Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần thương mại dịch vụ vận tải xi măng hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.75 KB, 66 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự hội nhập kinh tế ngày nay, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt cả trong và ngoài nước. Nhưng để duy trì được và phát triển yêu cầu
các nhà quản lý kinh tế phải xây dựng cho doanh nghiệp mình một phương pháp
hoạt động đúng đắn, các chiến lược, các phương án sản xuất kinh doanh một cách
có hiệu quả.
Trong cơ chế hiện nay việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh vô cùng quan
trọng:
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điệu kiện quan trọng để đảm bảo duy
trì và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tồn tại được là bởi sự tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường, mà hiệu quả sản xuất kinh doanh lại là yếu tố trực tiếp đảm
bảo sự duy trì này, hơn nữa mục tiêu của doanh nghiệp là luôn luôn phát triển một
bền vững. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một yếu tố khách
quan đối với tất cả các doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động hiện nay. Do yêu cầu đó
mà mỗi nhà quản lý kinh tế muốn tăng thu nhập của doanh nghiệp nhưng với điều
kiện vốn và các yếu tố đầu vào cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ
thay đổi trong khuôn khổ nhất định. Vậy để tăng lợi nhuận thì các doanh nghiệp
phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện để tăng sự cạnh tranh và phát
triển trên thị trường. Muốn tăng khả năng cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp
phải năng động, sáng tạo tạo nên sự phát triển trong kinh doanh. Với cơ chế thị
trường cạnh tranh ngày nay việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay
gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là cạnh tranh về mặt hàng
mà cạnh tranh cả về chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Với mục tiêu lâu dài của
các doanh nghiệp là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố hai mặt, nó co thể làm các
doanh nghiệp vượt trội nhưng ngược lại cũng có thể làm cho các doanh nghiệp
không duy trì được trên thị trường. Để có thể duy trì hoạt động và phát triển mạnh
mẽ các doanh nghiệp cần phải mạnh hơn đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Trước

1




hết doanh nghiệp cần phải có sản phẩm phục vụ được nhu cầu của thị trường. Có
nghĩa là với việc giảm giá thành tăng khối lượng hàng hoá bán, chất lượng không
ngừng được cải thiện nâng cao...
- Mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận nhưng thực hiện được
mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sao
cho hợp lý. Doanh nghiệp cần phải khai thác các nguồn lực sản xuất có sẵn. Việc
sử dụng tiết kiệm các nguồn lực này càng tốt sẽ càng thu được nhiều lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao có nghĩa là doanh nghiệp đã
sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất.[2,3]
Với tình hình kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với muôn vàn khó
khăn. Là một doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt
Nam, Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ Vận tải Xi măng Hải Phòng cũng gặp
phải những khó khăn ấy. Do đó, muốn đứng vững trên thị trường, đòi hỏi nhà quản lý
doanh nghiệp luôn phải cập nhật thường xuyên mọi tình hình biến động trong và ngoài
công ty để có những biện pháp ứng phó kịp thời.
Bởi vậy, tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ Vận tải Xi măng
Hải Phòng” làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh, các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, đánh giá thực trạng
hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ Vận tải
Xi măng Hải Phòng trong 5 năm qua từ 2010 - 2014, từ đó tác giả đề xuất biện
pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty trong giai đoạn 2015 2020.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Thương
mại Dịch vụ Vận tải Xi măng Hải Phòng.


2


Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh của Công
ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ Vận tải Xi măng Hải Phòng giai đoạn 2010 2014.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn vận dụng những phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp…
5. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Hệ thống những lý luận cơ bản về hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty
Cổ phần Thương mại Dịch vụ Vận tải Xi măng Hải Phòng giai đoạn 2010 - 2014
và đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty trong giai
đoạn 2015 - 2020.
6. Nội dung của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và kiến nghị luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Chương 2. Đánh giá thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần
Thương mại Dịch vụ Vận tải Xi măng Hải Phòng
Chương 3. Biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần
Thương mại Dịch vụ Vận tải Xi măng Hải Phòng

3


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Hệ thống khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả sản xuất
kinh doanh

1.1.1. Khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động tạo ra hàng hóa và dịch vụ được gọi là
sản phẩm của doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt là khi thị trường
chấp nhận tiêu thụ sản phẩm đó và doanh thu từ sản phẩm đó đủ để trang trải chi
phí đầu vào. Để mang lại lợi nhuận thì chủ thể kinh doanh phải có khả năng khai
thác và sử dụng các đối tượng đầu vào.
Khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh có thể được hiểu như sau: “Hoạt động
sản xuất kinh doanh được hiểu như là quá trình tiến hành các công đoạn từ việc
khai thác sử dụng các nguồn lực sẵn có trong nền kinh tế đến sản xuất ra các sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ nhằm cung cấp cho nhu cầu thị trường và cuối cùng là thu
được lợi nhuận”.
Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh:
- Một chủ thể điều hành gọi là chủ thể kinh doanh, đó có thể là doanh nghiệp, hộ
gia đình, cá nhân;
- Hoạt động sản xuất kinh doanh là liên quan tới thị trường. Mối quan hệ có thể có
như với nhà cung cấp nguyên nhiên vật liệu đầu vào, kênh phân phối môi giới sản
phẩm, với khách hàng – người tiêu dùng; họ có mối quan hệ liên quan với nhau là
mối quan hệ với các đối tác, đối thủ cạnh tranh; ngoài ra còn có mối quan hệ với
các bên hữu quan như chính phủ và các tổ chức tài chính. Những mối quan hệ sẽ
có tác dụng làm cho hoạt động kinh doanh được vận hành một cách liên tục nhằm
giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển;
- Sản xuất kinh doanh phải có vốn. Mọi hoạt động kinh doanh đều cần có vốn. Chủ
thể kinh doanh dùng vốn để chi trả các yếu tố đầu vào;
- Mục đích chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh là mục đích vì lợi
nhuận.[3,16]

