Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số kinh nghiệm giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh THCS qua môn giáo dục công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.91 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong trường học, đã có một môn học chuyên giáo dục đạo đức và pháp luật
cho học sinh đó là môn Giáo dục công dân. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải chứng
kiến sự gia tăng của bạo lực học đường và sự xuống cấp về đạo đức ở một bộ
phận học sinh. Bởi lẽ trong thời đại công nghệ thông tin, các em luôn bị bủa vây
bởi game online, Internet, cùng những chương trình ti-vi với nhiều những bộ
phim có các cảnh quay bạo lực, sex, lừa lọc… Để đối phó với tình trạng này, đòi
hỏi trẻ phải có một năng lực ứng phó. Nghĩa là các em cần được trang bị các kỹ
năng như: ý thức về bản thân, thấu cảm với người khác, suy nghĩ sáng tạo và có
phán đoán, truyền thông và giao tiếp có hiệu quả, giải quyết vấn đề, lấy quyết
định, ứng phó với cảm xúc và stress v.v.. Như vậy, có thể nói, kĩ năng sống là tất
cả những kĩ năng cần có giúp cá nhân học tập, làm việc có hiệu quả và sống tốt
hơn.
Bên cạnh những kĩ năng sống, các giá trị sống cũng được hình thành. Giá trị
sống là những điều chúng ta cho là quý giá, là có ý nghĩa đối với cuộc sống mỗi
con người phù hợp với chuẩn mực mà chúng ta đang sống. Đó là một hình thái ý
thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ
giữa con người với con người. Giá trị sống về bản chất là những qui tắc, chuẩn
mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được
cả xã hội thừa nhận. Giá trị sống có vị trí to lớn trong đời sống, định hướng cho
cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của
xã hội.
Còn đối với kĩ năng sống có khái niệm bao gồm những kỹ năng sống cốt lõi
như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng ra
quyết định, kĩ năng kiên định và kĩ năng đạt mục tiêu. Năm học 2011 – 2012 Bộ
GD&ĐT đã triển khai đại trà thực hiện chương trình giáo dục kĩ năng sống trong
trường phổ thông. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố như học
sinh cần phải được rèn luyện song song cả kiến thức và kỹ năng, nếu chỉ có kiến
thức không thì các em sẽ gặp khó khăn trong cuộc sống, dễ bị vướng vào tệ nạn


xã hội. Điều đó lí giải vì sao gần đây chúng ta thấy nhiều hiện tượng xấu trong
xã hội, đặc biệt là giới học sinh chỉ vì thiếu kĩ năng sống như: Học sinh đánh
nhau ; học sinh vi phạm pháp luật, đạo đức ngày một tăng. Chúng ta có thể dễ
dàng bắt gặp trên mạng nhiều clip học sinh đánh hội đồng bạn, đặc biệt là nữ
sinh trong khi các bạn khác đứng ngoài cổ vũ, quay phim, chụp ảnh… gây xôn
xao dư luận, thậm chí nhiều trường hợp học sinh xúc phạm thầy cô giáo…
Những hiện tượng đó suy cho cùng thì chủ yếu là do các em thiếu các kĩ năng
sống như kỹ năng kiềm chế cảm xúc, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng
đoàn kết... Tuy nhiên, giáo viên băn khoăn nhất là liệu việc đưa giáo dục kĩ
năng sống vào các môn học có làm nặng thêm chương trình phổ thông vốn dĩ đã
quá tải hiện nay. (vì các ngành học, bậc học đang thực hiện chủ trương điều
chỉnh nội dung nói chung, bậc THCS nói riêng). Thêm nữa, các tài liệu qua các
1


lần tập huấn chuyên đề còn chung cho tất cả các môn. Việc hướng dẫn cụ thể chi
tiết cho các môn còn mờ nhạt.
Vấn đề tôi trăn trở đó là có thể giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong tất cả
các bài học mà không cần phải đưa thêm thông tin, kiến thức và tăng thời gian
tiết học như một số băn khoăn của giáo viên. Đặc biệt việc giáo dục giá trị sống
và kỹ năng sống cho học sinh qua môn GDCD giúp học sinh hiểu biết về giá trị
của bản thân trong mối quan hệ xã hội, biết sống tích cực, chủ động, hài hòa,
lành mạnh, có kỷ luật, có kế hoạch phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, có hành
vi, thói quen ứng xử có văn hoá, ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và tinh
thần của học sinh. Vì những lí do trên, tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm
giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh THCS qua môn GDCD”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục tiêu của giáo dục phổ thông: giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã

hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc (Luật Giáo dục - 2005). Để thực hiện được mục tiêu đó thì giáo dục giá trị
sống và kỹ năng sống cho học sinh cần được xem trọng.
Đất nước đang trong thời kỳ phát triển, giáo dục được xem là quốc sách,
trách nhiệm càng đặt lên vai người thầy nặng nề hơn là làm sao để học sinh phát
triển nhân cách toàn diện. Bởi vậy BGD&ĐT đã triển khai đưa nội dung giáo
dục kĩ năng sống lồng ghép vào các môn học từ năm 2010 – 2011 đến nay. Vì kĩ
năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành
vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Nếu không có kĩ năng sống , các em sẽ
không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất
nước.
Bên cạnh đó, trong cuộc sống các em phải đối mặt với rất nhiều thử thách.
Bằng việc nâng cao nhận thức và đưa các thành tố trọng yếu của kỹ năng sống
vào quá trình giảng dạy môn GDCD sẽ giúp các em nâng cao năng lực để có
được những lựa chọn lành mạnh hơn, có được sự kháng cự tốt hơn với những áp
lực tiêu cực và kích thích những thay đổi tích cực trong cuộc sống của các em.
Chính vì vậy, trước khi hình thành những kỹ năng sống nào đó, người học cần
cảm nhận rõ ràng về các giá trị sống và sự lựa chọn của các cá nhân ấy đối với
các giá trị
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Tuy nhiên, để giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả tốt
đòi hỏi người giáo viên phải biết tích hợp đúng địa chỉ và kết hợp nhiều yếu tố.
Nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống đòi hỏi phải có tính chủ động của học sinh đầu
tiên. Vì vậy, khi đưa vào chương trình lồng ghép với các môn học làm sao cho
có hiệu quả, nhất là đối với môn GDCD, môn học mà hiệu quả của việc dạy học
2


