Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số giải pháp quản lý tổ chuyên môn sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.19 MB, 17 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu giáo dục THCS nhấn mạnh tính toàn diện: “Dạy chữ- dạy ngườidạy nghề", qua dạy học hình thành cho học sinh các năng lực chủ yếu đó là: năng
lực hành động, năng lực thích ứng, năng lực cùng sống và làm viêc, năng lực tự
khẳng định mình.
Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung và
trường THCS nói riêng phải có nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
cho thế hệ trẻ về đạo đức và trí tuệ, về thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản phát
triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cao phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, tiêp cận trình độ giáo dục phát triển
của các nước trong khu vực và trên thế giới trước xu thế hội nhập toàn cầu.
Trường THCS Quảng Cát là một trường vùng ven của Thành phố Thanh
Hóa, việc nâng cao chất lượng giáo dục để hòa nhập với mặt bằng chung của Thành
phố Thanh Hóa là vấn đề mà cán bộ quản lý, giáo viên nhà trường luôn trăn trở.
Làm thế nào để nâng cao chất lượng khi mà cơ sở vật chất còn khó khăn, đội ngũ
còn thiếu cả về số lượng, cơ cấu bộ môn, đối tượng học sinh đa số chưa thực sự
được gia đình quan tâm đúng mức, trong bốí cảnh như vậy mỗi cán bộ quản lí, mỗi
giáo viên trong nhà trường đều đã trăn trở để tìm ra những giải pháp phù hợp, hữu
hiệu nhằm phát huy nội lực, tập trung đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao
chất lượng dạy học nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung. Để đổi
mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng giáo dục thì chúng ta không thể
không quan tâm đến vai trò của đội ngũ giáo viên và tổ chuyên môn bởi: Tổ
chuyên môn là một bộ phận không thể thiếu được trong nhà trường, vì vậy việc
quản lý chỉ đạo sinh hoạt tổ chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy học là một
vấn đề không thể thiếu được của mỗi nhà trường .
Trong một số năm trước đây tôi nhận thấy tình hình sinh hoạt tổ chuyên môn
của trường đôi khi vẫn còn mang tính hình thức, các thành viên trong tổ khi sinh
hoạt chưa mạnh dạn trao đổi về chuyên môn, với một số giáo viên việc thao giảng
các cấp chỉ là nghĩa vụ, đi thi giáo viên giỏi là thực hiện nghĩa vụ khi được nhà
trường phân công, việc dự giờ thăm lớp đôi khi chỉ là bắt buộc, đối phó với việc


kiểm tra của các cấp quản lý, sinh hoạt chuyên môn thuần túy mang nặng tính hành
chính.
Từ những năm học 2011- 2012, 2012-2013 tôi đã mạnh dạn đề xuất với hiệu
trưởng cho hai tổ chuyên môn đổi mới cách sinh hoạt chuyên môn, nâng cao hiệu
quả việc dự giờ các tiết dạy đối chứng chuyên đề bằng cách tổ chức cho hai tổ
chuyên môn dạy các tiết học có nội dung tích hợp, mới, khó trong đó có sử dụng
các kỹ thuật dạy học hiện đại, sử dụng bản đồ tư duy… với cách làm như sau: tổ
chuyên môn chọn bài, cùng nghiên cứu nội dung bài học và thảo luận nội dung,
1


phương pháp, kỹ thuật dạy học sau đó giao cho một giáo viên dạy đối chứng; cả tổ
dự trong buổi sinh hoạt chuyên môn, khi đánh giá rút kinh nghiệm cũng không xếp
loại giờ dạy, mọi người rút ra kinh nghiệm cho bản thân.Với cách làm trên chúng
tôi nhận thấy hiệu quả hơn trước, giáo viên xây dựng hăng hái hơn, một số giáo
viên tích cực đã xung phong dạy đối chứng. Từ học kỳ II của năm học 2013-2014
sau khi được tập huấn về nội dung sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học
chúng tôi cảm thấy thực sự tâm đắc vì những thay đổi, trải nghiệm trong sinh hoạt
chuyên môn nhà trường trong các năm qua đã phần nào vươn tới với thay đổi về
nhận thức của giáo viên trong hoạt động sinh hoạt chuyên môn đó là ”sinh hoạt
chuyên môn qua nghiên cứu bài học”
Qua chỉ đạo, quản lí công tác sinh hoạt tổ chuyên môn trong nhà trường, tôi
đã đúc rút được một số kinh nghiệm, việc làm tốt, trong khuôn khổ của sáng kiến
kinh nghiệm này, tôi xin được nêu lên “Một số giải pháp quản lý tổ chuyên môn
sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học ở trường THCS Quảng Cát” đã
thực hiện trong các năm học: 2014-2015 và năm học 2015-2016 những việc chúng
tôi đã và đang làm nhằm góp phần thúc đẩy tổ chuyên môn nhà trường hoạt động
có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
2. Mục đích nghiên cứu: Đưa ra một số giải pháp số giải pháp quản lý tổ
chuyên môn sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học tại trường THCS Quảng

Cát.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này giúp CBQL nhà trường chỉ đạo quản lý tổ chuyên môn đổi mới sinh
hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học nhằm nâng cao năng lực giáo viên, nâng
cao chất lượng giảng dạy.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các tài liệu về thực hiện sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài
học, Quy định, thông tư hướng dẫn của Bộ, ngành... phân tích - tổng hợp tài liệu
xây dựng cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu thực tiễn nhằm thu thập các thông tin thực tiễn như:
Điều tra, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, ý kiến của giáo viên, kinh nghiệm bản
thân rút ra trong quá trình thực hiện, một số ý kiến đóng góp của đồng nghiệp…
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm GD;
Phương pháp thống kê toán học.
Thời gian nghiên cứu từ đầu năm học 2015-2016 đến hết tháng 3 năm học
2015-2016.