4


1.1.2. Khái niệm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh

Ngày nay, mục tiêu kinh tế quan trọng của các doanh nghiệp là sản xuất kinh
doanh có hiệu quả và tối đa hoá lợi nhuận. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
luôn gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh.
“Có thể hiểu hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, nó
phản ánh khả năng sử dụng các nguồn lực sẵn có để đạt được mục tiêu đề ra, nó
thể hiện mối quan hệ giữa kết quả thu được và những chi phí bỏ ra, độ chênh lệch
hay tỷ lệ giữa hai đại lượng này càng lớn thì hiệu quả càng cao. Như vậy thì hiệu
quả có nghĩa là lợi nhuận của doanh nghiệp cao và chất lượng của sản phẩm đáp
ứng được nhu cầu của thị trường.”
Ngoài ra khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh được hiểu một cách đơn giản như
sau: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp, đánh giá sự phát triển kinh
tế theo chiều sâu, phản ánh sự khai thác các nguồn lực một cách tốt nhất phục vụ
các mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp.[3,16]
1.2. Nội dung hiệu quả sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp
1.2.1. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là phản ánh chất lượng sản phẩm của
doanh nghiệp, phản ánh khả năng sử dụng nguồn lực sẵn có để đạt mục tiêu đã đề
ra của doanh nghiệp. Để hiểu bản chất và có thể áp dụng để thành lập các chỉ tiêu,
các công thức cụ thể nhằm đánh giá tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thì cần hiểu:
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mối quan hệ tương quan giữa kết quả thu được
và chi phí bỏ ra của các yếu tố đầu vào. Mối quan hệ so sánh của hai đại lượng có
thể là so sánh tuyệt đối và cũng có thể là so sánh tương đối.
So sánh tuyệt đối thì hiệu quả sản xuất kinh doanh là:
H=K–C

(1.1)

Còn về so sánh tương đối thì:


5


K
H=

(1.2)
C

Trong đó:
H : Là hiệu quả sản xuất kinh doanh
K : Là kết quả thu được
C : Là chi phí bỏ ra
Để tính được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ta phải có thông tin
về kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả thì kết
quả là điều kiện để tính hiệu quả sản xuất kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp có thể là sản lượng, doanh thu, lợi nhuận. Như vậy kết quả sản
xuất kinh doanh thường là mục tiêu ban đầu của doanh nghiệp.
- Phải phân biệt hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị xã hội.
“Nếu xét trên phạm vi từng ngành thì chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh tế. Hiệu
quả kinh tế là quan hệ giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả
đó. Kết quả thu được trong khái niệm này có thể là sản lượng, doanh thu, lợi
nhuận, … Hiệu quả kinh tế cho biết khả năng khai thác các yếu tố đầu vào trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
Nếu xét trên phạm vi toàn xã hội có hai phạm trù là hiệu quả chính trị và hiệu quả
xã hội. Chúng thể hiện ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh tới việc xử lý
những yêu cầu và mục tiêu chung của nền kinh tế xã hội. Hai loại hiệu quả này
quan trọng trong việc phát triển đất nước một cách toàn diện và bền vững. Hiệu
quả chính trị xã hội phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế xã hội ở các mặt trình
độ dân trí, mức sống bình quân, chỉ số hạnh phúc...

Nguyên tắc để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia là luôn có sự cân đối
giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị xã hội. Nếu có sự mất cân đối nào thì
sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng”.
- Hiệu quả ngắn hạn với hiệu quả dài hạn.

6


Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dựa trên các mục tiêu
của doanh nghiệp mà ở đó tính chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở các
giai đoạn là khác nhau. Nếu dài hạn thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của toàn bộ
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu lợi nhuận và các
chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận. Nếu là hiệu quả ngắn hạn thì nó dựa vào các mục tiêu
hiện tại mà nhà quản lý doanh nghiệp đang theo đuổi.
Vì vậy chỉ tiêu hiệu quả ngắn hạn có thể là trái với các chỉ tiêu hiệu quả dài hạn,
nhưng mục đích của nó lại là nhằm thực hiện chỉ tiêu hiệu quả dài hạn.[1,2]
1.2.2. Vai trò của hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì các doanh nghiệp đều phải huy
động và sử dụng các nguồn lực mà doanh nghiệp có để có thể tạo ra kết quả với
mục tiêu mà doanh nghiệp đã mong muốn. Ở mỗi giai đoạn thì doanh nghiệp đều
có mục tiêu xác định, tuy nhiên mục tiêu cuối cùng quan trọng trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở sử dụng tối ưu
các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp.
Để tối đa hoá được lợi nhuận cũng như các mục tiêu mong muốn khác các nhà
quản lý doanh nghiệp phải sử dụng nhiều phương pháp, nhiều công cụ khác nhau.
Công cụ hữu hiệu nhất để các nhà quản trị thực hiện chức năng quản trị của mình
là đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả sản
xuất kinh doanh ngoài giúp các nhà quản trị phân tích đánh giá tính hiệu quả của
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn cho phép các nhà
quản trị tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp, để từ đó đưa ra được các biện pháp điều chỉnh thích hợp trên cả hai
phương diện giảm chi phí tăng doanh thu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.[1,2]
1.2.3. Ý nghĩa của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh không những là thước đo chất lượng phản ánh trình
độ tổ chức, năng lực sản xuất, quản trị công ty mà còn là vấn đề quan trọng quyết
định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.