được đánh giá bằng hành vi đạo đức và pháp luật của học sinh. Tôi muốn thông

qua những tiết dạy môn giáo dục công dân có thể kết hợp giáo dục giá trị sống
và kỹ năng sống cho các em một cách hiệu quả nhất. Đối với đề tài này, tôi
nghiên cứu các vấn đề sau:
- Giáo dục giá trị sống cho học sinh THCS.
- Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THCS.
- Các bài dạy chính khóa và ngoại khóa môn GDCD THCS.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Đầu tiên tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết để
xây dựng cơ sở lí thuyết cho sáng kiến. Sau đó tiến hành nghiên cứu thực trạng
giả thuyết và tổ chức thực hiện nhằm cải tạo thực trạng ấy theo lí thuyết đã xây
dựng. Cuối cùng tôi rút ra kết luận và đề xuất ứng dụng cho thực tế. Trong quá
trình nghiên cứu, tôi phối hợp các phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu
thập thông tin với phương pháp thống kê và xử lí số liệu.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Ở sáng kiến “Một số kinh nghiệm giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho
học sinh THCS qua môn GDCD” tôi đặc biệt chú trọng mối quan hệ giữa giáo
dục giá trị sống với giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi lẽ, kĩ năng sống và
giá trị sống có mối quan hệ tương tác với nhau. Giá trị sống là nền tảng để hình
thành kĩ năng sống. Ngược lại, kĩ năng sống là công cụ hình thành và thể hiện
giá trị sống. Vì thế, cần xác định địa chỉ tích hợp giáo dục giá trị sống cho học
sinh ở các bài cụ thể. Đồng thời việc lồng ghép giáo dục giá trị sống và kĩ năng
sống cho các em cần linh hoạt, hiệu quả hơn.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ thông, là xu
thế chung của nhiều nước trên thế giới, nhằm phát triển toàn diện. Nền giáo dục
Việt Nam trong những năm gần đây đã có chủ trương tăng cường giáo dục kỹ
năng sống và xác định Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một trong những
nội dung cơ bản để xây dựng: “Trường học thân thiện - học sinh tích cực” trong
các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013 do BGD&ĐT chỉ đạo. Nay giáo dục

kỹ năng sống đã chính thức được đưa vào nhà trường phổ thông ở tất cả các cấp
học với nhiều cách tiếp cận khác nhau: thông qua các môn học, thông qua hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp…Giáo dục kỹ năng sống được xác định là
nhiệm vụ của giáo dục nhằm phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh trong
bối cảnh hội nhập Quốc tế. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà
trường phổ thông là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới. Giáo dục kĩ năng
sống góp phần thúc đẩy sự phát triển cá nhân, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã
hội. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường, yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông cần giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Ta có thể khẳng
định, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là trang bị cho các em một chiếc cầu

3


nối giữa hiện tại với tương lai, giúp các em thích ứng với cuộc sống hiện đại
không ngừng biến đổi.
Từ năm học 2010-2011, Bộ GD - ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống
lồng ghép vào một số môn ở các trường trung học. Trong năm học 2016 – 2017,
Sở GD&ĐT Thanh Hóa lại đưa nội dung Giáo dục giá trị sống (module 36) và
giáo dục kĩ năng sống (module 35) vào chương trình Bồi dưỡng thường xuyên
cho cán bộ, giáo viên. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên,
để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ
không chỉ từ các bài giảng. Muốn giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, trước tiên
người giáo viên cần có vốn kĩ năng sống đầy đủ. Không chỉ là những kiến thức
trong sách vở, tài liệu mà còn là những kinh nghiệm trong thực tế của bản thân,
có như vậy bài dạy mới đạt hiệu quả tốt.
Để lồng ghép có hiệu quả việc giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học
sinh qua môn Giáo dục công dân trước hết ta cần hiểu giá trị sống, kĩ năng sống
và mối quan hệ giữa giá trị sống, kĩ năng sống.
Giá trị cuộc sống (hay giá trị sống) là những điều chúng ta cho là quý giá, là

quan trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người. Giá trị sống trở
thành động lực để người ta nỗ lực phấn đấu để có được nó. Có những giá trị
sống đích thực, trở thành những giá trị chung cho nhiều người và toàn xã hội
như lòng trung thực, hoà bình, tôn trọng, yêu thương, công bằng, tình bằng hữu,
lòng vị tha. Không phải ai cũng nhận đúng giá trị của cuộc sống. Vì vậy, học tập
để nhận diện đúng đâu là giá trị đích thực của cuộc sống là điều cần thiết với tất
cả mọi người.

Giá trị sống – cội nguồn của cuộc sống
4


Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân
giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có
hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có
một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục
cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh
và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có kiến
thức, giá trị, thái độ và kỹ năng thích hợp.
Giá trị sống là nền tảng để hình thành kỹ năng sống. Thiếu nền tảng giá trị
sống vững chắc, con người rất dễ bị ảnh hưởng bởi những giá trị vật chất, và rồi
mau chóng định hình chúng thành mục đích sống, đôi khi đưa đến kiểu hành vi
thiếu trung thực, bất hợp tác, vị kỷ cá nhân. Giá trị sống giúp chúng ta cân bằng
lại những mục tiêu vật chất. Những giá trị sống tích cực là chiếc neo giúp chúng
ta ổn định, vững chãi giữa những biến động của cuộc đời, có thể sẽ không dễ
dàng gì nhưng ta vẫn vượt qua được mà không cảm thấy bị thua thiệt, mất mát.
Kỹ năng sống là công cụ hình thành và thể hiện giá trị sống. Thực chất kỹ
năng sống là các giá trị thể hiện bằng hành động và ngược lại với kỹ năng thể
hiện giá trị bằng hành động sẽ cho kết quả tích cực và nó lại củng cố các giá trị.
Để cảm nhận được sâu sắc các giá trị, ở người học cần phải phát triển những kỹ

