Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số biện pháp nhằm huy động học sinh bỏ học ra lớp và duy trì sĩ số tại lớp 6b trường THCS tén tằn mường lát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.34 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Đề Mục
Mục lục
I. MỞ ĐẦU

Trang
1

1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng vấn đề
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Giải pháp thứ nhất
3.2. Giải pháp thứ hai
3.3. Giải pháp thứ ba
3.4. Giải pháp thứ tư
3.5. Giải pháp thứ năm
3.6. Giải pháp thứ sáu
3.7. Giải pháp thứ bảy
4. Kết quả đạt được
III. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị, đề xuất
Tài liệu tham khảo


2
2
2
2
3
3
3
3
7
7
8
9
10
10
11
13
14
14
15
16

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”
Thế nhưng trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học diễn ra
phổ biến khắp cả nước, việc học sinh bỏ học chủ yếu tập trung ở những vùng
còn khó khăn, vùng nông thôn, nơi điều kiện kinh tế - xã hội chưa thực sự phát
triển.
Hiện nay trên nhiều các phương tiện thông tin đại chúng, đã và đang nêu
lên một thực tế đán buồn đó là tỷ lệ học sinh bỏ học, đặc biệt là các vùng nông

thôn có chiều hướng ngày càng gia tăng. Điều đó khiến ta không khỏi băn
khoăn, trăn trở và đặt ra hàng loạt câu hỏi. Nguyên nhân nào làm cho tỉ lệ học

1


sinh bỏ học cao như vậy? Chúng ta đã có nhiều biện pháp nhằm giảm tỉ lệ học
sinh bỏ học nhưng tình trạng này vẫn còn ở mức độ cao. Liệu những biện pháp
đó có hiệu quả không ? Có còn biện pháp nào giúp ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
học sinh bỏ học hiệu quả hơn không?
Với tư cách là một giáo viên giảng dạy ở vùng miền núi đặc biệt khó
khăn, đại đa số các em xuất thân từ gia đình dân tộc thiểu số, hoàn cảnh thiếu
thốn. Bản thân tôi nhiều năm làm công tác chủ nhiệm nên tôi muốn chia sẻ với
các đồng nghiệp “Một số biện pháp nhằm huy động học sinh bỏ học ra lớp và
duy trì sĩ số tại lớp 6B tại trường THCS Tén Tằn- Mường Lát”. Đó cũng là lí
do tôi chọn đề tài này để nghiên cứu.
Dẫu biết rằng đã có nhiều đề tài của các đồng nghiệp đây đó trên cả nước
viết về vấn đề này, nhưng thiết nghĩ mỗi địa phương, mỗi vùng đều có những nét
đặc trưng riêng, không phải SKKN nào cũng được áp dụng ở mọi nơi trên đất
nước ta, mà để áp dụng được thì phải phù hợp với tình hình cụ thể.
Vì vậy khi làm đề tài này tôi đã cố gắng không lặp lại những gì mà mọi
người đã viết, chỉ sử dụng những kinh nghiệm mà bản thân đã học hỏi và tự rút
ra trong thực tiễn.
Tôi rất mong các đồng nghiệp hãy xem đây là một tư liệu để tham khảo,
học hỏi và áp dụng thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong đề tài này tôi sẽ đi sâu, phân tích, tìm hiểu những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng học sinh bỏ học, qua đó tìm ra một số giải pháp nhằm giảm thiểu
tình trạng học sinh bỏ học trong thời gian đến.
3. Đối tượng nghiên cứu

Là toàn bộ học sinh lớp 6B trường THCS Tén Tằn - Mường Lát – Thanh
Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp thực nghiệm bằng
cách thu thập thông tin, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
đàm thoại trực tiếp, phương pháp quan sát và tiếp cận để nắm bắt kịp thời tâm lý của
các em học sinh trong lớp chủ nhiệm thông qua các cử chỉ và hành động của học
sinh.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Xã hội nói chung và đất nước chúng ta đang phát triển ngày càng nhanh
đòi hỏi mỗi con người phải tự trang bị cho mình một khối lượng kiến thức vững
chắc, nhạy bén, luôn tạo cho mình cơ hội để hòa nhập và phát triển, có như vậy
thì mới có thể theo kịp thời đại. Bên cạnh đó sự phát triển của mỗi quốc gia cũng
thể hiện qua trình độ học thức, năng lực làm việc của mỗi công dân ở quốc gia
đó.
Vì thế, Đảng ta đã đề ra chiến lược phát triển của đất nước đó là lấy giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Để thực hiện được chiến lược đó, trong
những năm gần đây Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã phát động nhiều phong trào
2