7


Hiện nay, các doanh nghiệp phải biết năng động trong kinh doanh, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh là cơ sở để doanh nghiệp khắc phục những điểm yếu, tận
dụng cơ hội để cải thiện và phát triển sản phẩm, qua đó giữ vững vị trí trên thị
trường, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, tiết kiệm chi phí tài lực và
vật lực. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tức là sự phát triển doanh nghiệp
được mở rộng, nâng cao đời sống người lao động, góp phần vào sự phát triển
chung của xã hội và đất nước.[1,16]
1.3. Các chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình kết hợp sử dụng nhiều
yếu tố như: nguyên vật liệu, tư liệu lao động, sức lao động, tiền vốn. Hiệu quả kinh
tế của sản xuất kinh doanh đạt được khi sử dụng các yếu tố đó có hiệu quả. Vì vậy,
để phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh cần sử dụng hệ thống chỉ tiêu, khi tính
toán (từng chỉ tiêu cụ thể) người ta dựa vào công thức (1.2).
Về kết quả sản xuất đạt được hiện nay người ta thường dùng chỉ tiêu về doanh thu
hoặc lợi nhuận, trong bài này tác giả sử dụng chỉ tiêu về lợi nhuận.
Về chi phí sản xuất có thể sử dụng toàn bộ chi phí lao động sống và lao động vật
hoá thường tính theo số lượng lao động bình quân năm hoặc vốn sản xuất bình
quân năm.
Từ công thức (1.2) ta có thể vận dụng và tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp theo chỉ tiêu sau:
1.3.1. Chỉ tiêu Lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh quan trọng nhất, là mục tiêu
cuối cùng của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng phản ánh quy mô, trình độ trang bị kỹ thuật, trình
độ tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phần lợi nhuận cuối cùng sau khi thực hiện nghĩa vụ đóng góp vào Ngân sách Nhà
nước tạo điều kiện để doanh nghiệp tập trung vào đầu tư hiện đại hoá trang thiết bị
kỹ thuật, dây chuyền công nghệ, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của người

8


lao động... Điều đó là điều kiện cần thiết cho việc nâng cao năng suất, chất lượng
và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp còn tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, văn
hoá, tinh thần của người lao động trong doanh nghiệp. Phần lợi nhuận để lại doanh
nghiệp, sau khi trích lập các quỹ tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sẽ phục
vụ cho các hình thức tiêu dùng của doanh nghiệp. Trong đó quỹ tiền thưởng làm
tăng thu nhập của người lao động, nâng cao đời sống vật chất của họ. Quỹ phúc lợi
phục vụ cho việc đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi công cộng trong doanh
nghiệp như nhà ăn, nhà trẻ, câu lạc bộ..., tổ chức các phong trào văn hoá văn nghệ,
thể dục, thể thao, vui chơi giả trí, tổ chức các chuyến thăm quan du lịch, nghỉ mát
và trợ cấp cho những người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn.
Đây là chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền của tổng giá trị lợi nhuận doanh nghiệp đạt
được trong kỳ kinh doanh.
Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí

(1.3)


Trong đó:
* Lợi nhuận của doanh nghiệp là phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí bỏ ra để
có thu nhập đó. Theo phạm vi tính ta có:
Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh = Doanh thu - Chi phí sản xuất
kinh doanh

(1.3.1)

Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động tài chính = Thu từ hoạt động tài chính - Chi phí
hoạt động tài chính

(1.3.2)

Lợi nhuận trước thuế khác = Thu khác - Chi phí khác

(1.3.3)

Tổng lợi nhuận trước thuế = Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh + Lợi
nhuận trước thuế từ hoạt động tài chính + Lợi nhuận trước thuế khác (1.3.4)
Lợi nhuận sau thuế là chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh
nghiệp.[4,7]
Trong đó thuế thu nhập doanh nghiệp = Lợi nhuận trước thuế X Thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp

(1.4)

9


* Doanh thu là một chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó phản

ánh tổng hợp quy mô tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh thu là biểu hiện sự chấp nhận của thị trường đối với sản phẩm của doanh
nghiệp . Bởi vì việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp luôn gắn với tình hình thị
trường. Nếu tiêu thụ nhiều và doanh thu cao có nghĩa là sản phẩm của doanh
nghiệp được thị trường chấp nhận.
Doanh thu là chỉ tiêu phản ánh vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Một doanh
nghiệp có số thu hàng kỳ lớn và ngày càng tăng chứng tỏ sản phẩm, dịch vụ của
doanh nghiệp được nhiều khách hàng chấp nhận, quan hệ của doanh nghiệp sẽ tồn
tại trên phạm vi rộng lớn. Khi điều kiện cạnh tranh trên thị trường trở lên khắc
nghiệt thì chỉ những doanh nghiệp có doanh thu lớn, có nhiều khách hàng mới có
điều kiện tồn tại và phát triển được. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt
như hiện nay, ta có thể thấy rằng mọi yếu tố khác cho quá trình tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp như nhân lực, tài nguyên, công nghệ... đều có thể có được tương
đối dễ dàng duy chỉ có thị trường cho sản phẩm thì luôn là điều khó khăn nhất.
Doanh nghiệp nhất định sẽ phá sản nếu sản phẩm không tiêu thụ được trên thị
trường.
Doanh thu của doanh nghiệp là để thanh toán khoản chi phí đầu vào của quá trình
sản xuất kinh doanh, là nguồn thanh toán các khoản nghĩa vụ với Ngân sách, thanh
toán các khoản nợ với người cho vay đồng thời là nguồn tạo ra lợi nhuận. Đó chính
là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở
rộng.
Khi có doanh thu có nghĩa là quá trình luân chuyển vốn kết thúc. Tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp là hoạt động xuất bán sản phẩm cho người mua để nhận
được số tiền về sản phẩm đó. Quá trình tiêu thụ sản phẩm được coi là hoàn thành
khi doanh nghiệp được chấp nhận trả tiền của bên mua hàng.
Tổng doanh thu = Doanh thu thuần + Thu từ hoạt động tài chính + Thu nhập
khác