2


II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Tổ chuyên môn là tổ chức cơ sở của bộ máy chính quyền nhà trường trực tiếp
quản lý giáo viên về mặt tư tưởng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kế hoạch giáo
dục và giảng dạy, kết quả đào tạo học sinh.
Là nơi tổ chức thực hiện chương trình theo nội dung, phương pháp và biên
chế đã quy định; nơi triển khai toàn bộ các hoạt động giáo dục tới học sinh.
Tổ chuyên môn là nơi tập hợp đoàn kết giáo viên, tiến hành trao đổi chuyên
môn, phát huy những sáng kiến kinh nghiệm giáo dục. Đây cũng chính là nơi chịu
trách nhiệm trực tiếp về chất lượng hiệu quả dạy và học của nhà trường. Đồng thời

tổ chuyên môn là nơi kịp thời hỗ trợ nâng cao tay nghề giáo viên, giúp cán bộ quản
lý phân loại giáo viên theo nghiệp vụ sư phạm. Vì vậy, hoạt động của tổ chuyên
môn vô cùng quan trọng, là nền tảng vững chắc cho hoạt động giáo dục nhà trường.
Sinh hoạt chuyên môn là một hoạt động nhằm bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho giáo viên, góp phần tháo gỡ những khó khăn
trong quá trình giảng dạy và thực hiện nhiệm vụ.
Để việc sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học trong nhà trường đi
đúng hướng, đạt được mục tiêu thì cần thiết phải quản lí, chỉ đạo nội dung này một
cách khoa học, chặt chẽ và có những biện pháp quản lí khả thi nhất, phù hợp với
điều kiện thực tế về đội ngũ giáo viên, tình hình học sinh trong môi trường sư phạm
của nhà trường.
2.1.1.Thế nào là sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học
(NCBH)?
- Là hoạt động chuyên môn của GV nhằm tập trung phân tích các vấn đề liên
quan đến người học (học sinh).
- Không tập trung vào việc đánh giá giờ học, xếp loại GV mà nhằm khuyến
khích GV tìm ra nguyên nhân tại sao HS chưa đạt kết quả như mong muốn và có
biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho HS được tham gia vào
quá trình học tập; giúp GV có khả năng chủ động điều chỉnh nội dung, phương
pháp dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng HS.
- Phương pháp sinh hoạt chuyên môn dựa trên hướng nghiên cứu bài học cũng
là hoạt động sinh hoạt chuyên môn nhưng ở đó giáo viên tập trung phân tích các
vấn đề liên quan đến người học như: Học sinh học như thế nào? Học sinh đang gặp
khó khăn gì trong học tập? Nội dung và phương pháp dạy học có phù hợp, có gây
hứng thú cho học sinh không, kết quả học tập của học sinh có được cải thiện
không? Có cần điều chỉnh gì và điều chỉnh như thế nào? Trên cơ sở đó, GV được
chia sẻ, học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm và điều chỉnh nội dung, PPDH vào bài
học hằng ngày một cách hiệu quả.
2.1.2. Cách thức tiến hành SHCM theo nghiên cứu bài học
Bước 1: Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu

3


Giáo viên cần xác định mục tiêu kiến thức và kỹ năng mà học sinh (HS) cần
đạt được khi tiến hành nghiên cứu (theo chuẩn kiến thức, kỹ năng ở từng môn học),
đảm bảo phù hợp với trình độ của HS, năng lực chuyên môn của giáo viên.
Các GV trong tổ thảo luận chi tiết về thể loại bài học, nội dung bài học, các
phương pháp, phương tiện dạy học đạt hiệu quả cao, cách tổ chức dạy học phân hóa
theo năng lực của học sinh, cách rèn kỹ năng, hướng dẫn học sinh vận dụng kiến
thức đã học để giải quyết tình huống thực tiễn...Dự kiến những thuận lợi, khó khăn
của HS khi tham gia các hoạt động học tập và các tình huống xảy ra và cách xử lý
(nếu có)…
Tổ trưởng chuyên môn (TTCM) giao cho GV trong nhóm soạn giáo án của
bài học nghiên cứu, trao đổi với các thành viên trong tổ để chỉnh sửa lại giáo án.
Các thành viên khác có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch chi tiết cho việc quan sát và
thảo luận sau khi tiến hành bài học nghiên cứu.
Bước 2. Tiến hành bài giảng minh họa (BGMH) và dự giờ
Sau khi hoàn thành giáo án của bài học nghiên cứu chi tiết, một GV sẽ dạy
minh họa bài học nghiên cứu (BGMH) ở một lớp học cụ thể, các GV còn lại trong
nhóm tiến hành dự giờ và ghi chép thu thập dữ kiện về bài học.
GV dự giờ phải đảm bảo nguyên tắc: Không làm ảnh hưởng đến việc học tập
của học sinh; không gây khó khăn cho giáo viên dạy minh họa; khi dự giờ phải tập
trung vào việc học của học sinh, cách phản ứng của học sinh trong giờ học, cách
làm việc nhóm HS, những khó khăn vướng mắc, thái độ tình cảm của học sinh...
Quan sát tất cả đối tượng học sinh, không được “bỏ rơi” một HS nào.
GV cần từ bỏ thói quen đánh giá giờ qua hoạt động của GV dạy, người dự
cần học tập, hiểu và thông cảm với khó khăn của người dạy. Đặt mình vào vị trí của
người dạy để phát hiện những khó khăn trong việc học của HS để tìm cách giải
quyết.
Luyện tập cách quan sát và suy nghĩ về việc học của HS trong giờ học, có

khả năng phán đoán nhanh nhạy, chính xác để điều chỉnh việc dạy phù hợp, việc
học của HS.
Thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cảm nhận của GV về HS trong từng hoàn
cảnh khác nhau.
Hình thành thói quen lắng nghe lẫn nhau; rèn luyện cách chia sẻ ý kiến, từ đó
hoàn thành mối quan hệ đồng nghiệp thân thiện, cộng tác và học tập lẫn nhau.
Bước 3: Suy ngẫm, thảo luận về bài giảng minh họa
Đây là công việc có ý nghĩa quan trọng trong sinh hoạt chuyên môn
(SHCM), là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của sinh hoạt chuyên môn,
TTCM cần phát huy được vai trò, năng lực của người chủ trì, động viên toàn bộ
giáo viên trong tổ tham gia đóng góp ý kiến cho BGMH, cần nhấn mạnh những
điểm nổi bật và không xếp loại giờ dạy.
Bước 4: Áp dụng
4


Trên cơ sở bài giảng minh họa giáo viên nghiên cứu vận dụng, kiểm nghiệm
những vấn đề đã được dự giờ và thảo luận, suy ngẫm áp dụng vào bài học hàng
ngày cho phù hợp, đạt hiệu quả tốt.

