Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng ngân hàng tại cục thi hành án dân sự thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.95 KB, 75 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống kinh tế - xã hội, yêu cầu thi hành nghiêm chỉnh các bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có ý nghĩa quan trọng và được
quy định trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 (trước đây là Hiến pháp năm
1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001) tại Điều 106 quy định: “Bản án, quyết định
của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành”.
Để đảm bảo hiệu quả thi hành án, pháp luật đã quy định về các cơ quan
có thẩm quyền và trình tự, thủ tục thi hành án. Đối với thi hành án dân sự, Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản
hướng dẫn thi hành đã quy định về thẩm quyền của các cơ quan thi hành án
dân sự và các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự để thi hành các bản án, quyết
định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất
chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết
định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án,
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi
hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài
thương mại.
Trên cơ sở các quy định pháp luật, trong những năm qua, công tác thi
hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực. Trong năm 2015, các cơ
quan thi hành án dân sự trong toàn quốc phải thụ lý thi hành 791.441 việc
(tương ứng với số tiền là 125.956 tỷ 441 triệu 959 nghìn đồng), trong đó có
598.790 việc có điều kiện giải quyết (tương ứng với số tiền là 54.414 tỷ 499
triệu 409 nghìn đồng). Trong số có điều kiện, đã giải quyết xong 534.045 việc
(đạt tỷ lệ 89,19%) và 42.834 tỷ 120 triệu 577 nghìn đồng (đạt tỷ lệ 78,72%).
Riêng đối với các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng, số việc phải giải
quyết trong toàn quốc là 16.041 việc, tương ứng với số tiền là 59.662 tỷ 44 triệu

1




970 nghìn đồng (chiếm 2,26% về việc và 48,92% về tiền so với tổng số việc và
tiền phải giải quyết của toàn quốc). Kết quả đã giải quyết xong 1.833 việc, thu
được số tiền là 8.879 tỷ 858 triệu 764 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 11,42% về việc và
14,88% về tiền (so với cùng kỳ năm 2014 tăng 6,12% về việc và 4% về tiền)
[Báo cáo công tác thi hành án năm 2015 của Chính phủ].
Ở thành phố Hải Phòng, trong những năm qua công tác thi hành án dân sự
bên cạnh những kết quả đạt được, thì cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất
định, trong đó có những tồn tại, hạn chế liên quan đến việc thi hành các vụ
việc tín dụng, ngân hàng. Trong năm 2015 (từ ngày 01/10/2014 đến ngày
30/9/2015), các cơ quan thi hành án dân sự của thành phố Hải Phòng phải thi
hành 16.559 việc (với số tiền là 4.134.078.146.000 đồng), trong đó có 318 việc
liên quan đến tín dụng, ngân hàng (với số tiền là 2.995.058.262.000 đồng). Như
vậy, số việc thi hành án liên quan đến tín dụng, ngân hàng chỉ chiếm 0,2% về
việc nhưng chiếm 72% về tiền so với tổng số việc và tiền mà các cơ quan thi
hành án dân sự của thành phố Hải Phòng phải thi hành. Kết quả thi hành án, đã
thi hành được 44 việc với số tiền giải quyết là 531.764.248.000 đồng, đạt tỷ lệ
14% về việc và 18% về tiền. [Báo cáo kết quả công tác thi hành dân sự năm
2015, phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2016 của Cục Thi hành án dân sự
thành phố Hải Phòng].
Kết quả nêu trên cho thấy còn tồn đọng số lượng lớn các việc thi hành án
dân sự liên quan đến tín dụng, ngân hàng phải chuyển sang năm 2016. Điều này
cũng cho thấy rằng hiệu quả thi hành án đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng
còn thấp so với yêu cầu chỉ tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Thực trạng trên có nhiều
nguyên nhân như: người phải thi hành án không tự nguyện thi hành; sự phối hợp
chưa hiệu quả giữa cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức liên
quan; một số quy định pháp luật thiếu khả thi; việc xử lý tài sản đảm bảo kéo
dài, khó xử lý....Từ đó, để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói
chung, hiệu quả thi hành các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng thì cần