(1.5)


10


Doanh thu là tiền thu từ việc bán sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng
trong một thời gian nhất định. Doanh thu được xác định từ khi khách hàng chấp
nhận trả tiền không kể tiền đã nhận được hay chưa. Các sản phẩm dùng để biếu
tặng, đổi vật tư, trả thay lương... đều được tính vào doanh thu của doanh nghiệp
trong kỳ.
Thu từ hoạt động tài chính là thu từ các hoạt động về đầu tư vốn, kinh doanh vốn
như góp vốn liên doanh, thu lãi tiền gửi, đầu tư chứng khoán ngắn hạn, dài hạn,
kinh doanh ngoại tệ...
Thu nhập khác là các khoản thu phát sinh ngoài dự kiến của doanh nghiệp như các
khoản thưởng của khách hàng, tiền phạt các đối tượng khác vi phạm hợp đồng kinh
tế với doanh nghiệp, thu về thanh lý tài sản cố định, thu từ những khoản thu khó
đòi đã xử lý và những khoản thu có tính chất bất thường khác.
Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế
toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh
nghiệp góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.[4,7]
* Chi phí: Căn cứ vào tính chất, mục đích của từng hoạt động trong doanh nghiệp
được chia làm 3 loại: chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí hoạt động tài chính, chi
phí khác.
Căn cứ theo quá trình kinh doanh, chi phí sản xuất kinh doanh là những chi phí có
liên quan đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được chia thành 3 loại: chi
phí sản xuất sản phẩm, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí tiêu thụ sản phẩm
(chi phí bán hàng).
Chi phí hoạt động tài chính là các khoản chi kể cả các khoản lỗ liên quan đến các
hoạt động về vốn ngoài nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí
này bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính như hoạt động
liên doanh, cho vay vốn, gửi tiền ở ngân hàng, mua bán ngoại tệ, chứng khoán, các
khoản dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán, chi phí về lãi tiền vay, chi phí về

chênh lệch tỷ giá ngoại tệ...

11


Chi phí khác gồm các khoản chi phát sinh bất thường mà doanh nghiệp không
lường trước được như chi phí nhượng bán thanh lý tài sản cố định, tiền bị phạt do
vi phạm hợp đồng kinh tế, các khoản phạt do vi phạm chế độ giao nộp ngân sách,
chi phí dự phòng phải thu khó đòi và dự phòng giảm giá hàng tồn kho...
Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật
hóa trong sản xuất kinh doanh của một thời kỳ nhất định. Chi phí là chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp quan trọng, là một trong những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến lợi
nhuận của doanh nghiệp. Chi phí biểu hiện trình độ quản lý và sử dụng vốn các
loại, trình độ tổ chức sản xuất, quản lý lao động và trình độ kinh doanh của doanh
nghiệp.[4,7]
Tổng chi phí = Chi phí sản xuất kinh doanh + Chi phí hoạt động tài chính +
Chi phí khác

(1.6)

1.3.2. Tỷ suất lợi nhuận theo Vốn
Lợi nhuận là đại lượng tuyệt đối đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng
bản thân nó mới chỉ biểu hiện một cách đơn giản mối quan hệ so sánh giữa thu và
chi, muốn đưa ra được đánh giá sâu rộng hơn ta phải sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất
lợi nhuận hay còn gọi là chỉ tiêu doanh lợi.
Tỷ suất lợi nhuận là đại lượng tương đối dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh, nó được xác định thông qua sự so sánh giữa chỉ tiêu lợi nhuận với
các chỉ tiêu đặc thù của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh là doanh thu, vốn và
chi phí.
Từ đó ta có ba chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo vốn được tính toán như sau:

Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn =

(1.7)
Vốn bình quân trong kỳ

Vốn kinh doanh bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Đây là chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Thông qua các chỉ tiêu này thấy được một đồng
vốn bỏ vào kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó cho ta thấy được
hiệu quả kinh tế không chỉ đối với lao động vật hoá mà còn cả lao động sống. Nó

12


còn phản ánh trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh và quản lý của ngành cũng như
của các doanh nghiệp. Mục tiêu sản xuất kinh doanh của ngành cũng như của
doanh nghiệp và toàn xã hội không phải chỉ quan tâm tạo ra nhiều sản phẩm bằng
mọi chi phí mà điều quan trọng hơn là sản phẩm được tạo ra trên mỗi đồng vốn bỏ
ra nhiều hay ít. Nếu chỉ tiêu >1 và càng cao thì chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn
hiệu quả ngược lại là doanh nghiệp chưa sử dụng hết được hiệu quả của nguồn
vốn.[1,3]
Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn =

(1.7.1)
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Lợi nhuận

Tỷ suất lợi nhuận theo vốn =


(1.7.2)
Vốn lƣu động bình quân trong kỳ

Trong đó:
Vốn cố định là số tiền doanh nghiệp ứng trước để đầu tư cho tài sản cố định. Xét
tại mỗi thời điểm nhất định thì vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền
của giá trị còn lại của toàn bộ các tài sản cố định hiện có của doanh nghiệp. (Giá trị
này là giá trị còn lại thực tế của tài sản cố định trên sổ sách kế toán của doanh
nghiệp).
Vốn lưu động: Số tiền mà doanh nghiệp ứng trước để đầu tư cho tài sản lưu động,
xét tại một thời điểm nhất định, số vốn đó là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị
hiện có của các tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Vốn bình quân trong kỳ được tính bằng trung bình cộng của vốn đầu kỳ và vốn
cuối kỳ.[1,3]
1.3.3. Tỷ suất lợi nhuận theo Chi phí
Ta có công thức sau:

13


Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí =

(1.8)
Tổng chi phí

Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Để tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thì cần hạn chế tối đa chi
phí để thu lợi nhuận nhiều nhất. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ doanh nghiệp
kinh doanh càng hiệu quả ngược lại là doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và có thể

là không có lãi.[1,3]
1.3.4. Tỷ suất lợi nhuận theo Doanh thu
Ta có công thức:
Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu =

(1.9)
Tổng doanh thu

Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng doanh thu có thể mang lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Tỷ suất lợi nhuận càng cao thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp càng tốt. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tăng
doanh thu, giảm chi phí nhưng điều kiện để có hiệu quả là tốc độ tăng lợi nhuận
phải lớn hơn tốc độ tăng doanh thu, ngược lại là doanh nghiệp kinh doanh không
hiệu quả.[1,3]
1.3.5. Chỉ tiêu đánh giá năng suất lao động
Lao động là yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất, hiệu quả sử dụng lao động góp
phần nâng cao hiệu quả chung của toàn doanh nghiệp. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
sử dụng lao động trong mỗi doanh nghiệp sẽ đánh giá hiệu quả người lao động
mang lại cao hay thấp. Hầu hết doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường đều
phải sử dụng lao động, nhưng việc sử dụng lao động đó sẽ mang lại hiệu quả ra sao
thì ta cần đánh giá thông qua chỉ tiêu sau:
Kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ
Năng suất lao động =

(1.10)
Số lao động tham gia hoạt động kinh doanh

14



* Nếu kết quả kinh doanh là doanh thu:
Tổng doanh thu
Năng suất lao động =

(1.10.1)
Tổng lao động bình quân

* Nếu kết qủa kinh doanh là lợi nhuận:
Lợi nhuận
Năng suất lao động =

(1.10.2)
Tổng lao động bình quân

Chỉ tiêu năng suất lao động (1.10.1) biểu hiện hiệu quả trong việc sử dụng lực
lượng lao động trong doanh nghiệp. Chỉ tiêu năng suất lao động (1.10.2) hay mức
sinh lời bình quân của một lao động cho biết mỗi lao động sử dụng trong doanh
nghiệp tạo ra được bao nhiêu lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này
càng cao thì chứng tỏ lao động trong doanh nghiệp làm việc năng suất và có hiệu
quả ngược lại thì là làm việc kém hiệu quả.[1,3]
1.4. Các nhân tố môi trƣờng ảnh hƣởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
1.4.1. Nhóm nhân tố vĩ mô
* Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là nhân tố vĩ mô tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách đầu tư ưu
đãi, chính sách phát triển sẽ tạo ra sự ưu tiên hoặc kìm hãm sự phát triển của từng
ngành từng lĩnh vực cụ thể do đó có tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp trong từng ngành, từng lĩnh vực nhất định.

Ngoài việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, các cơ quan quản lí nhà nước
về kinh tế phải làm tốt công tác dự báo để điều tiết đúng đắn các hoạt động đầu tư,
không để ngành hay lĩnh vực kinh tế nào phát triển theo xu hướng cung vượt cầu.
Việc thực hiện tốt sự hạn chế của độc quyền và kiểm soát độc quyền tạo ra môi
trường cạnh tranh bình đẳng, việc tạo ra các chính sách vĩ mô hợp lý như chính

15


sách thuế phù hợp với trình độ kinh tế, loại hình doanh nghiệp sẽ tác động mạnh
mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Môi trường kinh tế có thể tác động đến việc tăng giảm doanh thu của doanh
nghiệp.
* Môi trường khoa học công nghệ
Ngày nay, khoa học kỹ thuật công nghệ có ảnh hưởng rất lớn đối với tất cả các lĩnh
vực (nhất là lĩnh vực kinh tế). Trước thực trạng đó để tránh tụt hậu, một trong
những sự quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp là nhanh chóng nắm bắt được và
ứng dụng được tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất nhằm đạt hiệu
quả kinh doanh cao.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp muốn thắng thế trong cạnh tranh thì một
yếu tố cơ bản là phải có trình độ khoa học công nghệ cao, thỏa mãn nhu cầu của thị
trường cả về số lượng, chất lượng, thời gian. Để đạt được mục tiêu này yêu cầu cần
đặt ra là ngoài việc khai thác triệt để cơ sở vật chất đã có (toàn bộ nhà xưởng, kho
tàng, phương tiện vật chất kỹ thuật máy móc thiết bị) còn phải không ngừng tiến
hành nâng cấp, tu sửa, sữa chữa và tiến tới hiện đại hoá công nghệ máy móc, thiết
bị từ đó nâng cao sản lượng, năng suất lao động và đảm bảo hiệu quả sản xuất hàng
hóa, dịch vụ ngày càng cao.
Môi trường khoa học công nghệ có thể tác động đến lợi nhuận và vốn kinh doanh
của doanh nghiệp.
* Môi trường văn hoá xã hội

Các nhân tố điều kiện xã hội của địa phương, phong tục tập quán, văn hóa giáo
dục, lối sống của người dân... là những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có thể duy
trì và thu được lợi nhuận khi sản phẩm làm ra phù hợp với nhu cầu, thị hiếu khách
hàng, xu hướng tiêu dùng hiện tại, phù hợp với lối sống của người dân nơi tiến
hành hoạt động sản xuất. Mà những yếu tố này do các nhân tố thuộc môi trường
văn hoá xã hội quy định. Đây là nhân tố có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.

