng tạo để giảm
thiểu nghĩa vụ thuế bằng cách tận dụng khả năng để xác định lại thu nhập và
khấu trừ các khoản chi phí theo quy định của luật thuế. Spice & Lundstedt
8


(1976) nhận thức mức độ tuân thủ thuế là một hình thức đặc biệt của sự may rủi
(trong đó có liên quan đến khả năng phát hiện và xử phạt), đòi hỏi cơ quan thuế
phải hiểu được các yếu tố tác động đến quyết định tuân thủ thuế của người nộp
thuế [42].
Tuân thủ thuế không phải là một quá trình tự thân mà trái lại, nó chịu tác
động từ các yếu tố bên ngoài. Allingham & Sandmo (1972), Spicer & Lundstedt
(1976), Lewis (1982) và Andreoni & Ctg (1998) mô tả các đặc điểm và giải
thích tuân thủ thuế là kết quả của tương quan giữa các biến bao gồm nhận thức
về sự công bằng, hiệu quả và sự tương tác giữa chúng. Các khía cạnh khác thi
hành thuế chẳng hạn như hình phạt và khả năng phát hiện cũng ảnh hưởng đến
tuân thủ thuế trong khi các yếu tố khác về hành vi của thị trường lao động như
tiền lương của một cá nhân và biểu thuế cũng góp phần vào tuân thủ thuế [35].
Hệ thống thuế hiệu quả cũng ít công bằng hơn khi xảy ra trường hợp những
người giàu trốn tránh một phần thuế lớn hơn so với người nghèo [1]. Bất kỳ nỗ
lực không tuân thủ thuế nào đều ảnh hưởng đến hiệu quả thuế và chi phí tuân
thủ. Các khoản thu nhập không được báo cáo sẽ bóp méo số thu thuế [1].
Tóm lại, tuân thủ thuế là một khái niệm rộng và có thể được xem xét từ

nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm tài chính công, kinh tế học, pháp lý và cũng
có thể là tâm lý học và được tóm tắt trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Mô tả các cách tiếp cận khác nhau về tuân thủ thuế
Tuân thủ thuế

Cách tiếp cận kinh tế

Cách tiếp cận hành vi

Góc độ tiếp cận

Tuân thủ 100% quy định Tự nguyện, sẵn sàng hành
về thuế so với thực tế, động theo tinh thần và từng
xét trên góc độ hẹp.
quy định của luật thuế, xét
trên góc độ rộng hơn.

Quyết định tuân thủ

Dựa trên sự hợp lý về lợi Dựa trên hành vi hợp tác
ích kinh tế.
giữa người nộp thuế và cơ
quan thuế.

Mức độ chi tiết

Cân nhắc lựa chọn:

9


Mỗi cá nhân không chỉ đơn


(1) Lợi ích mong đợi từ thuần là một cá thể độc lập
việc trốn thuế.
chỉ biết tối đa hoá lợi ích cá
(2) Rủi ro bị phát hiện và nhân. Họ tương tác theo
thái độ, niềm tin, tiêu chuẩn
mức bị phạt.
và vai trò khác nhau. Thành
(3) Tối đa hóa thu nhập công dựa trên sự hợp tác.
và của cải cá nhân.
Tuân thủ thuế

Hiệu quả trong việc phân Hợp lý, công bằng và phạm
phối nguồn lực.
vi tác động tích cực.

Hình ảnh người nộp thuế Ích kỷ tính toán lợi ích “Công dân tốt”.
và thiệt hại bằng tiền.
(Nguồn: [23])

Trong phạm vi đề tài này, tập trung chủ yếu là để khai thác thêm về cách
tiếp cận thứ hai với khía cạnh hành vi được nhấn mạnh hơn so với cách tiếp cận
hợp lý về kinh tế. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã nỗ lực để định nghĩa tuân
thủ thuế, dựa trên mục đích của nghiên cứu này phù hợp với định nghĩa của IRS
(2009), ATO (2009), IRB (2009), ALM (1991), Jackson & Milliron (1986),
Kirchler (2007). Khái niệm tuân thủ thuế được đo lường qua việc đánh giá sự
sẵn lòng của người nộp thuế để tuân theo luật thuế, khai báo chính xác thu nhập,
xác nhận chính xác các khoản khấu trừ, giảm thuế và thanh toán các khoản thuế

đúng hạn.
2.1.2. Các nhân tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế
Các nhân tố tác động đến hành vi tuân thủ thuế là đề tài thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu. Hầu hết các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến
tuân thủ thuế đều tiếp cận vấn đề theo hai cách tiếp cận cơ bản. Một là phân tích
quyết định tuân thủ dựa trên việc phân tích kinh tế, so sánh lợi ích và chi phí của
việc tuân thủ và không tuân thủ, những giá trị có thể nhận được khi tuân thủ hoàn
toàn (chẳng hạn như các phần thưởng mang tính chất khích lệ). Cách tiếp cận còn
lại nghiên cứu các nhân tố tác động đến quyết định tuân thủ liên quan đến cách cư
xử của người nộp thuế hoặc cơ quan thuế. Cách tiếp cận này thiên về khoa học