năng nhất định. Thí dụ, để cảm nhận giá trị “bình yên”, người học phải biết cách
thư giãn, thả lỏng cơ thể, cách “theo dõi” sự biến chuyển của cơ thể dưới tác
động của các kích thích từ môi trường. Chính vì thể, song song với giáo dục giá
trị, cần trang bị cho người học cách tiếp nhận và chuyển tải các giá trị ấy – đó
chính là kỹ năng sống.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
Qua nghiên cứu tôi nhận thấy học sinh THCS rất hạn chế về kỹ năng sống.
Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là do giáo viên chưa quan tâm
thoả đáng đến vấn đề giáo dục giá trị sống ; chưa xác định được phương thức
hiệu quả để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Hiện nay số lượng học sinh
khá, giỏi tăng nhanh, các em có kiến thức trong sách vở đầy đủ nhưng thiếu kinh
nghiệm sống. Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về
dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh dẫn đến
có một bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung
quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của nhiều
học sinh. Theo yêu cầu của Bộ GD - ĐT, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
phải bảo đảm các yếu tố: giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong
mối quan hệ xã hội; giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân
mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hoá, hiểu biết và chấp hành pháp
luật...
a. Thuận lợi – khó khăn
Giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung,
THCS nói riêng có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn.
5


- Thuận lợi:
Thuận lợi lớn của giáo viên hiện nay, sở GD&ĐT thông qua vở luyện viết chữ
đẹp đã lồng ghép đề tài giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Tổ chức tập huấn

cho đội ngũ cốt cán của các trường. Sở GD & ĐT đã chỉ đạo các trường học tăng
cường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
Riêng bộ môn GDCD là môn học mà nội dung liên quan trực tiếp đến hành vi
của học sinh, giúp các em ứng xử trước các tình huống giao tiếp phù hợp với các
chuẩn mực xã hội. Vì vây, yêu cầu hình thành kĩ năng của một bài học GDCD
cũng đã liên quan đến hình thành những kĩ năng sống cho học sinh còn hình
thành thái độ cũng đã liên quan đến giá trị sống cần giáo dục cho các em rồi.
Mặt khác hiện nay các phương tiện thông tin đại chúng rất đầy đủ nên học sinh
có thể tự rút ra kĩ năng sống thông qua các thông tin trên truyền hình...
Đặc biệt năm học này, chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ, giáo
viên cũng đã có hai module về giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh
THCS.
- Khó khăn:
Trường THCS Ngư Lộc thuộc xã biển đảo, đông dân lại xa trung tâm, kinh tế
đặc biệt khó khăn. Vì thế, giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh ở đây
gặp không ít khó khăn vì nhận thức và hiểu biết, nắm bắt thông tin đại chúng
còn hạn chế. Những khó khăn này thể hiện ở các phương diện như: khó thống
nhất các nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh; mức độ đảm bảo các yêu
cầu sư phạm của các phương pháp, hình thức giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống
cho học sinh ít được kiểm soát; đánh giá kỹ năng sống của học sinh không được
thực hiện có hệ thống, v.v…
b. Thành công – hạn chế:
- Thành công:
Ở các môn học được tích hợp nội dung giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho
học sinh qua các đợt tập huấn được thực hiện thường xuyên. Nhờ đó mà các giá
trị sống, kĩ năng sống cần giáo dục đã được truyền thụ. Học sinh có hứng thú với
những kĩ năng mà giáo viên tích hợp. Do các em còn nhỏ nên khi trải nghiệm kĩ
năng sống, các em rất háo hức và áp dụng ngay.
- Hạn chế:
Qua khảo sát nghiên cứu thực trạng tôi thấy, một bộ phận trong số các em

vẫn thiếu sự tự tin trong cuộc sống và các em có nhu cầu được học kỹ năng
sống. Do thiếu kĩ năng sống nên những hành vi lệch chuẩn của học sinh có chiều
hướng gia tăng với những biểu hiện rất đa dạng. Một vài biểu hiện về cách giao
tiếp ứng xử của học sinh hiện nay cũng khiến người lớn không khỏi giật mình:
Gặp giáo viên không chào hỏi, nói trống không, nói cộc lốc với người lớn tuổi,
giao tiếp với bạn bè bằng những ngôn ngữ thiếu văn hoá như nói tục, chửi thề,
cư xử thô lỗ, nhiều khi xung đột vì những nguyên nhân rất bình thường chỉ vì
thiếu kĩ năng kiềm chế... Giáo viên mặc dù đã được tập huấn về giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh nhưng thời gian tập huấn còn hạn chế, nên việc truyền
6


thụ lại cho các em thiếu đồng bộ. Nhiều giáo viên còn lẫn lộn giữa giáo dục kỹ
năng sống với liên hệ thực tế cuối bài học. Trong từng hoạt động của bài học
giáo viên còn ngại giáo dục kỹ năng sống vì sợ thiếu thời gian mà để đến cuối
bài mới nhắc đến một cách chiếu lệ.
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Để giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh trước hết mỗi
thầy cô giáo phải là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Về vấn đề này, qua nghiên cứu tài liệu của chương trình phát triển giáo dục
trung học, tôi nhận thấy:
Trong giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh, tấm gương về nhân
cách người thầy giữ vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy, chính người thầy phải
được giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống đầy đủ để có thể giáo dục giá trị
sống và kỹ năng sống cho học sinh.
Người thầy là tấm gương để trò soi vào, để trò học làm người. Chính vì vậy,
không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp “dùng nhân cách để giáo
dục nhân cách”. Những người dạy nội dung Giá trị và kỹ năng sống càng cần là
tấm gương mẫu mực về hành vi, lời ăn tiếng nói, cách ứng xử, cách giải quyết
vấn đề… Đây là những yêu cầu rất cao và đòi hỏi mỗi người thầy cũng luôn

phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục học trò hiệu quả hơn. Tuy nhiên nói
vậy không có nghĩa người thầy là những vị thánh, là những siêu nhân. Người
thầy cũng có thể phạm sai lầm. Nhưng thái độ của người thầy đối với sự việc sẽ
giải thích kỹ năng sống của thầy như thế nào.
Nhiệm vụ, phẩm chất và những kỹ năng của người thầy
* Những điều Không nên:
- Không diễn thuyết, nói dài, đọc cho học sinh chép.
- Không luôn đưa ra lời đáp có sẵn mà để học sinh tự tìm tòi.
- Không trả lời tay đôi với một học sinh mà đưa câu hỏi cho tập thể tự tìm
lời đáp.
- Không vội vàng phê phán đúng/sai như một quan toà nhưng kiên trì giúp
học sinh tranh luận và tự kết luận.
- Không mớm ý cho học sinh phát biểu ý kiến mà người lớn trông đợi.
- Không nên bắt học sinh hoạt động không ngừng và không còn thời gian và
khoảng trống để suy nghĩ cho dù giáo viên có khả năng tổ chức sinh hoạt
tập thể, và là một hoạt náo viên giỏi.
Dĩ nhiên thỉnh thoảng bạn có thể tổng kết, kết luận nhưng với thái độ thư
giãn, thoải mái, gợi mở. Điều này sẽ giúp cho học sinh dám tự tìm tòi, suy nghĩ.
Nhưng thay đổi cái nếp cũ rất khó. Dưới đây là phẩm chất của một người
thầy có kinh nghiệm giáo dục học sinh tốt.
* Những điều Nên đối với nhà giáo dục giá trị và kỹ năng sống:
- Tin tưởng vào học sinh và năng lực của họ.
- Kiên nhẫn và có kỹ năng lắng nghe tốt.
- Ý thức về bản thân và sẵn sàng học những kỹ năng mới.
7


-

Tự tin nhưng không kiêu căng.

Có kinh nghiệm sống và biết suy xét.
Tôn trọng ý kiến của người khác, không áp đặt ý kiến của mình.
Thực hành tư duy sáng tạo và khai phá.
Có khả năng tạo bầu không khí tin tưởng lẫn nhau.
Linh động trong việc sử dụng các kỹ thuật điều động nhóm, không bám sát
vào một quy trình quy định sẵn.
- Có kiến thức về tâm lý phát triển nhóm bao gồm khả năng nắm bắt bầu
không khí nhóm để kịp thời thay đổi phương pháp.
- Biết sắp xếp phòng ốc, thiết bị để tạo bầu không khí hấp dẫn.
- Biết sử dụng các phương pháp giáo dục chủ động.
Đặc biệt người dạy phải nắm vững “tính năng động của nhóm” (group
dynamics) và có những kỹ năng tác động vào nhóm để:
+ Tạo bầu không khí dân chủ, thoải mái để nhóm viên đưa ra những kinh
nghiệm, những nhận thức mới hay những quyết định hành động.
+ Tác động kịp thời khi nhóm bế tắc, để thay đổi quy trình nhóm cho phù hợp.
+ Biết tạo bầu không khí khi tranh luận sôi nổi để cọ xát các giá trị, các lập
trường khác nhau để giúp học viên chấp nhận hay không chấp nhận những ý
kiến khác biệt.
+ Biết nắm phản hồi của nhóm khi sinh hoạt kết thúc.
+ Uyển chuyển nhưng bám sát quy trình phát triển của nhóm.
2.3.2. Xác định địa chỉ lồng ghép giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho
học sinh THCS.
STT
Các giá trị sống
Các bài có thể lồng ghép
1
Hòa bình
Bảo vệ hòa bình 9 (lớp 9)
2
Tôn trọng

- Lễ độ ; Tôn trọng kỉ luật (lớp 6) ;
- Tôn trọng lẽ phải ; Tôn trọng người khác ;
Tôn trọng và học hỏi các dân tộc khác (lớp 8)
3
Yêu thương
- Yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên
nhiên (lớp 6) ; Yêu thương con người (lớp 7)
4
Khoan dung
Khoan dung (lớp 7)
5
Trung thực
Trung thưc (lớp 7) ; Tôn trọng lẽ phải (lớp 8)
6
Khiêm tốn
Lễ độ (lớp 6)
7
Hợp tác
Đoàn kết, tương trợ (lớp 7) ; Hợp tác cùng
phát triển (lớp 9)
8
Hạnh phúc
Ngoại khóa
9
Trách nhiệm
Tiết kiệm (lớp 6) ; Ngoại khóa
10 Giản dị
Sống giản dị (lớp 7)
11 Tự do
Các bài về quyền tự do cơ bản của công dân

12 Đoàn kết
Đoàn kết, tương trợ (lớp 7)
Để sử dụng các phương pháp này có hiệu quả, đòi hỏi giáo viên phải định
hướng giá trị sống, kĩ năng sống cần hình thành ngay ở mục tiêu bài học GDCD,
từ đó mà lựa chọn những phương pháp phối kết hơp. Chẳng hạn khi dạy bài Yêu
8


thương con người (GDCD lớp 7) ta sẽ giáo dục học sinh giá trị yêu thương và kĩ
năng đồng cảm hoặc bài Tự chủ (GDCD lớp 9) ta sẽ kết hợp giáo dục kĩ năng
kiên cường…
2.3.3. Sử dụng phối kết hợp một số phương pháp dạy học có tác dụng tốt
trong hoạt động giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống vào bài giảng.
Sau khi đã xác định được kĩ năng cần lồng ghép ta sẽ tiến hành lựa chọn
phương pháp phù hợp. Tôi xin đề xuất một số phương pháp đã ứng dụng thấy
hiệu quả cao sau:
a. Phương pháp động não:
Với mục đích làm cho học sinh tích cực và chủ động sáng tạo tham gia
vào quá trình giáo dục, phương pháp kích não (động não, bão não, khởi động…)
rất nên sử dụng. Học sinh phải đưa ra ý kiến của mình về vấn đề đã có chút ít
kinh nghiệm, hiểu biết, hoặc về một vấn đề mới trên cơ sở được cung cấp một số
thông tin cơ bản, cần thiết. Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong
một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề
nào đó. Đây là một phương pháp có ích để thu thập một danh sách các thông tin.
b. Phương pháp nghiên cứu tình huống:
Bên cạnh phương pháp động não, phương pháp nghiên cứu tình huống
cũng sử dụng rất hiệu quả trong giáo dục giá trị và kỹ năng sống. Nghiên cứu
tình huống thường là một câu chuyện được viết chọn lọc nhằm tạo ra một tình
huống “thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu
tình huống có thể được thực hiện qua quan sát băng video hay một băng catsset