phải có những giải pháp, biện pháp khả thi, phù hợp với thực tiễn công tác thi

2


hành án dân sự của thành phố Hải Phòng. Vì vậy, việc chọn đề tài nghiên cứu:
“Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đối với các vụ việc
tín dụng ngân hàng tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng” có ý
nghĩa cấp thiết, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự
trên địa bàn thành phố Hải Phòng hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về hiệu quả thi hành án dân sự ở nước ta, trong thời gian qua đã có nhiều
công trình nghiên cứu được công bố với những cách tiếp cận khác nhau, trong
đó có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
- “Đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án dân sự ở Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Quang Thái, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2003;
- “Một số vấn đề về tổ chức và Thi hành án dân sự Việt Nam” của tác giả
Trần Văn Quảng , Luận văn Thạc sĩ Luật học , Trường Đa ̣i ho ̣c luâ ̣t Hà Nô ̣i ,
1997;
- “Xã hội hóa một số nội dung Thi hành án dân sự” của tác giả Lê Xuân
Hồng, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002;
- “Đổi mới thủ tục Thi hành án dân sự Việt Nam”

của tác giả Lê Anh

Tuấn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004;
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong Thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005;

- “Những vướng mắc trong cơ chế phối hợp về Thi hành án dân sự” của
tác giả Hoàng Thế Liên và Nguyễn Thanh Thủy đăng trên Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, tháng 5/2001;
- "Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Hoàng Thế
Anh (Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2005);

3


- “Vấn đề đổi mới thủ tục Thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay” của tác
giả Nguyễn Thanh Thủy đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

(Số chuyên

đề về Thi hành án dân sự, năm 2006);
- “Thực trạng về án tồn đọng và những giải pháp của Thi hành án dân sự
thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn Lực và Đào Anh Dũng đăng
trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số chuyên đề về Thi hành án dân sự , năm
2008);
- “Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu”
của tác giả Lại Anh Thắng, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2010.
- "Một số vấn đề về công tác quản lý, chỉ đạo và tổ chức hoạt động kiểm
sát thi hành bản án, quyết định dân sự" của tác giả Trần Thị Nguyệt đăng trên
Tạp chí Kiểm sát, số 10 (tháng 5.2008).
- „„Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải
cách tư pháp‟‟ của tác giả Hoàng Thi ̣Hoa , Luận văn Thạc sỹ luật ho ̣c , Khoa
luâ ̣t, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009;
- "Những bất cập trong giải quyết các giao dịch liên quan đến tài sản của

người phải thi hành án", Tạp chí Kiểm sát, số 5 (tháng 3/2011) của TS. Đoàn
Đức Lương, Đại học Huế...
Ngoài ra cũng còn những bài viết, sách liên quan đến công tác thi hành án
dân sự đã được công bố đề cập nhiều đến những vấn đề lý luận, thực tiễn về
công tác thi hành án dân sự ở các góc độ khác nhau, nhưng ít có công trình
nghiên cứu về hiệu quả thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân
hàng do các cơ quan thi hành án dân sự thực hiện trên một địa bàn cụ thể. Vì
vậy, tác giả chọn đề tài nghiên cứu này hy vọng sẽ đáp ứng các yêu cầu thực
tiễn đặt ra đối với công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hải
Phòng hiện nay.
3. Mục đích và nhiêm
̣ vu ̣ của luận văn

4


- Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn công tác thi hành án dân sự nói chung, thi hành án dân sự đối với
các vụ việc tín dụng, ngân hàng nói riêng của Cục Thi hành án dân sự thành
phố Hải Phòng và phân tích một số biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành án
dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng.
- Để đạt mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Nghiên cứu một một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự và hiệu
quả thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng.
+ Đánh giá thực trạng hiệu quả thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín
dụng, ngân hàng tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
+ Phân tích, kiến nghị một số biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành án
dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng tại Cục Thi hành án dân sự
thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến hoạt
động thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng tại Cục Thi
hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận và thực tiễn
trong hoạt động thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng tại
Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng trong 5 năm (từ 2011 đến 2015).
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ, hoàn thiện những vấn đề lý luận và
thực tiễn về hoạt động thi hành án dân sự nói chung, thi hành án dân sự đối
với các vụ việc tín dụng, ngân hàng nói riêng.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý thi hành án dân
sự, cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức liên quan trong chỉ đạo,
phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự.
6. Nội dung nghiên cứu của luận văn
Nội dung nghiên cứu của luận văn được bố cục trong 3 chương.