như: “Mỗi thầy, cô là tấm gương tự học và sáng tạo”, hoặc cuộc vận động “Hai
không” với bốn nội dung “Nói không với tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tích,
vi phạm đạo đức nhà giáo và việc nhồi nhầm lớp” đã tạo được những chuyển
biến tích cực trong xã hội.
Thế nhưng, bên cạnh những cái đạt được thì tình trạng học sinh bỏ học
vẫn còn tiếp diễn ở trường THCS Tén Tằn. Liệu rằng bộ phận các em bỏ học
này rồi tương lai sẽ như thế nào? Tương lai của địa phương và đất nước sẽ ra
sao? Các em phải làm gì để sinh sống trong ngày mai, khi mà xã hội không

ngừng phát triển và đòi hỏi phải có kiến thức và năng lực làm việc, mà bản năng
sinh tồn buộc con người phải tồn tại bằng mọi cách.
Có phải chăng các em sẽ đi vào con đường phạm pháp, điều đó cũng có
nghĩa xã hội phải chịu thêm áp lực về các tệ nạn mà các em sẽ gây ra. Đây chính
là vấn đề nhức nhối và lo âu của xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng.
2. Thực trạng của vấn đề
2.1.Thuận lợi.
Đội ngũ giáo viên có trình độ, yêu nghề, nhiều giáo viên có thời gian công
tác lâu năm nên có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy và giáo dục.
Sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo ở địa phương, các ban ngành,
đoàn thể, cá nhân trong và ngoài nhà trường.
Đa số các em đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập, lễ phép với thầy cô và
có chí vượt khó trong học tập.
2.2. Khó khăn.
Mường Lát là một huyện vùng cao biên giới nằm ở tận cùng phía Tây Bắc
của tỉnh Thanh Hóa. Cách trung tâm thành phố khoảng 246km, với 110km
đường biên giới giáp nước bạn Lào. Diện tích tự nhiên khoảng 80.865ha, 100%
diện tích là đồi núi, địa hình chia cắt đi lại khó khăn.
Là một huyện mới được chia tách ra từ huyện Quan Hóa cũ vào 3/1997
(Thực hiện theo Nghị định 72/CP). Cho đến nay đã có 8 xã và 1 thị trấn, tổng
dân số đến thời điểm hiện nay là trên 3,4 vạn người, chủ yếu là các dân tộc thiểu
số như: Hmôngz, Thái, Dao, Khơ mú, Mường, và một bộ phận thiểu số người
Kinh. Trong đó chiếm số lượng đông nhất là dân tộc Thái (46%) và dân tộc
HMôngz.

3


Tén Tằn là một xã biên giới nằm ở phía Tây huyện Mường Lát, có 22km
đường biên giới với 09 cột mốc, có cửa khẩu giáp với cụm Sốp Hào huyện Sốp

Bâu (Lào). Tính đến thời điểm năm đầu năm 2016 dân số toàn xã là 4188 nhân
khẩu với 921 hộ dân, gồm 3 dân tộc Thái, Kinh, Khơ Mú đan xen cùng sinh
sống.
Những điều đó khiến việc huy động học sinh ra lớp của nhà trường trước
đây gặp nhiều khó khăn. Công tác tuyển học sinh vào lớp 6 của trường thường
kéo dài từ tháng 6 đến đầu tháng 9 hằng năm. Sau đó, khâu duy trì số học sinh
cũng gặp khó khăn tương tự. Nhiều học sinh còn ngại đi lại xa xôi, đợi có người
nhà đưa đi mới đi học. Riêng học sinh nữ đến lớp 8, lớp 9, sau mỗi kỳ nghỉ hè
hoặc nghỉ tết nguyên đán các em có nguy cơ làm ….vợ, làm mẹ rất cao.
Các trường hợp nghỉ học, bỏ học đa số là học sinh người dân tộc Khơ mú
thuộc bản đoàn kết (Trong khi đó người Khơ mú hiện nay ở Thanh hóa là một
bộ phận dân tộc rất nhỏ, chỉ sinh sống ở 02 bản thộc huyện Mường Lát là bản
Đoàn Kết xã Tén Tằn và bản Chai – Lách xã Mường Chanh, chính vì thế mà
không chỉ Đảng, Nhà nước mà chính quyền địa phương nơi đây rất quan tâm
đến bộ phận dân tộc này.
Tuy được nhà nước quan tâm và hỗ trợ, ưu tiên nhiều về chính sách nhưng
nhận thức của bà con nơi đây vẫn chưa thực sự chuyển biến. Bằng chứng là
phong tục tập quán chưa thực sự thay đổi, còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu, một
bộ phận chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước, lười lao động, theo thống kê
của UBND xã Tén Tằn đến thời điểm tháng 01/2016 có trên 425/921 số hộ dân
là hộ nghèo, chiếm 46,15% (Tăng 28.35 % so với năm 2015)
Nạn tảo hôn vẫn diễn ra, mặc dù chính quyền địa phương đã và đang làm
rất quyết liệt, nhưng chưa đạt hiệu quả cao.