(Quy trình sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học - Ảnh chụp từ tài liệu tập
huấn của nhóm nghiên cứu giáo dục thuộc tổ chức Plan, nguồn Internet)

2.2. Thực trạng
Trong năm học trước tôi nhận thấy tình hình sinh hoạt tổ chuyên môn qua
nghiên cứu bài học của trường đôi khi vẫn còn mang tính hình thức, các thành viên
trong tổ khi sinh hoạt chưa thực sự mạnh dạn trao đổi về chuyên môn. Sự thay đổi
trong sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học chiếm nhiều thời gian hơn, mỗi
GV phải nghiên cứu bài kỹ hơn trong khi ngoài giờ giờ dạy theo định mức qua tập
sự là 19 tiết/tuần giáo viên còn phải làm công tác kiêm nhiệm khác, soạn bài, chấm

bài, chuẩn bị phương tiện dạy học...chiếm rất nhiều thời gian. Vậy làm thế nào để
giáo viên hào hứng tham gia sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là cả
một vấn đề cần quan tâm của công tác quản lí chuyên môn trong nhà trường, đòi
hỏi phải xây dựng kế hoạch khoa học, phù hợp, nội dung sinh hoạt phải thiết thực,
gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ của giáo viên, làm cho giáo viên thấy tham gia sinh
hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là một nhu cầu để nâng cao chất lượng.
Theo quy định, tổ chuyên môn sinh hoạt một tháng hai lần, nhưng thực tế
nếu việc xây dựng kế hoạch, chuẩn bị nội dung sinh hoạt không đảm bảo, giáo viên
gặp khó khăn không được giúp đỡ kịp thời; các văn bản chỉ đạo không được tìm
hiểu kĩ càng dẫn đến thực hiện không tốt, ảnh hưởng đến hiệu quả giảng dạy của
giáo viên và người phải chịu thiệt thòi chính là học sinh.
Tình hình thực tế năm học 2015 – 2016 tại trường THCS Quảng Cát :
5


*Đội ngũ: Tổng số 23 CBGV trong đó biên chế 21 người, hợp đồng thành
phố 02 người, vì vậy nhà trường phải hợp đồng công việc thêm 02 người để đảm
bảo về cơ cấu bộ môn, trường có 2 tổ chuyên môn:
- Tổ KHTN có 12 người, trong đó 02 CBQL còn 10 GV ( 07 biên chế, 03
hợp đồng) trình độ đại học 10 đ/c, Thạc sĩ 02 đ/c.
- Tổ KHXH có 11 người. (Trình độ đại học 7 đ/c, CĐSP 04 đ/c )
Nhìn chung, đội ngũ giáo viên có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt, có năng
lực chuyên môn, có uy tín với học sinh và nhân dân địa phương, nhiệt tình trong
công việc và có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ.
*Học sinh: tổng 423 em chia 12 lớp, mỗi khối 3 lớp.
Đa số học sinh là con em nông dân, mức sống còn khó khăn, điều kiện học
tập còn hạn chế, cha mẹ thường phó mặc việc học tập của con em cho nhà trường.
*Cơ sở vật chất: Phòng học đầy đủ, đã có 3 phòng chức năng được trang bị
máy chiếu đa năng, song đồ dùng dạy học đã hư hỏng, xuống cấp nhiều chưa đáp
ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.

Kết quả đạt được của năm học 2014-2015 khi chưa thực hiện đề tài.
* Về phía cán bộ giáo viên
- Lao động xuất sắc : 13/25
- Giáo viên dạy giỏi cấp trường : 15 /21
- Giáo viên Giỏi cấp Thành phố: 0 đồng chí
- Giáo viên có thành tích trong phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi: 7/21
* Về phía học sinh:
Xếp loại học lực kỳ I năm học 2014-2015:
- Hoc sinh tiên tiến: 157/412 em đạt 38,1% .
- Học sinh giỏi toàn diện: 55/412 em đạt 13,3%.
Học sinh giỏi các cấp:
- Học sinh giỏi cấp Tỉnh đạt 0 giải
- Học sinh giỏi cấp Thành phố: 13 giải các cuộc thi cấp Thành phố .
(12 Giải cá nhân và 1 giải tập thể )
Kết quả đạt được của kỳ I năm học 2014-2015 chưa đáp ứng được yêu cầu
kế hoạch đặt ra, chúng tôi đã phân tích, đánh giá nguyên nhân về chất lượng thi
giáo viên giỏi, học sinh giỏi của nhà trường có một phần không nhỏ đó là chưa phát
huy hết nội lực của cả thầy và trò, vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và
học ? chắc chắn phải xuất phát từ việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn,
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, dạy cho học sinh phương pháp học
tập mà việc này sẽ thực hiện tốt qua sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học.
Trong năm học 2014-2015 vấn đề quản lý tổ chuyên môn sinh hoạt chuyên
môn theo nghiên cứu bài học còn bộc lộ một số nhược điểm:
- Tổ trưởng chưa phát huy hết vai trò của mình, thường có tâm lí coi mình

6


cũng như giáo viên bình thường khác; chưa chủ động xây dựng và thực hiện kế
hoạch, chưa mạnh dạn đề xuất các ý kiến để nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên

môn qua nghiên cứu bài học.
- Một số giáo viên chưa thực sự hiểu rõ về cơ sở lý luận về sinh hoạt chuyên
môn qua nghiên cứu bài học, còn mơ hồ chưa xác định cần làm thế nào.
- Tâm lý ngại thay đổi, cách sinh hoạt cũ đã đi vào tiềm thức.
Thực hiện nhiệm vụ năm học 2015 – 2016, thực thi nhiệm vụ của cán bộ
quản lý phụ trách chuyên môn, tôi nhận thấy cần tăng cường công tác quản lý, chỉ
đạo để việc sinh hoạt tổ chuyên môn theo nghiên cứu bài học trong nhà trường đạt
hiệu quả cao hơn, mặc dù gặp nhiều khó khăn khi đề cập vấn đề này song được sự
quan tâm hỗ trợ của đồng nghiệp, được sự thống nhất giúp đỡ của đồng chí Hiệu
trưởng, tôi xin đưa ra vấn đề “Một số biện pháp quản lý tổ chuyên môn sinh hoạt
chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học” góp phần nâng cao chất lượng dạy
học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
2.3. Những giải pháp đã thực hiện tại trường THCS Quảng Cát
2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Chỉ đạo tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch
thực hiện sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học
Căn cứ Công văn số 1487/SGDĐT-GDTrH ngày 21 tháng 8 năm 2013
của Sở GD&ĐT Thanh Hóa về việc hướng dẫn nhiệm vụ GDTrH năm học 20132014, Căn cứ Công văn số 361/PGDĐT-THCS ngày 28 tháng 8 năm 2013
của
Phòng GD&ĐT TP Thanh Hóa về việc hướng dẫn nhiệm vụ GDTrH và TTGDTX
năm học 2013-2014 trong đó có nội dung triển khai thực hiện đổi mới sinh hoạt tổ
chuyên môn theo NCBH và kế hoạch đổi mới PPDH, kiểm tra đánh giá của nhà
trường, các tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch thực hiện Đổi mới nội dung SHCM
theo NCBH trình ban giám hiệu phê duyệt, coi việc SHCM theo NCBH là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm về đổi mới PPDH trong năm học 2014-2015 và
năm học 2015-2016. Tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch thực hiện ít nhất 2
bài/năm/môn đối với hai môn Ngữ văn, Toán, 1 bài/năm/ môn đối với các môn còn
lại chia ra theo học kỳ để thực hiện. Thời gian chuẩn bị cho một bài dạy là 2 tuần,
thảo luận xây dựng kế hoạch bài học trong tuần 2, dạy minh họa sở tuần 4 hàng
tháng.
2.3.2. Giải pháp thứ hai: Động viên về mặt tư tưởng, nâng cao nhận thức

cho cán bộ giáo viên về việc đổi mới sinh hoạt chuyên môn qua NCBH
“Đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học” là một nội dung
mới nên sau khi tập huấn và triển khai thực hiện, nảy sinh rất nhiều khó khăn.
Trước hết đó là tâm lí ngại thay đổi của đa số giáo viên, họ đã quen với cách soạn
bài, lên lớp và cách sinh hoạt chuyên môn cũ, nên không mấy hào hứng với việc
thảo luận cách dạy theo nghiên cứu bài học. Để làm tốt việc SHCM qua nghiên cứu
bài học cần có sự nhạy bén, tinh thần học hỏi, cầu thị, nhiệt huyết với nghề, cũng
như sự thay đổi trong nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên về vấn đề này.
7


Nắm bắt được đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là một
phương thức hiệu quả để bồi dưỡng chuyên môn giáo viên , vì vậy BGH nhà trường
đã tích cực tuyên truyền, động viên cán bộ giáo viên để làm thay đổi nhận thức của
họ về sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, xác định quyết tâm thực hiện,
kiên trì vận dụng NCBH để đổi mới SHCM. Thống nhất cách thức thực hiện,
không bàn lùi, không ngại khó, không ngại không thành công. Mạnh dạn áp dụng
kiến thức thu nhận được từ tập huấn, tham khảo tài liệu trên mạng Internet, học hỏi
kinh nghiệm từ đồng nghiệp, trường bạn, phát huy trí tốt trí tuệ tập thể, vừa làm
vừa rút kinh nghiệm…để bài sau tốt hơn bài trước.
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Tổ chức tập huấn cho cán bộ giáo viên
Muốn đạt hiệu quả giải pháp đầu tiên là phải tổ chức tập huấn cho toàn thể
cán bộ giáo viên hiểu rõ nội dung cốt lõi của việc đổi mới sinh hoạt chuyên môn
theo nghiên cứu bài học.
Mặc dù các đồng chí tổ trưởng chuyên môn và một số cốt cán bộ môn đã
được tập huấn nhưng trên thực tế, vẫn còn một số chưa nắm vững được sự khác
biệt giữa SHCM truyền thống với SHCM theo NCBH, thậm chí cả tổ trưởng CM,
cho nên trong quá trình thực hiện còn mơ hồ, lúng túng dẫn đến chưa đồng nhất
trong cách nghĩ, cách làm và có nhiều quan điểm trái chiều. Vì vậy, thông qua tập
huấn tại trường một lần nữa đã làm cho mọi giáo viên nắm vững sự khác biệt giữa

sinh hoạt chuyên môn truyền thống và sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài
học.
Thông qua tập huấn làm cho giáo viên nắm được bản chất của sự đổi mới
sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là xóa bỏ cách sinh hoạt chuyên
môn truyền thống, hình thành thói quen và cách sinh hoạt chuyên môn mới trên các
phương diện sau: triết lí sinh hoạt chuyên môn, vấn đề quan tâm và thời lượng thảo
luận. Cụ thể là: từ chỗ chủ yếu quan sát giáo viên sang quan sát học sinh là trọng
tâm, từ đánh giá trình độ, cách dạy của giáo viên sang suy ngẫm và chia sẻ về việc
học của học sinh, cùng suy đoán các nguyên nhân và đưa ra những cách giải quyết
khắc phục. Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là một quá trình với
nhiều khâu, nhiều bước chứ không còn đơn thuần chỉ là một buổi các thành viên
trong tổ đến để bàn bạc về một đơn vị kiến thức khó dạy nào đó trong chương trình
nữa.
Sự khác nhau giữa sinh hoạt chuyên môn truyền thống
và sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học.
Sinh hoạt chuyên môn truyền Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
thống
cứu bài học
1. Mục - Tập trung vào việc đánh giá, - Không thực hiện đánh giá xếp loại
đích
xếp loại tiết dạy theo các tiêu chí giờ dạy theo các tiêu chí đã quy
đã quy định;
định.
- Thống nhất cách dạy các dạng - Tạo cơ hội cho GV phát triển năng
8


bài để tất cả GV thực hiện nhằm
nâng cao kỹ năng dạy học. Bài
dạy minh họa được coi là bài dạy

mẫu;
- Tập trung chủ yếu vào việc dạy,
ít quan tâm đến việc học của HS.
Vì vậy, những HS gặp khó khăn
trong học tập không được GV
giúp đỡ kịp thời.
2. Thiết - Bài dạy minh họa được thiết kế
kế bài
theo nội dung các chuyên đề
dạy
được xác định trong KH năm học
minh
của Tổ hoặc theo yêu cầu của
họa
trường.
- Bài dạy minh họa được thiết kế
theo mẫu chung. Nội dung bài
học bám sát SGK, sách GV. Ít khi
dám thay đổi, điều chỉnh cho phù
hợp với đối tượng HS;
- PPDH máy móc, không linh
hoạt (các bước lên lớp, thời
gian, ...). Câu hỏi phát vấn
thường đã có trước câu trả lời, ít
có các phương án dự kiến tình
huống xảy ra.
3. Dạy
- Khi dạy minh họa, GV thường
minh
cố gắng làm “tròn vai” (dạy hết

họa
các kiến thức trong bài), tuân thủ
thời gian, tập trung vào các HS
khá giỏi (sợ cháy giáo án). Vì
vậy, không báo quát lớp. Sau tiết
dạy, GV không biết được suy
nghĩ và cảm xúc của (từng nhóm)
HS.
- Đa số các tiết dạy minh họa
thường mang tính “biểu diễn trình diễn”.
(- Để đối phó với việc đánh giá,
xếp loại tiết dạy, mốt số GV đã
“chuẩn bị trước”).