10


hành vi hơn là khoa học kinh tế. Và hầu hết những nghiên cứu mới nhất liên quan
đến vấn đề tuân thủ thuế đều thực hiện theo cách tiếp cận thứ hai [38], [27].
2.1.2.1. Các nhân tố liên quan đến chính sách thuế
Vấn đề thuế suất
Tác động của thuế suất đến hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế đã
được xác nhận trong nhiều nghiên cứu. Tuy nhiên, mức độ và hướng tác động lại
không hoàn toàn giống nhau ở các nghiên cứu. Bằng chứng thực nghiệm cho
thấy việc áp dụng thuế suất lũy tiến so với thuế suất cố định là biến cấu trúc có
liên quan đáng kể đến hành vi tuân thủ thuế [10].
Clotfelter (1983) cũng cho rằng việc “cắt giảm thuế suất không phải là
chính sách duy nhất có khả năng hạn chế trốn thuế”, nhưng thuế suất là nhân tố
quan trọng trong việc xác định hành vi tuân thủ thuế mặc dù tác động chính xác
vẫn chưa rõ ràng và còn gây tranh cãi. Clotfelter (1983) khẳng định giữa thuế
suất và trốn thuế tồn tại một mối quan hệ đáng kể bởi vì thuế suất được sử dụng
như một công cụ có thể được thao tác cho những mục tiêu chính sách nhất định.
Vấn đề không chắc chắn và mâu thuẫn này đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà

nghiên cứu tìm kiếm nhiều bằng chứng cụ thể và chắc chắn hơn về tác động của
thuế suất đến việc tuân thủ thuế. Một nghiên cứu được thực hiện bởi Tanzi
(1980) sử dụng mô hình kinh tế lượng để giải thích mối quan hệ giữa các mức
thuế suất với việc trốn thuế. Bằng số liệu tổng hợp từ Hoa Kỳ, ông ta đã kết luận
rằng tồn tại mối tương quan dương giữa thuế suất và việc trốn thuế. Khi mức
thuế suất biên cao, lợi ích đạt được từ kê khai thấp thu nhập và kê khai cao các
khoản khấu trừ càng lớn, và vì vậy số tiền trốn thuế càng lớn. Trong phạm vi
một quốc gia, người ta cho rằng những người nộp thuế với thuế suất biên cao
hơn sẽ gian lận nhiều hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu ngược lại với những giả định
này lại cho thấy một xu hướng khác. Người ta cũng có thể cho rằng những người
nộp thuế có thu nhập thấp hơn sẽ gian lận nhiều hơn, vì mỗi đô – la tiền thuế sẽ
có độ thỏa dụng cao hơn đối với họ.
11


Trong khi hầu hết nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng thuế suất tăng
sẽ dẫn đến trốn thuế [4], [22]. Allingham & Sandmo (1972) cho rằng thuế suất
không có ý nghĩa đáng kể đối với việc trốn thuế. Họ đã tìm hiểu mối quan hệ
giữa thu nhập thực tế, thuế suất, hình phạt và điều tra trốn thuế bằng cách sử
dụng mô hình thống kê và kết luận rằng người nộp thuế có thể chọn một trong
hai cách báo cáo đầy đủ thu nhập hoặc báo cáo thu nhập thấp hơn số thực tế phát
sinh, bất kể thuế suất. Cùng quan điểm này, Porcano (1988) cho rằng thuế suất
không tác động đến việc tuân thủ thuế của người nộp thuế. Bởi vì tác động của
thuế suất đến việc tuân thủ thuế vẫn là vấn đề gây tranh cãi (tác động tích cực
hay tiêu cực, hay không tác động), Kirchler & Ctg (2008); McKerchar & Evans
(2009) cho rằng mức độ tin tưởng giữa người nộp thuế vào chính phủ đóng vai
trò quan trọng trong việc chứng thực tác động của thuế suất đến hành vi tuân
thủ. Khi niềm tin thấp, một mức thuế suất cao có thể được xem là không công
bằng và khi niềm tin cao, mức thuế suất cao như vậy có thể được xem như một
khoản đóng góp cho cộng đồng [25].

Thay đổi chính sách hiện hành của chính phủ
Thực tế không có quá nhiều nghiên cứu đi sâu vào mối quan hệ trực tiếp
giữa thay đổi chính sách của chính phủ hiện hành và việc tuân thủ hay không
tuân thủ thuế của người nộp thuế. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến cho rằng sự ổn định
về chính trị và đảng cầm quyền hiện tại ở một quốc gia nào đó có thể đóng vai
trò quan trọng trong việc xác định hành vi trốn thuế [17]. Lập luận cho rằng nếu
một cá nhân đang ủng hộ đảng cầm quyền hiện tại, anh ta có thể tuân thủ thuế vì
khi đó, cá nhân này tin rằng chính phủ đáng tin cậy, hiệu quả và công bằng.
Ngược lại, người nộp thuế ở phe đối lập có thể ít tuân thủ hơn bởi vì anh ta cho
rằng chính phủ này không vì quyền lợi của anh ta. Tuy nhiên, những trường hợp
này chỉ xảy ra ở các quốc gia tồn tại chế độ đa đảng. Hasseldine & Hite (2003)
cũng nhận thấy tuổi tác, thu nhập và tình trạng hoàn thuế dự kiến trong tương lai
cũng bị tác động đáng kể bởi đảng phái chính trị. Phân tích hồi quy về thái độ

12


tổng thể đối với hệ thống thuế thu nhập hiện hành và thái độ đối với việc giảm
thuế đã hỗ trợ cho những kết quả nghiên cứu trước đó. Các biến độc lập như
đảng phái chính trị, khung hiệu lực, tình trạng hoàn thuế dự kiến, độ tuổi, mức
thu nhập một lần nữa tác động hồi qui đến việc trốn thuế; và các đảng phái chính
trị có tác động đáng kể đến thái độ về việc cắt giảm thuế. Hasseldine &Hite
(2003) kết luận: thứ nhất, đảng chính trị có tác động đáng kể đến hành vi người
nộp thuế; thứ hai, các quy định về thuế càng chặt chẽ với đảng chính trị cụ thể
nào thì càng thuận lợi hơn cho các thành viên của đảng đó; thứ ba, những thay
đổi về chính sách trong một số trường hợp nhất định (chẳng hạn giảm thuế)
được người nộp thuế đánh giá tích cực (tạo được niềm tin cho người nộp thuế và
gia tăng tuân thủ tự nguyện) và khi đó họ nhận thấy hệ thống thuế cũng công
bằng hơn. Ngoài ra, những động thái tích cực từ phía chính phủ, chẳng hạn gia
tăng miễn giảm thuế dường như cũng mang lại kết quả tích cực trong việc gia