5


Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thi hành án dân sự và hiệu quả
thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng
Chương 2: Đánh giá thực trạng hiệu quả thi hành án dân sự đối với các vụ
việc tín dụng, ngân hàng tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đối với
các vụ việc tín dụng, ngân hàng tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải
Phòng.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ VÀ HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI
CÁC VỤ VIỆC TÍN DỤNG, NGÂN HÀNG
1.1. Đặc điểm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
1.1.1. Vị trí, chức năng của cơ quan thi hành án dân sự
Vị trí, chức năng của cơ quan thi hành án dân sự hiện nay được quy định
trong Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn
bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thi hành án dân sự; Quyết định 32/2009/QĐ-TTg ngày 02/3/2009 của Thủ
tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp; Thông tư số 09/2015/TTBTP ngày 26/06/2015 của Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công
chức viên chức, người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ
quan Thi hành án dân sự; Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi
hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp; Thông tư số 09/2012/TT-BTP ngày
01/09/2012 của Bộ Tư pháp quy định trình tự thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại,
từ chức, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức công chức lãnh đạo cấp Vụ thuộc
Tổng cục Thi hành án dân sự; lãnh đạo Cục, lãnh đạo các phòng chuyên môn
và tương đương thuộc Cục Thi hành án dân sự; lãnh đạo Chi cục Thi hành án
dân; Thông tư liên tịch số 04/2013/TTLT-BTP-BQP ngày 01/02/2013 của Bộ
Tư pháp và Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước về công tác
bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự; Thông tư số 13/2013/TT-BTP
ngày 13/09/2013 của Bộ Tư pháp quy định tiêu chuẩn chức danh công chức
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc Cục Thi hành án dân sự và Chi cục Thi
hành án dân sự; Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư

7



pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu
nghiệp vụ trong thi hành án dân sự...
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân
sự có chức năng thi hành các bản án, quyết định định dân sự, hình phạt tiền,
tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản,
án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản
trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải
quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết
định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định) và
Chấp hành viên là người có thẩm quyền được giao trực tiếp tiến hành các trình
tự, thủ tục tổ chức thi hành án các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành. Căn
cứ Điều 13 Luật Thi hành án dân sự và Điều 52, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thi hành án dân sự thì Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự được
tổ chức và quản lý tập trung, thống nhất, gồm có:
- Ở Trung ương: Tổng cục Thi hành án dân sự là cơ quan quản lý thi hành
án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp;
- Ở cấp tỉnh: Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi chung là Cục Thi hành án dân sự) là cơ quan thi hành án
dân sự trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự;
- Ở cấp huyện: Chi cục Thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Chi cục Thi hành án dân sự) là cơ quan thi
hành án dân sự trực thuộc Cục Thi hành án dân sự.
Như vậy, theo quy định trên thì cơ quan thi hành án dân sự bao gồm: Cục
Thi hành án dân sự và Chi cục Thi hành án dân sự. Tùy thuộc vào sự phân cấp,
các cơ quan thi hành án dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau:
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Cục Thi hành án dân sự:


8


+ Quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, bao gồm: Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định
của pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự; Chỉ đạo hoạt động thi hành
án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ
thi hành án dân sự cho Chấp hành viên, công chức khác của cơ quan thi hành
án dân sự trên địa bàn; Kiểm tra công tác thi hành án dân sự đối với cơ quan
thi hành án dân sự cấp huyện; Tổng kết thực tiễn thi hành án dân sự; thực hiện
chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự theo
hướng dẫn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
+ Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cùng địa bàn; Bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân cấp cao; Quyết định của Tòa án nhân dân tối cao
chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh; Bản án, quyết định của
Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Phán quyết, quyết định của Trọng tài
thương mại; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh; Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự nơi khác hoặc cơ
quan thi hành án cấp quân khu ủy thác; Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền
thi hành của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện mà thấy cần thiết lấy lên để
thi hành; Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan thi hành
án dân sự cấp huyện mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải
ủy thác tư pháp về thi hành án.
+ Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; phối hợp
với cơ quan Công an trong việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm chấp hành
hình phạt tù và đặc xá cho người có nghĩa vụ thi hành án dân sự đang chấp
hành hình phạt tù.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền

theo quy định của Luật này.

9


+ Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ đạo
của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
+ Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện trách nhiệm, quyền hạn theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 của Luật Thi hành án dân sự (đó là:
chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân
sự trên địa bàn; giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh
trong việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự; chỉ
đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh).
+ Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân theo quy định của pháp luật; báo cáo Tòa án về kết quả thi hành bản
án, quyết định khi có yêu cầu [Điều 14, Luật Thi hành án dân sự].
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chi cục Thi hành án dân sự:
+ Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ
quan thi hành án dân sự có trụ sở; Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với bản án, quyết định sơ
thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương nơi cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có trụ sở; Quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở; Bản án,
quyết định do cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi khác, cơ quan thi hành

án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền
theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.