4


Học sinh của chúng tôi (Áo trắng) bất đắc dĩ phải làm mẹ
từ khi chưa đầy 18 tuổi (Tôi đã nhiều lần đến nhà để vận động em đi học lại)
Nền kinh tế thị trường phát triển, có nhiều ảnh hưởng tốt nhưng cũng có

những mặt tiêu cực đến nhận thức của bà con nơi đây, khi nhận thức chưa tốt thì
điều đó càng tai hại. (01 Học sinh lớp 6 của chúng tôi thuộc bản này bỏ học vì
một lý do rất ngớ ngẩn – xa quá không có xe máy không đi học được(mặc dù
nhà trường đã tìm chỗ ở trọ cho). Rồi có học sinh không có điện thoại quay
phim chụp ảnh được cũng không đi học…)

Từ nhà đến trường không chỉ xa mà còn nguy hiểm
Trong ảnh: Học sinh bản Đoàn Kết đi qua cầu treo
Từ thực tế đó, nhận thức của bà con về việc học của con em mình chưa
được như mong muốn chung của toàn xã, toàn huyện. Việc các em nghỉ học 1
tuần/1 tháng đã là chuyện… bình thường.
5


Đời sống của nhân dân (Đặc biệt là bản Đoàn kết)
Còn nhiều khó khăn

Nhiều học sinh của chúng tôi vẫn phải lao động
để phụ giúp gia đình kiếm sống
Trước khi thực hiện và áp dụng đề tài này, tình hình học sinh lớp 6B bỏ
học học kỳ I năm học 2015 - 2016 như sau:
Bỏ học
Vận đông ra lớp
Học Kỳ
Sĩ số
Học kỳ I

40

4 (2 nữ)


2/1 nữ

3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Khi đã có ý tưởng và quyết tâm thực hiện đề tài này, tôi đã mạnh dạn thử
nghiệm nhiều giải pháp nhằm tăng cường việc duy trì sĩ số học sinh trong lớp.

6


Từ những giải pháp do bản thân tích lũy qua 10 năm chủ nhiệm cho đến các giải
pháp tôi mày mò học hỏi trên mạng, qua bạn bè và đồng nghiệp. Cụ thể là :
3.1 Giải pháp thứ nhất: Tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh bỏ học.
Đây là khâu quan trọng đầu tiên, là bước đầu tiên không thể thiếu trong
công tác chủ nhiệm. Tôi thường tiến hành:
- Tìm hiểu thành phần gia đình của các em, nhìn chung các em thuộc
thành phần nào? Có ảnh hưởng đến việc học, đạo đức của các em không?
- Tìm hiểu trình độ học tập của lớp, nhìn chung thuộc loại nào?
- Tìm hiểu về lối sống, cách giao tiếp của em đó với bà con và bạn bè
xung quanh…
Bằng cách nắm rõ lí lịch của từng em và bắt đầu làm quen các em trong
các giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ lên lớp.
Ngay khi nhận lớp, giáo viên chủ nhiệm khi đã có danh sách lớp, hồ sơ,
học bạ của từng học sinh cần dành thời gian đọc kỹ học bạ của từng học sinh.
Mục đích của việc này là tìm hiểu các em qua nhận xét của các giáo viên
tiểu học, để thấy được học lực, hạnh kiểm của học sinh đó trong 5 năm học ở
tiểu học diễn biến như thế nào, từ đó sẽ tìm ra phương pháp giáo dục riêng cho
từng em.
Riêng đối với học sinh người Khơ mú, các em rất nhút nhát, e dè, nhiều
học sinh khi lên cấp 2 vẫn chưa nói thông thạo tiếng phổ thông, vì vậy cần tìm

hiểu các em qua hồ sơ, học lực của cấp dưới, đồng thời qua bạn bè trong bản,
các anh chị học lớp trên để tìm hiểu hoàn cảnh của các em.
Nhiều học sinh có hoàn cảnh vô cùng éo le, vất vả Một tỷ lệ khá cao trong
số bỏ học là gia đình mà cha mẹ không hòa thuận, nhiều em bỏ nhà để khỏi nghe
cha mẹ cãi nhau rồi bỏ học luôn, có em hoặc chỉ ở với mẹ, hoặc chỉ ở với bố, với
ông bà nội, ngoại. Việc lo cho con vì thế mà được sao hay vậy. Gia đình (phụ
huynh) là tác động đến nhận thức rất quan trọng đối với học sinh.