lực chuyên môn, phát huy khả năng
sáng tạo của mình, kết nối lí thuyết
với thực hành, ..
- Đảm bảo tất cả HS tham gia quá
trình học tập, đồng thời nâng cao
chất lượng học tập của từng HS

- Bài dạy minh hoạ do nhóm CBQL,
GV trong tổ thiết kế. Khuyến khích
linh hoạt sáng tạo, không phụ thuộc
máy móc vào quy trình, các bước
dạy học trong SGK, SGV.
- Nhóm có thể điều chỉnh nội dung,
thời lượng, PPDH, KTDH, ... cho
phù hợp với yêu cầu tiết dạy và đối
tượng HS.

- GV dạy có thể kinh hoạt thay đổi
hình thức, PPDH, KTDH, ... nếu
xuất hiện tình huống xảy ra không
đúng dự kiến.

- Khuyến khích tự nguyện nhưng
đảm bảo tính luân phiên.
- Thay mặt nhóm thể hiện các ý
tưởng đã thiết kế trong bài học.
- HS gặp khó khăn trong học tập
được GV hướng dẫn, giúp đỡ kịp
thời.
- Không được “dạy trước” vì mục
đích của sinh hoạt chuyên môn
không phải dể đánh giá xếp loại tiết
dạy mà chủ yếu là cùng nhau trải
nghiệm và học tập từ thực tế.

9


4. Dự
giờ

- Sự phân chia môn học và giảng
dạy theo khối đã tạo ra sự ngăn
cách giữa các GV, khó có thể
cùng hành động hướng đến mục
tiêu chung: giúp HS học tập.
- Mục đích cuối cùng của dự giờ

là đánh giá, xếp loại tiết dạy. Vì
vậy, người dự giờ thường tập
trung mọi sự chú ý theo dõi GV
dạy, ít chú ý đến người học (HS).

- Người dự giờ là GV các khối, các
môn học để cùng chia sẻ kinh
nghiệm dạy học dựa trên thực tế học
tập của HS
- Bố trí số lượng vừa phải, đứng ở vị
trí thuận lợi để quan sát, ghi chép, sử
dụng các kĩ thuật, chụp ảnh, quay
phim ... những hành vi, tâm lí, thái
độ của HS để có dữ liệu phân tích
việc học tập của HS.

5. Phân
tích tiết
dạy
minh
họa

- Các ý kiến phân tích, nhận xét
sau tiết dạy nhằm mục đích đánh
giá xếp loại GV dạy. Thông
thường người dự giờ sẽ dựa vào
các tiêu chí đã quy định để nhận
xét. Ý kiến nhận xét thường
chung chung, ít có minh chứng từ
việc học của HS.

- GV dạy minh họa thường chỉ
biết lắng nghe một chiều từ các ý
kiến đóng góp của đồng nghiệp.
- Cuối cùng, người chủ trì chốt lại
các ý kiến đóng góp và đưa ra
quy trình chung để dạy một dạng
bài và nêu ý kiến xếp loại chung
tiết dạy.
- Không khí buổi sinh hoạt
chuyên môn thường là nặng nề.
Vì vây, GV không hứng thú khi
tham dự buổi sinh hoạt chuyên
môn. Nhưng người thiệt thòi nhất
là các em HS.
a) Đối với học sinh.
- Kết quả học tập ít được cải thiện
vì GV chưa quan tâm nhiều đến
HS mà chỉ tập trung lo “biểu
diễn”. Đặc biệt, những HS gặp
khó khăn trong học tập thường bị
GV “bỏ quên” trong tiết dạy.

- GV dạy minh họa chia sẻ mục tiêu
bài học, những ý tưởng mới, những
thay đổi, điều chỉnh, cách thức tiến
hành, cảm nhận của mình qua quá
trình dạy bài học.
- Người dự giờ đưa ra các ý kiến
nhận xét, góp ý về giờ học theo tinh
thần trao đổi, chia sẻ, lắng nghe

mang tính xây dựng; tập trung phân
tích các vấn đề liên quan đến việc
học của HS.
- Không đánh giá, xếp loại người dạy
(nếu kết quả không như mong muốn)
thì xem đó là bài học chung để mỗi
GV tự rút kinh nghiệm.
- Người chủ trì tôn trọng và lắng
nghe tất cả ý kiến của GV, không áp
đặt ý kiến của mình hoặc của một
nhóm người. Tóm tắt các vấn đề thảo
luận và đưa ra các biện pháp hỗ trợ
HS.

6. Kết
quả

a) Đối với học sinh
- Kết quả của HS được cải thiện.
- HS tự tin hơn, tham gia tích cực
vào các hoạt động học, không có học
sinh nào bị “bỏ quên”.
- Quan hệ giữa các HS trở nên thân
thiện, gần gũi về khoảng cách kiến
10


- Một số tiết dạy minh họa được
“chuẩn bị trước”, HS chủ yếu là
“diễn viên” nên tiết dạy không