tăng tính tuân thủ.
Bên cạnh những vấn đề về chính trị, những thay đổi trong chính sách
hiện tại của chính phủ cũng tác động nhất định đến hành vi tuân thủ thuế. Chẳng
hạn, ở Malaysia, giá xăng dầu và một số mặt hàng thiết yếu khác như đường, bột
mì, gạo và dầu ăn được kiểm soát bởi chính phủ; giá cả thường xuyên tăng theo
tình hình kinh tế toàn cầu và tài chính của chính phủ. Vì vậy, khi giá cả những
mặt hàng này tăng sẽ tác động tiêu cực đến khả năng mua sắm của người nộp
thuế và cuối cùng khuyến khích họ trốn thuế. Kim (2008) nghiên cứu về hành vi
trốn thuế ở 50 quốc gia mỗi năm đã minh họa cho quan điểm này và kết luận
rằng hành vi trốn thuế bị tác động bởi việc kiểm soát giá, dịch vụ công, thuế thu
nhập công ty, GDP bình quân đầu người, hệ thống thuế và cơ cấu chi tiêu chính
phủ (tác động theo chiều dương). Tóm lại, những nghiên cứu trước đã chứng
minh rằng quyết định của chính phủ và những thay đổi về chính sách trong từng
tình huống kinh tế, chính trị nhất định có tác động đến việc tuân thủ thuế. Những
động thái tích cực của chính phủ, chẳng hạn chính sách miễn giảm thuế, dường
như sẽ mang lại hiệu ứng tích cực trong việc gia tăng tính tuân thủ tự nguyện
13


của người nộp thuế. Tuy nhiên, do đặc điểm của Việt Nam không cho phép tồn
tại đa nguyên đa đảng nên đề tài không nghiên cứu đến tác động của yếu tố này
đến tuân thủ thuế.
2.1.2.2. Các nhân tố liên quan đến quản lý thuế
Tính đơn giản của việc kê khai thuế
Theo thời gian, hệ thống thuế ở nhiều quốc gia đã phát triển ngày càng
trở nên phức tạp. Khi đó, tính phức tạp được nhận thấy như là một nguyên nhân
có thể dẫn đến không tuân thủ [22]. Trong bối cảnh của việc tuân thủ thuế, tính
phức tạp bao gồm 2 khía cạnh: quá nhiều chi tiết trong luật thuế hoặc yêu cầu
tính toán quá nhiều. Người nộp thuế nên có thể tự hiểu những quy tắc tính thuế
để xác định chính xác tiền thuế phải nộp. Những quy tắc này cần hướng đến tính

đơn giản, dễ hiểu và rõ ràng nhằm tăng cường tuân thủ thuế. Clotfelter (1983)
phát hiện tính phức tạp của hệ thống thuế có liên quan đến việc không khai báo
thuế. Milliron (1985), Richarson (2006) cũng phát hiện mối quan hệ giữa tính
phức tạp của hệ thống thuế với quyết định tuân thủ thuế hoặc trốn thuế. Tổ chức
OECD (2001) cho rằng pháp luật thuế ở nhiều nước còn chưa chính xác và chưa
rõ ràng, và đây chính là mãnh đất màu mỡ cho các công ty tích cực lợi dụng để
trốn hoặc tránh thuế. Điều này đặc biệt đúng ở các nước đang phát triển với
công tác quản lý và trách nhiệm giải trình yếu kém, thiếu văn hóa thuế, và chế
độ thuế rất phức tạp.
Ở nhiều quốc gia phát triển, tính phức tạp đã trở thành một nhân tố quan
trọng của hành vi tuân thủ thuế. Khi áp dụng cơ chế tự khai tự nộp, đòi hỏi tối
thiểu đặt ra là tờ khai thuế phải đơn giản bởi vì người nộp thuế đến từ nhiều
thành phần khác nhau, trình độ giáo dục khác nhau, thu nhập và quan trọng nhất
là mức độ am hiểu kiến thức thuế là khác nhau. Để hỗ trợ người nộp thuế hoàn
thành chính xác tờ khai thuế, cơ quan thuế nên tiến đến việc xây dựng tờ khai
thuế đơn giản nhưng đầy đủ. Thông tin yêu cầu trong tờ khai phải ở mức độ nhỏ
nhất và có thể có sẵn từ sổ sách cá nhân hoặc sổ sách sản xuất kinh doanh của cá
14


nhân. Đan Mạch, Canada và New Zealand là những quốc gia đi đầu trong việc
đưa ra tờ khai thuế đơn giản bằng cách giảm số trang cho đơn giản và gia tăng
tính tuân thủ tự nguyện giữa những người nộp thuế [29]. Chẳng hạn, ở Anh,
HMRC đã nhiều năm liền nỗ lực đưa ra những tờ khai thuế đơn giản giúp người
nộp thuế hiểu tốt hơn. Silvani & Baer (1997) thảo luận về tầm quan trọng của cơ
quan thuế khi ban hành tờ khai thuế đơn giản và hệ thống thuế đơn giản từ quan
điểm của người nộp thuế. Mặc dù từ “ đơn giản” chứa đựng nhiều nghĩa giải
thích khác nhau, ít nhất người nộp thuế phần lớn yêu cầu tờ khai thuế càng đơn
giản có thể càng tốt. Cơ quan thuế cho rằng tờ khai thuế là đơn giản và dễ dàng
hoàn thành nhưng chưa hẳn người nộp thuế đồng tình. Vì vậy,tốt nhất, trước khi