Nhiều học sinh vì hoàn cảnh gia đình nên thường xuyên vắng học
Tăng gia lao động để giúp đỡ bố mẹ

7


Về khía cạnh xã hội: Ngay tại địa phương, một số phong trào mang tính
xã hội cao chưa phản ứng kịp thời tình hình này, chưa bổ sung tiêu chí cụ thể
cho nội dung hoạt động hạn chế học sinh bỏ học. Các đoàn thể chưa quan tâm
nhiều đến việc con em của đoàn viên, hội viên bỏ học. Ra khỏi nhà, khỏi trường
là bao nhiêu thứ cám dỗ mà các em chưa đủ bản lĩnh để tránh xa cái xấu. Bên
cạnh đó, phải kể đến tác động mặt trái của cơ chế thị trường: Một số kiếm tiền
bằng mọi giá, bất kể hậu qủa của việc mình làm đến đâu, kể cả dụ dỗ học sinh
chơi trò điện tử, tham gia các trò chơi đỏ đen, các tệ nạn.

Học sinh trường THCS Tén Tằn ra quân hưởng ứng tháng hành động quốc gia
Phòng chống HIV/AIDS năm 2015.
Vì vậy việc tìm hiểu học sinh để từ đó nhìn ra và đoán trước được nguy
cơ các em bỏ học là việc làm rất cần thiết.
3.2. Giải pháp thứ hai : “Chúng ta là một gia đình, lớp học chúng ta là
ngôi nhà”.
Tôi dành thời gian phân tích cho học sinh hiểu khẩu hiệu ấy như sau:

+ Thứ nhất, mỗi chúng ta là một người chủ nhỏ của ngôi nhà. Mỗi thành
viên cần có ý thúc giữ gìn ngôi nhà thật sạch và đẹp. Vì nó là bộ mặt của tất cả
chúng ta
Từ sự phân tích trên, tôi hướng dẫn học sinh cách làm sạch ngôi nhà.
(Sạch đây cần hiểu theo nhiều nghĩa).
Tôi dặn: làm sạch và đẹp lớp học không chỉ ở việc vệ sinh lớp học, các
em phải học tập và ứng xử để khi ai đó nhắc đến lớp chúng ta cũng phải mỉm
cười. Nếu một bạn nào đó không có ý thức giữ gìn “gương mặt” của mình, bạn
ấy sẽ làm ảnh hưởng đến ngôi nhà chung của tất cả
Tuyên bố đó được thực hiện trong thời gian tôi chủ nhiệm. Mỗi khi một
học sinh vi phạm nội quy của trường. Tôi đều nhắc lại lời dặn ấy. Vì vậy, các em
rất ít khi vi phạm vì luôn sợ “ảnh hưởng đến lớp”. Tôi thấy rằng việc dạy các em

8


biết trách nhiệm với việc mình làm, không nên ảnh hưởng xấu cho tập thể là một
việc cần thiết cho con đường đời sau này.
+ Thứ hai, vì lớp là ngôi nhà, tất cả chúng ta sống dưới một mái nhà nên
phải biết yêu thương và quan tâm nhau. Bất cứ lúc nào bước vào lớp, tôi luôn
nhìn sĩ số. Nếu một em nào vắng, lập tức tôi hỏi em bên cạnh về lí do bạn vắng
học. Nếu em đó trả lời được lí do, tôi khen trước lớp. Nếu em ấp úng, tôi lập tức
nhắc nhở: chúng ta là một gia đình, đã chung gia đình phải biết chia sẻ và quan
tâm lẫn nhau…Từ đó, tôi hình thành trong thói quen của các em cách biết quan
tâm nhau từ việc nhỏ nhất.
Thứ ba: Tôi giải thích cho học sinh trong lớp không được kỳ thị, phân biệt
học sinh dân tộc này, dân tộc kia để tránh việc dẫn đến tình trạng chia rẽ, giáo
dục cho các em thấy cần phải đoàn kết, giúp đỡ, yêu thương và đùm bọc lẫn
nhau.
Đặc trưng của học sinh người dân tộc Khơ mú khi mới vào lớp 6 tại