16


* Môi trường chính trị pháp luật
Các yếu tố thuộc môi trường chính trị pháp luật chi phối mạnh mẽ đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hình thức, thể chế đường lối chính trị của
Đảng và Nhà nước quyết định các chính sách, đường lối kinh tế chung, từ đó quyết
định các lĩnh vực, loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Sự ổn định chính trị được xác định là một trong những tiền đề quan trọng cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi của môi trường chính trị có thể
ảnh hưởng có lợi cho một nhóm doanh nghiệp này nhưng lại kìm hãm sự phát triển
nhóm doanh nghiệp khác hoặc ngược lại.
Hệ thống pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một trong những tiền đề ngoài
kinh tế của kinh doanh. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật trong
nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường này có tác động trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tiến hành các hoạt động kinh doanh mọi doanh
nghiệp có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật kinh
doanh trên thị trường trên thị trường quốc tế doanh nghiệp phải nắm chắc luật pháp
của nước sở tại và tiến hành các hoạt động kinh doanh trên cơ sở tôn trọng luật
pháp của nước đó.

Tính công bằng của luật pháp thể hiện trong môi trường kinh doanh dù ở mức độ
nào cũng tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp. Và sẽ chỉ có kết quả và hiệu quả tích cực nếu môi trường kinh
doanh trong đó mọi thành viên đều tuân thủ pháp luật. Ngược lại nhiều doanh
nghiệp sẽ lao vào con đường làm ăn bất chính trốn lậu thuế, sản xuất hàng giả,
hàng hoá kém chất lượng cũng như gian lận thương mại, vi phạm pháp lệnh môi
trường làm nguy hại tới xã hội... làm cho môi trường kinh doanh không còn lành
mạnh. Trong môi trường này nhiều khi kết quả và hiệu quả kinh doanh không do
các yếu tố nội lực trong doanh nghiệp quyết định.
1.4.2. Nhóm nhân tố vi mô
* Thị trường

17


Thị trường bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp.
Nó là yếu tố quyết định quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Đối với
thị trường đầu vào là cung cấp các yếu tố cho quá trình sản xuất như nguyên nhiên
vật liệu, máy móc thiết bị, hàng hóa... nên nó tác động trực tiếp đến giá thành sản
phẩm, tính liên tục và hiệu quả của quá trình sản xuất. Còn đối với thị trường đầu
ra là yếu tố quyết định doanh thu của doanh nghiệp trên cơ sở sự chấp nhận hàng
hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường. Thị trường đầu ra có thể bao gồm
các kênh phân phối, người sẽ giúp doanh nghiệp trong việc đẩy nhanh hay chậm
tốc độ tiêu thụ, vòng quay vốn để từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
* Người tiêu dùng
Người tiêu dùng chính là người tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất, là
lực lượng quyết định đến sự phát triển hay thành bại của doanh nghiệp. Người tiêu
dùng chịu sự tác động của giá cả, chất lượng sản phẩm, thu nhập, thói quen và thị
hiếu của người tiêu dùng.

Việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là yêu cầu khách quan của môi
trường cạnh tranh, cũng như sự phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng chính nhu
cầu khách quan này thể hiện quan điểm và văn hoá riêng của mỗi nhà quản lý trong
mục tiêu kinh doanh, cũng như nét đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Việc phục
vụ khách hàng được biểu hiện thông qua sự thoả mãn tối đa nhu cầu của khách
hàng từ những phương tiện phục vụ hiện đại và với thái độ nhiệt tình, lịch sự và
chăm sóc sau bán hàng... Từ đó góp phần thu hút khách hàng, tạo niềm tin và tăng
nhanh doanh số tiêu thụ, nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh.
* Đối thủ cạnh tranh
Là bao gồm cả đối thủ cạnh tranh sơ cấp và đối thủ cạnh tranh thứ cấp. Trường hợp
doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh hơn thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vì doanh nghiệp lúc này chỉ có
thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng, giảm
giá thành sản phẩm để tăng tốc độ tiêu thụ, tăng doanh thu và tăng vòng quay của

18


vốn. Như vậy yêu cầu doanh nghiệp phải tổ chức lại bộ máy hoạt động sản xuất
kinh doanh phù hợp hơn, hiệu quả hơn để doanh nghiệp có thể có khả năng cạnh
tranh cao về giá cả, chất lượng, chủng loại, mẫu mã...
Vì vậy đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời tạo ra sự năng động sáng tạo
trong kinh doanh, tạo ra động lực thúc đẩy phát triển của doanh nghiệp. Việc xuất
hiện càng nhiều đối thủ cạnh tranh thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp sẽ càng gặp khó khăn.
* Người môi giới
Là những người trung gian bao gồm cả ở quá trình đầu vào và quá trình đầu ra.
Người môi giới có mối quan hệ với doanh nghiệp như đối tác, giúp doanh nghiệp
có được nguồn đầu vào chất lượng, liên tục và giúp tiêu thụ sản phẩm đầu ra của

doanh nghiệp một cách nhanh hơn, chia sẻ bớt rủi ro. Người môi giới trung gian tốt
cũng là yếu tố giúp doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao hơn, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