mà không phải ở dạng văn bản. Tình huống sử dụng cần phản ánh tính da dạng
của cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những
hoàn cảnh khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản.
Tình huống được xây dựng hay tuyển chọn cần sát với mục tiêu cần hình
thành kĩ năng ở học sinh và liên quan đến nội dung bài học. Giáo viên là người
hiểu rõ tình huống và mục đích giáo dục có thể đạt được từ tình huống phải phù
hợp với mục đích bài học. Ví dụ khi dạy bài Tự chủ (GDCD lớp 9), khi hình
thành kĩ năng làm chủ bản thân trong học tập và sinh hoạt (theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng) ta lồng ghép hình thành kĩ năng kiên định qua bài tập tình huống:
Nam không may đánh mất tiền mẹ cho để nộp học phí. Trên đường đi học về
Nam và bạn thân là Hùng nhặt được một chiếc ví. Trong ví có 300 nghìn đồng
và chứng minh thư mang tên Nguyễn Văn A là người cùng xã. Hùng bàn với
Nam lấy số tiền đó đem đóng học phí. Theo em, Nam sẽ có những cách xử sự
nào? Nếu là Nam, em sẽ lựa chọn cách nào ?
Tình huống này chứa đựng cám dỗ. Trước tình huống như vậy đòi hỏi học sinh
phải trung thực và kiên định trước những cám dỗ ; kiên định thực hiện và bảo vệ
cái tốt...để đi đến lựa chọn cách giải quyết trả lại ví cho người bị mất và nói thật
với mẹ về việc mất tiền.

9


c. Phương pháp trò chơi:
Phương pháp trò chơi cũng là phương pháp hiệu quả, là sự tổ chức cho học
sinh chơi một trò chơi nào đó để thông qua đó mà tìm hiểu một vấn đề, biểu hiện
thái độ hay thực hiện hành động, việc làm liên quan đến nội dung bài học
Phương pháp trò chơi có ưu điểm sau:
- Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi,
bởi cá nhân thể hiện như thế nào trong trò chơi thì phần lớn nó thể hiện như thế
trong cuộc sống thực (Macarenko). Chính nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành

được ở học sinh niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên
trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.
- Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn
cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống.
- Qua trò chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn
luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
- Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh
động ; không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình học
tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ
được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.
- Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học
sinh, giữa giáo viên với học sinh.
d. Phương pháp hoạt động nhóm:
Để tăng cường sự trải nghiệm và để đưa ra cách giải quyết theo kinh
nghiệm và hiểu biết ở học sinh thì các bài tập, câu hỏi phức tạp được thực hiện
trong mối quan hệ cộng đồng, trong đó mối quan hệ giữa các thành viên trong
nhóm có một vai trò hết sức quan trọng. Thông thường với mục tiêu này thường
sử dụng phương pháp nhóm. Thực chất của phương pháp này là để người cùng
tham gia trao đổi hay cùng làm về một vấn đề nào đó theo nhóm nhỏ. Thảo luận
hay cùng làm một việc gì đó theo nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho
học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho học
sinh có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có
liên quan đến thái độ, giá trị hay kỹ năng cần hình thành. Các nghiên cứu về
phương pháp nhóm đã chứng minh rằng, nhờ hoạt động nhóm nhỏ mà:
- Ý kiến của học sinh sẽ giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, làm tăng tính
khách quan khoa học.
- Hiểu biết trở nên sâu sắc, bền vững hơn do được giao lưu, học hỏi giữa các
thành viên trong nhóm.
- Nhờ không khí làm việc cởi mở nên học sinh trở nên thoải mái, tự tin hơn
trong việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe có phê phán ý kiến

của bạn.
- Trong làm việc nhóm các thành viên đều phải tham gia thực hiện nhiệm vụ
với tinh thần trách nhiệm cao nhất theo tinh thần hợp tác chặt chẽ vì họ sẽ
"Cùng chìm, hoặc cùng nổi" với nhau.
10


- Khi phân tích tình huống, mỗi cá nhân lại phải sử dụng tư duy phê phán, tư
duy sáng tạo để lựa chọn và ra quyết định chung của nhóm.
- Việc luân phiên các vai trò đảm nhiệm trong nhóm: nhóm trưởng, thư kí và
các vai trò khác cũng là một yếu tố khuyến khích vai trò chủ thể, tích cực
của học sinh.
Những điểm chủ yếu trong làm việc nhóm bao gồm:
- Các mối quan hệ của học sinh hình thành một mạng lưới đa dạng và phức
tạp.
- Mỗi người là một thành viên của cộng đồng và là một mắt xích trong quá
trình trao đổi thông tin.
- Sự trao đổi thông tin thể hiện qua cả hoạt động chính thức lẫn không
chính thức.
- Cả cộng đồng/tập thể như một đơn vị chuyển tải thông tin chứ không phải
mỗi cá nhân học sinh.
Tạo một không gian thảo luận cởi mở, tôn trọng lẫn nhau là điều rất quan
trọng và cần thiết trong thảo luận. Khi có được điều này, việc chia sẻ sẽ trở nên
dễ dàng, thoải mái hơn. Việc bày tỏ những cảm giác, cảm nhận sau mỗi câu hỏi
có thể làm sáng tỏ quan điểm cá nhân và tìm được sự đồng cảm hơn. Thảo luận
trong một môi trường mang tính hỗ trợ có thể giúp hàn gắn, chữa lành tổn
thương rất hiệu quả.
Quá trình thảo luận còn có thể giúp cho điều tiêu cực được chấp nhận và từ
đó tạo bầu không khí cởi mở để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những tiêu cực
này. Khi tất cả được thực hiện với sự tôn trọng chân thành, học sinh sẽ dần tháo