trường chúng tôi, thường rất bỡ ngỡ khi bước vào môi trường học tập mới nhiều
em khi đến lớp còn chưa thông thạo tiếng phổ thông, ngại nói chuyện, khép kín,
thậm chí khi được hỏi cũng không trả lời (Chỉ cười, hoặc cúi mặt xuống). Đa số
các em chậm tiến bộ hay nên đôi khi mặc cảm bản thân. Vì vậy, việc xây dựng
các mối quan hệ đoàn kết là bước đầu rất quan trọng để các em chuyên tâm đến
lớp.
Quan điểm chủ nhiệm của tôi là phải tạo được cảm giác tin tưởng thân
thiện, “hợp tác” vui vẻ thoải mái giữa giáo viên và học sinh lớp mình. Muốn làm
được điều đó trước hết mình phải thân thiện với học sinh, tránh tuyệt đối việc
quát mắng cau có để học sinh sợ sệt ngay từ khi bước vào lớp.
3.3. Giải pháp thứ ba: “Cô trò mình cùng thực hiện”
Đó là câu nói của tôi mỗi khi đưa ra một quy định nào đó đối với học
sinh, xuất phát từ ý thức: giáo viên là tấm gương để học sinh noi theo. Tôi biết,
học sinh sẽ thường xuyên nhìn vào mình để hành động.
Do vậy, đây là nguyên tắc cực kì quan trọng. Nguyên tắc ấy đã giúp tôi
ứng dụng trong một số trường hợp cụ thể sau:
+ Các em được quy định đi học vào lớp đúng giờ, nhưng nếu GV vào lớp
trễ thì sao? Khi có việc gì vào lớp trễ, tôi luôn nói “xin lỗi các em” và đưa ra lí
do, tất nhiên đó phải là lí do chính đáng.
+ Nhà trường quy định: trong giờ học, học sinh không được sử dụng điện
thoại di động. Học sinh vẫn sẽ dùng di động nếu giáo viên còn sử dụng, thế nên,
tôi không bao giờ cầm theo di động vào lớp. Do đó, khi nhắc nhở một số em còn
để chuông điện thoại reo, các em ấy không dám tái phạm.
+ Đoàn, Đội và cấp trên phát động phong trào ủng hộ lũ lụt, ủng hộ nạn
nhân da cam, kế hoạch nhỏ… tôi đều khuyến khích các em tham gia bằng cách
“cô trò mình cùng làm”. Học sinh khi thấy các phong trào có sự tham gia của
GVCN sẽ hiểu rằng đó là việc tốt, quan trọng, ý nghĩa nên các em sẽ hào hứng
hơn.

9



* Tóm lại nguyên tắc Cô trò mình cùng thực hiện đã giúp tôi duy trì học
sinh cả lớp nói chung và học sinh người Khơ mú nói riêng hiệu quả hơn.
3.4. Giải pháp thứ tư: Thường xuyên là cầu nối cho mối quan hệ
giữa nhà trường với gia đình học sinh có nguy cơ bỏ học.
Như đã trình bày ở trên, việc nhận thức của bà con trong bản đang còn rất
hạn chế, hầu như không thường xuyên quan tâm đến việc học hành của con cái,
chỉ phó mặc cho nhà trường. Hơn nữa đối với học sinh bản đoàn kết lại là đối
tượng được nhà nước cấp cho nhiều chế độ, vì thế việc thường xuyên giữ mối
liên lạc với gia đình các em trở nên rất cần thiết.
Hơn nữa nhà trường và gia đình sẽ là các lực lượng giáo dục thông qua
đầu mối liên kết là giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm trở thành người
trung gian trao đổi thông tin giữa nhà trường và gia đình, thực hiện nhiệm vụ
lĩnh hội và truyền đạt những chủ trương của nhà trường đến với gia đình đồng
thời thu nhận ý kiến, nguyện vọng của gia đình để báo cáo lại lãnh đạo nhà
trường. Nếu giáo viên làm được chiếc cầu nối giữa nhà trường và gia đình việc
giáo dục học sinh sẽ có hiệu quả hơn. Tôi đã tiến hành các việc làm như sau:
+ Mời 01 phụ huynh học sinh trong bản tham gia Hội phụ huynh học sinh
nhằm phát huy tính tích cực của các bậc phụ huynh trong việc tham gia cùng
nhà trường để giáo dục con em mình.
+ Tổ chức họp phụ huynh học sinh định kỳ theo quy định của nhà trường,
trong những trường hợp đặc biệt chủ động xin ý kiến Ban Giám hiệu để tổ chức
họp đột xuất hoặc gặp riêng và trao đổi với từng phụ huynh học sinh để bàn bạc,
trao đổi thông tin, nhằm đề ra những biện pháp khắc phục, uốn nắn kịp thời. Qua
đó đã thể hiện sự quan tâm sâu sát của nhà trường, đồng thời tạo được sự tin
tưởng của phụ huynh học sinh đối với nhà trường khi con em mình được học tập
tại trường.
+ Cho số điện thoại riêng để khi cần thiết, gia đình và giáo viên có thể trò
chuyện trực tiếp và nhanh chóng có những thông tin phản hồi kịp thời.