đúng thực chất làm cho HS mệt
mỏi, nhàm chán.
b) Đối với giáo viên.
- Bị “áp lực”, phải dạy để mọi
người đánh giá năng lực của mình
(không phải vì việc học của HS).
Vì vậy, GV phải “bám sát” những
quy định của tiết dạy, không dám
thay đổi cách dạy, không dám
sáng tạo.
- Nếu gặp phải những tình huống
bất ngờ, GV thường lúng túng.
- Các PPDH mà GV sử dụng
trong tiết dạy thường mang tính
hình thức.
- Khi chia sẻ, phân tích tiết dạy
(nếu có hạn chế), GV thường đổ
lỗi cho HS hay những nguyên
nhân khác. GV không thấy được
nguyên nhân chính là từ GV..
- Việc “chuẩn bị trước” quá kỹ
nên tiết dạy đôi khi quá “lý
tưởng”. Người dự giờ không học
hỏi được điều gì.
c) Đối với cán bộ quản lí.
- Áp đặt, máy móc, không dám và
không tạo điều kiện để GV phát
huy những ý tưởng sáng tạo.
- Ít quan tâm để hiểu biết những
tâm tư, nguyện vọng, khó khăn

của GV trong quá trình dạy học.
Vì, vậy, GV thường ngại tâm sự,
chia sẻ với CBQL.
- GV dạy phải thiết kế bài soạn
theo mẫu chung, bám sát SGK,
sách GV, ... Vì vậy, các GV
thường chép (in) giáo án lẫn

thức.

b) Đối với giáo viên.
- Chủ động sáng tạo, tìm ra các biện
pháp để nâng cao chất lượng dạy và
học.
- Tự nhận ra hạn chế của bản thân để
điều chỉnh kịp thời.
- Quan tâm đến những khó khăn của
HS, đặc biệt là HS yếu, kém.
- Quan hệ giữa đồng nghiệp trở nên
gần gũi, cảm thông, chia sẻ và giúp
đỡ lẫn nhau.

c) Đối với cán bộ quản lí.
- Đặt bài học lên hàng đầu, đánh giá
sự linh hoạt sáng tạo của của từng
GV.
- Có cơ hội bám sát chuyên môn,
hiểu được nguyên nhân của những
khó khăn trong quá trình dạy và học
để có biện pháp hỗ trợ kịp thời.

- Quan hệ giữa cán bộ quản lí và GV
gần gũi, gắn bó và chia sẻ.

11


nhau. Khi có dự giờ thì chuẩn bị
kỹ, luyện tập trước cho HS, nếu d) Đối với nhà trường.
bị phê bình thì đổ lỗi cho HS. Do Tăng cường mối quan hệ học hỏi,
đó, CBQL không phát hiện được lắng nghe, cộng tác, đồng thuận, chia
những điểm yếu, điểm mạnh của sẻ, ... hướng đến mục tiêu chung. Từ
từng GV để hỗ trợ.
đó, chất lượng được nâng lên.
2.3.4. Giải pháp thứ tư: Nâng cao năng lực của tổ trưởng chuyên môn
trong quản lý, điều hành hoạt động của tổ chuyên môn
Tổ trưởng chuyên môn là người chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về chất
lượng hoạt động chuyên môn của tổ mình. Tổ trưởng phải là người có quyết tâm
đổi mới mạnh mẽ nhất và là người nắm vững nhất nội dung, cách thức tổ chức thực
hiện tốt nhất việc đổi mới nội dung SHCM theo nghiên cứu bài học.
Nắm vững các bước tiến hành một buổi sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
cứu bài học đó là:
- Tổ chức chuẩn bị bài dạy minh họa.
- Tổ chức tiến hành dạy minh họa và dự giờ.
- Tổ chức thảo luận sau dự giờ.
2.3.5. Giải pháp thứ năm: Chỉ đạo sinh hoạt điểm
Nhà trường đã xây dựng kế hoạch và chỉ đạo các tổ chuyên môn sinh hoạt
chuyên môn qua nghiên cứu bài học cho 8 môn, mỗi môn chọn thử nghiệm một bài
dạy minh họa. Bài dạy này thực hiện cho giáo viên toàn trường tham dự. Người
được chọn dạy các tiết sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là cốt cán các
bộ môn trong nhà trường.

Học kì I: Tháng 9 hai môn: Vật lý (đ/c Cao Thanh); Tiếng anh (đ/c Kiều Hoa)
Tháng 10 hai môn: Lịch sử (đ/c Lê Trang); Toán (đ/c Đỗ Dung)
Học kì II: Tháng 02 hai môn: Địa lí (đ/c Nguyễn Quang); Hóa (đ/c Nguyễn Nga)
Tháng 03 hai môn: Ngữ văn (đ/c Hoàng Yến); Sinh (đ/c Bùi Tuyết)
Cả tổ chuyên môn dự giờ, rút kinh nghiệm một cách tỉ mỉ, cụ thể từ lí luận
phương pháp dạy học đến điều kiện trang thiết bị dạy học, tình hình thực tế chất
lượng học tập của học sinh, các khó khăn của học sinh gặp phải khi học bài, cách
tháo gỡ khó khăn...
2.3.6. Giải pháp thứ sáu: Đầu tư mua sắm trang thiết bị và xây dựng cơ
sở vật chất đáp ứng yêu cầu đổi mới
Để tạo điều kiện triển khai sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học,
nhà trường đã bố trí dạy ở 3 phòng chức năng có bảng phụ, máy chiếu … phục vụ
việc giảng dạy. Mua thêm dụng cụ thí hóa nghiệm cho các môn có bài thực hành
như Hóa, Lý, Sinh...
Hướng dẫn bố trí lại chỗ ngồi thuận lợi cho giáo viên dự giờ và học sinh
tham gia thảo luận. Muốn đổi mới PPDH thành công, yêu cầu người học cũng phải
đổi mới cách học. Cách dạy và cách học phải phù hợp với nhau. Học sinh lâu nay
12


vẫn quen cách học cũ, thụ động. Một trong những cách làm thay đổi cách học của
học sinh là thay đổi cách bố trí chỗ ngồi truyền thống như lâu nay. Trong các giờ
dạy minh họa nghiên cứu bài học, nhà trường chỉ đạo giáo viên phải ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học, phải áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, các
kỹ thuật dạy học mới sao cho hiệu quả và bố trí học sinh ngồi theo các nhóm nhỏ.
2.3.7. Giải pháp thứ bảy: Tham gia sinh hoạt tổ chuyên môn theo nghiên
cứu bài học một cách tích cực chủ động. Đánh giá định kỳ kết quả
sinh hoạt CM qua nghiên cứu bài học.
Khi tham gia sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học tôi đóng vai trò
là thành viên chứ không phải cán bộ quản lí chuyên môn đến giám sát để tạo không