bỏ được “hàng rào phòng thủ”, và không còn biện minh cho tính tiêu cực của
họ. Một khi những giá trị tích cực được khám phá, học sinh sẽ cảm thấy bản
thân mình có giá trị; dần dần họ thấy tự do và có ý chí mạnh mẽ để hành động
khác đi.
e. Phương pháp trải nghiệm/thực hành:
Giáo dục giá trị và kỹ năng sống không phải là nói cho học sinh biết thế
nào là đúng thế nào là sai như ta thường làm. Cũng không phải là rao giảng
những lời hay ý đẹp để chúng vào tai này rồi ra tai kia. Các phương pháp cổ điển
như giảng bài, đọc chép sẽ thất bại hoàn toàn vì chúng chỉ cung cấp thông tin,
mà từ thông tin và nhận thức đến thay đổi hành vi thì khoảng cách còn rất lớn.
Để học sinh được thấm nhuần những giá trị và kỹ năng học được, việc tổ
chức các hoạt động thực tiễn, sau đó có sự phân tích ý nghĩa của các hoạt động
này, đặc biệt cảm xúc của các cá nhân trong quá trình tham gia hoạt động giữ vai
trò vô cùng quan trọng để học sinh có mong muốn biến các giá trị và kỹ năng
vào thực tiễn cuộc sống của họ.
Các hoạt động như tham quan, picnic có tổ chức, hoạt động xã hội như từ
thiện, văn hóa nghệ thuật… luôn thu hút sự tham gia tích cực của học sinh. Nhà
giáo dục cần có kế hoạch cụ thể, với mục đích rõ ràng để từng hoạt động nhỏ
cũng được rút kinh nghiệm và thảo luận sau đó. Thiếu điều này hoạt động giáo
11


dục giá trị và kỹ năng sống chắc chắn kém hiệu quả, trở thành kinh viện chủ
nghĩa mà thôi.
Nghệ thuật là phương tiện tuyệt vời để thể hiện những ý tưởng, cảm nhận các
giá trị và kỹ năng một cách sáng tạo, và biến những giá trị ấy thành của mình.
Chẳng hạn học bài Bảo vệ di sản văn hóa (GDCD 7) ta có thể yêu cầu học sinh
sưu tầm và trình bày một làn điệu dân ca của địa phương. Trình diễn nghệ thuật
rất tốt cho việc biểu lộ và phát huy tinh thần tập thể. Thông qua các hoạt động
ấy, học sinh sẽ tự liên hệ với những giá trị và kỹ năng vốn có sẵn của bản thân

và nhận ra những gì mình thật sự muốn nói. Sự đa dạng của các loại hình nghệ
thuật có thể giúp học sinh hứng thú hơn. Đồng thời qua việc sưu tầm và trình
bày một làn điệu dân ca, các em sẽ thấy cái hay, cái đẹp để rồi có thái độ và
hành vi biểu hiện sự trận trọng di sản văn hóa dân tộc. Một môi trường học tập
như thế sẽ tạo điều kiện cho mỗi người tỏa sáng, giúp các em biết khai thác
những tiềm năng to lớn ẩn chứa trong mình.
Giáo dục Giá trị và kỹ năng sống là giúp học sinh nâng cao năng lực để tự
lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau. Quyết định phải xuất phát từ học sinh.
Vì thế học phải hết sức gần gũi với cuộc sống hay ngay trong cuộc sống. Nội
dung phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của học sinh. Học sinh cần
có điều kiện để cọ xát các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực
hành, áp dụng. Học sinh phải tham gia chủ động vì có thế học sinh mới thay đổi
hành vi.
Do đó nhiều phương pháp được áp dụng để đem lại những điều kiện trên
như sinh hoạt hay thảo luận theo nhóm, theo cặp, động não, sắm vai, phân tích
tình huống, tranh luận, trò chơi, huy động tối đa nghe, nhìn, vận động … học
sinh không chỉ thực tập thực hành trong khi học mà còn làm bài tập ở nhà, đi
thực địa tham gia các phong trào, các dự án… Đặc biệt tiết ngoại khóa là điều
kiện để học sinh trải nghiệm thực tế. Ví dụ tiết 33(GDCD 7) giáo viên có thể
chọn chủ đề ngoại khóa : Bảo vệ môi trường. Học sinh tham gia làm vệ sinh
đường làng, ngõ xóm hoặc thu gom và đốt rác thải ni lông kết hợp với tuyên
truyền mọi người tái sử dụng và giảm thiểu sử dụng bao bì ni lông…Học bài
Thực hiện trật tự an toàn giao thông (GDCD 6), học sinh có thể bày những trò
chơi về luật đi đường, quan sát tình hình giao thông rồi nhận xét.
Sau đây là một hoạt động ngoại khóa mà bản thân tôi đã thực hiện nhiều năm
thấy đem lại hiệu quả thiết thực trong việc giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống
cho học sinh, xin chia sẻ cùng các đồng nghiệp:
MÔN GDCD 7
TIẾT 33.
NGOẠI KHÓA

CHỦ ĐỀ: BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức:
Giúp học sinh ứng dụng những kiến thức về bảo vệ môi vào thực tiễn thông
qua hoạt động thu gom rác thải bao bì ni lông ; tuyên truyền cho mọi người hiểu
12


về hiểm hoạ của việc lạm dụng bao bì ni lông đối với môi trường và sức khoẻ
con người và các biện pháp nhằm hạn chế rác thải ni lông.
2. Kĩ năng:
- Biết cách bảo vệ môi trường
- Có ý thức hạn chế sử dụng bao bì ni lông và tuyên truyền mọi người làm theo.
- Hình thành các kĩ năng hợp tác, kĩ năng thương lượng/thuyết phục, kĩ năng
thiết lập và thực hiện mục tiêu, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy phê
phán, kĩ năng đóng góp vào thành công của nhóm.
3. Thái độ:
- Ủng hộ những hoạt động vì môi trường
- Thấy được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường thông qua việc làm cụ
thể là hạn chế sử dụng bao bì ni lông.
B. PHƯƠNG PHÁP:
Phương pháp trải nghiệm/thực hành, hoạt động nhóm, động não.
C. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG TIỆN:
Tranh ảnh, băng hình, văn bản thông tin về Ngày trái đất năm 2000.
D. NỘI DUNG:
Hoạt động 1 : Chia nhóm và giao nhiệm vụ (Được thực hiện trước 1 tuần)
- Chia lớp thành các nhóm theo đơn vị thôn (có điều chỉnh cho phù hợp số
lượng)
- Mỗi nhóm phân công : Nhóm trưởng, thư kí.
- Nghiên cứu tài liệu : Đọc bài văn bản Thông tin về Ngày trái đất năm 2000