3.5.Giải pháp thứ năm: Nên “Dỗ trước – dạy sau”
Đối với các em học sinh này, bản thân tôi đôi khi cũng phải “lách luật của
lớp” để tạo điều kiện cho các em.
Là một giáo viên chủ nhiệm phải nghiêm khắc trong kỷ luật, nhưng phải
tạo điều kiện cho các em gần gũi để tâm sự giải bày hoàn cảnh của bản thân em,
hay của bạn. Trong giờ chơi, tìm cách gợi hỏi hoàn cảnh gia đình của học sinh:
“Nhà em đông anh, em không? Em là thứ mấy? Anh, chị còn đi học không? Bố
làm gì? Mẹ làm gì? Ở nhà em học bài cũ mấy giờ? Ngoài việc học em có phải
làm việc gì không?
Để các em dạn dĩ hơn khi tâm sự, tôi tạo điều kiện dẫn dắt bằng cách kể
lại: “Ngày xưa, bằng các em cô cũng… (Tôi cho các em nghe khi bằng tuổi các
em mình cũng có những hành vi, suy nghĩ, việc làm như ở độ tuổi các em bây
giờ). Từ sự dẫn dắt khéo léo đó, các em sẽ dạn dĩ, tâm sự mọi việc cho chúng ta
rõ rất nhiều về hoàn cảnh từng em học sinh: từ việc học tập, vui chơi, giải trí,
sinh hoạt, . ở nhà của các em, tôi cũng nắm được một cách rõ ràng.

10


Đúng như Ông cha ta có câu: “Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Khéo
léo, chúng ta sẽ được nghe các em tâm sự rất nhiều, kể cả nhiều việc các em
chẳng bao giờ dám nói với cha, mẹ của mình. Từ đó, chúng ta điều tra được một
cách rõ ràng về hoàn cảnh của các em, từ đó tạo điều kiện cho chúng ta có cách
giúp các em tốt hơn về học tập cũng như đạo đức, đồng thời bản thân giáo viên
cũng gặt hái được một điều rất lý thú: “Đó là các em yêu thương và gần gũi
mình hơn”.

Nhà nước ngày càng quan tâm nhiều hơn
đến nhân dân và học sinh vùng cao.
Ví dụ: Qua cách trên, dù trong những năm dạy dù trường học rất xa nhà,

nhưng tôi vẫn nắm được một cách khá chính xác:
+ Các em đi học lúc mấy giờ, hôm nay đi có bị bắt nạt không, đi có chời
nhau không, có sợ không…
+ Em nào trưa không ngủ, không học, đi lang thang trong xóm phá
phách, leo trèo hái trộm trái cây ..
+ Có em gia đình bố mẹ cãi nhau, ly thân phải ở với ông bà, không có ai
lo cơm nước.
Đến khi tôi gọi các em đến hỏi rõ ngọn nghành.và giải quyết ổn thỏa các
sự việc tốt đẹp. Thậm chí một số em trong lớp biết được tôi đã làm tốt điều đó
thì đều tròn mắt hỏi: “Làm sao mà cô biết nhỉ ?” …Tôi chỉ nhìn các em nheo
mắt cười !
GV chủ nhiệm phải thật công bằng, cũng nên nhẹ nhàng trong lời nói,
cũng không quá nghiêm khắc đối với lứa tuổi ngây thơ của các em, để các em
còn bộc bạch, tâm sự với mình dù đó là những lỗi lầm em đã sai phạm.
3.6. Giải pháp thứ sáu: “Đi từng ngõ, gõ từng nhà” Kiên trì vận động.
Nguyên nhân khá phổ biến dẫn đến học sinh không đến trường là kinh tế
khó khăn, một số gia đình không để ý con mình đi học như thế nào (Quanh năm
ở trên rẫy rất xa nhà, không biết con mình ở nhà có đi học hay là không).
Trong cuộc mưu sinh cực khổ ở Mường Lát nói chung và xã Tén Tằn nói
riêng, trẻ em dù đang độ tuổi đi học nhưng đã thạo việc phát nương làm rẫy

11


cùng cha mẹ. Thậm chí trong một số gia đình, trẻ em cũng là một lao động thực
thụ. Một số ít bậc cha mẹ vẫn nghĩ đơn giản rằng phải đi làm mới có cái ăn, cái
mặc, cho con đi học thì sẽ thiếu người làm, nhà sẽ thiếu ăn.
Bên cạnh đó, nhiều em sớm quen với cuộc sống lao động chân tay tự do,
hoang dã nên tỏ ra chán nản, không kiên trì, chưa quen với việc học chữ, cho
rằng học chữ khó hơn đi nương. Các thầy cô và cán bộ thôn, xã đã phải tích cực,

kiên trì vận động các em đi học; rồi nhẫn nại uốn nắn cho các em làm quen với
việc học.

Vào bản vận động học sinh
là một trong những biện pháp rất quan trọng để duy trì sĩ số.
Thế nhưng tất cả những công sức đó có nguy cơ “mất trắng” sau mỗi dịp
nghỉ hè hoặc nghỉ lễ kéo dài, nhiều học sinh trong thôn bản lại theo cha mẹ đi
làm nương dẫn đến học hành chểnh mảng, quên kiến thức hoặc bỏ học. Chính vì
vậy mà tỷ lệ học sinh đến lớp thường rất thấp. Dù đã hết sức nỗ lực nhưng qua
mỗi mùa hè, mỗi dịp Tết, số học sinh của trường lại “ngót” đi ít nhiều, nhất là ở
các lớp cuối cấp, em trai có khả năng lao động, em gái được nhiều gia đình dạm
hỏi để cưới chồng… (Điển hình như trường hợp em Lương Thị Nhung lớp 8B
gia đình đã tổ chức cưới chồng trước têt nguyên đán.)