khí bình đẳng, dân chủ, thân thiện trong buổi sinh hoạt, không áp đặt ý kiến của
mình, không đánh giá ý kiến của người khác, lắng nghe ý kiến của mọi thành viên
với thái độ trân trọng. Trong quá trình dự sinh hoạt, tôi ghi chép các nội dung
chính, hoặc những vấn đề mà giáo viên còn vướng mắc.
Từ những thông tin thu thập được sau mỗi lần dự sinh hoạt cùng các tổ, tôi
chỉ đạo, góp ý kiến cho tổ trưởng cần bổ sung những nội dung nào giáo viên còn
yếu, phát huy thế mạnh, năng lực sở trường của giáo viên nào để có thể nghiên cứu
sâu hơn.
Trong các cuộc họp chuyên môn hàng tháng, tôi đều đánh giá hoạt động các
tổ chuyên môn, những việc đã làm được và những việc chưa làm được, đánh giá thi
đua giữa các tổ. Mỗi năm học tôi đều tham mưu cho hiệu trưởng có khen thưởng
cho tổ chuyên môn làm tốt nhiệm vụ, khen thưởng cho nhóm giáo viên thực hiện
tốt việc sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học. Những việc làm đó có tác
dụng điều chỉnh và bổ sung kế hoạch cho tổ chuyên môn và việc sinh hoạt chuyên
môn có chất lượng, có hiệu quả thiết thực.
2.4. Kết quả đạt được
4.1. Kết quả đạt được đầu tiên phải nói đến là sau khi triển khai thực hiện đổi
mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là đã làm thay đổi được nhận
thức và hành động của mỗi cán bộ giáo viên.
- Khi triển khai thực hiện, mọi người hầu như chưa có khái niệm gì cụ thể về
SHCM theo NCBH, vì thế có một số người không có niềm tin vào tính hiệu quả
của cách làm này, thậm chí còn có những suy nghĩ cho rằng SHCM theo NCBH chỉ
là hình thức, cấp trên bảo phải làm thì làm. Nhưng với quyết tâm cao của cán bộ
quản lý nhà trường, chỉ đạo thực hiện một cách đồng bộ, kiên quyết ở hai tổ chuyên
môn. Qua quá trình làm một số tiết thì mọi người đã thấy được sự thành công, bắt
đầu hình thành PPDH mới, tiến gần hơn đến PPDH tích cực “lấy học sinh làm
trung tâm”.
- Sinh hoạt chuyên môn trong trường ngày càng có chất lượng, hiệu quả hơn,
bận rộn hơn nhưng thiết thực hơn , vui hơn. Khắc phục được tình trạng sinh hoạt
chuyên môn nặng về hành chính trước đây.

13


- Mọi người đã nhận thức được trách nhiệm của mình trong công cuộc “Đổi
mới căn bản và toàn diện” nền giáo dục nước nhà bắt đầu từ những việc làm cụ thể
như sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học..
4.2. Thông qua thực hiện SHCM theo NCBH, giáo viên dần dần tự tin, chủ
động, sáng tạo hơn trong giảng dạy, luôn phải suy nghĩ tìm ra biện pháp để nâng
cao chất lượng dạy và học; có cơ hội nhìn lại quá trình dạy để kịp thời điều chỉnh;
quan tâm nhiều hơn đến mọi đối tượng học sinh; cải thiện tốt hơn mối quan hệ với
đồng nghiệp, sẵn sàng chia sẻ và giúp đỡ đồng nghiệp, tôn trọng và học hỏi lẫn
nhau. Giáo viên được “tự do-sáng tạo” định hướng, hướng dẫn học sinh biết biến
quá trình học thành quá trình tự học. Như thế, mối quan hệ thầy- trò được cải thiện
theo chiều hướng tích cực, thân thiện, cởi mở hơn trước đây. Giờ học không còn
căng thẳng và việc rút kinh nghiệm giờ dạy cũng không còn căng thẳng như trước
đây.
4.3. Thực hiện SHCM theo NCBH, thông qua các bài giảng minh họa chúng
ta dễ nhận thấy học sinh hào hứng, chủ động trong học tập hơn, điều này hết sức
quan trọng, học sinh được tự do thể hiện mình, được giáo viên quan tâm hướng dẫn
học và tự học một cách có hiệu quả.
Từ chỗ thay đổi đặc điểm, tính chất thì mục đích và ý nghĩa của sinh hoạt
chuyên môn cũng sâu sắc, đúng nghĩa hơn: Hiểu rõ hơn về cách học sinh học, về
tác dụng của phương pháp dạy học đến việc học tập của học sinh để nâng cao hiệu
quả tối đa. Đồng thời cũng cần hướng đến phát triển năng lực chuyên môn của giáo
viên thông qua sự tương tác có hệ thống với các giáo viên khác trong trường hoặc
cụm trường.
So sánh Kết quả đạt được học kỳ I năm học 2015 - 2016 với cùng kỳ năm
học 2014-2015:
*Về phía cán bộ giáo viên học kì I:
Chất lượng giáo viên đã được nâng lên thể hiện qua kết quả so sánh sau đây

về các danh hiệu như Lao động xuất sắc, GV giỏi cấp Trường, cấp Thành phố, cấp
tỉnh...

Kết quả đạt được

Năm học 2014-2015

Năm học 2015-2016

Lao động xuất sắc

13

20

Giáo viên dạy giỏi cấp trường

15

19

Giáo viên dạy giỏi cấp Thành phố

0

1

Giáo viên Giỏi cấp Tỉnh:
Giáo viên có thành tích trong phong
trào bồi dưỡng học sinh giỏi


0

1

7

11

14


* Về phía học sinh: Chất lượng học tập của học sinh đã được nâng lên thể hiện qua
bảng so sánh cùng kỳ của hai năm học trước và sau khi thực hiện đề tài.
Bảng so sánh kết quả Học lực học kỳ I của hai năm học
Giỏi