phiên bản cuối cùng được cung cấp cho người nộp thuế, cơ quan thuế cần thử
nghiệm để đảm bảo rằng tờ khai thuế thật sự đơn giản và dễ thực hiện đối với
người nộp thuế. Ngoài ra, Silvani & Baer (1997) cũng cho rằng tờ khai thuế đơn
giản sẽ khuyến khích người nộp thuế tự hoàn thành tờ khai thay vì sử dụng các
đại lý thuế, nhờ đó tiết kiệm chi phí tuân thủ. Nếu cơ quan thuế phát hiện nhiều
lỗi sai trên tờ khai thuế, và những lỗi này lặp lại trong nhiều năm ở những người
nộp thuế khác nhau, điều đó có nghĩa là cách diễn đạt và câu văn trong tờ khai ít
nhiều mang một phần lỗi nào đó. Tương tự, Slemrod (1989) tin rằng tờ khai thuế
đơn giản và các quy định về thuế đơn giản sẽ tăng tính tuân thủ, đặc biệt đối với
hệ thống tự khai tự nộp bởi vì khi đó, người nộp thuế không phải mất nhiều thời
gian trong việc chứng thực tính chính xác của thu nhập tính thuế theo quy định.
Vấn đề đặt ra là bởi vì quy định về thuế và pháp luật ở hầu hết các quốc gia
được sửa đổi, bổ sung hàng năm, người nộp thuế có thể dễ mắc sai sót trong quá
trình xác định nghĩa vụ thuế. Vì vậy, một lần nữa, việc đơn giản hóa quản lý
thuế có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việv quản lý và tăng cường hiệu quả quản
lý cũng như cắt giảm chi phí [29].
Chính vì vậy, không tuân thủ thuế dưới hình thức kê khai thuế không
chính xác đôi khi không hoàn toàn là hành vi trốn thuế của người nộp thuế mà
có thể là những sai lầm từ phía cơ quan thuế và sự yếu kém trong việc phát triển
15


và thiết kế hệ thống. Richardson (2008) trong nghiên cứu của ông mở rộng
nghiên cứu của Riahi-Belkaoui(2004); Jackson & Milliron (1986), phát hiện ra
rằng trong mười bảy biến thử nghiệm trên 45 quốc gia, (bao gồm cả tuổi tác,
giới tính, giáo dục, văn hóa, công bằng và tôn giáo), tính phức tạp được tìm thấy
là yếu tố quan trọng tác động nhiều nhất đến trốn thuế, vì vậy ông ta kết luận
rằng một hệ thống thuế càng đơn giản càng hạn chế trốn thuế.
Hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế
Hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế được hiểu ở góc độ cơ quan thuế có

hoàn thành tốt vai trò của mình trong việc quản lý thuế cũng như hỗ trợ người
nộp thuế. Đối với tuân thủ thuế,về mặt lý thuyết vẫn còn tồn tại những tranh
luận xung quanh vấn đề làm cách nào đánh giá tác động hiệu quả hoạt động của
cơ quan thuế lên hành vi tuân thủ của người nộp thuế. Vai trò của cơ quan thuế
trong việc giảm thiểu khoản cách thuế _tax gap và gia tăng tính tuân thủ tự
nguyện rõ ràng rất quan trọng. Hasseldine & Li (1999) minh họa rằng để tối
thiểu việc trốn thuế, cần đặt chính phủ và cơ quan thuế vào vị trí chính yếu phải
quản lý hệ thống thuế một cách hiệu quả liên tục. Chính phủ đóng vai trò quan
trọng trong việc thiết kế hệ thống thuế, thực thi cụ thể và quản lý cơ chế thu
[17].
Một nghiên cứu gần đây của Richardson (2008) cũng đề nghị rằng vai trò
của chính phủ có tác động đáng kể đến việc quyết định thái độ của người nộp thuế
đối với tuân thủ thuế. Nghiên cứu của ông nỗ lực điều tra các yếu tố của hành vi
trốn thuế ở 47 quốc gia trong đó có Mỹ, Anh, Achentina, Thái Lan, Canada, Chile
và Brazil. Richardson đề nghị chính phủ nên tăng cường danh tiếng và tăng uy tín
của họ để có thể đạt được niềm tin từ người nộp thuế [36].
Công tác kiểm tra thuế
Các nhân tố về kinh tế trong mối quan hệ với tuân thủ thuế đề cập đến
những hành động của người nộp thuế có liên quan đến việc cân nhắc chi phí và
lợi ích của việc biểu hiện hành động đó [26]. Hasseldine (1993), Song &
16


Yarbrough (1978) và Torgler & Schneider (2005) cho rằng người nộp thuế nỗ
lực tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế của họ bằng cách hướng đến việc khai báo thấp
thu nhập tính thuế và hưởng lợi từ phần tiết kiệm thuế tương ứng khi cơ quan
thuế không phát hiện hành vi của họ. Mặt khác, họ sẽ sẵn lòng thanh toán nhiều
hơn, kể cả khoản tiền phạt nếu họ bị phát hiện [41]. Các nhân tố về kinh tế liên
quan đến tuân thủ thuế bao gồm: thuế suất, kiểm tra thuế, và nhận thức về chi
tiêu chính phủ. Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên và liên tục của bất kỳ