Phối hợp với BQL các bản là công việc cần thiết (Ảnh minh họa)
12


Các giáo viên cũng đã phối hợp với người có uy tín, trưởng thôn, bản đến
từng nhà học sinh để vận động. Bản thân tôi đã không ít lần phải đến tận các
nương rẫy để vận động, thuyết phục các gia đình cho các em đến trường theo
học. Kết quả có nhiều phụ huynh đã đồng ý tạo điều kiện cho con tiếp tục đến
trường.
Để giải quyết tình trạng học sinh bỏ học thực sự rất nan giải, biện pháp
đầu tiên vẫn là tuyên truyền cho phụ huynh học sinh hiểu được việc cho con đến
trường là cần thiết. Các cấp ủy, chính quyền và đoàn thể như Đoàn thanh niên,
Hội phụ nữ… cần vào cuộc mạnh hơn nữa để hạn chế tối đa tình trạng trẻ em bỏ
học. Bên cạnh đó, các trường cũng cần đổi mới môi trường sư phạm, cải thiện
phương pháp giảng dạy, xây dựng nhiều hoạt động ngoại khóa lành mạnh, hấp
dẫn, khuyến khích học sinh có hứng thú khi đến lớp và coi đó là môi trường bổ

ích.
3.7. Giải pháp thứ bảy: Tham mưu tích cực với Ban Giám hiệu nhà
trường xây dựng một đội ngũ nhà giáo thực sự có tinh thần yêu nghề, tận tụy
với công việc:
Dưới sự chỉ đạo và phân công của Ban giám hiệu, tất cả cán bộ giáo viên
trong nhà trường phải cùng có ý thức hợp tác, phối hợp đồng bộ trong các hoạt
động bằng tất cả lòng yêu nghề, yêu công việc và tinh thần trách nhiệm, tận tâm
tận lực với nghề và hết lòng với học sinh.
Ở đây, vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp đặc biệt quan trọng, vừa công
tác tốt trong giảng dạy vừa quản lý lớp bằng cả tâm huyết của mình.
Đối tượng của chúng ta là lứa tuổi rất nhạy cảm cho nên người giáo viên
phải hết sức thương yêu, tôn trọng, gần gũi, ân cần, bao dung với thái độ nhẹ
nhàng nhưng nghiêm khắc trong việc giáo dục các em.
Nhiều giáo viên của chúng ta bây giờ vẫn còn rất nặng lời, thậm chí xúc
phạm học sinh khi các em mắc lỗi. Trong công tác vận động, tôi đã tiếp xúc với
một số học sinh bỏ học chỉ vì giáo viên nặng lời phê phán, các em tự ái nên nhất
quyết không chịu đến lớp nữa.
Đây là hiện tượng cần phải được phê phán, nhắc nhở và chấn chỉnh kịp
thời. Công tác chủ nhiệm lớp chính là những giải pháp ban đầu và hiệu quả nhất
nhằm ngăn ngừa học sinh bỏ học và góp phần duy trì sĩ số của học sinh.
Nhà trường cần tích cực chú trọng đổi mới phương pháp dạy học với mục
đích là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần giảm tỷ lệ học sinh yếu
kém đồng thời làm giảm nguy cơ bỏ học ở học sinh.
Ngay từ đầu năm học phải tổ chức tiến hành phân loại học lực của học
sinh thật chính xác rồi lựa chọn những giáo viên có năng lực chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm tốt thực hiện tiến hành phụ đạo, bồi dưỡng kiến thức cho các
em.
Qua đợt khảo sát chất lượng đầu năm, kịp thời phát hiện những học sinh
yếu kém rồi tích cực kết hợp với gia đình kiên trì rèn luyện cho học sinh nắm
vững kiến thức, đem lại cho các em sự tự tin và thích thú học tập, giải quyết triệt