( Ngữ văn 8 – Tập 1) để thấy được tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông, các
biện pháp hạn chế sử dụng bao bì ni lông.
Gợi ý : Do tính không phân huỷ của Pla-xtíc
+ Lẫn vào đất làm cản trở quá trình sinh trưởng của thực vật dẫn đến xói mòn
+ Làm tắc các đường dẫn nước thải làm muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh,
làm chết sinh vật khi chúng nuốt phải
+ Làm ô nhiểm thực phẩm, gây tác hại cho não, là nguyên nhân gây nên ung thư
+ Khi đốt bao bì : Tạo ra chất đi-ô- xin.. .gây ngộ độc…ung thư
=>Biện pháp : Hạn chế tối đa dùng bao bì ni lông, những bao bì sạch thu gom để
tái sử dụng ; tuyên truyền cho mọi người hiểu về hiểm hoạ của việc lạm dụng
bao bì ni lông đối với môi trường và sức khoẻ con người
- Nhiệm vụ : Các nhóm theo đơn vị thôn thực hiện :
1- Tuyên truyền cho người nhà, bạn bè và hàng xóm hiểu tác hại của việc sử
dụng bao bì ni lông ; biên pháp hạn chế sử dụng và cách tái sử dụng...
2- Tổ chức thu gom rác thải ni lông vào sáng chủ nhật và đem đốt nơi thoáng
gió, xa khu dân cư.
3- Nhóm trưởng lên kế hoạch cụ thể và chỉ đạo việc thực hiện, thư kí viết báo
cáo.
* Lưu ý : Giáo viên có biện pháp thích hợp để kiểm tra, giám sát việc thực hiện
và tính trung thực( có thể thông qua cá em học sinh khác)

13


Hoạt động 2 : Nghe báo cáo (Hoạt động trên lớp)
1. Xem tư liệu về các hoạt động môi trường do giáo viên cung cấp: 5 phút
2. Các nhóm báo cáo kết quả thực hiện và rút ra ý nghĩa của công việc vừa làm.
3. Giáo viên nhận xét, đánh giá và rút kinh nghiệm.
Hoạt động 3 : Hướng dẫn học sinh học tập ở nhà
- Tiếp tục thực hiện hoạt động nhằm hạn chế rác thải ni lông.

- Ôn tập tốt chuẩn bị kiểm tra.

Học sinh thu gom bao bì ni lông và rác thải ở bờ biển
Qua hoạt động ngoại khóa này, hình thành ở học sinh kĩ năng hợp tác thông
qua hoạt động nhóm ; các thành viên nhóm phải tuyên truyền, thuyết phục mọi
người thấy được hiểm hoạ của việc lạm dụng bao bì ni lông đối với môi trường
và sức khoẻ con người từ đó mà có ý thức hạn chế sử dụng ; các thành viên
nhóm để thực hiện nhiệm vụ của mình phải thiết lập và thực hiện mục tiêu ;
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phải giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh ; phê
phán những hành vi lạm dụng bao bì ni lông, gây ô nhiễm môi trường ; mỗi
thành viên của nhóm có vai trò quyết định đến thành công của nhóm trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua nhiều năm ứng dụng đề tài “Một số kinh nghiệm giáo dục giá trị
sống, kĩ năng sống cho học sinh THCS qua môn GDCD” tôi thấy thực sự đem
lại hiệu quả cao trong việc giáo dục học sinh. Các em không những rèn luyên
được những kĩ năng của bài học GDCD mà còn rèn luyện được những kĩ năng
14


sống có liên quan khác. Hơn nữa qua thông tin phản hồi con nhận được sự đồng
tình và khen ngợi từ phía cha mẹ học sinh. Học sinh thích tham gia các hoạt
động như: Văn nghệ, thể thao, hoạt động ngoài giờ lên lớp, từ đó các em có kĩ
năng sống vững vàng hơn, các em trở nên tự tin trong học tập cũng như trong
cuộc sống. So sánh kết quả năm chưa áp dụng kinh nghiệm kinh nghiệm lồng
ghép hoạt động giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh THCS qua môn
GDCD với năm đã áp dụng tôi thấy từ khi ứng dụng đề tài này, các em không
những được trang bị một cách tương đối đầy đủ về kĩ năng sống. Các em tự tin
hơn, mạnh dạn hơn nên kết quả học tập, rèn luyện, tu dưỡng nhờ thế cũng tiến
bộ rõ rệt. Kết quả cụ thể như sau:

Khi chưa áp dụng: “Một số kinh nghiệm giáo dục giá trị sống, kĩ năng
sống cho học sinh THCS qua môn GDCD” . Tôi nhận thấy kĩ năng sống của
các em còn rất hạn chế, thậm chí nhiều tình huống cư xử trong giao tiếp với thầy
cô và bạn bè còn chưa chuẩn mực. Chính vì thiếu kĩ năng sống nên dẫn đến chất
lượng giáo dục của học sinh còn thấp.
Năm học 2011 – 2012, tôi đã bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng: “Một
số kinh nghiệm giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh THCS qua
môn GDCD” thì kết quả đạt được đáng lạc quan. Qua sáu năm nghiên cứu, áp
dụng với nhiều đối tượng học sinh rồi rút kinh nghiệm những hạn chế và phát
huy ưu điểm của sáng kiến, sang đầu năm học 2016 – 2017 tôi tiếp tục áp dụng
đề tài của mình vào thực tiễn giảng dạy, hết học kì 1, kết quả học sinh trường tôi
tự tin hơn rất nhiều. Các em có kĩ năng sống tốt, mạnh dạn hơn trong học tập,
rèn luyện, tu dưỡng và đặc biệt giảm một cách rõ rệt hành vi vi phạm đạo đức,
pháp luật. Sau đây là số liệu phản ánh hiệu quả của đề tài:
a) Qua sự phối hợp với đồng chí tổng phụ trách đội về việc theo dõi nề nếp
học sinh ở các lớp tôi giảng dạy như sau:
Số học sinh Học sinh vi phạm đạo đức, pháp luật
Năm học
nghiên cứu
Số vụ
%
2010 – 2011
177
20
11,3
(Chưa áp dụng)
2011 – 2012
150
12
8