10


+ Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện
hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh.
+ Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi
hành án theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án dân
sự cấp tỉnh.
+ Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự.
+ Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 của Luật Thi hành án dân sự (đó là:
Chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân
sự trên địa bàn; giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh
trong việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự;
Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng
đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện).
+ Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân theo quy định của pháp luật; báo cáo Tòa án về kết quả thi hành bản
án, quyết định khi có yêu cầu [Điều 16, Luật Thi hành án dân sự].
Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nêu trên của các cơ quan thi hành
án dân sự, pháp luật cũng quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp
hành viên – chức danh do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm có thẩm quyền tổ
chức thi hành án.
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung năm

2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về Chấp hành viên như sau:
- Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản
án, quyết định theo quy định. Chấp hành viên có 3 ngạch gồm Chấp hành viên
sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp; việc bổ nhiệm
Chấp hành viên phải thông qua thi tuyển.

11


- Tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên: Ngoài tiêu chuẩn chung phải là
công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm
chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành
nhiệm vụ được giao thì người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp phải
có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên, đã được đào tạo nghiệp
vụ thi hành án dân sự và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp.
Người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp phải có thời gian làm Chấp
hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên
trung cấp. Người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cao cấp phải có thời gian
làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên và trúng tuyển kỳ thi tuyển
Chấp hành viên cao cấp. Người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trong quân
đội phải là sỹ quan quân đội tại ngũ.
- Đối với người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển
công tác đến cơ quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành
viên ở ngạch tương đương mà không qua thi tuyển. Trường hợp đặc biệt do
Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn chung, đã có thời gian làm công
tác pháp luật từ 10 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên trung
cấp hoặc đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên thì có thể
được bổ nhiệm Chấp hành viên cao cấp.
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản
án, quyết định theo quy định. Đó là: Bản án, quyết định hoặc phần bản án,

quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; uyết định giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; Bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực
pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án;
Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; Quyết định của Tòa án giải

12


quyết phá sản; Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động,
trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao
động trở lại làm việc và Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy
nhiên, việc được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án còn phụ thuộc vào ngạch
Chấp hành viên (Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp
hành viên cao cấp) và theo thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự nơi
Chấp hành viên làm việc.
Để đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật, Chấp hành viên có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về
thi hành án theo thẩm quyền.
- Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên.
- Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết
việc thi hành án.

- Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa
chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan
xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án.
- Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng
chế thi hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành
án.
- Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo
quy định của pháp luật.
- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi
phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ

13


luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người vi phạm.
- Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi
trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và
các khoản phải nộp khác.
- Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định
của Chính phủ.
- Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự.
Đồng thời, với yêu cầu công khai, minh bạch trong hoạt động thi hành án
dân sự, pháp luật quy định Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín; Chấp hành viên không được làm
những việc pháp luật cấm (ví dụ như: Tư vấn cho đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật; can thiệp trái

pháp luật vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của
mình tác động đến người có trách nhiệm thi hành án; sử dụng trái phép vật
chứng, tiền, tài sản thi hành án; sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan,
tổ chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án....).
1.1.2. Nội dung hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự
Chức năng của cơ quan thi hành án dân sự là thi hành nghiêm chỉnh các
bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi hành và người có thẩm quyền
được giao nhiệm vụ thi hành án là Chấp hành viên. Vì vậy, hoạt động của cơ
quan thi hành án dân sự được thể hiện thông qua quá trình tổ chức thi hành các
bản án, quyết định theo những trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Có thể khái
quát các hoạt động cơ bản của cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình tổ
chức thi hành án như sau:
Thứ nhất, ra quyết định thi hành án

14


Sau khi nhận bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, tùy vào các khoản
phải thi hành, cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án
và/hoặc ra quyết định thi hành án theo yêu cầu.
- Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án và phân
công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án, quyết định về:
Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; Trả
lại tiền, tài sản cho đương sự; Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy
vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước; Thu hồi quyền sử dụng
đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; Quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
- Cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo yêu cầu khi
nhận được đơn yêu cầu thi hành án đối với phần bản án, quyết định ngoài các
khoản thuộc diện chủ động thi hành (như đã nêu trên).