để tình trạng học sinh “ngồi nhầm lớp”.
13


Trong giảng dạy, chú trọng ngay những học sinh có biểu hiện lơ là, sa sút
trong học tập, kết hợp cùng gia đình tìm nguyên nhân và kịp thời bồi dưỡng kiến
thức.
Một biện pháp quan trọng khác là cần khuyến khích, tôn vinh những giáo
viên sau một năm học đã có công giáo dục học sinh cá biệt, học sinh yếu kém.
Thực tế cho thấy, giáo dục một học sinh cá biệt, có học lực yếu kém mất
nhiều công sức, thời gian không kém gì so với việc bồi dưỡng một học sinh giỏi
và chính họ là những người góp phần trực tiếp làm giảm thiểu nguy cơ bỏ học
của học sinh.
Thẳng thắn đấu tranh, góp ý, nhắc nhở nếu có đồng nghiệp có thái độ và
tư tưởng chủ quan, không có tinh thần trách nhiệm trong công tác.
4. Kết quả đạt được.
Sau những năm áp dụng các biện pháp vận động, quản lí và duy trì học
sinh nêu trên, tôi đã đảm bảo được sĩ số học sinh trong lớp mình. Trong năm học
2015 – 2016 này tôi do nhà trường thiếu nhân sự tôi đã tình nguyện chủ nhiệm
lớp 6B, đã có lúc nhiều em học sinh của tôi bỏ học, tôi đã vận động các em ra
lớp và duy trì sĩ số các em bằng các phương pháp đó:
Không chỉ bản thân tôi, mà tôi đã cùng với các đồng nghiệp khác trao đổi
kinh nghiệm tại các cuộc họp, các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn nhà trường để
cùng nhau thực hiện tốt nhiệm vụ duy trì sĩ số học sinh.
Cùng với sự quan tâm, đầu tư ngày càng to lớn và kịp thời của Đảng, nhà
nước cũng như chính quyền địa phương, chúng tôi tin rằng tình trạng học sinh
bỏ học sẽ ngày càng giảm dần, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên.
Kết quả, tính đến thời điểm này (tháng 3 năm 2016) riêng lớp 6B của tôi
chỉ giảm duy nhất có 01 em do đi cùng gia đình đến địa phương khác sinh sống.
Cụ thể như sau:

Bỏ học
Vận đông ra lớp
Học Kỳ
Sĩ số
Học kỳ I

40

4(2 nữ)

2/1 nữ

Học kỳ II

37

0

(01 học sinh chuyển)

Đây là một tín hiệu rất đáng mừng, điều đó cho thấy hướng đi của chúng
tôi đã và đang rất đúng, phù hợp với đặc điểm riêng của địa phương Tén Tằn.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Từ kết quả thu được sau nhiều năm thực hiện phương pháp này thì tỉ lệ
học sinh bỏ học trong lớp tôi chủ nhiệm đã giảm và sĩ số học sinh trong trường
cũng được duy trì. Tôi thiết nghĩ, việc huy động học sinh ra lớp để đản bảo sĩ số
là việc làm của nhiều ban ngành, đoàn thể, trong đó nhà trường và giáo viên chủ
nhiệm đóng vai trò nòng cốt.


14


Bên cạnh đó chúng ta nên tìm hiểu rõ nguyên nhân bỏ học cụ thể của từng
trường hợp để có biện pháp sát thực nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng, nguy cơ
bỏ học của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục mà Đảng đã đề ra.
2. Kiến nghị.
Để thực hiện tốt hơn nữa công tác huy động học sinh bỏ học ra lớp và duy
trì sĩ số theo tôi cần một số biện pháp sau:
2.1. Đối với giáo viên chủ nhiệm.
Có sự liên kết thống nhất với nhau trong việc giáo dục các em, luôn thông
báo với nhau về những khuyết điểm của các em nhằm kịp thời chấn chỉnh và có
biện pháp giúp các em tránh tình trạng bỏ học.
2.2. Đối với nhà trường.
Tổ chức các lớp phụ đạo cho học sinh yếu nhằm bù đắp lổ hổng kiến thức
cho các em, giúp các em đuổi kịp chương trình, tạo hứng thú trong học tập cho
các em. Xây dựng trường học thân thiện, đảm bảo mỗi ngày đến lớp là một ngày
vui. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, vui chơi nhằm thu hút các em, tránh tình
trạng các em tham những trò chơi vô bổ.
2.3. Đối với Phòng GD&ĐT, chính quyền và các đoàn thể địa phương.
Tăng cường công tác xã hội hóa giáo dục, quản lí thật tốt các điểm vui
chơi không lành mạnh. Cùng chung tay với nhà trường xây dựng cổng trường
bình yên, giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Có các chính sách quan tâm, đầu tư mạnh mẽ hơn về cơ sở vật chất, có
nhà bán trú cho học sinh ở xa, có các phòng chức năng để phục vụ cho công tác
dạy và học.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 30 tháng 03
năm2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
NGƯỜI VIẾT

Phạm Thị Doanh

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo sơ kết, tổng kế trường THCS Tén Tằn
Năm học 2013 - 2014
2. Báo cáo sơ kết, tổng kế trường THCS Tén Tằn
Năm học 2014 - 2015
3. Báo Giáo Dục thời đại
4. Thông tư của Bô GD&ĐT về xây dựng trường học
thân thiện học sinh tích cực
5. Các công văn chỉ đạo của cấp trên về tăng cường
biện pháp vận động và duy trì sĩ số học sinh.
6. Wikipedia.org
7. Các nguồn tư liệu từ Internet

16




×