cơ quan thuế nào. Tác động của kiểm tra thuế đến hành vi tuân thủ thuế của
người nộp thuế có thể xem xét ở các góc độ: tỷ lệ kiểm tra, năng lực cán bộ
kiểm tra và vòng lập kiểm tra. Witte & Woodbury (1985) phát hiện mối quan hệ
dương đáng kể giữa rủi ro kiểm tra thuế và tỷ lệ tuân thủ tự nguyện.
Một số nghiên cứu của tác giả Jackson & Jaouen (1989), Shanmugam
(2003), Dubin (2004) cho rằng kiểm tra thuế có tác động tích cực đến hành vi
trốn thuế nghĩa là người nộp thuế đã từng bị kiểm tra thuế bởi các cơ quan thuế
thường sẽ tuân thủ thuế tốt hơn. Những phát hiện này đề nghị rằng trong hệ
thống tự khai tự nộp, kiểm tra thuế đóng vai trò quan trọng và vai trò trung tâm
của nó là gia tăng tính tuân thủ tự nguyện. Kiểm tra thuế cũng có thể làm thay
đổi hành vi tuân thủ thuế từ tiêu cực sang tích cực [8]. Những phát hiện này bổ
sung cho nghiên cứu của Wittle & Woodbury (1985) và Beron & Ctg (1988), họ
phát hiện rằng đối với những người sản xuất nhỏ, kiểm tra thuế có tác động đáng
kể đến việc tuân thủ thuế. Tỷ lệ kiểm tra và tính triệt để của cuộc kiểm tra sẽ
khuyến khích người nộp thuế thận trọng hơn trong việc hoàn thành tờ khai thuế,
báo cáo toàn bộ thu nhập, khai báo đúng các khoản giảm trừ để xác định nghĩa
vụ thuế của họ. Ngược lại, người nộp thuế chưa từng bị kiểm tra thuế có thể lại
tiếp tục khai báo thấp thu nhập thực tế hoặc kê khai sai các khoản khấu trừ. Một
nghiên cứu khác của Dubin & Ctg (1987) ước lượng các yếu tố liên quan đến
việc khai báo thu nhập dưới dạng hàm tỷ lệ kiểm tra thuế cho giai đoạn 19771985 phát hiện rằng tỷ lệ kiểm tra thuế cao thường tác động tích cực đến việc
báo cáo thu nhập chịu thuế nhưng trong một số trường hợp, tác động này có thể
17


thay đổi tùy vào loại kiểm tra thuế và đôi khi không phải lúc nào cũng có ý
nghĩa thống kê. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc kiểm tra thuế cũng có tác động
lan tỏa nhất định, người nộp thuế không tự kiểm tra việc tuân thủ thuế của họ sẽ
phải chi trả nhiều hơn khi tỷ lệ kiểm tra gia tăng.
Như vậy, việc kiểm tra thuế rõ ràng giữ vai trò nhất định trong việc gia
tăng tính tuân thủ tự nguyện. Tỷ lệ kiểm tra đóng vai trò quan trọng trong hành

vi báo cáo thuế của người nộp thuế bởi vì người nộp thuế sẽ khai báo toàn bộ
nếu họ cho rằng họ sẽ là một trong những người bị kiểm tra thuế trong năm nào
đó. Slemrod & Ctg (1998) điều tra mối quan hệ giữa tỷ lệ bị kiểm tra và phản
ứng của người nộp thuế. Nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng hành vi của người
nộp thuế thay đổi theo mức thu nhập và tỷ lệ bị kiểm tra thuế đóng vai trò quan
trọng trong việc xác định hành vi trốn thuế.
Nghiên cứu của Evan & Ctg (2005) ở Australia phát hiện rằng lịch sử
kiểm tra thuế bao gồm tính chất thường xuyên, kết quả kiểm tra và loại hình
kiểm tra có tác động gián tiếp đáng kể đến tuân thủ thuế (cụ thể là việc lưu trữ
sổ sách kế toán). Những người không sẵn lòng nộp thuế và hay tìm cách để thoát
khỏi các đợt kiểm tra thuế hoặc hình phạt thường cố gắng để hiểu quy trình lựa
chọn đối tượng kiểm tra thuế, và ngay cả khi việc kiểm tra mang tính ngẫu
nhiên, họ vẫn cố gắng để dự đoán khi nào cuộc kiểm tra kế tiếp sẽ xảy ra.
Kirchler & Ctg (2005) dự đoán rằng tuân thủ thuế lệ thuộc vào tỷ lệ kiểm
tra, các biện pháp trừng phạt và khoảng thời gian giữa các lần kiểm tra. Trường
hợp việc kiểm tra thuế diễn ra thường xuyên, tuân thủ thuế sẽ lập tức giảm ngay
sau cuộc kiểm tra đó và nhanh chóng tăng lại ở đợt tiếp theo. Trường hợp kiểm
tra thuế không thường xuyên, tuân thủ thuế cũng giảm sau khi đã được kiểm tra
thuế và cũng tăng trở lại nhưng với tốc độ chậm hơn [25].
Kết quả nghiên cứu của Andreoni & Ctg (1998) cho thấy kinh nghiệm từ
những lần bị kiểm tra trước và việc vẫn tiếp tục bị quản lý từ phía cơ quan thuế
đối với hoạt động của họ có tác dụng gia tăng mức độ tuân thủ của người nộp
18


thuế. Bergman (1998) tiến hành nghiên cứu hành vi tuân thủ thuế ở Achentina sử
dụng 2 cách thức: 1) cách thức tăng cường tuân thủ thuế đối với người nộp thuế
là các tổ chức và 2) các chiến dịch mở rộng và kiểm tra thuế sẽ gia tăng xác suất
phát hiện đối với người nộp thuế cá nhân. Kết quả cho thấy rằng khi biết tỷ lệ
kiểm tra thuế và khả năng bị phát hiện gia tăng, người nộp thuế sẽ tuân thủ các