(Bắt đầu áp dụng)
2012 - 2013
149
11
7,4
2013 - 2014
145
10
6,9
2014 - 2015
200
15
7,5
2015 – 2016
205
10
4,8
(Thay đổi, bổ sung)
Kì I năm: 2016 - 2017
198
4
2
b) Qua sự phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, kết quả xếp loại đạo đức học sinh
qua các năm cũng có chuyển biến rõ rệt. Theo kết quả theo dõi và thống kê cụ
thể ở các năm học như sau:
15


Xếp loại hạnh kiểm
Trung

Tốt
Khá
Yếu
Năm học
bình
SL
%
SL % SL %
SL %
2010 – 2011
56,
28,
6,
177
100
50
15 8,5 12
(Chưa áp dụng)
5
3
8
2011 – 2012
63,
33,
3,
150
95
40
10 6,7
5

(Bắt đầu áp dụng)
3
3
3
2012 - 2013
63,
26,
2,
149
95
40
10 6,7
4
8
8
7
2013 - 2014
62,
29,
2,
145
90
42
9 6,2
4
0
0
8
2014 - 2015
62,

29,
3,
200
124
58
12 6,0
7
0
0
5
2015 – 2016
72,
20,
1,
205
148
42
12 5,9
3
(Thay đổi, bổ sung)
2
4
5
Kì I năm: 2016 74,
19,
0,
198
148
39
10 5,0

1
2017
8
7
5
Những kết quả này có được là nhờ sự tâm huyết của các thầy cô giáo và sự
chịu khó học tập, rèn luyện, tu dưỡng của các em học sinh, nhưng một đóng góp
không thể phủ nhận là việc áp dụng sáng kiến của đề tài mà bản thân nghiên cứu
hai năm qua. Việc áp dụng đề tài “Một số kinh nghiệm giáo dục giá trị sống, kĩ
năng sống cho học sinh THCS qua môn GDCD” cũng làm cho chất lượng môn
GDCD cải thiện rõ rệt.
c) Chất lượng qua khảo sát môn GDCD :
Số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Năm học
nghiên
SL
%
SL %
SL
%
SL %
cứu
Số học
sinh
nghiên
cứu


2010 – 2011
(Chưa áp dụng)
2011 – 2012
(Bắt đầu áp
dụng)
2012 – 2013
2013 – 2014
2014 - 2015
2015 – 2016
(Thay đổi, bổ
sung)
Kì I năm:
2016 - 2017

177

9

5,1

35

19,8

108

61

25


14,
1

150

18

12

40

24,7

82

54,7

10

6,6

149
145
200

20
20
28


13,4
13,8
14

40
40
60

26,8
27,6
30,0

84
81
105

56,4
55,9
52,5

5
4
7

3,4
2,8
3,5

205


40

19,5

62

30,2

102

49,8

1

0,5

198

40

20,2

65

32,8

93

46,9


0

0
16


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống ở trường THCS chỉ có thể đem lại hiệu
quả, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu xã hội khi nội
dung này được đầu tư thích đáng để giáo viên có điều kiện tổ chức tốt các hoạt
động giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Giá trị sống là nên tảng hình thành kĩ năng sống, kĩ năng sống là một chỉ
số thực tế của nhân cách, là mặt biểu hiện của hành vi nhân cách, đồng thời là
yếu tố khẳng định chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn mới về sự trưởng thành
và phát triển nhân cách con người dưới tác động của môi trường sống và hoạt
động giáo dục. Đối với nhiều nước trên thế giới, kĩ năng sống là mục tiêu, nội
dung quan trọng của chương trình giáo dục phổ thông. Giáo dục giá trị sống, kĩ
năng sống là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của hệ thống giáo dục, càng
trở nên cấp thiết đối với thế hệ trẻ, đồng thời là nhiệm vụ quan trọng của mọi
hoạt động nhà trường, trong đó hoạt động giáo dục qua bài giảng trên lớp chiếm
vị trí quan trọng. Những kết quả ban đầu của đề tài “Một số kinh nghiệm giáo
dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh THCS qua môn GDCD” cho thấy
hiệu quả của việc giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống trong trường THCS nói
riêng và các trường trung học nói chung và cũng đặt ra vấn đề cần có những
định hướng rõ rệt hơn cho giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống trong nhà trường.
Kết quả của đề tài đã xác định các kĩ năng sống để hình thành cho học
sinh những kĩ năng cơ bản như xác định giá trị, kĩ năng nhận thức, kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng đương đầu với cảm xúc, căng thẳng và kĩ năng giải quyết mâu
thuẫn một cách tích cực...Kết quả của việc hình thành các kĩ năng này là giáo

dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc
thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát
triển toàn diện nhân cách người học dựa trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá
trị, thái độ và kĩ năng phù hợp.
Muốn giáo dục kĩ năng sống thật sự có hiệu quả thì người giáo viên có
tâm huyết, sự kiên nhẫn và nhất là phải có thời gian. Giáo dục giá trị sống, kĩ
năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã
hội, cộng đồng. Phải kết hợp cả gia đình, nhà trường và xã hội mới mong giáo
dục được những học sinh phát triển toàn diện.
3.2. Kiến nghị.
Qua nhiều năm thực hiện lồng ghép hoạt động giáo dục giá trị sống, kĩ
năng sống cho học sinh THCS qua môn GDCD tôi có một số ý kiến sau:
- Cần có những chương trình tập huấn và tài liệu bổ trợ về phương pháp
cụ thể và chi tiết hơn nữa cho từng môn để nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị
sống, kĩ năng sống trong nhà trường.
- Cần có các chương trình phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội
trong việc giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh.
17


- Cần có những quy định về chương trình giáo dục giá trị sống, kĩ năng
sống cụ thể cho học sinh THCS. Vì đây sẽ là cơ sở để các trường chủ động lựa
chọn hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phù hợp với thực
tiễn, để đảm bảo chất lượng của nhà trường.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Ngư Lộc, ngày 5 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.


Trần Quốc Dương

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Sách giáo khoa GDCD 6, 7, 8, 9
2. Sách giáo viên GDCD 6, 7, 8, 9
3. Tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn GDCD THCS
4. Hoạt động giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh TH – Vụ giáo dục
trung học và chương trình phát triển giáo dục trung học
5. Giáo dục kĩ năng sống – Nguyễn Thanh Bình.
6. Những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam – Trần Văn Giàu.
7. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên năm học 2016 - 2017

19



×