19


CHƢƠNG 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ VẬN TẢI XI
MĂNG HẢI PHÒNG
2.1. Công ty Cổ phần Thƣơng mại Dịch vụ Vận tải Xi măng Hải Phòng
2.1.1. Giới thiệu
- Tên đầy đủ tiếng Việt: Công ty cổ phần Thương mại Dịch vụ Vận tải Xi măng
Hải Phòng.
- Tên đầy đủ tiếng Anh: Hai Phong Cement Transport and Trading joinstock
Company.
- Mã chứng khoán: HCT
- Địa chỉ: Số 290 Đường Hà Nội phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải
Phòng.
- Điện thoại: 0313.540.445

Fax: 0313.540.417

- Ngành nghề kinh doanh chính:
+ Vận tải hành khách bằng xe khách nội tỉnh, liên tỉnh. Vận tải hàng hóa ven biển
và viễn dương. Bốc xếp hàng hóa ga đường sắt, bốc xếp hàng hóa đường bộ, bốc
xếp hàng hóa cảng biển, bốc xếp hàng hóa cảng sông;
+ Kinh doanh vật liệu xây dựng, kho bãi và lưu giữ hàng hóa. Dịch vụ đại lý tàu
biển, dịch vụ đại lý vận tải đường biển, dịch vụ khác liên quan đến vận tải. Dịch vụ
lưu trú ngắn ngày: Khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ kinh doanh dịch vụ lưu trú ngắn

ngày;
+ Nhà hàng, quán ăn, hàng ăn uống, dịch vụ ăn uống phục vụ lưu động khác;
+ Khai thác đá, cát, sỏi, đất sét, đại lý, môi trường, đấu giá, cho thuê máy móc,
thiết bị xây dựng;
+ Cho thuê máy móc và đồ dung hữu hình khác;
+ Đại lý du lịch, điều hành tour du lịch, dịch vụ hỗ trợ liên quan đến quảng bá và
tổ chức tour du lịch;
+ Xây dựng nhà các loại, xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng;
+ Xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng khác;

20


+ Phá dỡ, chuẩn bị mặt bằng.
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển
* Giai đoạn trƣớc tháng 12/1993
Đơn vị là Liên đội vận tải trực thuộc Công ty Cung ứng Vật tư thiết bị số 3 - Bộ
Xây dựng.
- Tổng số cán bộ công nhân viên của Liên đội vận tải:

135 người

* Giai đoạn từ tháng 1/1994 đến tháng 3 năm 1997
Công ty Cung ứng Vật tư thiết bị số 3 đổi tên thành Công ty Cung ứng Xi măng
Hải Phòng và được sát nhập với Nhà máy Xi măng Hải Phòng trong đó Liên đội
Vận tải thuỷ đổi tên thành Đoàn Vận tải tiêu thụ sản phẩm.
Trong giai đoạn này chức năng chủ yếu của đơn vị là vận chuyển xi măng bằng
phương tiện thuỷ bộ cho các tỉnh phiá Bắc và sửa chữa phương tiện thuỷ, bộ phục
vụ sản xuất của đơn vị.
* Giai đoạn từ ngày 01/4/1997 đến 28/2/2004

- Nhằm từng bước nâng cao năng lực quản lý của các đơn vị, theo Quyết định số
110/XMVN-HĐQT ngày 22/3/1997 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Xi măng
Việt Nam quyết định thành lập Xí nghiệp nghiệp Vận tải và Sửa chữa thuỷ trên cơ
sở sát nhập 4 đơn vị trực thuộc gồm: Đoàn Vận tải tiêu thụ sản phẩm, Phân xưởng
cơ giới, Đoàn Vận tải thuỷ, Phân xưởng sửa chữa phương tiện trong đó Đoàn Vận
tải tiêu thụ sản phẩm là nòng cốt.
- Tổng số cán bộ công nhân viên:

420 người

- Năng lực phương tiện
+ Tổng số tấn phương tiện thuỷ:

8.520 tấn phương tiện

+ Tổng số phương tiện bộ: 57 xe vận tải = 420 tấn phương tiện
* Giai đoạn từ tháng ngày 01/3/2004 đến nay
- Thực hiện chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước của Đảng và
Chính phủ, theo Quyết định số 1753/QĐ-BXD ngày 29/12 /2003 của Bộ trưởng Bộ
Xây dựng về việc cổ phần hoá Xí nghiệp Vận tải thuỷ trực thuộc Công ty Xi măng

21


Hải Phòng thành Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ Vận tải Xi măng Hải
Phòng trực thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam.
Công ty cổ phần chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/3/2004.
- Tổng số cán bộ công nhân viên:
Trong đó trình độ Thạc sỹ:


130 người
02 người

Đại học:

20 người

Cao đẳng:

3 người

Trung cấp:

4 người

Công nhân kỹ thuật:

99 người

Lao động phổ thông:

2 người

- Cơ cấu tổ chức của Công ty gồm có
+ Ban Giám đốc:

2 người

+ Phòng Tổ chức lao động:


4 người

Bộ phận Bảo vệ:

15 người

+Phòng Kinh tế kỹ thuật:
Đội xe ca:

8 người
16 người

+ Phòng Kế toán tài chính:

5 người

+ Phòng Kinh doanh:

4 người

Bộ phận kinh doanh xi măng:

17 người

Đội vận tải bộ:

18 người

+ Phân xưởng Vận tải thuỷ:


41 người

- Năng lực phương tiện thuỷ
+ Ca nô đầu kéo: 10 chiếc (loại 135 CV÷150 CV)
+ Sà lan: 25 chiếc (loại 200 tấn÷250 tấn) = 5.600 tấn phương tiện
+ Cẩu Pônton: 02 chiếc
- Năng lực phương tiện bộ
+ Xe ô tô vận tải: 14 xe
+ Xe cẩu: 01 xe
+ Xe gạt: 02 xe

22


+ Xe xúc: 02 xe
- Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của Công ty
+ Vận chuyển nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất xi măng;
+ Vận chuyển xi măng đi tiêu thụ bằng phương tiện thuỷ, bộ;
+ Sửa chữa phương vận tải thuỷ, bộ;
+ Kinh doanh dịch vụ xe ca, nhà hàng...;
+ Kinh doanh bến bãi, dịch vụ tầu biển.
- Vốn điều lệ
Khi mới cổ phần hoá vốn điều lệ của công ty có trên 10 tỷ đồng, đến nay
vốn điều lệ của Công ty là trên 20 tỷ đồng (trong đó Tổng công ty Công
nghiệp Xi măng Việt Nam giữ cổ phần chi phối 53, 86 %).
- Công tác đầu tư đổi mới phương tiện
Khi chuyển sang cổ phần hoá hầu hết các phương tiện thuỷ, bộ của công ty
đều cũ, hệ số sử dụng phương tiện thấp, hiệu quả kinh tế không cao, chi phí
tiêu hao nhiên liệu lớn. Nhằm từng bước nâng cao năng lực phương tiện và
cải tạo điều kiện làm việc cho người lao động đến năm 2010 Công ty đã đầu

tư mới thay thế các phương tiện cũ nhằm nâng cao năng suất lao động cải
thiện điều kiện làm việc tạo thêm việc làm mới cho người lao động cụ thể:
+ Đầu tư 04 tầu tự hành trọng tải từ 600 tấn đến 980 tấn thay thế toàn bộ cho
10 đoàn ca nô đầu kéo và 25 sà lan;
+ Đầu tư đóng mới 01 tầu vận tải ven biển trọng tải 2000 tấn;
+ Đầu tư mới toàn bộ 14 xe ca loại 35 đến 45 chỗ ngồi phục vụ cho việc đưa
đón công nhân và kinh doanh dịch vụ du lịch;
+ Đầu tư thêm 02 xe vận tải phục vụ công tác kinh doan xi măng...;
+ Đầu tư 01 nhà hàng ăn uống để phục vụ cán bộ công nhân viên và kinh
doanh mở rộng thêm ngành hàng dịch vụ...;
+ Đầu tư thêm các bến bãi, nhà để xe ô tô, mở dịch vụ trông coi xe máy, ô tô
tạo thêm việc làm thu nhập cho người lao động.[17]
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của công ty

23


ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG

HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

BAN KIỂM SOÁT

BAN GIÁM ĐỐC

Phòng

Phòng

Phòng


Phòng

Phân

Tổ chức

Kinh tế

Kế toán

kinh

xưởng

lao động

kỹ thuật

tài chính

doanh

vận tải
thủy

Bộ phận

Đội xe


Bộ phận

Đội vận

bảo vệ

ca

kinh

tải bộ

doanh xi
măng

Hình 2.1. Cơ cấu tổ chức của công ty
(Nguồn: Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty)
Đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty gồm tất cả các cổ
đông có quyền biểu quyết, họp ít nhất mỗi năm một lần. Đại hội đồng cổ đông
quyết định những vấn đề được Luật pháp và điều lệ công ty quy định. Đại hội đồng
cổ đông thông qua các báo cáo tài chính hàng năm của công ty và tài chính cho

24


năm tiếp theo, bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên
Ban kiểm soát của công ty...
Hội đồng quản trị
- Hội đồng quản trị do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, là cơ quan quản lý cao nhất

của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan
đến quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ
đông. Hội đồng quản trị giữ vai trò định hướng chiến lược kế hoạch hoạt động sản
xuất kinh doanh hàng năm, chỉ đạo và giám sát hoạt động của công ty thông qua
Ban giám đốc công ty;
- Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị là 5 năm và thành viên Hội đồng quản trị có thể
được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Số lượng thành viên Hội đồng quản
trị hiện nay là 5 người.
Ban kiểm soát
- Ban kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm và thành viên
Ban kiểm soát có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Ban kiểm s oát
chịu sự quản lý trực tiếp của Đại hội đồng cổ đông. Ban kiểm soát có nhiệm vụ
kiểm tra hoạt động tài chính của công ty, giám sát việc tuân thủ chấp hành chế độ
hạch toán, kế toán, quy trình, quy chế nội bộ của công ty, thẩm định báo cáo tài
chính hàng năm, báo cáo Đại hội đồng cổ đông về tính chính xác, trung thực, hợp
pháp của báo cáo tài chính của công ty;
- Trong Ban kiểm soát phải có ít nhất một thành viên là người có chuyên môn về
tài chính, kế toán. Thành viên này không phải là nhân viên trong bộ phận kế toán,
tài chính của công ty và không phải là thành viên hay nhân viên của công ty kiểm
toán độc lập đang thực hiện kiểm toán cáo cáo tài chính của công ty. Số lượng
thành viên Ban kiểm soát hiện nay là 3 người.
Ban Giám đốc
- Ban giám đốc của công ty do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, có nhiệm vụ tổ chức
điều hành và quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của công ty

25


×