quy định của luật thuế và khai báo chính xác thu nhập. Ngoài ra, người nộp thuế
cũng nhận thấy rằng khi họ sẽ không bị phát hiện vì cơ quan thuế ít khi kiểm tra
hoặc thanh tra thuế, họ có thể thực hiện những hành vi trốn thuế phức tạp hơn để
hạn chế số thuế phải nộp. Những phát hiện này phù hợp với các đề xuất lý
thuyết cho rằng việc lo sợ bị phát hiện sẽ tác động đến các mức độ của hành vi
tuân thủ thuế, cũng có nghĩa là những người trốn thuế sẽ đề phòng cẩn thận hơn
khi họ nhận thấy rủi ro phát hiện cao. Nói chung, tỷ lệ kiểm tra cao hơn sẽ
khuyến khích tuân thủ thuế. Ngoài ra, năng lực của cán bộ kiểm tra thuế cũng
tác động nhất định đến hành vi tuân thủ thuế. Tuân thủ thuế xét trong mối tương
quan với năng lực phát hiện của cán bộ kiểm tra thuế đã thu hút được sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu. Allingham & Sandmo (1972) cho rằng người nộp
thuế sẽ luôn khai báo thu nhập của họ chính xác nếu khả năng bị phát hiện cao
[1].
Palil (2010) chỉ ra rằng người nộp thuế thường trốn hoàn toàn nghĩa vụ
thuế và lý do duy nhất để họ không thực hiện hành vi này là xác suất hành vi bị
phát hiện rất cao. Sự tăng lên trong xác suất phát hiện sẽ gia tăng tính tuân thủ
thuế và năng lực của cán bộ kiểm tra thuế để phát hiện hành vi gian lận là một
trong những biện pháp phát hiện hiệu quả được thực hiện bởi cơ quan thuế.
Thực tế, kiểm tra thuế được xem là biện pháp vừa có tác dụng ngăn chặn trực
tiếp đối với những người nộp thuế đã bị kiểm tra vừa có tác dụng gián tiếp đối
với những người nộp thuế chưa bị kiểm tra [4]. Xác suất của sự trót lọt trong
việc không tuân thủ là yếu tố quan trọng nhất khiến cho tình trạng không tuân
thủ luật ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, nghiên cứu của Beron & Ctg (1990) tiết

19


lộ rằng kiểm tra thuế chỉ có hiệu ứng khiêm tốn đối với tuân thủ thuế. Năng lực
của cán bộ kiểm tra thuế khác nhau sẽ tạo ra những mức độ tuân thủ khác nhau.
Palil (2010) cũng cho thấy kiểm tra thuế nói chung là cách thức ngày

càng trở nên quan trọng trong việc tối thiểu hóa các hành vi không tuân thủ thuế.
Tầm quan trọng của các chương trình kiểm tra không chỉ chỉ có ý nghĩa đối với
những đối tượng nộp thuế bị kiểm tra thuế mà còn tác động đến cả các đối tượng
nộp thuế còn lại.
2.1.2.3. Các nhân tố liên quan đến ngƣời nộp thuế
Kiến thức về thuế của ngƣời nộp thuế
Ảnh hưởng của kiến thức đến hành vi tuân thủ thuế đã được chứng minh
trong nhiều nghiên cứu khác nhau [28]. Kiến thức và quan niệm về thuế của
người nộp thuế sẽ tạo nền tảng cho việc đánh giá, nhận thức về tính công bằng
và sự sẵn lòng cũng như năng lực để tuân thủ các quy định của thuế. Kiến thức
chủ quan về thuế, tức là sự hiểu biết về thuế của người dân bình thường nhất, rất
quan trọng để hiểu tại sao họ lại cư xử như cách họ đã và đang làm.
Harris (1989) chia kiến thức thuế thành 2 khía cạnh, kiến thức thuế nhận
được thông qua quá trình giáo dục phổ thông hoặc giáo dục chính thức và kiến
thức thuế chuyên biệt được đào tạo trực tiếp hướng đến các cơ hội có thể trốn
thuế. Ở khía cạnh thứ nhất, trình độ giáo dục người nộp thuế tiếp nhận được là
một nhân tố quan trọng đóng góp vào sự hiểu biết chung về thuế đặc biệt liên
quan đến pháp luật và thuế [11]. Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng
kiến thức chung về thuế có quan hệ mật thiết đến khả năng hiểu pháp luật và các
quy định về thuế, và từ đó tuân thủ thuế tốt hơn [38]. Eriksen & Fallan (1996)
nhận định kiến thức về pháp luật thuế khá quan trọng đối với thái độ và sự ưu ái
đối với thuế. Họ cho rằng kiến thức tài chính có tương quan với thái độ thuế và
hành vi về thuế có thể được cải thiện bằng một sự hiểu biết về thuế tốt hơn.

20


Eriksen & Fallan (1996) nỗ lực xác định mối quan hệ giữa mức kiến thức
thuế và thái độ về thuế bằng cách chia nghiên cứu của mình thành 3 phần. Đầu
tiên, họ tập trung điều tra về kiến thức của người nộp thuế, sau đó cố gắng khám

phá tác động tổng hợp của kiến thức thuế đến hành vi tuân thủ thuế giữa các cá
nhân người nộp thuế, và cuối cùng là nghiên cứu các đại lý thuế nhằm xác định
tầm ảnh hưởng của chúng đến hành vi người nộp thuế bởi vì trong hệ thống tự
khai tự nộp, đại lý thuế đại diện cho bản thân người nộp thuế trực tiếp chuẩn bị
tờ khai, tiến hành khai báo và tính toán nghĩa vụ thuế. Nghiên cứu này phát hiện
rằng kiến thức thuế có tương quan dương với nhận thức về công bằng, đạo đức
thuế và thái độ đối với việc trốn thuế của người khác. Thái độ về thuế có thể
được cải thiện khi kiến thức về thuế tốt hơn, từ đó lần lượt gia tăng tuân thủ và
giảm dần việc trốn thuế [11].
Tuy nhiên, Collin & Ctg (1992) thực hiện một nghiên cứu trên mẫu ngẫu
nhiên gồm 700 hộ gia đình ở Mỹ lại cho kết quả trái ngược. Họ phát hiện rằng
kiến thức thuế và trình độ giáo dục tương quan nghịch với hành vi tuân thủ thuế.
Mặc dù có sự mâu thuẫn giữa kết quả của Collins & Ctg (1992) và kết quả
nghiên cứu của Eriksen & Fallan (1996). Kết quả của Eriksen & Fallan hàm ý
rằng một cách có ý nghĩa để giảm thiểu việc trốn thuế là cung cấp kiến thức thuế
nhiều hơn cho càng nhiều người nộp thuế càng tốt để cải thiện đạo đức thuế và
nhận thức về công bằng của hệ thống thuế. Kết quả này cũng hàm ý rằng luật
thuế và kiến thức về thuế nên được đào tạo dưới hình thức khóa học bắt buộc
trong lĩnh vực kinh tế xã hội ở trường [11]. Không hoàn toàn giống với Eriksen
& Fallan (1996), Lewis (1982) nỗ lực nghiên cứu bất kỳ sự thay đổi nào trong
thái độ của người nộp thuế xuất phát từ sự tác động của việc gia tăng kiến thức
về thuế có liên quan đến tuân thủ thuế. Lewis (1982) lập luận rằng không có đủ
kiến thức về thuế và tình huống này dẫn đến những tác động tiêu cực về mặt
kinh tế (một sự gia tăng trong khoảng cách thuế - tax gap). Hệ thống tự khai tự
nộp đòi hỏi người nộp thuế có đủ kiến thức và đủ năng lực để am hiểu về thuế,
một số vấn đề liên quan đến thái độ thuế, ví dụ như kiến thức thuế hoặc nhận
21