Thứ hai, thông báo thi hành án
Để đảm bảo tính công khai về thi hành án dân sự, sau khi ra quyết định
thi hành án, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự phải lập hồ sơ thi hành
án và thực hiện việc thông báo thi hành án. Đó là thông báo các quyết định về
thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có liên quan đến việc thi
hành án cho đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện
quyền, nghĩa vụ theo nội dung của văn bản đó. Đồng thời, gửi các quyết định
về thi hành án (trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định) cho
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp (để kiểm sát) và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
tổ chức cưỡng chế thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc
thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án (đối với quyết định cưỡng chế thi
hành án).
Việc thông báo thi hành án có thể được thực hiện theo các hình thức:
Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định pháp
luật; Niêm yết công khai; Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ ba, xác minh điều kiện thi hành án

15


Sau khi thực hiện thông báo thi hành án, trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành thì Chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành vụ việc
tiến hành xác minh điều kiện thi hành (trường hợp thi hành quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay). Khi thực hiện
xác minh, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án phải kê khai trung
thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với
cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình.
Trên cơ sở kê khai của người phải thi hành án, Chấp hành viên xác minh cụ
thể tài sản, tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi hành án; đối với tài sản

phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì còn
phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó.
Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì cơ
quan thi hành án dân sự phải ra quyết định về việc thi hành án chưa có điều
kiện thi hành để đăng tải công khai trên trang thông tin điện tử về thi hành án
dân sự và gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xác minh để niêm yết. Trong
thời hạn ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi
hành án; trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là
người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại
từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người
phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác
minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan
thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về
kết quả xác minh.
Đối với trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì cơ
quan thi hành án dân sự thực hiện các biện pháp tổ chức thi hành án theo quy
định pháp luật.
Thứ tư, áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án

16


Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án, theo quy định của pháp
luật, Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của
đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc
tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp
bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương
sự. Người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng
biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện

pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
Chấp hành viên được áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án là:
Phong toả tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ; Tạm dừng việc đăng ký, chuyển
dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.
Ngoài việc có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án,
Chấp hành viên còn có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Sau khi người phải thi hành án được thông báo các quyết định về thi hành án,
hết thời hạn tự nguyện thi hành án (10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án
nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi
hành án) nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Chấp hành viên có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp cưỡng chế thi hành án: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử
lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Trừ vào thu nhập của người
phải thi hành án. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài
sản đang do người thứ ba giữ. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. Buộc người phải thi
hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Thứ năm, xử lý tài sản bảo đảm, tài sản đã cưỡng chế kê biên.
Theo quy định pháp luật, tùy từng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng
chế, thì Chấp hành viên phải thực hiện các trình tự, thủ tục cụ thể để xử lý tài
sản để đảm bảo tính minh bạch, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự

17


và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Một trong số các biện pháp xử lý tài
sản quan trọng để đảm bảo thi hành án là bán tài sản đã kê biên. Việc bán tài
sản đã kê biên có thể được thực hiện theo hình thức bán đấu giá và bán không
qua thủ tục đấu giá (tuy nhiên, trong thực tiễn thì phần lớn các tài sản đã kê
biên được xử lý thông qua các trình tự, thủ tục bán đấu giá được pháp luật quy

định.
Trên cơ sở kết quả bán đấu giá tài sản cũng như việc thực hiện các biện
pháp cưỡng chế thi hành án, số tiền thi hành án thu được sẽ được thanh toán
cho người được thi hành án trong từng vụ việc cụ thể theo quy định pháp luật.
Ngoài các hoạt động cơ bản được khái quát ở trên, trong quá trình tổ chức
thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự còn thực hiện các hoạt động khác theo
các trình tự, thủ tục như: hoãn thi hành án; tạm đình chỉ thi hành án; đình chỉ
thi hành án; ủy thác thi hành án; thu phí thi hành án dân sự.
1.1.3. Vai trò của cơ quan Thi hành án dân sự
Cơ quan thi hành án dân sự có chức năng thi hành phần dân sự trong các
bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
quyết định của Trọng tài thương mại. Vì vậy, thông qua việc thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn về thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự có một
số vai trò cơ bản sau đây:
Một là, Cơ quan thi hành án dân sự đảm bảo thực thi các bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật; bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các quyền
và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân.
Thực tiễn cho thấy rằng hoạt động thi hành án nói chung, thi hành án dân
sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng, bởi vì thông qua hoạt động này, những
phán quyết, quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền được thực thi, đảm
bảo công lý trong đời sống xã hội. Chỉ khi các bản án, quyết định được tổ chức
thi hành trong thực tế thì mới thực sự đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các
đương sự, các bên liên quan theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, kết quả
hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự chính là sự thể hiện mức độ bảo