Khá

Tb

Yếu

Kém

Tổng
số HS

SL


%

SL

%

SL

%

SL

2014-2015

412

55 13,3

157

38,1

165

40,1

35

8,5


0

0

2015-2016

423

61 14,42

171

40,43

161

38,05

30

7,1

0

0

Tăng- Giảm

Giảm
13


Tăng1,12%

Tăng 2,33%

Năm học

Giảm 2,05 %

%

SL

%

Giảm 1,4%

Học sinh giỏi các cấp:
Năm học

2014-2015

Tổng số Giải các kỳ thi cấp Thành phố

13

Tổng số Giải cấp Tỉnh

0


2015-2016
56
1
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
- Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là một vấn đề mới và xa lạ
đối với giáo viên. Vì vậy việc quán triệt ý nghĩa, tầm quan trọng và thực hiện đúng kỹ
thuật SHCM theo NCBH cho mọi giáo viên trong trường hiểu rõ, tin tưởng là hết sức cần
thiết.
- Việc thực hiện đổi mới SHCM theo NCBH được tổ chức ít nhất 01 lần/tháng.
Thời gian đầu, khi mới tổ chức SHCM theo NCBH cần bố trí chung toàn trường đối với
trường nhỏ, hoặc liên nhóm đối với trường lớn đông giáo viên, để tập cách làm và xây
dựng thói quen mới; Sau khi đã thành thạo, có thể tách việc tổ chức SHCM theo nhóm bộ
môn, tổ chuyên môn. Không xếp loại giờ dạy minh họa đổi mới SHCM theo NCBH.
- Một số khó khăn cần khắc phục khi đổi mới SHCM theo NCBH
+ Cơ sở vật chất trường lớp học hiện nay tuy đã được cải thiện đáng kể
nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học. Diện
tích lớp học còn hẹp sẽ tạo khó khăn cho hoạt động nghiên cứu bài học và giáo viên
dự giờ quan sát khi phải đứng hai bên và phía trước. Hơn nữa, bàn học sinh đa số là
kiểu bàn liền ghế rất khó để các em di chuyển để hoạt động học tập theo nhóm.
Khắc phục tình trạng này nhà trường đã bố trí sử dụng các phòng rộng như các
phòng bộ môn để sử dụng cho sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học.
+ Thái độ của GV đối với SHCM: nhiều GV ngại thay đổi và không tin
tưởng vào sự thành công của sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, có tư
tưởng hoài nghi, bàn lùi. Do vậy lãnh đạo nhà trường, tổ trưởng chuyên môn nếu
không quyết tâm cao và chỉ đạo quyết liệt thì dễ rơi vào việc làm hình thức, đối
phó, không đem lại hiệu quả.

15



- Phải làm thay đổi mục đích dự giờ, từ dự giờ để đánh giá giáo viên sang
dự giờ để quan sát việc học tập của học sinh, nhằm trả lời các câu hỏi: HS học như
thế nào? HS gặp những khó khăn gì? Vì sao? Cần phải thay đổi như thế nào để cải
thiện kết quả học tập của HS?
- Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng giải pháp quản lý tổ chuyên môn
đổi mới Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học
+ Các cấp chuyên môn cần trang bị, hướng dẫn cụ thể cho GV về lí thuyết
“Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học”.
+ Sự đồng thuận ủng hộ, tạo điều kiện của Ban Giám hiệu nhà trường.
+ Sự nhất trí đoàn kết cao của các thành viên trong tổ.
+Tinh thần dân chủ, óc sáng tạo và tâm huyết xây dựng tổ, nhóm chuyên
môn của tổ trưởng/ nhóm trưởng.
+ Phát huy năng lực chuyên môn của giáo viên cốt cán, tích cực trong tổ.
+ Ứng dụng từng bước để giáo viên, học sinh dần dần thích nghi với những
PP, KT dạy học tích cực.
+ Tạo môi trường thân thiện, hợp tác giữa GV-GV, GV-HS.
+ Thường xuyên gắn kết giữa thực tiễn sinh động trong quá trình dạy – học ở
trường, lớp với cơ sở lí luận khoa học giáo dục.
+ Chọn bài học phù hợp, có tính tương tác cao để nghiên cứu dạy thử nghiệm
và thảo luận rút kinh nghiệm.
- Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp Sinh hoạt
chuyên môn theo nghiên cứu bài học
+ Giáo viên đã được tiếp cận với cơ sở lí luận chỉ đạo của Bộ, Ngành, đã trực
tiếp trải nghiệm sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học thông qua nhiều
hoạt động thực tế, quy trình sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học hoàn
toàn có thể vận dụng và phát triển ở tất cả các tổ, nhóm chuyên môn trong nhà
trường.
+ Khi mạng lưới Trường học kết nối được phát triển sâu rộng càng tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài

học, đồng thời hoạt động sinh hoạt chuyên môn này cũng làm giàu kho tài nguyên
của Trường học kết nối.
+ Các tổ, nhóm chuyên môn, trường học có thể ứng dụng giải pháp nghiên
cứu bài học vào các hoạt động thực tiễn như: các tiết học có nội dung tích hợp
trong chương trình dể tích hợp các nội như bảo vệ môi trường, bảo vệ biển
đảo...hướng dẫn học sinh tổ chức tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, hướng dẫn học
sinh tổ chức sinh hoạt chào cờ đầu tuần...
3.2. Kiến nghị
Đối với các cấp quản lí: Cần tăng cường về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy

16


học hiện đại cho những trường thuộc địa phương còn khó khăn để đáp ứng yêu cầu
thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học, sinh hoạt chuyên môn qua nghiên
cứu bài học.
Thực hiện SHCM theo NCBH là nội dung mới, khi thực hiện có những khó
khăn, rào cản nhất định. Nhưng qua quá trình thực hiện, chúng tôi nhận thấy
SHCM theo NCBH là một phương pháp mới rất có hiệu quả trong việc đổi mới PP
dạy và PP học hiện nay cho giáo viên và học sinh. Tuy nhiên quá trình đổi mới từ
SHCM truyền thống sang SHCM theo NCBH là một quá trình vất vả, lâu dài và
cần có quyết tâm cao, xác định được đây là nhiệm vụ trọng tâm, là yếu tố quan
trọng để đổi mới và nâng cao chất lượng cho người dạy và người học, là nhân tố trụ
cột để phát triển nhà trường, chỉ đạo thực hiện một cách quyết liệt chúng ta mới
thành công.
Trên đây là đề tài “Một số biện pháp quản lý tổ chuyên môn sinh hoạt
chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học” mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng
vào trường tôi công tác. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng lại được sự góp ý của đồng
nghiệp nhưng chắc chắn rằng không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được
sự đóng góp ý kiến của các cấp quản lý, đồng nghiệp để tôi thực hiện tốt hơn

nhiệm vụ của mình.
Tôi xin trân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 16 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác

Nguyễn Thị Diệu Bình

17



×