thức về sự công bằng của hệ thống thuế đều tác động đến việc trốn thuế [22].

Kiến thức chuyên sâu về thuế kết hợp với những hiểu biết các quy định về thuế,
cùng với kiến thức về tài chính giúp người nộp thuế xác định được hậu quả kinh
tế những việc làm của họ nếu trốn thuế.
‘ … một cách thành công để ngăn ngừa trốn thuế là cung cấp kiến thức
thuế nhiều hơn cho đại bộ phận trong xã hội nhằm cải thiện đạo đức thuế và
nhận thức của mọi người về tính công bằng của hệ thống thuế’ [22].
‘ …đó sẽ là một bước đi đúng hướng để thực hiện giảng dạy pháp luật về
thuế và kiến thức thuế như một phần bắt buộc của kiến thức kinh tế xã hội được
giảng dạy ở trường học’ [22].
Tóm lại, theo kết quả từ các nghiên cứu thực nghiệm, rõ ràng việc tăng
cường kiến thức thuế cho người nộp thuế là một nhân tố quan trọng trong việc
điều hành một hệ thống thuế thành công, nhất là khi áp dụng cơ chế tự khai tự
nộp. Thành tựu gia tăng mức độ tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế có thể
được xác định khi người nộp thuế có thể hoàn thành tờ khai thuế chính xác và
thanh toán đầy đủ nghĩa vụ thuế. Vì vậy để thực hiện những mục tiêu của cơ chế
tự khai tự nộp, người nộp thuế cần được thông báo đầy đủ, được giáo dục tốt
(nhất là vấn đề về thuế), và đảm bảo trình độ của người nộp thuế đủ để tự cập
nhật thường xuyên kiến thức về thuế.
Nhận thức về tính công bằng
Công bằng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế. Tính công
bằng là một đòi hỏi khách quan trong tiến trình phát triển của thuế. Khi hệ thống
thuế đảm bảo công bằng trong việc huy động nghĩa vụ thuế, người nộp thuế tích
cực tuân thủ thuế hơn. Các nhà quản lý và người nộp thuế tin rằng việc không
hài lòng với sự công bằng của hệ thống thuế là nguyên nhân chủ yếu gia tăng
tính không tuân thủ. Tính công bằng của thuế bao gồm ít nhất 2 khía cạnh khác
nhau “một khía cạnh liên quan đến sự công bằng trong giao dịch”, đó là lợi ích
nhận được cho mỗi đô la tiền thuế. Khía cạnh khác liên quan đến sự công bằng
22



trong gánh nặng thuế so với những cá nhân khác [22]. Vì vậy, sự không công
bằng của hệ thống thuế có thể phản ánh người nộp thuế nhận thức rằng họ đang
trả quá cao các loại thuế liên quan đến giá trị những dịch vụ do chính phủ cung
cấp hoặc liên quan đến khoản thuế của những nguời nộp thuế khác. Porcano
(1984) nhận thấy rằng nhu cầu của người nộp thuế và khả năng chi trả là những
biến có ảnh hưởng đáng kể nhất đến quan niệm về sự công bằng của hệ thống
thuế. Một trong những nguyên tắc cơ bản khi thiết kế hệ thống thuế là tính công
bằng [42], bao gồm hai khía cạnh: công bằng theo chiều dọc (những người có
cùng thu nhập hoặc tài sản sẽ đóng góp một khoản thuế bằng nhau) và công
bằng theo chiều ngang (số thuế phải nộp sẽ tăng khi cơ sở tính thuế tăng, nghĩa
là những người có khả năng đóng góp thuế nhiều hơn sẽ nộp nhiều thuế hơn).
Wenzel (2003) đề nghị 3 khía cạnh của công bằng từ quan điểm của người nộp
thuế gồm:
1) Phân phối công bằng (được xem như là việc chuyển đổi các nguồn
lực, chẳng hạn so sánh lợi ích và chi phí);
2) Thủ tục công bằng (xét trên góc độ quá trình phân phối nguồn lực);
3) Xử phạt công bằng (trừng phạt thích đáng khi có hành vi vi phạm các
quy định).
Xét ở khía cạnh phân phối công bằng, một cá nhân mong muốn có được
sự công bằng tương thích với thành tích, nỗ lực và nhu cầu của cá nhân [27]. Nếu
anh ta cảm thấy gánh nặng thuế của mình cao hơn so với những người khác trong
cùng nhóm thu nhập, việc tuân thủ thuế của anh ta sẽ giảm. Người nộp thuế muốn
có sự công bằng giữa những người trong nhóm thu nhập của họ so với những
người trong các nhóm thu nhập khác. Nếu một nhóm nào đó nhận thấy nghĩa vụ
thuế của họ cao hơn so với những nhóm khác, việc trốn thuế có thể xảy ra giữa
các thành viên trong nhóm [28]. Xét ở mức độ toàn xã hội, tuân thủ thuế sẽ giảm
đi khi người ta cho rằng hệ thống thuế không công bằng; khi đó trốn thuế sẽ xảy
ra với quy mô lớn hơn [28]. Ngược lại, nếu xã hội thừa nhận rằng hệ thống thuế
23