18


đảm, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân
liên quan. Hay nói cách khác là nếu các cơ quan thi hành án dân sự không thực

hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì mục đích xét xử, mục
đích thi hành án sẽ không đạt được và sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn
xã hội, niềm tin của nhân dân đối với công lý, tính nghiêm minh của pháp luật.
Hai là, hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp của Tòa án và cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền.
Kết quả xét xét xử, giải quyết tranh chấp của Tòa án và cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền là các bản án, quyết định, theo đó phán quyết, xác định về
quyền, nghĩa vụ của các đương sự. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn là các
phán quyết, quyết định đó có trở thành hiện thực và mức độ hiện thực như thế
nào trong đời sống xã hội. Yêu cầu này được thể hiện qua hoạt động của cơ
quan thi hành án dân sự. Điều này cũng có nghĩa là thông qua các trình tự, thủ
tục thi hành án thì các bản án, quyết định mới có hiệu lực thực tế, đồng thời
tính thực tế, khả thi của các bàn án, quyết định cũng là cơ sở kiểm chứng chất
lượng hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp để từ đó Tòa án, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền có thể nhận diện những tồn tại, hạn chế trong hoạt động
của mình để từ đó nâng cao chất lượng hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp.
Bởi vì, thực tế công tác thi hành án dân sự cho thấy có những bản án, quyết
định vi phạm pháp luật, không khả thi, có sai sót, khó thi hành...đã xâm phạm
quyền và lợi ích của các nhân, tổ chức và ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
công tác thi hành án dân sự.
Ba là, hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý
thức pháp luật, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Hoạt động thi hành án dân sự liên quan đến việc thi hành các nghĩa vụ,
trách nhiệm về dân sự của các cá nhân, tổ chức theo bản án, quyết định có hiệu
lực thi hành, do đó, việc tổ chức thi hành án đòi hỏi không chỉ ở tính chủ động,
trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự mà còn cần có sự tích cực, phối

19



hợp có hiệu quả của các cơ quan, tổ chức liên quan, sự ủng hộ của xã hội. Do
đó, thông qua các hoạt động thi hành án dân sự, các cá nhân, tổ chức trong xã
hội sẽ nhận thức rõ hơn ý thức, trách nhiệm của mình đối với việc nghiêm
chỉnh chấp hành các bàn án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Đặc biệt là khi
cơ quan thi hành án dân sự tổ chức cưỡng chế đối với những cá nhân, tổ chức
cố tình trốn tránh, chây ỳ, cản trở, chống đối việc thi hành án thì ý thức trách
nhiệm của cộng đồng sẽ được thể hiện qua sự ủng hộ, phối hợp để đảm bảo
cho giá trị, kết quả thi hành án không chỉ dừng ở sự đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của các đương sự, các cá nhân, tổ chức liên quan mà còn thể hiện ở
giá trị thực thi pháp luật, giá trị công lý được tôn trọng trong đời sống xã hội,
góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
1.2. Đặc điểm thi hành án dân sự đối với vụ việc tín dụng, ngân hàng
1.2.1. Hoạt động tín dụng và vụ việc tín dụng, ngân hàng
Tín dụng theo nghĩa chung nhất được coi là phạm trù thể hiện mối quan
hệ giao dịch giữa bên cho vay và bên vay, theo đó bên cho vay giao hoặc cam
kết giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong
một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và
lãi.
Dưới góc độ kinh tế, có thể thấy rằng tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa
bên cho vay và bên vay với những cam kết về quyền, nghĩa vụ để đảm bảo
rằng sự vận động, lưu thông giá trị tiền tệ, tài sản được bên cho vay giao phó
cho bên vay được sử dụng trong thời hạn nhất định để khi có sự hoàn trả thì
lượng giá trị mà bên cho vay nhận được cao hơn so với khi cho vay ban đầu.
Trên cơ sở thể chế hiện hành có thể thấy rằng hoạt động tín dụng liên
quan đến hoạt động của các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Theo quy định của
Luật các tổ chức tín dụng thì tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một,
một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân
hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng
nhân dân. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả


20


các hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng gắn chặt
với sự vận động và phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động của các
nhà sản xuất, kinh doanh. Trong các hoạt động ngân hàng, cho vay là một
trong những hoạt động cấp tín dụng quan trọng nhất, thể hiện mối quan hệ vay
và trả nợ giữa một bên là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và một bên là
các nhà sản xuất kinh doanh. Đồng thời đây có thể coi là hoạt động ngân hàng
linh hoạt và chủ yếu của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu huy động vốn
phục vụ cho việc đầu tư, sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân trong xã
hội, đặc biệt là hoạt động của các doanh nghiệp.
Hoạt động tín dụng được thể hiện qua các cam kết giữa các bên, tuy nhiên
khi các bên không thực hiện đúng cam kết mà không tự thỏa thuận, giải quyết
được thì vụ việc, tranh chấp sẽ được giải quyết theo các thiết chế mà pháp luật
quy định (trong đó chủ yếu là qua Tòa án). Các tranh chấp về tín dụng ngân
hàng liên quan đến hoạt động cho vay được Tòa án thụ lý giải quyết được gọi
là các vụ án về kinh doanh thương mại liên quan đến hoạt động ngân hàng, hay
còn được gọi là các vụ việc tín dụng ngân hàng. Kết quả giải quyết các vụ việc
tín dụng ngân hàng được thể hiện bằng các bản án, quyết định xác định quyền,
nghĩa vụ của các bên liên quan đến việc trả nợ và là cơ sở để các bên nghiêm
chỉnh chấp hành. Nếu các bên không nghiêm chỉnh thi hành các bản án, quyết
định đã có hiệu lực thi hành liên quan đến tín dụng ngân hàng thì bên được thi
hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án để
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình được xác lập theo pháp luật.
1.2.2. Thi hành án dân sự đối với vụ việc tín dụng, ngân hàng
Như đã nêu ở trên, theo các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành liên
quan đến việc thanh toán, bồi thường cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng
không được người phải thi hành án nghiêm chỉnh thi hành thì các tổ chức tín

dụng, ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền
tổ chức thi hành án.

21


Thực tiễn công tác thi hành án dân sự cho thấy rằng các vụ việc tín dụng,
ngân hàng thường liên quan đến việc người phải thi hành án phải thanh toán
một khoản tiền có giá trị lớn, bao gồm cả lãi suất, tiền phạt, đồng thời để thu
được các giá trị tiền đó thì thường phải xử lý các tài sản đảm bảo (thế chấp,
bảo lãnh ...) theo các trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Do đó, việc thi hành
án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng không chỉ có ý nghĩa khôi
phục, bồi hoàn những giá trị, lợi ích bị thiệt hại trực tiếp về mặt kinh tế của
người được thi hành án là tổ chức tín dụng, ngân hàng và những người có
quyền, lợi ích liên quan mà còn góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu rủi
ro cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng, tạo ổn định, thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và khẳng định tính nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy,
có thể quan niệm: Thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng
là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan thi hành án dân sự
tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định để buộc các cá nhân, tổ
chức phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán, bồi thường thiệt hại cho các tổ chức
tín dụng, ngân hàng theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành.
Với quan niệm như vậy, việc thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín
dụng, ngân hàng có thể là thi hành các bản án, quyết định về kinh doanh
thương mại; bản án, quyết định về hình sự ...theo đó xác định các quyền, nghĩa
vụ liên quan đến việc trả các khoản vay, bồi thường cho các tổ chức tín dụng,
ngân hàng (chủ yếu tổ chức tín dụng, ngân hàng là người được thi hành án).
1.2.3. Nội dung thi hành án dân sự đối với vụ việc tín dụng, ngân hàng
Việc thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng thường
liên quan đến thu hồi tiền, tài sản có giá trị lớn cho các tổ chức tín dụng, ngân

hàng, do đó quá trình tổ chức thi hành án ngoài những đặc điểm chung còn có
những đặc điểm đặc thù nhất định.
Theo quy định chung về thi hành án dân sự, quá trình tổ chức thi hành án
dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng phải tuân thủ các trình tự, thủ
tục theo pháp luật quy định. Đó là: các tổ chức tín dụng, ngân hàng phải làm

22


đơn yêu cầu thi hành án để trên cơ sở đó cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền ra quyết định thi hành án. Trên cơ sở quyết định thi hành án, Chấp hành
viên tiến hành các thủ tục thông báo, xác minh điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án. Nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà
không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định
cưỡng chế và tổ chức xử lý tài sản của người phải thi hành án. Tuy nhiên, để
đảm bảo hiệu quả thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ
chức liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được pháp luật
quy định phải tăng cường trách nhiệm phối hợp với nhau để đảm bảo tuân thủ
đúng các trình tự, thủ tục thi hành án. Điều này cũng cho thấy rằng nội dung
hoạt động thi hành án dân sự để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ
chức tín dụng, ngân hàng không chỉ là hoạt động của riêng cơ quan thi hành án
dân sự mà còn đòi hỏi trách nhiệm tham gia, phối hợp của các cơ quan, tổ chức
có liên quan để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Để đảm bảo hiệu quả thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng,
ngân hàng, nội dung hoạt động thi hành án dân sự có một số đặc điểm cơ bản
sau:
- Quá trình tổ chức thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân
hàng phải đảm bảo tính chủ động, độc lập của cơ quan thi hành án dân sự và
Chấp hành viên.
Hoạt động thi hành án là chức năng, nhiệm vụ chỉ được giao cho cơ quan

thi hành án dân sự và Chấp hành viên, do đó, hiệu quả thi hành án phụ thuộc
nhiều vào tính độc lập của cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên khi
phải tuân thủ các trình tự, thủ tục pháp luật quy định và chịu trách nhiệm trước
pháp luật. Chấp hành viên là người được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án, do
đó để đảm bảo tính chủ động và độc lập của Chấp hành viên, pháp luật đã quy
định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên như: Thi hành đúng nội
dung bản án, quyết định; kịp thời xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của
người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp

23


tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với
cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến
thi hành án; Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp
cưỡng chế thi hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi
hành án; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm...Ngoài ra, để
đảm bảo hiệu quả thi hành án, pháp luật còn quy định trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện yêu cầu của cơ quan
thi hành án dân sự, Chấp hành viên; mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp
luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đều bị
xử lý theo quy định của pháp luật.
- Hoạt động thi hành án dân sự đối với vụ việc tín dụng, ngân hàng phải
đảm bảo tôn trọng quyền thỏa thuận và tự định đoạt của các đương sự.
Hoạt động thi hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng cũng
có đặc trưng liên quan đến việc xử lý tài sản của người phải thi hành án để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, do đó nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt hoạt động
thi hành án là phải tôn trọng quyền thỏa thuận và tự định đoạt của các đương sự.
Nguyên tắc này càng phải được quán triệt và coi trọng hơn đối với việc thi hành

các vụ việc tín dụng, ngân hàng, bởi vì đây là những vụ việc có giá trị tài sản lớn,
liên quan nhiều đến đời sống, hoạt động sản xuất kinh doanh của người phải thi
hành án, nhất là khi việc thi hành án ảnh hưởng đến sự tồn tại của doanh nghiệp.
Chính vì vậy, quá trình tổ chức thi hành án đối với các vụ việc tín dụng, ngân
hàng đòi hỏi Chấp hành viên phải tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục pháp luật
quy định để đảm bảo tốt nhất các quyền và lợi ích của đương sự và các cá nhân,
tổ chức liên quan, đặc biệt là khi lựa chọn áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện
pháp cưỡng chế thi hành án.
- Hoạt động thi hành án dân sự đối với vụ việc tín dụng, ngân hàng liên
quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

24


Thi hành các bản án, quyết định liên quan đến việc thu hồi nợ, bồi thường
cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng không chỉ liên quan đến các bản án, quyết
định dân sự, mà còn liên quan đến các bản án, quyết định về kinh doanh
thương mại, hình sự... do đó quá trình tổ chức thi hành các vụ việc tín dụng,
ngân hàng liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, điều này cũng có
nghĩa là trong quá trình tổ chức thi hành án chịu sự điều chỉnh của pháp luật ở
nhiều lĩnh vực (Luật Thi hành án dân sự; Luật Các tổ chức tín dụng; Luật Đất
đai; Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật Nhà ở; Luật Chứng khoán; Luật
Phá sản...). Chính vì quá trình thi hành án liên quan và chịu sự ràng buộc của
pháp luật trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như vậy nên việc thu hồi
tiền, tài sản cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng đòi hỏi phải mất nhiều thời
gian; tốn kém chi phí và gặp nhiều khó khăn. Ví dụ như việc xử lý tài sản thế
chấp là các tài sản thế chấp đặc thù như: nhà xưởng, quyền sử dụng đất, tàu
biển, dây chuyền sản xuất..)
1.3. Hiệu quả thi hành án dân sự và các tiêu chí đánh giá hiệu quả thi
hành án dân sự đối với các vụ việc tín dụng, ngân hàng

1.3.1. Hiệu quả thi hành án dân sự đối với vụ việc tín dụng, ngân hàng
Hiệu quả có thể được tiếp cận, giải thích theo các cách khác nhau. Có
quan điểm cho rằng hiệu quả là “Kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại”
[Từ điển Tiếng Việt (2005), Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, tr.440].
Quan điểm khác cho rằng hiệu quả là “kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả
mà con người chờ đợi và hướng tới”[Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), tập 3,
Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.289]. Hiệu quả, theo nghĩa chung nhất
có thể hiểu là sự so sánh giữa kết quả đạt được và mục đích đặt ra trước đó;
hoặc là sự so sánh giữa kết quả trước và sau khi tiến hành một hoạt động,
giữa kết quả đã có và kết quả sẽ có. Tuy nhiên, ở từng lĩnh vực hoạt động của
đời sống xã hội, hiệu quả còn có thể được hiểu và tiếp cận khác nhau như hiệu
suất lao động, năng suất lao động, lợi ích, lợi nhuận của hoạt động...

25


×