công bằng, tuân thủ tự nguyện được mong đợi sẽ tăng. Xét ở khía cạnh thủ tục
công bằng, yếu tố chính của sự công bằng theo quan điểm của mọi người là tính
trung lập (neutrality) của những thủ tục được sử dụng, độ tin cậy của cơ quan
thuế, thái độ lịch sự, nghiêm chỉnh và đáng tôn trọng của cá nhân người nộp thuế
hoặc nhóm các đối tượng nộp thuế [10]. Người nộp thuế mong muốn cơ quan
thuế cung cấp đầy đủ thông tin các quy định về thuế để họ có thể hoàn thành
chính xác tờ khai thuế. Vì vậy người ta cho rằng việc tăng cường cung cấp thông
tin về thuế có thể giúp tăng nhận thức của người nộp thuế về tính công bằng và
tuân thủ thuế tốt hơn [49].
Xét ở khía cạnh xử phạt công bằng, việc kiểm tra thuế không hợp lý và
hình phạt không công bằng sẽ dẫn đến căng thẳng và người nộp thuế không hài
lòng. Việc người nộp thuế nhận thức không thiện chí về khía cạnh công bằng
trong xử phạt có thể dẫn đến hành vi không tuân thủ và do đó gia tăng trốn thuế
và làm tăng thêm khoảng cách thuế.
Những nghiên cứu khác được thực hiện bởi Scott & Grasmick (1982);
Spicer & Lundstedt (1976) phát hiện những người cho rằng hệ thống thuế không
công bằng là những người có nhiều khả năng thực hiên hành vi không tuân thủ.
Eriksen & Fallan (1996) cũng tiết lộ rằng một phương thức quan trọng để đảm
bảo tuân thủ thuế là cung cấp kiến thức thuế nhiều hơn nhằm nâng cao nhận
thức của người nộp thuế về sự công bằng của hệ thống thuế. Một nghiên cứu
được thực hiện bởi Richardson (2006) cũng chỉ ra rằng công bằng của hệ thống
thuế theo nhận định của người nộp thuế có mối quan hệ mật thiết với trốn thuế.
Spicer & Becker (1980) kiểm tra mối quan hệ giữa tính không công bằng về mặt
tài chính và hành vi trốn thuế đã tiết lộ rằng những người trong nhóm thu nhập
cao (hay nhóm thuế cao, mức thuế suất dành cho họ cao hơn mức trung bình) có
tỷ lệ trốn thuế cao nhất so với những nhóm khác (nhóm thuế thấp và nhóm thuế
trung bình). Tuy nhiên, tác động giữa việc phân phối công bằng đến việc trốn
thuế vẫn chưa rõ ràng và vẫn còn tranh cãi ở nhiều nghiên cứu khác nhau. Nhận


24


thức của người nộp thuế về sự công bằng của hệ thống thuế có ảnh hưởng đến
khuynh hướng trốn thuế [22].
Có một số bằng chứng cho thấy rằng sự sụt giảm trong mức độ tuân thủ
tại Mỹ có thể một phần xuất phát từ nhận thức ngày càng tăng cho rằng một số
đông cá nhân không tuân thủ luật thuế và do niềm tin cho rằng hệ thống thuế
không đối xử với mọi cá nhân theo những cách thức thích ứng ngày càng lớn.
Liên quan đến vấn đề này là niềm tin của công chúng: nếu họ cho rằng ngay
chính luật pháp đã có sự bất công một cách đáng kể - hoặc thiên vị những nhóm
người nào đó hơn so với những nhóm người khác, họ sẽ ít tuân thủ hơn.
Nhận thức về chi tiêu chính phủ
Thách thức ở nhiều nước đang phát triển không nhất thiết là đánh thuế
nhiều hơn, mà là đánh thuế nhiều đối tượng cá nhân và doanh nghiệp hơn dựa
trên sự kết hợp liên ứng giữa hai yếu tố mức độ sẵn sàng đóng thuế của người nộp
thuế cao hơn và xu hướng đòi hỏi cao hơn đối với các dịch vụ công được cung
cấp cũng như cách thức chính phủ sử dụng tiền thuế của dân như thế nào [28].
Trên thực tế, có rất ít nghiên cứu về mối quan hệ đặc thù giữa yếu tố chi
tiêu chính phủ thực tế và tuân thủ thuế, cụ thể là mối quan hệ giữa chi tiêu chính
phủ với hành động trốn thuế. Người nộp thuế, nhất là những người phải trả
nhiều thuế sẽ rất nhạy cảm với việc chính phủ chi tiêu tiền thuế của họ vào đâu.
Mặc dù bằng chứng thực nghiệm hạn chế, vẫn là hợp lý khi kết luận rằng người
nộp thuế sẽ thiên về hành vi trốn thuế nếu họ nhận thấy chính phủ chi tiêu tiền
thuế một cách không khôn ngoan. Đối với một số quốc gia phát triển, chẳng hạn
vương quốc Anh, họ thực hiện chương trình PAYE nghĩa là khấu trừ tại nguồn
đối với đa số các nguồn tạo ra thu nhập chịu thuế. Đối với những nước mà
chương trình PAYE không được sử dụng rộng rãi, người nộp thuế có cơ hội lớn
hơn để không khai báo hết thu nhập chịu thuế và từ đó nộp tiền thuế ít hơn nghĩa
vụ thuế thực tế.


25


×